Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tiểu luận: Nghề Luật sư ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.93 KB, 18 trang )

Tiểu luận Nghề Luật sư ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp
Trường……………….
Khoa………………….
TIỂU LUẬN
Nghề luật sư ở Việt Nam.
Thực trạng và giải pháp
Lê Văn Cao – Lớp D – K9.1, Học Viện Tư Pháp, Hà Nội, 2010
Trang 1
Tiểu luận Nghề Luật sư ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp
MỤC LỤC
NỘI DUNG 4
Chương 1 4
Một số vấn đề lý luận về luật sư và hành nghề luật sư ở Việt Nam 4
1.1 Khái niệm về luật sư, nghề luật sư 4
Lê Văn Cao – Lớp D – K9.1, Học Viện Tư Pháp, Hà Nội, 2010
Trang 2
Tiểu luận Nghề Luật sư ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp
MỞ ĐẦU
Thực tế khách quan của một quốc gia đang không ngừng phát triển,
của một đất nước luôn hướng đến nền dân chủ vững mạnh và của một dân
tộc ngày ngày vươn mình ra với bè bạn năm châu, thì sứ mệnh bảo vệ công
lý, đảm bảo công bằng xã hội được đề cao là tất yếu và chính đáng.
Không có giai đoạn nào trong lịch sử phát triển của đất nước trước
đây, vị thế và vai trò của nghề luật sư lại được coi trọng như hiện nay. Có thể
nói, đây là thời điểm mà xã hội Việt Nam đã dần nhìn nhận sát gần hơn đối
với vai trò của nghề luật sư theo đúng chỗ đứng mà nghề này xứng đáng có
được. Người dân ngày càng tìm đến luật sư như một nhu cầu thiết thân, số
lượng luật sư, tổ chức hành nghề luật sư ngày một phát triển, nền tư pháp
nước nhà đã tạo điều kiện nhiều hơn để luật sư thể hiện tầm quan trọng của
mình.
Liên tiếp trong thời gian gần đây, Đảng và Nhà nước đã thể hiện mối


quan tâm đặc biệt giành cho nghề luật sư, cụ thể Nghị quyết 08- NQ/TW về
cải cách tư pháp và Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị đã chỉ rõ vai trò
của luật sư trong nền tư pháp nước nhà. Luật luật sư 2006 thay thế Pháp lệnh
luật sư năm 2001 (trước đó nữa là Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987) đã thể
hiện thành tựu tích cực của hoạt động lập pháp đối với nghề luật sư. Đặc biệt,
khi mà nhu cầu của xã hội, của nhà nước đối với nghề luật sư ở nước ta được
thể hiện ngày một bức thiết, thì những vị lãnh đạo Nhà nước đã có những sự
quan tâm lớn, thể hiện cách nhìn nhận mới cũng như cách thức sự cụ thể hóa
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước đối với nghề luật sư.
Tháng 5 năm 2009, khi Đại hội đại biểu liên đoàn luật sư lần thứ nhất
diễn ra, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết và Phó thủ tướng Trương Vĩnh
Trọng đã đến dự và đã có những phát biểu thể hiện sự kỳ vọng của Nhà
nước, Chính phủ đối với các luật sư. Ngày 8/12/2009, Liên đoàn Luật sư
Việt Nam đã tổ chức cuộc toạ đàm giữa đại diện luật sư Việt Nam và Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng với chủ đề: "Vai trò của luật sư Việt Nam trong cải
cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền và hội nhập quốc tế".
Xuất phát từ tầm quan trọng đối việc nhìn nhận nghề luật sư ở Việt Nam
hiện nay, người học chọn đề tài "Nghề luật sư ở Việt Nam - thực trạng và
giải pháp" làm bài tiểu luận.
Lê Văn Cao – Lớp D – K9.1, Học Viện Tư Pháp, Hà Nội, 2010
Trang 3
Tiểu luận Nghề Luật sư ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp
NỘI DUNG
Chương 1
Một số vấn đề lý luận về luật sư và hành nghề luật sư ở Việt
Nam
1.1 Khái niệm về luật sư, nghề luật sư
Trong các nhà nước pháp quyền hiện nay, quyền bào chữa và quyền
được bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp là một trong những quyền cơ bản của
công dân; quyền đó thường được thể hiện ngay trong Hiến pháp và được cụ

thể hóa trong các văn bản luật rằng: công dân có thể tự bào chữa, bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc nhờ người khác bào chữa, bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước Toà án. Từ việc nhờ người khác bào
chữa, luật sư và nghề luật sư xuất hiện để đáp ứng nhu cầu được bào chữa,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Vậy hiểu khái niệm luật sư là gì?
Hiện nay, chúng ta có thể hiểu với nhau rằng: luật sư là một chức danh
tư pháp độc lập, chỉ những người có đủ điều kiện hành nghề chuyên nghiệp
theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện việc tư vấn pháp luật, đại diện
theo ủy quyền, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cá nhân, tổ chức và nhà
nước trước tòa án và thực hiện các dịch vụ pháp lý khác. Điều 2 Luật Luật sư
2006 quy định: Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo
quy định của Luật luật sư, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá
nhân, cơ quan, tổ chức. Tiêu chuẩn luật sư được quy định tại Điều 10 Luật
Luật sư như sau: “Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ
Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng Cử nhân Luật, đã
được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức
khoẻ bảo đảm hành nghề luật sư thì có thể trở thành Luật sư. Lưu ý rằng,
người có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 10 của Luật luật sư muốn được
hành nghề luật sư phải có Chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập một
Đoàn luật sư.
Nghề luật sư là nghề như thế nào?
Nghề luật sư ở Việt Nam trước hết là một nghề luật, trong đó các luật
sư bằng kiến thức pháp luật của mình, độc lập thực hiện các hoạt động trong
phạm vi hành nghề theo quy định của pháp luật và quy chế trách nhiệm nghề
nghiệp, nhằm mục đích phụng sự công lý, góp phần bảo vệ pháp chế và xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam.
Lê Văn Cao – Lớp D – K9.1, Học Viện Tư Pháp, Hà Nội, 2010
Trang 4
Tiểu luận Nghề Luật sư ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp

