Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Pháp luật về hành nghề luật sư ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (920.71 KB, 110 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HOÀNG THỊ ANH THƢ

PHÁP LUẬT VỀ
HÀNH NGHỀ LUẬT SƢ Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số

: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Ngô Huy Cƣơng

Hà Nội – 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Hoàng Thị Anh Thƣ




MỤC LỤC
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƢƠNG 1:CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÀNH NGHỀ LUẬT SƢ ...............7
1.1 Khái niệm, đặc điểm và vai trò của hành nghề luật sư .........................................7
1.1.1 Khái niệm luật sư, hành nghề luật sư và cung cấp dịch vụ pháp lý ...................7
1.1.2 Đặc điểm của hoạt động hành nghề luật sư .....................................................10
1.1.3 Vai trò của hoạt động hành nghề luật sư ..........................................................13
1.2 Tổ chức hành nghề luật sư .................................................................................15
1.2.1 Văn phòng luật sư: ...........................................................................................15
1.2.2. Công ty luật: ....................................................................................................16
1.2.3. Mối quan hệ giữa tổ chức hành nghề luật sư với các chủ thể khác trong quá
trình hoạt động hành nghề luật sư: ............................................................................17
1.3. Hợp đồng dịch vụ pháp lý ..................................................................................20
1.4 Trách nhiệm pháp lý trong hoạt động hành nghề luật sư ....................................23
1.5. Chấm dứt hành nghề luật sư ...............................................................................24
1.5.1 Tự nguyện chấm dứt hoạt động luật sư ............................................................24
1.5.2 Buộc phải chấm dứt hoạt động luật sư .............................................................26
1.6. Quy định về hành nghề luật sư ở một số nước khác ..........................................26
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HÀNH NGHỀ LUẬT SƢ Ở
VIỆT NAM ..............................................................................................................30
2.1. Các quy định về điều kiện hành nghề ................................................................30
2.1.1 Điều kiện vào nghề luật sư ...............................................................................30
2.1.2 Đào tạo nghề luật sư ........................................................................................32
2.1.3 Tập sự hành nghề luật sư ....................................................................................34
2.1.4 Điều kiện hành nghề luật sư ............................................................................37
2.2. Các quy định về hành nghề luật sư ở Việt Nam ................................................39

2.2.1 Quy định về tổ chức hành nghề luật sư: ............................................................39


2.2.2 Các quy định của pháp luật Việt Nam về Hợp đồng dịch vụ pháp lý ..............43
2.2.3. Các quy định của pháp luật Việt Nam về chấm dứt hành nghề luật sư ..........55
2.2.4.Quy định pháp luật về luật sư nước ngoài hành nghề tại Việt Nam ................59
2.3. Các quy định của pháp luật Việt Nam về trách nhiệm của Luật sư trong quá
trình hành nghề ..........................................................................................................62
2.4. Quy định của pháp luật Việt Nam về trách nhiệm của tổ chức hành nghề luật sư
...................................................................................................................................65
2.5. Thực tiễn áp dụng pháp luật về hành nghề luật sư:...........................................70
2.6. Nguyên nhân khiếm khuyết của pháp luật về hành nghề luật sư: ......................76
CHƢƠNG 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ HÀNH NGHỀ LUẬT SƢ Ở VIỆT NAM .......................................................80
3.1. Một số định hướng .............................................................................................80
3.2. Giải pháp ............................................................................................................82
3.2.1. Giải pháp lập pháp ..........................................................................................82
3.2.2 Giải pháp hành pháp.........................................................................................93
3.2.3. Giải pháp tư pháp ............................................................................................96
PHẦN KẾT LUẬN ................................................................................................101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................103


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Ở Việt Nam, gắn chặt với công cuộc đổi mới và đòi hỏi của quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế, các doanh nghiệp được thành lập ngày càng nhiều và ngày
càng khẳng định vai trò to lớn của mình trong việc phát triển kinh tế, xã hội. Hội
nhập kinh tế quốc tế có tác động mạnh mẽ đến các doanh nghiệp. Bên cạnh những
thời cơ phát triển sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp cũng phải đương đầu với

những rủi ro pháp lý.
Nhu cầu về giao kết và thực hiện các giao dịch trong quan hệ dân sự, hôn
nhân và gia đình, lao động cũng diễn ra rất mạnh mẽ và đương nhiên cũng phải tính
đến việc ngăn chặn hoặc hạn chế những rủi ro.
Điều đó dẫn đến một nhu cầu thiết yếu của các thương nhân, cá nhân sử
dụng các dịch vụ pháp lý do các tổ chức hành nghề luật sư cung cấp để dự liệu và
hành động nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp trong đàm phán, giao kết và
thực hiện giao dịch. Đồng thời bảo vệ quyền lợi hợp pháp trong quá trình giải quyết
tranh chấp, thi hành án.. Thực tế cho thấy, nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý đang
tăng lên một cách rõ rệt. Các tổ chức hành nghề luật sư được thành lập ngày càng
nhiều. Đây là một minh chứng rõ nét rằng, luật sư, các tổ chức hành nghề luật sư có
vai trò cực kỳ quan trọng trong việc cung cấp dịch vụ pháp lý cho các khách hàng.
Chính sách phát của Đảng và Nhà nước ta là phát triển đội ngũ luật sư đủ về
số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên môn nhằm đáp ứng
yêu cầu ngày càng cao của xã hội đối với chất lượng dịch vụ pháp lý của luật sư,
phục vụ đắc lực cho công cuộc cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế.
Hiện nay, các cơ quan, tổ chức đều thành lập một bộ phận pháp chế riêng để
đáp ứng nhu cầu về pháp lý của cơ quan, tổ chức mình. Và trong nhiều trường hợp,
bộ phận pháp chế này vẫn phải cần thêm các luật sư hoặc các tổ chức hành nghề
luật sư hỗ trợ thêm về pháp lý.
Ở Việt Nam đã có một hệ thống các văn bản pháp luật quy định về hành nghề
luật sư, tuy nhiên các văn bản pháp luật này cũng không tránh khỏi những khiếm
khuyết gây nên nhiều khó khăn cho quá trình hành nghề luật sư, cản trở hoạt động
1


của các cơ quan có liên quan. Thực trạng này đặt ra yêu cầu tự hoàn thiện pháp luật
về hành nghề luật sư với mục tiêu xây dựng và hoàn thiện thể chế về luật sư ở nước
ta, góp phần nâng cao vị trí của luật sư và nghề luật sư trong sự nghiệp bảo vệ công
lý, xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

Nghị quyết 08- NQ/TW ngày 2/1/2002 của Bộ Chính trị "về một số nhiệm
vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới” cũng đã có những mối quan
tâm nhất định đến vấn đề hành nghề luật sư như đề ra nhiệm vụ của một số cơ quan
tư pháp trong việc tạo điều kiện cho luật sư tham gia tố tụng, tranh tụng dân chủ với
luật sư, tăng cường củng cố các tổ chức hành nghề luật sư, phát triển và kiện toàn
đội ngũ luật sư, hoàn thiện pháp luật về luật sư…. Thực hiện nhiệm vụ đã được đề
ra trong các Nghị quyết của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp, chúng ta đã đạt được
một số thành tựu có đóng góp tích cực cho sự phát triển của luật sư và hành nghề
luật sư ở Việt Nam như: ban hành được một số các văn bản dưới luật hướng dẫn thi
hành luật luật sư, nâng cao vị trí, vai trò của luật sư trong xã hội….
Quyết định số 1072/QĐ-TTg ngày 05/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020, chúng ta đã từng bước nâng
cao chất lượng đội ngũ luật sư, chất lượng hoạt động hành nghề luật sư, vị trí, vai
trò của luật sư trong hoạt động tố tụng, từng bước phát triển, mở rộng thị trường
dịch vụ pháp lý, tạo nền tảng để phát triển nghề luật sư Việt Nam ngang tầm với các
nước trong khu vực và trên thế giới.
Định hướng, chính sách của Đảng và Bộ Chính trị đã được cụ thể hóa trong các
nghị Quyết, trong đó việc quan trọng nhất cần phải tiến hành ngay là tạo cơ sở pháp
lý vững chắc, thuận lợi cho việc hành nghề luật sư bằng cách sửa đổi, bổ sung kịp
thời các văn bản pháp luật còn khiếm khuyết. Tiếp nữa cần tăng cường hoạt động
tuyên truyền nâng cao nhận thức của công dân, cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp về
vị trí, vai trò của luật sư nhằm thu hút nguồn lực tham gia hoạt động hành nghề luật
sư. Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ luật sư; tăng cường tính chuyên
nghiệp trong hoạt động hành nghề của luật sư và các tổ chức hành nghề luật sư;
tăng cường vai trò đào tạo, bồi dưỡng của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư.
Tăng cường vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp luật sư trong công tác
2


quản lý luật sư và hành nghề luật sư, đảm bảo tuân thủ pháp luật, tuân theo quy tắc

đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư. Tăng cường giao lưu, hợp tác quốc tế, trao
đổi kinh nghiệm về tổ chức, hoạt động và hành nghề luật sư theo hướng tiếp thu,
học hỏi có chọn lọc để phát triển phù hợp với các điều kiện hiện nay ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Chính vì vai trò quan trọng của luật sư trong xã hội và sự phát triển khá nhanh
của nghề luật sư nên đã có nhiều tổ chức và cá nhân nghiên cứu về vấn đề này. Có
thể kể ra một số đề tài đã được nghiên cứu như:
- Đề tài “Bàn về khái niệm và đặc điểm nghề luật sư” do Luật sư Phan Trung
Hoài – Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh – thực hiện;
- Đề tài cấp bộ “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật về tổ
chức luật sư và hành nghề luật sư trong điều kiện mới ở Việt Nam”, Chủ nhiệm đề
tài: Nguyễn Văn Thảo – Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp;
- Đề tài “Vai trò của luật sư trong quá trình giải quyết khiếu nại hành chính
hiện nay”, Chủ nhiệm đề tài: Thạc sỹ Nguyễn Sỹ Giao – Viện Khoa học thanh tra;
- Chuyên đề “Pháp luật về luật sư nước ngoài và tổ chức luật sư nước ngoài tại
Việt Nam - thực trạng và kiến nghị” do Viện nghiên cứu lập pháp thuộc Ủy ban
thường vụ Quốc Hội thực hiện;
- Đề tài khoa học cấp cơ sở “Giải pháp đào tạo luật sư phục vụ hội nhập kinh
tế quốc tế” do Học viện Tư pháp tiến hành.
Ngoài ra còn có nhiều bài viết đăng trên các báo và tạp chí, như:
- Bài viết “Vai trò của Luật sư trong tố tụng hành chính” của luật sư Nguyễn
Thành Vĩnh
- Bài viết “Chiến lược phát triển nghề luật sư còn thiếu sót” của luật sư Ngô
Ngọc Trai
- Bài viết “Xóa bỏ rào cản với nghề Luật sư” của Vạn Bảo
- Bài viết “Chuyện về chiếc thẻ luật sư” của Luật sư Phan Trung Hoài
Tuy nhiên các đề tài, chuyên đề và bài viết nêu trên mới chỉ cụ thể hóa một khía
cạnh về hành nghề luật sư ở Việt Nam. Chưa có đề tài nào khái quát chung được
vấn đề “Pháp luật về hành nghề luật sư ở Việt Nam”.
3



3. Mục tiêu nghiên cứu:
3.1. Mục tiêu tổng quát:
Mục tiêu tổng quát của luận văn là làm rõ được các quy chế về nghề luật sư và
hành nghề luật sư, hệ thống được các quy định pháp luật về hành nghề luật sư ở
Việt Nam, chỉ ra những điểm bất cập đồng thời đề xuất hướng hoàn thiện pháp luật.
3.2. Mục tiêu cụ thể:
Để đạt được mục đích cuối cùng của luận văn, cần phải hoàn thành các mục
tiêu cụ thể sau:
- Khái quát một cách có hệ thống các vấn đề lý luận về luật sư và hành nghề
luật sư ;
- Nắm bắt được thực trạng pháp luật về vấn đề này;
- Thông qua thực tiễn áp dụng pháp luật để thấy được những bất cập của pháp luật;
- Đề ra hướng hoàn thiện pháp luật.
4. Tính mới và những đóng góp của đề tài
4.1. Tính mới của đề tài
Vấn đề hành nghề luật sư đang nhận được rất sự quan tâm của nhiều tổ chức, cá
nhân trong xã hội hiện nay. Chính vì thế đã có khá nhiều đề tài khoa học và các bài
viết về vấn đề này. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu đó chỉ đề cập đến một lĩnh
vực, một khía cạnh của vấn đề hành nghề luật sư. Chưa có một công trình nào khái
quát được vấn đề pháp lý của các lĩnh vực, các khía cạnh nêu trên. Đề tài “Pháp luật
về hành nghề luật sư ở Việt Nam” nghiên cứu một cách toàn diện, có tính hệ thống
về luật sư và hành nghề luật sư, các quy định pháp luật liên quan đến mọi khía cạnh
của hành nghề luật sư ở Việt Nam. Đề tài có tính mới, và tính khái quát cao hơn các
đề tài đã được thực hiện.
4.2 Những đóng góp của đề tài:
Đề tài giúp người nghiên cứu và những người đọc có được sự hiểu biết bao quát
về hành nghề luật sư ở Việt Nam cùng với những quy định của pháp luật về vấn đề
này. Bên cạnh đó, đề tài còn mang đến cái nhìn thực tế trong thực trạng hành nghề

luật sư ở Việt Nam và thực tiễn áp dụng pháp luật trong lĩnh vực này. Từ kết quả
nghiên cứu vận dụng đưa ra kiến nghị xây dựng pháp luật nhằm điều chỉnh một
4


cách toàn diện những quan hệ của nghề luật sư hướng tới phục vụ tốt nhu cầu trợ
giúp pháp lý của các cá nhân, tổ chức trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
Hiện nay, pháp luật Việt Nam về hành nghề luật sư đang tồn tại một số khái
niệm chưa được làm rõ hoàn toàn như: khái niệm hành nghề luật sư, khái niệm cung
cấp dịch vụ pháp lý. Vì vậy khái niệm hành nghề luật sư theo pháp luật Việt Nam
hiện nay thường được bao trùm trong khái niệm cung cấp dịch vụ pháp lý.
Trên cơ sở phân biệt các khái niệm đã nêu và cố gắng làm rõ khái niệm về
cung cấp dịch vụ pháp lý, Luận văn tập trung giải quyết vấn đề pháp lý của giao
dịch cung cấp dịch vụ pháp lý. Đây là hoạt động thương mại của tổ chức hành nghề
luật sư, thuộc phạm vi nghiên cứu trong mã nghành luật kinh tế. Việc Luận văn đôi
chỗ đề cập đến vấn đề quy chế hành nghề, quy tắc nghề nghiệp chỉ với mục đích
đơn thuần là làm rõ thêm thực trạng về pháp luật luật sư ở Việt Nam.
6. Nội dung và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các nội dung sau: Những vấn đề lý luận về hành nghề luật
sư; Thực trạng pháp luật về hành nghề luật sư ở Việt Nam; Định hướng và các giải
pháp hoàn thiện pháp luật hành nghề luật sư ở Việt Nam.
Các phương pháp nghiên cứu của Luận văn được xây dựng trên cơ sở
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, và
đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt.
Các phương pháp mà luận văn sử dụng bao gồm: phương pháp phân tích quy
phạm, phân tích vụ việc, và phân tích lịch sử; phương pháp tổng hợp, thông kê, tập hợp
các thông tin, số liệu và vụ việc; phương pháp điển hình hoá, mô hình hóa các quan hệ
xã hội; phương pháp hệ thống hóa các quy phạm pháp luật; phương pháp so sánh pháp
luật; và phương pháp đánh giá thực trạng pháp luật.

Với phương pháp phân tích quy phạm, luận văn đã phân tích các quy định
của pháp luật hiện hành về hành nghề luật sư, qua đó chỉ ra các khiếm khuyết,
bất cập
Khi phân tích vụ việc, luận văn đã chỉ ra khiếm khuyết trong thực tiễn áp
dụng pháp luật.
5


Phương pháp tổng hợp được sử dụng kết hợp với phương pháp phân tích. Cụ
thể, từ những kết quả nghiên cứu bằng phân tích, Luận văn sử dụng phương pháp
tổng hợp kết hợp chúng lại với nhau để có được sự nhận thức về vấn đề nghiên cứu
một cách đầy đủ, hoàn chỉnh. Kết quả tổng hợp được thể hiện chủ yếu bằng các kết
luận, kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
Phương pháp so sánh được sử dụng khi so sánh với pháp luật nước ngoài để
chỉ ra ưu nhược điểm, sự tiến bộ hay lạc hậu… hoặc so sánh giữa pháp luật hiện
hành với các văn bản đã hết hiệu lực để chỉ ra sự thay đổi tích cực hay tụt hậu.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần đặt vấn đề, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Các vấn đề lý luận về hành nghề luật sư
Chương 2: Thực trạng pháp luật về hành nghề luật sư ở Việt Nam
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về hành nghề luật sư
ở Việt Nam

6


CHƢƠNG 1
CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÀNH NGHỀ LUẬT SƢ
1.1 Khái niệm, đặc điểm và vai trò của hành nghề luật sƣ

1.1.1 Khái niệm luật sư, hành nghề luật sư và cung cấp dịch vụ pháp lý
Từ thời Hy Lạp, La Mã cổ đại đến thời kỳ Trung cổ, nghề luật sư đã xuất hiện
trong đời sống xã hội tuy nhiên vẫn mang tính tự phát và Luật sư thời kỳ này không
thể hiện rõ và đầy đủ các tính chất nghề nghiệp của họ, vai trò của luật sư bị hạn chế
bởi chế độ xã hội chuyên quyền hà khắc. Đến chế độ tư bản, các cuộc đấu tranh vì
dân chủ, bình đẳng diễn ra thường xuyên đã buộc chính quyền các nước tư sản phải
mở rộng quyền dân chủ cho người dân, “nhu cầu của người dân đối với việc được
đảm bảo quyền và lợi ích của mình trên cơ sở các quy định pháp luật luôn thường
trực. Nghề luật sư thể hiện vai trò to lớn của mình, dần hình thành một nghề tự do”
[8]. Hiện nay, ở các nước phát triển, nghề luật sư lại càng được trân trọng, và thực
sự nghề luật sư luôn là một trong những nghề được yêu thích nhất.
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về khái niê ̣m luâ ̣t sư và hành nghề luâ ̣t sư .
Đa ̣i từ điể n Tiế ng Viê ̣t do Nhà xuấ t bản Đa ̣i ho ̣c Quố c gia Thành phố Hồ Chí Minh
đinh
̣ nghiã Luâ ̣t sư là “người có chức trách dùng pháp luâ ̣t bào chữa cho bi ̣can
trước Tòa án ” [51, tr970]. Theo cách hiểu của dân gian thì “Luật” ở đây là luật
pháp, còn “sư” nghĩa là thầy ; Luật sư có nghĩa là người thầy trong liñ h vực pháp
luật (người ta còn go ̣i là thầy cãi ). Tuy nhiên các khái niệm này chỉ đề cập tới một
khía cạnh cụ thể của luật sư đó là tranh tụng chưa giúp người đọc có được cái nhìn
khái quát, toàn diện về khái niệm luật sư.
Lại có quan niệm khác cho rằng : “Luật sư là người hành nghề liên quan đến
lĩnh vực pháp luật khi có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của pháp
luật mỗi quốc gia” [8]. Khái niệm này lại quá rộng , chưa phân biê ̣t đươ ̣c luâ ̣t sư với
những người hành nghề liên quan đế n pháp luâ ̣t khác như thẩ m phán , kiể m sát viên,
(ở Việt Nam), công tố viên (ở Mỹ), ủy viên công tố (ở Cộng hòa Czech)….
Khái quát các quan niệm trên có thể đưa ra khái niệm : Luật sư là những người
có đủ điều kiện hành nghề chuyên nghiệp theo quy định của pháp luật về luật sư
nhằm thực hiện các dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của khách hàng.
7



Về khái niệm hành nghề luật sƣ và khái niệm cung cấp dịch vụ pháp lý. Từ
các quan niệm khác nhau về luật sư, khái niệm hành nghề luật sư cũng còn nhiều
cách hiểu chưa thống nhất. Theo cách hiểu của dân gian luật sư là thầy cãi và cách
định nghĩa về luật sư của đại từ điển Tiế ng Viê ̣t do Nhà xuấ t bản Đa ̣i ho ̣c Quố c gia
Thành phố Hồ Chí Minh thì hành nghề luật sư là việc luật sư tranh tụng bảo vệ
quyền lợi cho các đương sự trong quá trình xét xử của Tòa án. Tuy nhiên các khái
niệm trên đều mới chỉ đề cập tới một lĩnh vực hành nghề của luật sư đó là tranh
tụng nên chưa đúng và đầy đủ.
Trong phạm vi nghiên cứu của mình, luận văn nghiên cứu hoạt động hành
nghề luật sư dưới góc độ thương mại. Theo đó, hoạt động hành nghề luật sư là một
hoạt động thương mại do tổ chức hành nghề luật sư tiến hành, cung ứng dịch vụ
pháp lý tới khách hàng, với mục đích nhận thù lao.
Quan niệm trên phát sinh thêm một khái niệm cần làm rõ là khái niệm dịch vụ
pháp lý. Hiện nay còn tồn tại khá nhiều quan niệm khác nhau về dịch vụ pháp lý.
Hiệp định chung về thương mại dịch vụ của WTO (viết tắt là GATS) không định
nghĩa dịch vụ pháp lý mà chỉ liệt kê các loại DVPL. Trong khuôn khổ của Hiệp
định GATS, các loại DVPL này được hiểu là các loại DVPL mang tính thương mại.
Theo phân loại của WTO, dịch vụ được chia thành 11 ngành chính, mỗi ngành
chính lại phân chia thành nhiều phân ngành nhỏ, tổng số gồm 155 phân ngành. Dịch
vụ kinh doanh là một trong 11 ngành chính và dịch vụ pháp lý là một phân ngành
của Dịch vụ kinh doanh. Theo “Bảng phân loại các ngành dịch vụ” của WTO “dịch
vụ pháp luật” được liệt kê với tư cách là tiểu ngành dịch vụ của “dịch vụ chuyên
môn” nằm trong ngành dịch vụ thứ nhất: “1. Dịch vụ kinh doanh”. Dịch vụ pháp
luật được chia thành nhiều loại: Dịch vụ tư vấn và tranh tụng trong nhiều lĩnh vực pháp
luật ; Dịch vụ tư vấn và tranh tụng liên quan đến luật hình sự ; Dịch vụ tư vấn và
tranh tụng về các thủ tục tại tòa án liên quan đến các lĩnh vực pháp luật khác; Dịch
vụ tư vấn và tranh tụng về các thủ tục theo quy định của luật thành văn tại các tổ
chức mang tính tòa án; Dịch vụ cung cấp và chứng nhận hồ sơ pháp luật; Dịch vụ
khác về thông tin pháp luật và tư vấn.