Theo nhiều nhà nghiên cứu, nghề luật sư không giống như những nghề
bình thường khác vì ngoài những yêu cầu về kiến thức và trình độ chuyên
môn thì việc hành nghề luật sư còn phải tuân thủ theo quy chế đạo đức nghề
nghiệp. Điều này tạo nên nét đặc thù riêng của nghề luật sư và nét đặc thù
này tác động sâu sắc đến kỹ năng hành nghề, đặc biệt là kỹ năng tranh tụng
của các luật sư.
Xét về tính chất, có thể hiểu nghề luật sư có ba tính chất cơ bản như
sau:
Thứ nhất, tính chất trợ giúp: Nói đến trợ giúp nghĩa là nói đến sự giúp
đỡ, bênh vực không vụ lợi của luật sư cho những người ở vào vị thế thấp
kém. Những người được trợ giúp thường là người bị ức hiếp, bị đối xử bất
công trái pháp luật trong xã hội hay những người nghèo, người già cô đơn,
người chưa thành niên mà không có sự đùm bọc của gia đình. Do đó, tính
chất này thể hiện hoạt động của nghề luật sư không chỉ là bổn phận mà còn
là thước đo lòng nhân ái và đạo đức của luật sư.
Thứ hai, tính chất hướng dẫn: Thông thường, luật sư thực hiện việc
hướng dẫn cho khách hàng hiểu đúng tinh thần và nội dung của pháp luật, để
từ đó họ biết cách tháo gỡ vướng mắc sao cho phù hợp với pháp lý và đạo lý,
cũng như để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của họ.
Thứ ba, tính chất phản biện: Là những biện luận nhằm phản bác lại lý
lẽ, ý kiến quan điểm của người khác mà mình cho là không phù hợp với pháp
lý và đạo lý. Luật sư lấy pháp luật và đạo đức xã hội làm chuẩn mực để xem
xét mọi khía cạnh của sự việc nhằm xác định rõ phải trái, đúng sai… từ đó đề
xuất những biện pháp phù hợp bảo vệ lẽ phải, loại bỏ sai trái, bảo vệ công lý.
Từ tính chất, đặc thù của nghề luật sư, chúng ta thấy rằng không dễ
dàng để có thể thực hiện nghề này một cách bình thường. Ở các nước phát
triển nghề luật sư rất được coi trọng trong xã hội. Người được phép hành
nghề luật sư phải trải qua nhiều chương trình đào tạo và phải là người hội đủ
nhiều phẩm chất quan trọng như thông minh, trong sáng, trung thực, dũng
cảm. Luật sư phải biết lấy pháp luật, đạo đức xã hội, lẽ sống công bằng và

chân lý khách quan làm cơ sở cho hoạt động nghề nghiệp thì mới được tin
tưởng và trân trọng.
1.2 Các giai đoạn phát triển của nghề luật sư ở Việt Nam
Sơ lược về sự hình thành nghề luật sư trên thế giới
Ở châu Âu vào thời Hy Lạp, La Mã cổ đại, nghề luật sư đã xuất hiện
trong đời sống xã hội. Sử sách kể lại rằng, vào khoảng thế kỷ thứ V trước
Công nguyên, trong nhà nước Hy Lạp cổ, tổ chức toà án đã được hình thành
và việc xét xử có sự tham gia của người dân. Nguyên cáo hoặc bị cáo có thể
tự trình bày ý kiến, lý lẽ của mình trước Toà hoặc nhờ người khác có tài
Lê Văn Cao – Lớp D – K9.1, Học Viện Tư Pháp, Hà Nội, 2010
Trang 5
Tiểu luận Nghề Luật sư ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp
hùng biện trình bày hộ ý kiến, lý lẽ bảo vệ hoặc bào chữa. Vào thời đó, việc
bào chữa xuất phát tự nhiên nhằm minh oan cho bạn bè hoặc người thân bị
chính quyền bắt giam, trừng phạt một cách độc đoán và vô cớ. Còn ở La Mã
cổ đại, phiên toà thường có sự tham gia của các nhà chuyên môn, người am
hiểu pháp luật để nhắc nhỡ những quy tắc tôn giáo để tránh việc viện dẫn sai
hoặc vi phạm thủ tục tố tụng; xã hội dần dần hình thành một nhóm người
chuyên sâu, am hiểu về pháp luật và việc diễn giải pháp luật của họ được
xem xét như hoạt động nghề nghiệp. Từ đó, hoạt động của họ ( luật sư) được
chấp nhận và uy tín của họ trong xã hội ngày càng được nâng cao, nghề luật
sư được xem như một nghề vinh quang trong xã hội.
Khi châu Âu chuyển sang thời kỳ Trung cổ với các triều đại phong
kiến phân quyền cát cứ, Toà án và chế độ luật sư ở các nước được xây dựng
dưới nhiều hình thức khác nhau nhằm mục đích phục vụ tôn giáo và chế độ
phong kiến. Luật sư thời ký này không thể hiện rõ và đầy đủ các tính chất
nghề nghiệp của họ, vai trò của luật sư bị hạn chế và bóp nghẹt bởi chế độ xã
hội chuyên quyền hà khắc.
Bước sang chế độ tư bản, nghề luật sư được tổ chức chặt chẽ với
những điều kiện khắt khe nhằm bảo vệ quyền lợi riêng cho một bộ phận

người xuất thân từ giai cấp tư sản. Dần dần, các cuộc đấu tranh vì dân chủ,
bình đẳng diễn ra thường xuyên đã buộc chính quyền các nước tư sản phải
mở rộng quyền dân chủ cho người dân, nhu cầu của người dân đối với việc
được đảm bảo quyền và lợi ích của mình trên cơ sở các quy định pháp luật
luôn thường trực. Nghề luật sư thể hiện vai trò to lớn của mình, dần hình
thành một nghề tự do.
Hiện nay, ở các nước phát triển, nghề luật sư lại càng được trân trọng,
và thực sự nghề luật sư, bằng tính chất và đòi hỏi đặc thù của nghề nghiệp
luôn là một trong những nghề được yêu thích nhất. Ở Mỹ, rất nhiều vị tổng
thống xuất thân là luật sư, nhiều chính trị gia của nước này đã từng là luật sư
trước khi bước vào chính trường. Nói đến thu nhập, nghề luật sư luôn là nghề
có thu nhập dẫn đầu ở các nước phát triển như Mỹ và châu Âu. Theo thống
kê trong năm 2009 của Tạp chí Fortune, trong số 10 tập đoàn trả lương cho
nhân viên cao nhất toàn cầu thì các công ty luật đã chiếm đến con số 6, bao
gồm: Baker Donelson, Bingham McCutchen, Alston & Bird, Perkins Coie,
Arnold & Porter và Orrick, Herrington & Sutcliffe. Trong đó, Baker
Donelson đứng số một toàn cầu về việc trả lương cao nhất cho nhân viên của
mình.
Như vậy, không ngẫu nhiên mà nghề luật sư thực sự luôn được tôn
trọng ở nhiều quốc gia trên thế giới. Bởi có được điều đó, qua thực tiễn nghề
nghiệp với những đặc thù riêng, với những phẩm chất, yếu tố cần thiết đảm
Lê Văn Cao – Lớp D – K9.1, Học Viện Tư Pháp, Hà Nội, 2010
Trang 6
Tiểu luận Nghề Luật sư ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp
bảo hành nghề phải đạt ở mức độ cao, không dễ gì ai cũng có thể theo đuổi
nghề này một cách thực sự.
Sự hình thành và phát triển của nghề luật sư ở Việt Nam
Sau khi xâm lược Nam kỳ, ngày 26/11/1876 người Pháp đã ban hành
Nghị định về việc biện hộ cho người Pháp hoặc người Việt mang quốc tịch
Pháp tại Tòa án Pháp. Từ đó nghề luật sư mới chính thức xuất hiện ở nước