8


Theo Từ điể n Luâ ̣t ho ̣c của Viê ̣n Khoa ho ̣c pháp lý

, "dịch vụ pháp lý là loại

hình dịch vụ do nh ững tổ chức , cá nhân có hiểu biết , có kiến thức và chuyên môn
pháp luật được Nhà nước tổ chức hoặc cho phép hành nghề thực hiện

, nhằ m đáp

ứng nhu cầu được biết, đươ ̣c tư vấ n hoă ̣c giúp đỡ về mă ̣t pháp lý của các tổ ch ức, cá
nhân trong xã hô ̣i".
Theo Nguyễn Văn Tuấ n "dịch vụ pháp lý là tổng thể các dịch vụ tư vấn pháp
luâ ̣t và dich
̣ vu ̣ đa ̣i diê ̣n pháp lý… những người đủ tiêu chuẩ n để cung cấ p DVPL
chỉ có thể là luật sư ". Theo đó , phạm vi D VPL đươ ̣c xác đinh
̣ gồ m : Dịch vụ tư vấn
pháp luật; Dịch vụ đại diện pháp lý (trong tố tu ̣ng tư pháp , trong thủ tu ̣c hành chính,
tố tu ̣ng tro ̣ng tài và đa ̣i diê ̣n theo uỷ quyề n về những vấ n đề liên quan đế n pháp luâ ̣t ;
Các hoạt đô ̣ng DVPL khác (soạn thảo hợp đồng, các giấy tờ pháp lý…) [47, Tr 46].
Theo TS . Nguyễn Văn Tuân thì "phạm vi dịch vụ pháp lý bao gồ m dịch vụ
pháp lý của luật sư với bốn lĩnh vực hành nghề như pháp luật hiện hành quy định tư
vấ n pháp luâ ̣t, tranh tu ̣ng, đa ̣i diê ̣n và dịch vụ pháp lý khác và dịch vụ pháp lý của tổ
chức, đoàn thể xã hô ̣i với hoa ̣t đô ̣ng chủ yế u là tư vấ n pháp luâ ̣t theo Nghi ̣đinh
̣
65/NĐ-CP ngày 11 tháng 6 năm 2003 của Chính phủ về tổ chức , hoạt động tư vấn
pháp luật" [46, Tr 18].

Theo TS. Đặng Vũ Huân thì "dịch vụ pháp lý là tổng thể các dịch vụ tư vấn
pháp luật và dịch vụ đại diện pháp lý được định lập và thực hiện theo quy định pháp
luật của nước nơi các dịch vụ đó được định lập và có thể được thực hiện trong các
lĩnh vực pháp luật nội dung và thủ tục tố tụng khác nhau của hệ thống pháp luật
quốc gia" [18, Tr 10].
Theo Nguyễn Như Chiń h "Dịch vụ thương mại pháp lý là loại hình dịch vụ
liên quan tới liñ h vực pháp luâ ̣t mà công việc của bên cung ứng dịch vụ thực hiện
cho khách hàng để hưởng lơ ̣i nhuâ ̣n có liên quan chă ̣t chẽ với các vấ n đề pháp luâ ̣t ,
quyề n và nghiã vu ̣ theo pháp luâ ̣t mà bên sử du ̣ng dich
̣ vu ̣ quan tâm ".
Có thể nhận thấy đa số các nghiên cứu về dịch vụ pháp lý tại Việt Nam đều
tiếp cận dịch vụ pháp lý dưới góc độ thương mại.
Từ các khái niệm dịch vụ pháp lý như trên, có thể đưa ra khái niệm cung cấp
dịch vụ pháp lý như sau: Cung cấp dịch vụ pháp lý là là một hoạt động thương mại
9


dịch vụ gắn liền với pháp luật do các tổ chức đủ điều kiện theo quy định của pháp
luật cung ứng nhằm đáp ứng nhu cầu về pháp lý của các tổ chức, cá nhân.
Theo khái niệm trên thì hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý bao gồm cả hoạt
động của tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức hành nghề công chứng, tổ chức hành
nghề thừa phát lại.... Tuy nhiên trong khuôn khổ Luận văn, chỉ nghiên cứu dịch vụ
pháp lý được cung ứng bởi tổ chức hành nghề luật sư, tập trung giải quyết các vấn đề
pháp lý liên quan tới giao dịch cung cấp dịch vụ pháp lý của tổ chức hành nghề luật sư.
Theo đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận văn đi sâu
phân tích vấn đề hành nghề luật sư dưới góc độ là một hoạt động thương mại do các
tổ chức hành nghề luật sư tiến hành với nội dung là cung cấp dịch vụ pháp lý cho
khách hàng và mục đích là nhận thù lao.
1.1.2 Đặc điểm của hoạt động hành nghề luật sư
Hoạt động hành nghề luật sư là một hoạt động thương mại. Hiện nay đa số

các nước trên thế giới đều thừa nhận cung cấp dịch vụ pháp lý của luật sư là một
hoạt động vừa mang tính nghề nghiệp, vừa mang tính lợi nhuận. Vì lợi nhuận mà
tiến hành các hoạt động hành nghề luật sư. Khi thành lập các tổ chức hành nghề luật
sư, hầu hết các quốc gia đều mượn hình thức của các doanh nghiệp thông thường. Ở
Việt Nam cũng không phải ngoại lệ. Hoạt động hành nghề luật sư là hoạt động nghề
nghiệp nhưng vì mục tiêu lợi nhuận. Trong hệ thống văn bản pháp luật quy định về
hệ thống ngành kinh tế của Việt Nam cũng dành cho Hoạt động pháp luật một mã
ngành riêng. Hiệp định chung về thương mại Dịch vụ GATS và hiệp định thương
mại Việt Mỹ đều có quy định về các hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý của luật
sư. Như vậy hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý của luật sư là một hoạt động vừa
mang tính chất nghề nghiệp, vừa mang tính chất thương mại. Tuy nhiên hoạt động
này liên quan đến vấn đề pháp luật (một trong những vấn đề đặc biệt quan trọng của
mỗi quốc gia) nên cần có cơ chế đặc thù dành cho nó.
Hoạt động hành nghề luật sư phải dựa trên pháp luật và quy chế trách nhiệm
nghề nghiệp. Trong Nhà nước pháp quyề n , tấ t cả các nghề nghiê ̣p đề u phải dựa trên
pháp luật. Tuy nhiên nghề Luâ ̣t sư là nghề sử du ̣ng pháp luâ ̣t làm công cu ̣ chủ yế u
để hành nghề . Pháp luật là nền tảng để luật sư hành
10

nghề . Mô ̣t người muố n trở


thành luật sư phải đáp ứng được các tiêu chuẩn và điều kiện mà pháp luật đặt ra

.

Các công việc Luật sư tiến hành cũng phải tuân theo các quy định của pháp luật

.


Trong quá trình hành nghề , luâ ̣t sư sử du ̣ng pháp luâ ̣t để tư vấ n , tranh tu ̣ng và thực
hiê ̣n các dich
̣ vu ̣ pháp lý khác cho thân chủ của mình , đồ ng thời thông qua đó tuyên
truyề n pháp luâ ̣t để người dân hiể u pháp luâ ̣t và tuân theo pháp luâ ̣t

. Nghề luâ ̣t sư

gắ n liề n với số phâ ̣n của con người nên ngoài các kiế n thức về pháp luâ ̣t nghề luâ ̣t
sư còn có quy chế trách nhiê ̣m nghề nghiê ̣p riêng . Pháp luật có tác dụng như “hành
lang”, “khuôn mẫu chung” cho luật sư hoạt động, còn quy chế trách nhiệm nghề
nghiệp luật sư lại chủ yếu điều chỉnh hành vi ứng xử của luật sư trong hoạt động
nghề nghiệp và trong xã hội . Trong đời số ng xã hô ̣i , vấ n đề đa ̣o đức , uy tin
́ đôi khi
lại ràng buộc trách nhiệm của công dân hơn là những quy định của pháp luậ t. Pháp
luâ ̣t cũng sẽ là nề n tảng vững chắ c hơn khi ý thức pháp luâ ̣t đươ ̣c hin
̀ h thành từ tin
́ h
tự giác , đa ̣o lý và trách nhiê ̣m của mỗi công dân . Nghề luâ ̣t sư cũng vâ ̣y , các quy
chế trách nhiê ̣m nghề nghiê ̣p tuy là các quy tắc về đạo đức nhưng cũng đòi hỏi phải
được sự tôn trọng từ phía các luật sư. Trong nhiều trường hợp, đối với nghề nghiệp
luật sư, các quy tắc ứng xử thuộc về phạm trù đạo đức lại chi phối và có tác động
lớn lao đến uy tín, danh dự của luật sư và ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng dịch
vụ cung cấp cho khách hàng.
Hoạt động hành nghề luật sư còn là hoạt động mang tính nhân văn sâu sắ c

.

Nhiề u người so sánh nghề luâ ̣t sư với nghề bác sỹ . Nghề bác sỹ bảo vê ̣ sức khỏe con
người, chữa tri ̣khi con người mắ c bê ̣nh . Còn nghề luật sư bảo vệ quyền và lợi ích
con người , “chữa tri”̣ khi quyề n và lơ ̣i ić h đó bi ̣xâm pha ̣m


. Luâ ̣t sư giố ng như

người bác sỹ chữa “căn bê ̣nh” liên quan đế n pháp luâ ̣t của con người

. Mỗi hoa ̣t

đô ̣ng hà nh nghề luâ ̣t sư đề u hướng tới con người ; tư vấ n pháp luâ ̣t , tranh tu ̣ng hay
thực hiê ̣n các dich
̣ vu ̣ pháp lý khác đề u hướng tới con người và vì con người . Trong
viê ̣c tư vấ n pháp luâ ̣t , chắ c chắ n chủ thể đươ ̣c tư vấ n phải là co n người cu ̣ thể hoă ̣c
mô ̣t tổ chức của con người , và mục đích của tư vấn cũng là vì quyền và lợi ích của
con người hoă ̣c tổ chức của con người đó . Trong hoa ̣t đô ̣ng tố tu ̣ng , mỗi hoa ̣t đô ̣ng
tố tu ̣ng của luâ ̣t sư đề u nhằ m vào

con người mô ̣t cách trực tiế p hoă ̣c gián tiế p

.

Những hoa ̣t đô ̣ng này liên quan đế n tin
́ h mạng , tài sản, danh dự, nhân phẩm, uy tín,
11


liên quan đến quá khứ , tương lai của một người hoặc một tổ chức . Viê ̣c đa ̣i diê ̣n
ngoài tố tụng hoặc thực hiệ n các dich
̣ vu ̣ pháp lý khác cũng đề u hướng tới con
người. Vì thế, nghề luâ ̣t sư là mô ̣t nghề mang tính nhân văn sâu sắ c

. Do đó ngoài


viê ̣c phải có trình đô ̣ chuyên môn , khi hành nghề , luâ ̣t sư cầ n phải có kiế n thức xã
hô ̣i sâu sắ c và có tiǹ h người trong hoa ̣t đô ̣ng nghề nghiê ̣p của min
̀ h.
Nghề luâ ̣t sư là mô ̣t nghề lao đô ̣ng trí óc đô ̣c lâ ̣p

. Mỗi luâ ̣t sư tự chiụ trách

nhiê ̣m về công viê ̣c miǹ h làm . Hoạt động của luật sư là một chu trình gồm

: nắ m

vững pháp luâ ̣t , hiể u rõ về pháp luâ ̣t và biế t cách áp du ̣ng pháp luâ ̣t trong từng
trường hơ ̣p , từ đó đưa ra giải pháp cho từng vu ̣ viê ̣c cu ̣ thể

. Hành nghề luật sư

không phải chỉ là “bê” nguyên các quy đinh
̣ của pháp luâ ̣t để đă ̣ t vào cuô ̣c số ng mà
phải có sự sáng tạo , linh hoa ̣t trong viê ̣c áp du ̣ng pháp luâ ̣t

. Sự sáng ta ̣o đó phu ̣

thuô ̣c vào tư duy của mỗi luâ ̣t sư . Mă ̣c dù trong quá trin
̀ h hành nghề , luâ ̣t sư có thể
tham khảo ý kiế n của nhiề u người nhưng đó chỉ là mô ̣t “kênh thông tin” trong vô số
“kênh thông tin” khác nhau để luâ ̣t sư sử du ̣ng cho quá trình lao đô ̣ng trí óc sáng ta ̣o
của mình. Và kết quả của quá trình đó phụ thuộc vào cách tư duy và hành động cụ
thể của mỗi luâ ̣t sư. Do đó luâ ̣t sư phải chiụ trách nhiê ̣m cá nhân về kế t quả đó .
Nghề Luâ ̣t sư sử du ̣ng kiế n thức tổ ng hơ ̣p của nhiề u liñ h vực


. Pháp luật điều

chỉnh tất cả mọi lĩnh vực trong xã hội . Nghề luâ ̣t sư sử du ̣ng pháp luâ ̣t làm công cu ̣
chủ yếu để hành nghề , do đó ở liñ h vực nào có pháp luâ ̣t điề u chỉnh là ở đó cầ n đế n
luâ ̣t sư. Trong mô ̣t liñ h vực cu ̣ thể , luâ ̣t sư chỉ biế t về pháp luâ ̣t trong liñ h vực đó là
không đủ , để thực hiện tố t đươ ̣c các hoa ̣t đô ̣ng nghiê ̣p vu ̣ của mình , luâ ̣t sư cầ n có
kiế n thức sâu rô ̣ng về liñ h vực đó và về các liñ h vực có liên quan khác để có thể vâ ̣n
dụng pháp luật một cách đúng và linh hoạt. Luâ ̣t sư không chỉ sử du ̣ng các kiế n thức
của khoa học pháp lý mà còn cần phải biết sử dụng kiến thức của nhiều môn khoa
học khác như pháp y , tâm lý ho ̣c , tâm thầ n ho ̣c , toán học , tài chính , kế toán , xây
dựng, môi trường….. Luâ ̣t sư vừa là nhà hùng biê ṇ , vừa là hòa giải viên , vừa là nhà
giáo, nhà tâm lý, nhà báo…. Ngoài ra luật sư còn cần phải có kiến thức sâu rộng về
chính trị , văn hóa , tôn giáo , hiể u biế t xã hô ̣i , hiể u biế t về nhân tin
̀ h thế thái , hiể u
biế t về tình hình trong nước và quố c tế .

12


1.1.3 Vai trò của hoạt động hành nghề luật sư
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng là vai trò đầu tiên mà ai cũng có
thể biế t đế n khi nhắ c tới “Luâ ̣t sư”. Trong xã hô ̣i, con người luôn luôn có sự trao đổ i
qua la ̣i với nhau để phu ̣c vu ̣ nhu cầ u của mình. Nhu cầ u của con người la ̣i vô cùng đa
dạng và rất nhiều trường hợp nhu cầu của một chủ thể lại đi ngược lại với nhu cầu
chung của xã hô ,̣i của chủ thể khác. Trong trường hơ ̣p đo,́ nếu chủ thể không thể bảo vê ̣
tố t quyề n lơ ̣i của miǹ h(do ha ̣n chế về kiến thức, kỹ năng, thời gian…) thì luật sư chính
là người giúp chủ thể đó bảo vệ quyền lợi của mình một cách tốt nhất
.
Tuy nhiên Luật sư bảo vệ quyền lợi của khách hàng trên cơ sở các quy định của

pháp luật, và quyền lợi được bảo vệ phải là quyền và lợi ích hợp pháp, khác với
công việc của vệ sỹ hay “bảo kê”. Cơ quan tiến hành tố tụng là người “cầm cân nảy
mực” giúp cân bằng quyền lợi giữa các chủ thể. Luật sư giúp khách hàng đưa ra
những yêu cầu, ý kiến để cơ quan tiến hành tố tụng có thể giải quyết vụ việc một
các “thấu tình đạt lý” nhất. Mặt khác, trước các cơ quan tiến hành tố tụng thì người
dân là chủ thể hạn chế hơn về hiểu biết pháp luật nên có thể cơ quan tiến hành tố
tụng đang vi phạm vào quyền lợi hợp pháp của họ mà họ không biết, hoặc biết mà
không biết làm cách nào bảo vệ. Lúc này, Luật sư lại là người giải thích cho người
dân biết được quyền lợi của họ đang bị vi phạm và giúp họ bảo vệ quyền lợi đó.
Luật sư cũng là trung gian, là cầu nối giữa người dân và các cơ quan tiến hành tố
tụng để vụ việc có thể cân bằng được quyền lợi giữa các bên.
Luật sư còn có vai trò rất quan trọng trong việc giải đáp các vấn đề về pháp
luật, hướng dẫn ứng xử đúng pháp luật thông qua hoạt động tư vấn pháp luật. Tư
vấn pháp luật là hoạt động không thể thiếu trong hành nghề luật sư. Kể cả khi luật
sư nhận tranh tụng, bảo vệ quyền và lợi ích của khách hàng trước cơ quan tiến hành
tố tụng, hay khi luật sư đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng, luật sư cũng cần
cung cấp đến khách hàng những quy định của pháp luật có liên quan, qua đó hướng
dẫn khách hàng ứng xử đúng với các quy định đó. Đó chính là việc làm tư vấn pháp
luật. Tư vấn pháp luật có thể được thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau. Có
thể tư vấn trực tiếp thông qua ngôn ngữ giao tiếp (hay còn gọi là bằng lời nói) hoặc