ta, còn trước đây, việc xét xử của chính quyền phong kiến Việt Nam do vua,
quan phong kiến thực hiện mà không có sự bào chữa, bảo vệ.
Năm 1884, sau khi thiết lập bộ máy cai trị trên toàn lãnh thổ Việt
Nam, Toàn quyền Pháp ký Sắc lệnh thành lập Luật sư Đoàn tại Sài Gòn và
Hà Nội gồm các luật sư người Pháp và người Việt đã nhập quốc tịch Pháp.
Các luật sư chỉ biện hộ trước Tòa án Pháp cho người Pháp hoặc người có
quốc tịch Pháp. Sau đó, với Sắc lệnh ngày 30/1/1911, nhà cầm quyền Pháp
đã mở rộng cho người Việt Nam không có quốc tịch Pháp được làm luật sư.
Tiến thêm một bước, nhà cầm quyền Pháp ký Sắc lệnh ngày 25/5//930 về tổ
chức Luật sư đoàn ở Hà Nội, Sài Gòn và Đà Nẵng. Sắc lệnh này đã mở rộng
cho các luật sư không chỉ biện hộ ở tòa án Pháp mà cả trước Toà án Việt
Nam; không chỉ bào chữa cho người có quốc tịch Pháp mà cả người không
có quốc tịch Pháp.
Có một chi tiết khá thú vị là, người Việt Nam đầu tiên làm luật sư là
ông Phan Văn Trường (1876 - 1933). Ông là người Từ Liêm, Hà Nội, tốt
nghiệp Đại học luật và làm luật sư tại Paris, một nhà yêu nước. Con đường
có trụ sở Học viện Tư pháp tọa lạc (nơi đào tạo nghề luật sư duy nhất ở Việt
Nam hiện nay) mang tên Phan Văn Trường.
Khi cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền về tay nhân dân
thì bộ máy tư pháp nước ta cũng được tổ chức lại. Hơn một tháng sau khi
Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư
cách là người đứng đầu chính quyền mới đã ký Sắc lệnh số 46/SL ngày 10-
10-1945 về tổ chức đoàn thể luật sư. Sắc lệnh số 46/SL duy trì tổ chức luật
sư cũ trong đó có sự vận dụng linh hoạt các quy định pháp luật cũ về luật sư
nhưng không trái với nguyên tắc độc lập và chính thể dân chủ cộng hoà.
Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà năm 1946 khẳng định quyền
bào chữa là một trong những quyền cơ bản của công dân, cụ thể Điều 67 của
Hiến Pháp quy định "Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn
luật sư”.
Do hoàn cảnh lịch sử với cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ kế

tiếp nhau, toàn dân ta đã phải tập trung sức người, sức của cho nhiệm vụ cứu
Lê Văn Cao – Lớp D – K9.1, Học Viện Tư Pháp, Hà Nội, 2010
Trang 7
Tiểu luận Nghề Luật sư ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp
nước. Với điều kiện đó, tổ chức luật sư không thể duy trì. Nhiều luật gia, luật
sư đã ra mặt trận, lên chiến khu hoặc tham gia vào hoạt động tư pháp tại các
vùng do chính quyền ta kiểm soát, nghề luật sư giai đoạn này gặp muôn vàn
khó khăn. Tuy thế, Đảng và Nhà nước ta vẫn luôn quan tâm đến việc bảo
đảm quyền bào chữa trước Toà án của bị cáo, một trong những quyền cơ bản
của công dân đã được ghi trong Hiến pháp. Sắc lệnh số 69/SL ngày
18/6/1949 quy định nguyên cáo, bị cáo có thể nhờ một công dân không phải
là luật sư bênh vực cho mình.
Tiếp tục khẳng định quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về quyền bào
chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, Hiến pháp nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà năm 1959 (Điều 101) đã quy định "Quyền bào chữa
của người bị cáo được bảo đảm"; tiếp đó Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam năm 1980 ngoài việc khẳng định bảo đảm quyền bào
chữa của bị cáo, còn quy định việc thành lập tổ chức luật sư để giúp cá nhân,
tổ chức bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Để thực hiện quy định của Hiến pháp, trong giai đoạn triển khai xây
dựng văn bản pháp luật về tổ chức luật sư, đội ngũ bào chữa viên tiếp tục
được củng cố và phát triển, cụ thể ngày 31/10/1983 Bộ Tư pháp ban hành
Thông tư số 691/QLTPK về công tác bào chữa, trong đó quy định cụ thể
tiêu chuẩn, điều kiện làm bào chữa viên, quy định ở mỗi tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương thành lập một Đoàn bào chữa viên. Riêng ở hai thành phố
Hà Nội và Hồ Chí Minh thì thành lập Đoàn luật sư, bào chữa viên, tập hợp
các luật sư đã được công nhận trước đây và các bào chữa viên, đến cuối năm
1987, trên cả nước đã có 30 Đoàn bào chữa viên với gần 400 bào chữa viên.
Sau ngày thống nhất đất nước, với yêu cầu khách quan, mang tính
sống còn là phải đổi mới, xoá bỏ cơ chế quan liêu-bao cấp và mở rộng dân