13


tư vấn bằng văn bản, có thể tư vấn theo vụ việc hoặc tư vấn theo một thời gian nhất
định… Tư vấn theo hình thức nào là do sự thỏa thuận giữa luật sư và khách hàng.
Xã hội muôn hình, vạn trạng nên hoạt động hành nghề của luật sư cũng vô cùng
đa dạng. Không chỉ tranh tụng và tư vấn, luật sư còn thực hiện các dịch vụ pháp lý
khác như soạn thảo hợp đồng, làm chứng giao dịch, quản lý thông tin pháp lý, thực
hiện các công việc liên quan đến thủ tục hành chính... Những nhu cầu này tồn tại rất

nhiều trong cuộc sống, Luật sư là người có kiến thức về pháp luật, về xã hội, có kỹ
năng hành nghề sẽ giúp khách hàng thực hiện những nhu cầu đó một cách trôi chảy,
tiết kiệm được thời gian, công sức và chi phí cho khách hàng. Luật sư thực hiện các
dịch vụ pháp lý đó cũng góp phần hạn chế được tranh chấp, hạn chế xung đột lợi
ích, đồng thời giúp cho cơ quan nhà nước xử lý hồ sơ được nhanh chóng hơn.
Trong hoạt động hành nghề của mình dù là tư vấn pháp luật, tranh tụng hay
thực hiện các dịch vụ pháp lý khác, Luật sư cũng phải cung cấp đến khách hàng
những thông tin pháp lý về các vấn đề mà khách hàng quan tâm, giải thích cho
khách hàng hiểu được quyền và nghĩa vụ của mình, đồng thời định hướng hành vi
cho khách hàng trong những hoàn cảnh cụ thể để tránh những hậu quả pháp lý bất
lợi có thể xảy ra. Như thế, chính trong hoạt động hành nghề của mình, Luật sư đã
tiến hành việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật. Công tác tuyên truyền, phổ biến
pháp luật của luật sư không dừng lại ở việc tuyên truyền cho khách hàng của mình
mà thông qua việc tư vấn pháp luật hoặc tranh tụng tại phiên tòa, luật sư đã góp
phần nói lên tiếng nói của công lý với tất cả mọi người trong phòng xử, đó cũng là
thông điệp gửi cho toàn bộ xã hội. Luật sư thường được coi là người đứng về phía
nhân dân, bảo vệ quyền và lợi ích của nhân dân nên tiếng nói của luật sư rất dễ dàng
được nhân dân chấp nhận. Đó là một điểm mạnh để luật sư thực hiện việc tuyên
truyền, phổ biến pháp luật thông qua hoạt động hành nghề của mình.
Luật sư là người có kiến thức sâu rộng về pháp luật, về chính trị, xã hội nên có thể
phát hiện được những mâu thuẫn giữa pháp luật với các lĩnh vực khác. Đồng thời, luật sư
cũng là người tiếp xúc nhiều với thực tiễn nên có thể thấy được những bất cập của pháp
luật trong việc áp dụng vào thực tiễn. Bên cạnh đó, thông qua hoạt động hành nghề của
mình, luật sư cũng thấy được thực trạng tuân thủ pháp luật trong nhân dân, tâm tư tình
14


cảm của nhân dân, thái độ của nhân dân đối với pháp luật. Qua đó, Luật sư có thể có
những kiến nghị kịp thời để hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Thông qua tất cả các hoạt động hành nghề của mình, luật sư cũng góp phần bảo

vệ pháp luật, bảo vệ công lý và lẽ phải. Tuy nhiên, dù là trong hoạt động nào cũng
đều đòi hỏi luật sư phải có “cái tâm”, có kiến thức sâu rộng thì các công việc này
mới thực sự đạt hiệu quả. Ranh giới giữa vai trò tuyên truyền pháp luật với việc làm
méo mó và xuyên tạc pháp luật, giữa xây dựng pháp luật và phá rối, gây cản trở
việc xây dựng pháp luật là rất mỏng manh đối với những luật sư yếu về chuyên
môn, kém về phẩm chất đạo đức. Chính vì vậy, luật sư cần thấy được hết ý nghĩa,
giá trị của nghề nghiệp và biết kết hợp những yêu cầu về chuyên môn và nguyên tắc
nghề nghiệp, tuân thủ đạo đức xã hội thì mới có thể thực hiện trọn vẹn vai trò này.
1.2 Tổ chức hành nghề luật sƣ
1.2.1 Văn phòng luật sư:
Văn phòng luật sư do một luật sư thành lập, hoạt động theo mô hình của
doanh nghiệp tư nhân. Luật sư thành lập văn phòng là chủ sở hữu, là đại diện theo
pháp luật và là người trực tiếp điều hành các hoạt động của văn phòng luật sư. Văn
phòng luật sư không có tư cách pháp nhân, không có sự tách biệt giữa tài sản riêng
của văn phòng và của luật sư chủ sở hữu. Luật sư làm chủ văn phòng luật sư phải
chịu trách nhiệm vô hạn về tài sản trước mọi khoản nợ phát sinh trong quá trình
hoạt động của văn phòng luật sư. Tên gọi và trụ sở của văn phòng luật sư, chế độ tài
chính, tài sản tuân theo quy định của Luật doanh nghiệp và Luật luật sư.
Văn phòng luật sư có đầy đủ các quyền như các doanh nghiệp hoạt động
cung cấp các dịch vụ khác như quyền: cung cấp dịch vụ tới khách hàng, nhận thù
lao từ khách hàng, thuê luật sư và nhân viên làm việc cho tổ chức mình, tham gia
xây dựng chính sách, pháp luật của Nhà nước; tham gia tư vấn, giải quyết các vụ
việc của cá nhân, cơ quan, tổ chức khi được yêu cầu, thành lập chi nhánh, văn
phòng giao dịch trong nước và nước ngoài.
Loại hình dịch vụ mà văn phòng luật sư cung cấp là dịch vụ pháp lý – một
loại dịch vụ đặc biệt. Trong hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý, văn phòng luật sư
là chủ thể nhận yêu cầu của khách hàng, là một bên trong hợp đồng dịch vụ pháp lý
15



với khách hàng. Văn phòng luật sư cử luật sư thực hiện vụ việc của khách hàng và
cùng với luật sư thực hiện chịu trách nhiệm với khách hàng trên cơ sở hợp đồng
dịch vụ pháp lý đã ký. Hoạt động cung cấp dịch vụ pháp lý của văn phòng luật sư là
hoạt động thương mại, là một loại thương mại dịch vụ theo quy định tại Hiệp định
chung về thương mại dịch vụ - GATS và Hiệp định thương mại Việt – Mỹ. Văn
phòng luật sư cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng, khách hàng sử dụng dịch
vụ và có nghĩa vụ thanh toán cho văn phòng luật sư. Hoạt động của văn phòng luật
sư vừa mang tính nghề nghiệp, vừa mang tính lợi nhuận.
1.2.2. Công ty luật:
Công ty luật do một hoặc nhiều luật sư cùng thành lập. Các thành viên của
công ty luật đều phải là luật sư. Đối với công ty luật một thành viên thì thành viên
đó là chủ sở hữu và là người đại diện theo pháp luật của công ty luật. Đối với công
ty luật có nhiều luật sư thành viên thì các thành viên cử ra một luật sư thành viên
làm người đại diện theo pháp luật. Các thành viên cùng chịu trách nhiệm về hoạt
động của công ty.
Về loại hình doanh nghiệp của công ty luật, trước đây có nhiều quan niệm
đều cho rằng luật sư cung cấp loại dịch vụ đặc biệt là dịch vụ pháp lý, do tầm quan
trọng của loại dịch vụ này mà nghề luật sư phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với
hoạt động hành nghề của mình, mô hình doanh nghiệp phù hợp trong trường hợp
này chỉ có thể là doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh. Tuy nhiên, hiện nay đa
số các học giả đều thừa nhận luật sư có thể hành nghề dưới hầu hết các hình thức
kinh doanh thông thường như công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn, công
ty liên doanh.
Chế độ chịu trách nhiệm của công ty luật cũng phụ thuộc vào loại hình doanh
nghiệp và quy định pháp luật của mỗi quốc gia. Công ty luật trách nhiệm hữu hạn
chịu trách nhiệm trong phạm vi vốn góp của các thành viên. Công ty luật hợp danh
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình, nếu nghĩa vụ lớn hơn tài sản công
ty, các thành viên hợp danh phải liên đới chịu trách nhiệm về nghĩa vụ đó bằng tài
sản cá nhân. Trong việc cung cấp dịch vụ pháp lý, công ty luật là một chủ thể của
Hợp đồng dịch vụ pháp lý. Công ty luật cung cấp các dịch vụ pháp lý tới khách