chủ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đại hội Đảng cộng sản Việt
Nam lần thứ IV năm 1986 đã mở đầu một thời kỳ lịch sử mới xây dựng đất
nước, thời kỳ đổi mới. Đường lối đổi mới do Đại hội vạch ra đã tác động sâu
rộng đến mọi mặt hoạt động trong xã hội, trong đó có hoạt động tư pháp. Các
đạo luật về tố tụng được ban hành theo hướng mở rộng dân chủ trong tố
tụng, trong đó có việc tăng cường bảo đảm quyền bào chữa, bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trước Toà án và các cơ quan tố tụng
khác. Đó cũng chính là tiền đề quan trọng để vực dậy mạnh mẽ hơn nghề luật
sư ở nước ta. Trong bối cảnh đó, Pháp lệnh tổ chức luật sư được ban hành
ngày 18/12/1987. Có thể nói, đây là văn bản pháp luật có ý nghĩa lịch sử
trong việc khôi phục nghề luật sư và mở đầu cho quá trình phát triển nghề
luật sư ở nước ta trong thời kỳ đổi mới. Pháp lệnh quy định rõ tiêu chuẩn
được công nhận là luật sư, chức năng, nhiệm vụ và lĩnh vực giúp đỡ pháp lý
của luật sư và tổ chức các Đoàn luật sư ở các tỉnh, thanh phố trực thuộc
Lê Văn Cao – Lớp D – K9.1, Học Viện Tư Pháp, Hà Nội, 2010
Trang 8
Tiểu luận Nghề Luật sư ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp
Trung ương. Chỉ sau gần 10 năm thi hành Pháp lênh, ở hầu hết các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương đã thành lập Đoàn luật sư; đội ngũ luật sư
trong cả nước đã đạt tới con số hàng ngàn luật sư. Hoạt động luật sư cũng có
bước phát triển đáng kể. Ngoài việc tăng cường một bước về số lượng và
chất lượng tham gia tố tụng của luật sư trong các vụ án hình sự, dân sự, các
luật sư đã từng bước mở rộng hoạt động hành nghề sang lĩnh vực tư vấn
pháp luật và thực hiện các dịch vụ pháp lý khác.
Khi bước sang nửa cuối thập niên 90, đất nước ta bước vào giai đoạn
quan trọng của quá trình đổi mới, trong đó nhu cầu đẩy mạnh quá trình xây
dựng cơ chế thị trường, yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền, mở rộng
dân chủ, hội nhập quốc tế ngày càng trở lên sâu sắc, ở mức độ cao hơn.
Để đáp ứng nhu cầu mới, Pháp lệnh luật sư năm 2001 đã được ban
hành. Nội dung của Pháp lệnh thể hiện quan điểm cải cách mạnh mẽ tổ chức

và hoạt động luật sư ở nước ta theo hướng chính quy hoá, chuyên nghiệp hoá
đội ngũ luật sư, nghề luật sư, tăng cường vai trò tự quản của tổ chức xã hội-
nghề nghiệp của luật sư, tạo cơ sở pháp lý cho quá trình hội nhập quốc tế của
nghề luật sư ở Việt Nam. Chỉ sau 5 năm thi hành Pháp lệnh, đội ngũ luật sư
đã tăng đáng kể cả về số lượng và chất lượng. Đặc biệt, trong 5 năm đó các
luật sư đã thành lập trên 1.000 tổ chức hành nghề là các văn phòng luật sư,
các công ty luật hợp danh. Các Đoàn luật sư được xây dựng lại và củng cố để
làm đúng chức năng của tổ chức xã hội-nghề nghiệp tự quản của các luật sư.
Hoạt động hành nghề của luật sư cũng được tăng lên đáng kể về phạm vi và
chất lượng. Có thể nói, Pháp lệnh luật sư năm 2001 là văn bản mở đầu cho
quá trình chuyên nghiệp hoá và hội nhập quốc tế của nghề luật sư ở Việt
Nam, đã tạo một bộ mặt mới với triển vọng phát triển mạnh mẽ nghề luật sư
ở nước ta.
Không dừng lại ở đó, cùng với bước phát triển và những yêu cầu mới
của xu thế toàn cầu hoá, công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế của nước ta
đã có những bước phát triển nhanh và mạnh mẽ với những sự kiện quan
trọng mang tính chất đột phá. Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại quốc
tế (WTO) đã tạo ra vị thế và những cơ hội mới phát triển đất nước, đồng
thời cũng đặt ra nhiệm vụ quan trọng là phải chuyển đổi hệ thống pháp luật
và các thiết chế cùng cơ chế vận hành theo lộ trình phù hợp với các cam kết
khi gia nhập WTO. Trong các năm 2005, 2006, 2007, Nhà nước ta đã ban
thành một số lượng lớn các đạo luật mới hoặc thay thế các đạo luật không
còn phù hợp, trong đó có Luật Luật sư được Quốc hội thông qua ngày
29/6/2006 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2007.
Sự kiện Luật Luật sư được ban hành và đi vào đời sống đã góp phần
nâng cao vị thế của luật sư, tạo cơ sở pháp lý đẩy nhanh quá trình xây dựng
một đội ngũ luật sư, nghề luật sư mang tính chuyên nghiệp, ngang tầm với
Lê Văn Cao – Lớp D – K9.1, Học Viện Tư Pháp, Hà Nội, 2010
Trang 9
Tiểu luận Nghề Luật sư ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp

luật sư và nghề luật sư ở các nước tiên tiến trên thế giới. Có thể nói, Luật
Luật sư là mốc son đánh dấu một bước phát triển vượt bậc của pháp luật về
luật sư ở Việt Nam, và qua đó mở ra nhiều triển vọng mới mẽ cho nghề luật
sư.
Chương 2
Thực trạng nghề luật sư ở Việt Nam và những giải pháp
hoàn thiện
2.1. Thực trạng nghề luật sư ở Việt Nam
Về đội ngũ luật sư
Sau khi Pháp lệnh luật sư và đặc biệt là Luật Luật sư 2006 được ban
hành, đội ngũ luật sư đã có sự phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng. Sự
phát triển, thay đổi của đội ngũ luật sư một phần do những quy định đổi mới
của Luật Luật sư về các tiêu chí như tiêu chuẩn luật sư, điều kiện hành nghề
luật sư, quy trình trở thành luật sư, các quy định về tập sự, gia nhập Đoàn
Luật sư Theo thống kê của Liên đoàn Luật sư cho thấy, hiện cả nước có
gần 5.800 luật sư và hơn 2.000 luật sư tập sự. Từ sau khi pháp lệnh hành
nghề luật sư có hiệu lực (năm 2001) đến nay, số lượng luật sư đã tăng 250%.
Tuy nhiên, vấn đề về đội ngũ luật sư nước ta còn một số hạn chế cần
được khắc phục sau đây:
Thứ nhất, số lượng luật sư hiện có so với dân số còn rất thấp. Tỷ lệ
luật sư nước ta hiện nay trung bình là 1 luật sư/17.000 người dân, trong khi
đó tỷ lệ này ở Thái Lan là 1/1526, Singapore là 1/1.000, Nhật Bản là ¼.546,
Pháp là 1/1.000, Mỹ là 1/250. Mặt khác, số lượng luật sư phát triển chưa cân
đối giữa khu vực thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, trung
du. Luật sư chủ yếu tập trung ở Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh.
Thứ hai, chất lượng của đội ngũ luật sư còn nhiều hạn chế. Gần một
nửa số lượng luật sư hiện nay chưa được đào tạo một cách bài bản về kỹ
năng hành nghề. Hiệu quả tham gia tố tụng của luật sư vẫn còn chưa đáp ứng
được yêu cầu tranh tụng tại phiên toà theo tinh thần cải cách tư pháp. Các
luật sư vẫn còn thiếu kinh nghiệm trong việc thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết

liên quan đến quá trình bào chữa, tranh luận, đưa ra yêu cầu, kiến nghị tại
phiên toà. Một số luật sư còn có thái độ ứng xử nghề nghiệp chưa đúng mực
trong quan hệ với các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và
luật sư đồng nghiệp, làm ảnh hưởng đến uy tín của đội ngũ luật sư. Hơn nữa,
luật sư nước ta còn yếu về trình độ ngoại ngữ cũng như kiến thức về pháp
luật quốc tế. Điều này dẫn đến nguy cơ chúng ta thua ngay trên “sân nhà”
trong các vụ tranh chấp liên quan đến việc mâu thuẫn giữa quyền lợi của Nhà
nước Việt Nam, các doanh nghiệp, công dân Việt Nam với nước ngoài.
Lê Văn Cao – Lớp D – K9.1, Học Viện Tư Pháp, Hà Nội, 2010
Trang 10
Tiểu luận Nghề Luật sư ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp
Thứ ba, về mức độ chuyên môn hoá trong hành nghề, đa số luật sư ở
nước ta hành nghề trong tất cả các lĩnh vực tham gia tố tụng, tư vấn pháp
luật, đại diện ngoài tố tụng và các dịch vụ pháp lý khác. Tuy số lượng luật sư
ở nước ta trong những năm gần đây tăng lên đáng kể, song vẫn chưa hình
thành được đội ngũ các luật sư chuyên sâu về những lĩnh vực khác nhau. Các
luật sư chủ yếu hành nghề trong hai lĩnh vực dân sự và hình sự. Trong các
lĩnh vực pháp luật khác như hành chính, lao động, kinh tế…tỷ lệ vụ việc mà
các luật sư tham gia tương đối thấp. Số lượng luật sư có đủ kinh nghiệm, kỹ
năng tư vấn pháp luật trong lĩnh vực thương mại quốc tế, đàm phán giải
quyết tranh chấp quốc tế chỉ chiếm tỷ lệ 1,2% trong tổng số luật sư, trong đó
chỉ khoảng 20 luật sư có trình độ ngang tầm với luật sư khu vực. Mới có
khoảng 10/1.500 tổ chức hành nghề luật sư chuyên sâu trong lĩnh vực đầu tư,
kinh doanh, thương mại có yếu tố nước ngoài.
Về hoạt động hành nghề của luật sư
Thứ nhất, về phạm vi hành nghề. Có thể thấy rằng sau khi Pháp lệnh
luật sư năm 2001 và đặc biệt sau khi Luật Luật sư được ban hành, hoạt động
hành nghề luật sư ở Việt Nam có những bước chuyển rõ rệt. Theo quy định
của Pháp lệnh luật sư thì dịch vụ pháp lý của luật sư bao gồm tham gia tố
tụng, thực hiện tư vấn pháp luật và các dịch vụ pháp lý khác. Luật Luật sư đã

mở rộng hơn phạm vi hành nghề luật sư với việc quy định luật sư được đại
diện ngoài tố tụng cho khách hàng. Có thể nói trên cơ sở những quy định
ngày càng thông thoáng hơn của pháp luật cộng với sự nỗ lực của các luật sư,
dịch vụ pháp lý của luật sư tăng đáng kể về số lượng và nâng cao một bước
về chất lượng.
+ Tham gia tố tụng là lĩnh vực hành nghề chủ yếu của các luật sư hiện
nay. Trong thời gian qua, các luật sư đã tham gia giải quyết hàng trăm nghìn
vụ án. Vai trò của luật sư trong quá trình tham gia tố tụng đã có những bước
phát triển về chất. Xuất phát từ việc pháp luật tố tụng đang từng bước được
hoàn thiện, các cơ quan tiến hành tố tụng đã quan tâm hơn đến việc tạo điều
kiện thuận lợi cho luật sư tham gia bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho các bị can, bị cáo, đương sự. Ý kiến của luật sư tại phiên toà đã
được cơ quan công tố quan tâm và coi trọng. Việc tham gia tố tụng của các
luật sư không những bảo đảm tốt hơn quyền bào chữa của bị can, bị cáo, các
đương sự khác, mà còn giúp các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện, sửa
chữa những thiếu sót, làm rõ sự thật khách quan, xét xử đúng người, đúng
tội, đúng pháp luật.
+ Tư vấn pháp luật là lĩnh vực hành nghề quan trọng của luật sư, đặc
biệt trong điều kiện nhu cầu về tư vấn pháp luật trong xã hội ngày càng tăng
nhanh. Các luật sư đã mở rộng và phát triển tư vấn trong các lĩnh vực kinh
doanh, đầu tư, thương mại. Trong lĩnh vực pháp luật dân sự thì tư vấn về đất
Lê Văn Cao – Lớp D – K9.1, Học Viện Tư Pháp, Hà Nội, 2010
Trang 11
Tiểu luận Nghề Luật sư ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp
đai, hôn nhân gia đình đang là mảng tư vấn phổ biến và sôi động nhất. Với
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, toàn cầu hoá, các luật sư hoạt động trong
lĩnh vực tư vấn pháp luật đang phát huy vai trò quan trọng trong việc giúp đỡ
các doanh nghiệp đàm phán, ký kết hợp đồng, giải quyết các tranh chấp phát
sinh đặc biệt trong các lĩnh vực mới mẻ như đầu tư nước ngoài, sở hữu trí
tuệ, quan hệ thương mại hàng hoá có yếu tố nước ngoài