16


hàng sau đó giao cho luật sư thực hiện các dịch vụ đó. Khách hàng là người sử dụng
dịch vụ và có trách nhiệm thanh toán cho công ty luật.
Các tổ chức hành nghề luật sư chịu trách nhiệm trước pháp luật đối với toàn
bộ hoạt động của tổ chức; thực hiện đầy đủ các quyền, nghĩa vụ theo quy định của
pháp luật, quy tắc đạo đức, ứng xử nghề nghiệp và nêu cao ý thức trách nhiệm
chính trị, trách nhiệm xã hội trong hoạt động hành nghề; đề cao tôn trọng sự thật và
pháp luật để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của khách hàng; đồng thời, phải có
trách nhiệm bảo vệ pháp luật, phục vụ các nhiệm vụ chính trị của quốc gia. Người
đứng đầu của tổ chức hành nghề luật sư cần chú trọng và đề cao vai trò tự quản, tự
chịu trách nhiệm đối với mọi hoạt động hành nghề của tổ chức và luật sư hoạt động
trong tổ chức; quản lý chặt chẽ hoạt động của luật sư và nhân viên của tổ chức;
trong hoạt động hành nghề cần có biện pháp để nâng cao tính chuyên nghiệp, uy tín
và hiệu quả hoạt động đối với khách hàng.
1.2.3. Mối quan hệ giữa tổ chức hành nghề luật sư với các chủ thể khác trong
quá trình hoạt động hành nghề luật sư:
Trong quá trình hành nghề, tổ chức hành nghề luật sư là chủ thể trong hợp đồng
dịch vụ pháp lý với khách hàng, chịu trách nhiệm trực tiếp với khách hàng trong
quá trình thực hiện dịch vụ pháp lý. Tổ chức hành nghề luật sư phải tôn trọng sự lựa
chọn của khách hàng, chỉ nhận vụ việc theo khả năng của mình và thực hiện vụ việc
trong phạm vi yêu cầu của khách hàng. Điều quan trọng nhất trong mối quan hệ
giữa tổ chức hành nghề luật sư và khách hàng là khách hàng phải được tự do lựa
chọn tổ chức hành nghề luật sư mà mình muốn, tổ chức hành nghề luật sư chỉ nhận
vụ việc mà mình có thể thực hiện một cách vô tư, khách quan và chất lượng. Khách
hàng cũng có quyền từ chối luật sư nếu họ thấy rằng việc sử dụng dịch vụ pháp lý
của luật sư đó không đem lại kết quả như họ mong muốn. Tổ chức hành nghề Luật
sư chỉ được nhận yêu cầu của khách hàng khi không bị áp lực nào làm ảnh hưởng
đến việc cung cấp dịch vụ pháp lý (áp lực về tài chính, áp lực của bên thứ ba..). Tổ

chức hành nghề Luật sư phải từ chối cung cấp dịch vụ pháp lý nếu yêu cầu của
khách hàng không có căn cứ hoặc yêu cầu của khách hàng vi phạm pháp luật, trái
đạo đức xã hội hoặc nếu thực hiện yêu cầu đó có thể dẫn đến việc luật sư vi phạm
17


pháp luật, vi phạm quy tắc đạo đức nghề nghiệp. Tổ chức hành nghề Luật sư không
được xử lý các vấn đề pháp lý mà luật sư biết hoặc phải biết mình không đủ năng
lực để xử lý. Tổ chức hành nghề Luật sư phải có trách nhiệm bảo vệ tốt nhất lợi ích
của khách hàng trong khuôn khổ pháp luật và đạo đức nghề nghiệp. Trong quá trình
nhận và thực hiện yêu cầu của khách hàng, luật sư phải giải thích cho khách hàng về
quyền và trách nhiệm của luật sư, phải thường xuyên thông tin cho khách hàng về
tình hình vụ việc. Bên cạnh đó, tổ chức hành nghề luật sư phải đảm bảo các nhân
viên trong tổ chức mình phải giữ bí mật đời tư, bí mật công việc và các quan hệ của
khách hàng. Khi ngừng tiến hành việc cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng, tổ
chức hành nghề luật sư phải có lý do chính đáng và phải báo trước cho khách hàng
trong thời gian hợp lý.
Bên cạnh mối quan hệ với khách hàng, mối quan hệ với hệ thống hành nghề rất
quan trọng trong suốt quá trình thành lập, hoạt động và chấm dứt hoạt động nghề
nghiệp của tổ chức hành nghề luật sư. Mối quan hệ giữa tổ chức hành nghề luật sư
với hệ thống hành nghề bao gồm mối quan hệ giữa tổ chức hành nghề luật sư với tổ
chức quản lý nghề nghiệp, với các tổ chức hành nghề khác và với các chủ thể khác
trong hệ thống hành nghề. Tổ chức quản lý nghề nghiệp luật sư là tổ chức quản lý
chung đối với hoạt động hành nghề luật sư và bảo vệ quyền lợi cho các luật sư. Tổ
chức này có thể được thành lập theo từng đơn vị hành chính ở mỗi quốc gia. Tổ
chức có trách nhiệm quản lý hoạt động hành nghề luật sư về mặt hành chính, đại
diện và bảo vệ quyền lợi cho các luật sư, tạo điều kiện bồi dưỡng thường xuyên về
kiến thức pháp luật, kỹ năng hành nghề cho luật sư, phối hợp với các cơ quan Nhà
nước khác quản lý hoạt động hành nghề luật sư và góp phần hoàn thiện hệ thống
pháp luật của quốc gia. Trong mối quan hệ với tổ chức quản lý nghề nghiệp này, tổ

chức hành nghề luật sư phải tôn trọng điều lệ của tổ chức, phối hợp với tổ chức để
thực hiện tốt chức năng xã hội của luật sư đồng thời phối hợp với tổ chức trong các
hoạt động tham gia xây dựng pháp luật, nghiên cứu khoa học pháp lý, tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục pháp luật. Mối quan hệ giữa tổ chức hành nghề luật sư với các
đồng nghiệp là mối quan hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau giữa các tổ chức hành nghề
luật sư nhằm nâng cao hoạt động nghiệp vụ và phục vụ khách hàng được tốt hơn.
18


Đối với các đồng nghiệp, luật sư không được xúc phạm hoặc hạ thấp uy tín của
đồng nghiệp, không được có hành vi gây áp lực đe dọa hoặc dùng những thủ đoạn
xấu đối với đồng nghiệp để dành lợi thế cho mình trong hoạt động hành nghề. Đồng
thời, luật sư không được thông đồng với luật sư của khách hàng có quyền lợi đối lập
với khách hàng của mình để cùng mưu cầu lợi ích cá nhân bất chính. Quan hệ đồng
nghiệp là lĩnh vực được điều chỉnh bởi quy tắc đạo đức nghề nghiệp của luật sư và
nó thể hiện được tính tự quản trong hoạt động nghề nghiệp của luật sư.
Trong mối quan hệ với các cơ quan tố tụng tổ chức hành nghề luật sư phải
tuân thủ quy định về quyền và nghĩa vụ của mình được quy định tại luật luật sư
và các văn bản pháp luật tố tụng liên quan. Theo đó tổ chức hành nghề luật sư cử
Luật sư tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho bị can, bị cáo hoặc
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự trong vụ án. Tổ chức
hành nghề luật sư tạo điều kiện để luật sư của tổ chức mình tham gia tố tụng
thuận lợi đồng thời có trách nhiệm buộc luật sư của tổ chức mình phải tuân thủ
các quy định của luật luật sư và các văn bản pháp luật về tố tụng có liên quan.
Trong tố tụng, luật sư có nghĩa vụ sử dụng các phương tiện hợp pháp để bảo vệ
lợi ích tốt nhất của khách hàng và không được lạm dụng những phương tiện đó.
Nhiệm vụ của luật sư là trình bày vụ việc của khách hàng bằng những lý lẽ
thuyết phục của mình nhằm bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của khách
hàng, đồng thời bảo vệ công lý, bảo vệ pháp luật, góp phần duy trì sự công bằng
của xã hội. Tổ chức hành nghề Luật sư không được móc nối quan hệ hoặc trực

tiếp quan hệ với người tiến hành tố tụng nhằm mục đích lôi kéo họ vào việc làm
trái quy định trong giải quyết công việc. Tổ chức hành nghề Luật sư và các cơ
quan tiến hành tố tụng cùng tham gia vào sự nghiệp bảo vệ công lý. Do đó tổ
chức hành nghề luật sư nói chung và luật sư nói riêng phải hợp tác cùng các cơ
quan tố tụng để giải quyết các vụ việc cụ thể. Tổ chức hành nghề Luật sư không
được cung cấp cho cơ quan tố tụng những thông tin, chứng cứ mà luật sư biết
hoặc nghi ngờ là sai sự thực. Tổ chức hành nghề luật sư không được tự mình
hoặc giúp khách hàng thực hiện những thủ đoạn, những hành vi bất hợp pháp
19


nhằm gây khó khăn cho các cơ quan tố tụng. Vì tổ chức hành nghề Luật sư phải
cùng và giúp các cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết những vụ việc xảy ra trong
xã hội một cách tốt nhất đảm bảo cho lợi ích của xã hội và của các công dân.
1.3. Hợp đồng dịch vụ pháp lý
Xã hội càng phát triển thì nhu cầu trao đổi của con người ngày càng cao. Các
vấn đề pháp lý phát sinh ngày càng nhiều và phức tạp trong xã hội nên dịch vụ pháp
lý cũng trở thành một đối tượng được nhiều người quan tâm. Cùng với nó, các vấn
đề liên quan đến Hợp đồng dịch vụ pháp lý cũng là một vấn đề vô cùng quan trọng.
Có người đã cho rằng nếu sự an toàn của tài sản và tính mạng con người được đảm
bảo bởi Bộ luật hình sự thì sự an toàn và trật tự của thế giới kinh doanh được đảm
bảo bởi Hợp đồng.
Hợp đồng dịch vụ pháp lý là hình thức pháp lý của quan hệ cung ứng dịch vụ
pháp lý trong thương mại. Nó gắn liền với hoạt động thương mại là hoạt động cung
ứng dịch vụ pháp lý.
Đối tượng của hợp đồng dịch vụ là công việc phải làm. Đối với hợp đồng
dịch vụ pháp lý, công việc phải làm là các công việc liên quan đến pháp luật như tư
vấn pháp luật, tranh tụng, đại diện ngoài tố tụng... Các công việc này phải có khả
năng thực hiện, không trái với pháp luật và đạo đức xã hội, đạo đức nghề luật sư.
Các công việc này phải tuân thủ các quy định của pháp luật về luật sư và các quy

phạm pháp luật khác có liên quan như luật dân sự, luật thương mại.
Hình thức của hợp đồng pháp lý có thể bằng văn bản hoặc bằng lời nói hoặc
bằng hành vi cụ thể. Hợp đồng dịch vụ pháp lý mang các đặc điểm sau cần được thể
hiện dưới hình thức văn bản: i) Công việc là đối tượng hợp đồng dịch vụ pháp lý
phức tạp và/hoặc có yếu tố nước ngoài; ii) Công việc chia thành nhiều công việc
nhỏ, được thực hiện trong những thời gian khác nhau và/hoặc kéo dài, theo những
yêu cầu riêng hoặc việc thực hiện phải phụ thuộc vào hoạt động của bên thứ ba; iii)
hợp đồng dịch vụ pháp lý giữa các bên là thương nhân có giá trị kinh tế lớn. Đối với
những hợp đồng dịch vụ pháp lý có giá trị nhỏ, công việc đơn giản, ký kết và thực
hiện ngay tại chỗ (tư vấn pháp luật vụ việc đơn giản, công chứng việc đơn giản…)

20


hoặc những hợp đồng dịch vụ pháp lý mà các chủ thể quen biết, tin cậy nhau thì
không cần thiết phải lập thành văn bản.
Chủ thể của hợp đồng dịch vụ pháp lý là bên cung cấp dịch vụ pháp lý và
bên thuê dịch vụ. Bên cung cấp dịch vụ pháp lý chính là tổ chức hành nghề luật sư.
Tổ chức hành nghề luật sư phải được thành lập, tổ chức và hoạt động theo đúng quy
định của pháp luật về luật sư và pháp luật về doanh nghiệp. Tổ chức hành nghề luật
sư là tổ chức duy nhất được cung cấp dịch vụ pháp lý cho khách hàng. Tổ chức
hành nghề luật sư chỉ được cung cấp dịch vụ pháp lý mà không được thực hiện các
hoạt động kinh doanh khác và chỉ được ký hợp đồng dịch vụ pháp lý theo đúng các
lĩnh vực được cấp phép hoạt động. Bên thuê dịch vụ là các tổ chức, cá nhân có nhu
cầu thuê tổ chức hành nghề luật sư cung ứng dịch vụ pháp lý. Bên thuê dịch vụ
pháp lý phải có năng lực chủ thể phù hợp với quan hệ hợp đồng dịch vụ pháp lý.
Nội dung Hợp đồng dịch vụ pháp lý cũng gồm các nội dung như tại các hợp
đồng thương mại dịch vụ thông thường, gồm: Tên, địa chỉ của khách hàng hoặc
người đại diện của khách hàng, đại diện của tổ chức hành nghề luật sư hoặc luật sư
hành nghề với tư cách cá nhân; Nội dung dịch vụ; thời hạn thực hiện hợp đồng;

Quyền, nghĩa vụ của các bên; Phương thức tính và mức thù lao cụ thể; các khoản
chi phí (nếu có); Phương thức giải quyết tranh chấp.
Hợp đồng dịch vụ phải thỏa thuận rõ giá thuê dịch vụ, phương thức tính giá
thuê dịch vụ, phương thức thanh toán tiền thuê dịch vụ. Giá thuê dịch vụ pháp lý do
các bên thỏa thuận và không được trái với các quy định của pháp luật. Thỏa thuận
này phải căn cứ vào nội dung yêu cầu của khách hàng, thời gian công sức luật sư sử
dụng để thực hiện dịch vụ pháp lý, kinh nghiệm, uy tín của luất sư. Phương thức
tính thù lao có thể theo giờ làm việc của luật sư, thù lao trọn gói, hoặc theo tỷ lệ
phần trăm của giá trị vụ việc, hoặc hợp đồng với mức thù lao cố định
Hợp đồng dịch vụ pháp lý cũng cần thỏa thuận rõ quyền và nghĩa vụ của các
bên. Về nguyên tắc, pháp luật tôn trọng sự thỏa thuận của chủ thể hợp đồng dịch vụ
pháp lý nếu các điều khoản thỏa thuận trong hợp đồng không trái pháp luật và đạo
đức xã hội. Tuy nhiên, xuất phát từ đặc trưng của hợp đồng dịch vụ pháp lý là sự
"bất cân xứng" về thông tin cho nên sự "bình đẳng" giữa các bên trên thực tế không
21


×