Bên cạnh đó, các luật sư cũng đã tham gia tích cực vào hoạt động trợ
giúp pháp lý cho người nghèo, đối tượng thuộc diện chính sách. Việc tham
gia vào hoạt động này không chỉ thực hiện một cam kết mang tính chất nghĩa
vụ của luật sư đối với xã hội mà còn góp phần tạo lập sự công bằng cho các
đối tượng được hưởng trợ giúp pháp lý. Trong thời gian qua, các luật sư đã
tham gia trợ giúp pháp lý cho hàng chục nghìn vụ việc, góp phần đáng kể
trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người nghèo, người thuộc diện
chính sách. Có thể nói, mặc dù còn những hạn chế, nhưng hoạt động của luật
sư thời gian qua đã đáp ứng một phần quan trọng nhu cầu giúp đỡ pháp lý
của công dân và tổ chức, đóng góp đáng kể trong việc bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của bị can, bị cáo và các đương sự khác.
Thứ hai, về hình thức hành nghề của luật sư. Theo quy định của Pháp
lệnh luật sư năm 2001, luật sư chỉ được hành nghề trong tổ chức hành nghề
luật sư (thành lập hoặc tham gia thành lập Văn phòng luật sư, Công ty luật
hợp danh hoặc làm việc theo hợp đồng cho tổ chức hành nghề luật sư, kể cả
tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam). Luật Luật sư đã mở
rộng hình thức hành nghề của luật sư, theo đó luật sư không chỉ hành nghề
trong tổ chức hành nghề luật sư như quy định của Pháp lệnh luật sư năm
2001, mà còn được phép hành nghề với tư cách cá nhân dưới hình thức tự
mình nhận và thực hiện dịch vụ pháp lý cho khách hàng theo hợp đồng dịch
vụ pháp lý, hoặc làm việc cho cơ quan, tổ chức theo hợp đồng lao động.
Thứ ba, về hình thức tổ chức hành nghề luật sư. Theo quy định của
Luật Luật sư thì tổ chức hành nghề luật sư bao gồm:
+ Văn phòng luật sư là tổ chức hành nghề luật sư do một luật sư thành
lập được tổ chức và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân;
+ Công ty luật bao gồm Công ty luật hợp danh và Công ty luật trách
nhiệm hữu hạn. So với Pháp lệnh luật sư năm 2001, Luật Luật sư đã quy
định thêm loại hình Công ty luật trách nhiệm hữu hạn. Hơn nữa , để phù hợp
với quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Luật sư còn quy định Công ty luật
trách nhiệm hữu hạn có thể là Công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành

viên trở lên hoặc Công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
Như vậy, hình thức tổ chức hành nghề luật sư cũng được mở rộng, tạo
điều kiện thuận lợi cho các luật sư lựa chọn mô hình hoạt động nhằm phát
Lê Văn Cao – Lớp D – K9.1, Học Viện Tư Pháp, Hà Nội, 2010
Trang 12
Tiểu luận Nghề Luật sư ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp
huy hết khả năng sử dụng các điều kiện để hành nghề một cách thuận lợi
nhất.
Về tổ chức luật sư và quản lý luật sư
Luật Luật sư hiện nay đã quy định hệ thống tổ chức luật sư từ trung
ương đến các địa phương, đó là Tổ chức luật sư toàn quốc và Đoàn luật sư ở
các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Hiện nay, Liên đoàn luật sư Việt Nam đã được thành lập gần một năm,
với việc quy định về Tổ chức luật sư toàn quốc và nhiệm vụ, quyền hạn của
tổ chức này, Luật Luật sư đã tăng cường đáng kể vai trò tự quản của tổ chức
luật sư. Tới đây, Liên đoàn luật sư Việt Nam sẽ ban hành Quy tắc đạo đức và
ứng xử nghề nghiệp luật sư (thay thế Quy tắc mẫu do Bộ Tư pháp ban hành
như hiện nay); phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc ban hành quy chế tập sự
hành nghề luật sư, đào tạo nghề luật sư, kiểm tra kết quả tập sự hành nghề
luật sư. Hơn nữa Liên đoàn luật sư Việt Nam còn được giao quyền cấp, thu
hồi Thẻ luật sư, quy định mẫu trang phục luật sư tham gia phiên toà…
Bên cạnh đó, Liên đoàn luật sư Việt Nam cũng đang hướng tới việc tổ
chức bồi dưỡng thường xuyên về kiến thức pháp luật, kỹ năng hành nghề và
tổng kết, trao đổi kinh nghiệm hành nghề luật sư trong cả nước.
Thời gian qua, công tác của các Đoàn luật sư đối với nghề luật sư đã
có nhiều chuyển biến tích cực. Căn cứ vào nhiệm vụ, quyền hạn được giao,
các Đoàn luật sư đã thực hiện tương đối tốt công tác giám sát, kiểm tra việc
tuân thủ pháp luật, tuân theo Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư,
Điều lệ Đoàn luật sư của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư; kịp thời nhắc
nhở, uốn nắn và có biện pháp xử lý nghiêm minh các trường hợp luật sư vi

phạm. Các Đoàn luật sư tích cực tham gia đóng góp ý kiến xây dựng pháp
luật, tham gia tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân, trợ
giúp pháp lý, tư vấn miễn phí, bào chữa miễn phí.
Tuy vậy, hoạt động tự quản của các Đoàn luật sư còn một số hạn chế
cần sớm khắc phục như:
Thứ nhất, hiệu quả hoạt động quản lý, điều hành của nhiều Ban Chủ
nhiệm Đoàn luật sư trong cả còn chưa cao.
Thứ hai, một số Đoàn luật sư chưa quan tâm đúng mức đến công tác
giáo dục chính trị tư tưởng, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề
nghiệp cho luật sư; công tác giám sát, quản lý người tập sự hành nghề luật sư
còn mang tính hình thức.
Thứ ba, một số Đoàn luật sư phối hợp chưa tốt với cơ quan quản lý
nhà nước ở địa phương trong việc quản lý hành nghề luật sư, việc quản lý
hành nghề luật sư ở những địa phương này kém hiệu quả, ảnh hưởng trực
tiếp đến tổ chức và hoạt động luật sư ở địa phương.
Lê Văn Cao – Lớp D – K9.1, Học Viện Tư Pháp, Hà Nội, 2010
Trang 13
Tiểu luận Nghề Luật sư ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp
Thứ tư, các Đoàn luật sư chưa thực hiện tốt chức năng đại diện để bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các luật sư. Đoàn luật sư chưa thực sự là nơi
tập hợp những bức xúc, khó khăn, vướng mắc, đề xuất, kiến nghị của luật sư
liên quan đến hoạt động hành nghề và đại diện cho luật sư trong việc kiến
nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Hơn nữa, đối với công tác tự quản của tổ chức luật sư, cũng cần nói
đến vai trò của các tổ chức hành nghề luật sư. Việc tổ chức, điều hành văn
phòng luật sư, công ty luật cũng được cải tiến, tiếp cận gần hơn với cách tổ
chức, điều hành tiên tiến, hiện đại của các công ty luật ở các nước trên thế
giới. Một số tổ chức hành nghề luật sư đã cung cấp dịch vụ pháp lý có chất
lượng cho cá nhân, tổ chức nước ngoài, tham gia giải quyết tranh chấp lớn có
yếu tố nước ngoài. Một số công ty luật đã có nhu cầu, khả năng và trong thực

tế đã thuê luật sư nước ngoài làm việc cho công ty mình. Trong thời gian
qua, đa số các tổ chức hành nghề luật sư đã làm tốt công việc giáo dục, giám
sát luật sư trong việc tuân theo pháp luật, quy tắc đạo đức và ứng xử nghề
nghiệp của luật sư. Tuy nhiên, một số tổ chức hành nghề luật sư chưa thực sự
quan tâm đến công việc này, đồng thời có biểu hiện lỏng lẻo trong việc quản
lý các luật sư của tổ chức mình, để xảy ra hiện tượng luật sư vi phạm pháp
luật, quy tắc đạo đức nghề nghiệp mà tổ chức không biết hoặc bỏ qua.
Về việc bảo vệ quyền hành nghề luật sư và bảo vệ luật sư
Sở dĩ phải nói đến vấn đề này, bởi trên thực tế hiện nay, dù các quy
định của pháp luật đã quy định quyền tham gia tố tụng của luật sư, nhưng ở
nhiều phiên tòa, tiếng nói, vai trò của luật sư không thực sự có giá trị.
Nhiều luật sư trong quá trình hành nghề đã đành phải chấp nhận những
rủi ro ngoài mong muốn, họ thậm chí phải đổ máu vì nghề nghiệp. Mới đây,
tại Quảng Trị, một luật sư thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Hải Dương đã bị hành
hung giữa chốn công cộng sau khi tham gia phiên tòa giải quyết vụ ly hôn là
một ví dụ về thái độ coi thường pháp luật, cố ý xâm hại đến quyền hành nghề
hợp pháp của luật sư khi tham gia tố tụng.
Những biểu hiện về sự coi thường pháp luật, xâm hại đến quyền hành
nghề của luật sư cả trong và ngoài phiên tòa dường như đang diễn ra hàng
ngày, tuy nhiên chưa có những giải pháp thực sự hữu hiệu để đảm bảo rằng
luật sư được hành nghề với đầy đủ quyền của mình, đồng thời được bảo vệ
khỏi sự xâm hại về sức khỏe và tính mạng.
Như vậy, nghề luật sư ở Việt Nam nhìn nhận một cách khái quát ở các
khía cạnh vừa đề cập đã cho thấy chiều hướng ngày một được chuyên nghiệp
hóa. Quy định của pháp luật đối với nghề luật sư đã có những bước chuyển
lớn và là nền tảng để chúng ta tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý, nhằm
tạo điều kiện tốt nhất cho nghề luật sư phát triển vững mạnh. Tuy nhiên,
Lê Văn Cao – Lớp D – K9.1, Học Viện Tư Pháp, Hà Nội, 2010
Trang 14
Tiểu luận Nghề Luật sư ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp

cũng qua đó để thấy, còn nhiều những hạn chế, bất cập đã và đang nãy sinh
trong hoạt động nghề nghiệp cũng như công tác quản lý nghề luật sư rất cần
những giải pháp hữu hiệu để hoàn thiện, nhằm nâng cao chất lượng, uy tín
của nghề luật sư trong xã hội, cũng như để khẳng định vị thế của luật sư Việt
Nam trên bình diện quốc tế.
2.2 Một số giải pháp nâng cao chất lượng, uy tín của nghề
luật sư ở Việt Nam
Trên cơ sở thực trạng nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay, xin được liệt
kê một số ý kiến thể hiện phương hướng, giải pháp hoàn thiện các mặt để
nâng cao vị thế nghề luật sư nước nhà như sau:
+ Cần thiết xây dựng điều khoản mới về tội danh xâm phạm quyền bào
chữa và nhờ người khác bào chữa của công dân trong Bộ luật hình sự; sửa
đổi và bổ sung một số quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự về tư cách
tham gia tố tụng của luật sư, thời điểm tham gia bào chữa, việc tiếp xúc bị
can, bị cáo trong trại tạm giam, quyền điều tra và thu thập chứng cứ, cũng
như một số hoạt động nghề nghiệp khác của luật sư; hoàn thiện quy định để
từng bước mở rộng tranh tụng tại phiên tòa, đảm bảo quyền bào chữa của
luật sư được thể hiện một cách thực chất.
+ Pháp luật về luật sư cần tập trung vào hai phạm vi là nhất thể hóa
hoạt động tư vấn pháp luật vào đối tượng hành nghề chuyên nghiệp là đội
ngũ luật sư và thể chế hóa phương hướng tăng cường hợp tác quốc tế trong
hoạt động luật sư, xây dựng cơ chế pháp lý cho việc tham gia ngày càng
nhiều hơn của luật sư trong đàm phán thương mại quốc tế, giải quyết các
tranh chấp có yếu tố nước ngoài, tạo môi trường cạnh tranh dịch vụ pháp lý
lành mạnh trên cơ sở bảo đảm nguyên tắc bình đẳng và chủ quyền.
+ Cần sớm ban hành bộ quy tắc thống nhất về đạo đức nghề nghiệp
luật sư và quy chế trách nhiệm nghề nghiệp luật sư. Hiện nay, đa số luật sư
Việt Nam tuân thủ các quy tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư và các quy định
của pháp luật liên quan đến tổ chức và hành nghề luật sư. Tuy nhiên, các quy
tắc đó chưa được áp dụng một cách thống nhất, mỗi Đoàn luật sư có một quy

tắc đạo đức nghề nghiệp riêng dựa trên bộ quy tắc mẫu, hơn nữa việc tuân
thủ quy tắc đạo đức nghề nghiệp và kỷ luật hành nghề luật sư vẫn chưa được
nhận thức một cách đầy đủ, chưa trở thành ý thức tự giác đối với mỗi cá
nhân luật sư trong hành nghề và trong cuộc sống. Trên thực tế, vẫn còn một
số luật sư quá coi trọng lợi ích vật chất dẫn đến vi phạm các quy tắc đạo đức
nghề nghiệp luật sư, thậm chí có luật sư vi phạm pháp luật nghiêm trọng đến
mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Do vậy, cần thiết ban hành sớm bộ quy
tắc đạo đức nghề nghiệp luật sư áp dụng thống nhất trên toàn quốc cùng với
những biện pháp bảo đảm tuân thủ đúng đắn.
Lê Văn Cao – Lớp D – K9.1, Học Viện Tư Pháp, Hà Nội, 2010
Trang 15
Tiểu luận Nghề Luật sư ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp
+ Cần sớm ban hành các quy định điều chỉnh và giám sát nhằm cải
tiến nội dung, phương pháp để nâng cao chất lương đào tạo nghề luật sư,
nâng cao chất lượng tập sự hành nghề luật sư thông qua việc các Đoàn luật
sư thực hiện nghiêm túc cơ chế giám sát người tập sự hành nghề luật sư, luật
sư hướng dẫn, tổ chức hành nghề luật sư trong việc tuân theo Quy chế tập sự
hành nghề luật sư; tạo điều kiện thuận lợi để người tập sự được nghiên cứu,
tiếp cận những kiến thức pháp luật mới, đồng thời tạo cơ hội cho người tập
sự được trực tiếp tham gia hoạt động nghề nghiệp, nâng cao kỹ năng hành
nghề luật sư.
+ Hoàn thiện các quy định pháp lý về chế độ bảo hiểm trách nhiệm
nghề nghiệp luật sư. Hành nghề luật sư là hoạt động đòi hỏi tính trách nhiệm
cao, gây thiệt hại là phải bồi thường do vậy luật sư tham gia bảo hiểm trách
nhiệm nghề nghiệp là một nghĩa vụ cần thiết. Tuy nhiên, vấn đề trách nhiệm
nghề nghiệp cũng như bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp luật sư ở Việt Nam
chỉ mới dừng lại trên giấy mà chưa được thực thi. Do đó, cần có những quy
định và những biện pháp cụ thể để sớm áp dụng trong thực tiễn hoạt động
nghề nghiệp của luật sư nhằm đem lại sự hiệu quả cao nhất cho hoạt động
đặc thù này.

+ Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và thể chế hóa về mặt pháp luật
chủ trương hoàn thiện pháp luật về luật sư, trong đó cần thiết đưa vào văn
kiện của Đảng về chiến lược phát triển đội ngũ luật sư Việt Nam trong thế kỷ
mới. Xây dựng các mô hình tổ chức hành nghề và mô hình quản lý đủ sức
đáp ứng nhu cầu dịch vụ pháp lý của công dân, tổ chức; phấn đấu xây dựng
đội luật sư đạt cả về số lượng lẫn chất lượng. Gắn việc hoàn thiện pháp luật
về luật sư với chiến lược cải cách tư pháp hiện nay. Nâng cao tính đồng bộ
trong quá trình hoàn thiện pháp luật về luật sư.
+ Mở rộng, nâng cao chất lượng đào tạo của các trưởng luật, các
trưởng đào tạo nghề luật sư để đảm bảo chất lượng, uy tín đội ngũ luật sư khi
tham gia hành nghề. Hiện nay, còn tình trạng chất lượng đào tạo ở các trường
luật nặng về lý thuyết, thiếu hụt kỹ năng hành nghề nên cần xây dựng
chương trình đào tạo nghề luật nhằm cung cấp những ký năng chung nhất
cho các cử nhân luật. Bên cạnh đó, cơ sở đào tạo nghề luật sư cũng không
ngừng hoàn thiện và phát triển để đạo tạo đội ngũ luật sư tương lai có chất
lượng cao.

Lê Văn Cao – Lớp D – K9.1, Học Viện Tư Pháp, Hà Nội, 2010
Trang 16
Tiểu luận Nghề Luật sư ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp
KẾT LUẬN
Nghề luật sư ở Việt Nam đang từng ngày đạt được những bước phát
triển đáng ghi nhận, vai trò của nghề luật sư trong xã hội ngày một được
nâng cao, chất lượng, uy tín của luật sư ngày một lớn hơn, hoạt động hành
nghề của luật sư, các tổ chức hành nghề luật sư ngày phát triển theo hướng
chuyên nghiệp hóa.
Và hướng đến tương lai chúng ta thấy rằng, nhằm triển khai thực hiện
Nghị quyết số 49/NQ-TW về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã
đề ra nhiệm vụ "đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, có phẩm
chất chính trị, đạo đức, có trình độ chuyên môn" cũng như Nghị quyết số

16/2007/NQ-CP ngày 27 tháng 02 năm 2007 của Chính phủ ban hành
Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần
thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về một số chủ trương, chính
sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành
viên của Tổ chức Thương mại Thế giới, ngày 18 tháng 01 năm 2010, Thủ
tường Nguyễn Tấn Dũng đã ký Quyết định số 123/QĐ-TTg phê duyệt Đề án
“Phát triển đội ngũ luật sư phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế từ năm 2010 đến
năm 2020”.
Nhìn vào nội dung Đề án, có thể thấy được nỗ lực của Chính phủ trong
việc bắt tay vào xây dựng đội ngũ luật sư “giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ,
am hiểu luật pháp và tập quán thương mại quốc tế, thông thạo tiếng Anh,
thành thạo về kỹ năng hành nghề luật sư quốc tế, có đủ khả năng tư vấn các
vấn đề liên quan đến hội nhập kinh tế quốc tế cho các tổ chức, cá nhân,
doanh nghiệp trong xã hội, trong đó có các cơ quan của Chính phủ, Ủy ban
nhân dân một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, các tập đoàn kinh
tế của Nhà nước”.Đồng thời “xây dựng các tổ chức hành nghề luật sư
chuyên sâu trong lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, thương mại có yếu tố nước
ngoài, có khả năng cạnh tranh với các tổ chức hành nghề luật sư nước
ngoài”.
Hành động thực tế mà Chính phủ triển khai là tín hiệu đáng lạc quan
để chúng ta có được đội ngũ luật sư có chất lượng chuyên môn cao và có các
tổ chức hành nghề luật sư hướng đến chuyên nghiệp.
Lê Văn Cao – Lớp D – K9.1, Học Viện Tư Pháp, Hà Nội, 2010
Trang 17
Tiểu luận Nghề Luật sư ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp
Bên cạnh đó, thực trạng hành nghề luật sư ở Việt Nam như đã đặt ra ở
trên còn những vấn đề cần quan tâm, tìm kiếm giải pháp tốt nhất để hoàn
thiện và phát triển. Người thực hiện đề tài tiểu luận, qua tìm hiểu, học hỏi chỉ
dám nêu lên những nội dung đã được học, đã được tìm hiểu để, như một ý
kiến nhỏ đóng góp cho tiến trình tìm kiếm những gì tốt đép nhất cho nghề

luật sư ở Việt Nam hôm nay và trong tương lai./.
Lê Văn Cao – Lớp D – K9.1, Học Viện Tư Pháp, Hà Nội, 2010
Trang 18

×