LỜI CAM ĐOAN
Em xin cam đoan những nội dung trong đồ án này là do em thực hiện dưới sự
hướng dẫn của T.S Phạm Anh Tuấn.
Em xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng cá nhân mình, các số
liệu, kết quả nêu trong đồ án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Em xin cam đoan rằng các thông tin trích dẫn trong đồ án đều đã được chỉ rõ
nguồn gốc.
Sinh viên
Bùi Thị Thảo
1
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đồ án tốt nghiệp, ngoài sự cố gắng và nỗ lực của bản thân, em đã
nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ của các tập thể và cá nhân.
Trước tiên, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc, lòng biết ơn chân thành đến giảng
viên – TS. Phạm Anh Tuấn, người đã hướng dẫn chu đáo tận tình, chỉ bảo, giúp đỡ em
trong suốt thời gian thực tập tốt nghiệp và hoàn thành đồ án.
Em xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo Ủy ban nhân dân xã Mỹ Tân, huyện
Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, các cán bộ địa chính xã, các phòng ban và nhân dân tại các
tiểu vùng điều tra đã giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình thực hiện
đề tài.
Em xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo trong khoa Quản lý đất đai và các
thầy cô trong trường Đại học Tài Nguyên và Môi Trường Hà Nội đã nhiệt tình dạy bảo
và trang bị cho em những kiến thức quý báu trong suốt những năm học vừa qua.
Với tấm lòng chân thành, em xin cảm ơn mọi sự giúp đỡ quý báu đó!
Sinh viên
Bùi Thị Thảo
2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Ký hiệu
FAO
LUT
STT
DT
LX
LM
RM
RC
CAQ
NTS
Tr.đ
3
Chú giải
Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực Liên
Hợp Quốc
Loại hình sử dụng đất
Số thứ tự
Diện tích
Lúa xuân
Lúa mùa
Rau muống
Rau cải
Cây ăn quả
Nuôi trồng thủy sản
Triệu đồng
MỤC LỤC
4
DANH MỤC CÁC BẢNG
5
MỞ ĐẦU
I
Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá mà thiên nhiên đã ban tặng cho
con người. Đất đai là nền tảng để con người định cư và tổ chức các hoạt động kinh tế,
xã hội, nó không chỉ là đối tượng lao động mà còn là tư liệu sản xuất không thể thay
thế được, đặc biệt là đối với ngành sản xuất nông nghiệp. Đất là yếu tố đầu vào có tác
động mạnh mẽ đến hiệu quả sản xuất nông nghiệp, đồng thời cũng là môi trường duy
nhất sản xuất ra những lương thực, thực phẩm nuôi sống con người. Việc sử dụng đất
có hiệu quả và bền vững đang trở thành vấn đề cấp thiết với mỗi quốc gia, nhằm duy
trì sức sản xuất của đất đai cho hiện tại và cho tương lai.
Xã hội phát triển, dân số tăng nhanh kéo theo những đòi hỏi ngày càng tăng về
lương thực và thực phẩm, chỗ ở cũng như các nhu cầu về văn hóa, xã hội. Con người
đã tìm mọi cách để khai thác đất đai nhằm thỏa mãn nhưng nhu cầu ngày càng tăng đó.
Như vậy, đất đai đặc biệt là đất nông nghiệp có hạn về diện tích nhưng lại có nguy cơ
bị suy thoái dưới tác động của thiên nhiên và sự thiếu ý thức của con người trong quá
trình sản xuất. Đó còn chưa kể đến sự suy giảm về diện tích đất nông nghiệp do quá
trình đô thị hóa đang diễn ra mạnh mẽ trong khi khả năng khai hoang đất mới lại rất
hạn chế. Do vậy, việc đánh giá hiệu quả để sử dụng hợp lý theo quan điểm sinh thái và
phát triển bền vững đang trở thành vấn đề mang tính chất toàn cầu đang được các nhà
khoa học trên thế giới quan tâm. Đối với một nước có nền kinh tế nông nghiệp chủ yếu
như ở Việt Nam, nghiên cứu, đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp càng trở nên
cần thiết hơn bao giờ hết.
Mỹ Tân là xã nằm phía Đông Bắc của huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định có diện
tích đất sử dụng trong nông nghiệp tương đối lớn, vì vậy làm thế nào để có thể sử dụng
hiệu quả diện tích đất nông nghiệp hiện có trên địa bàn là vấn đề đang được các cấp
chính quyền quan tâm, nghiên cứu để xây dựng cơ sở cho việc đề ra các phương án
chuyển dịch cơ cấu cây trồng một cách hợp lý nhất, nhằm đem lại hiệu quả sử dụng
đất cao nhất có thể.
Xuất phát từ thực tế trên, được sự phân công của khoa Quản lý đất đai trường
Đại học Tài Nguyên và Môi Trường Hà Nội, dưới sự hướng dẫn trực tiếp của giảng
viên – TS. Phạm Anh Tuấn, em tiến hành thực hiện đề tài: “Đánh giá hiệu quả sử
6
dụng đất nông nghiệp giai đoạn 2012 – 2015 và đề xuất hướng sử dụng đất nông
nghiệp đến năm 2020 tại xã Mỹ Tân, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định”.
-
Mục tiêu nghiên cứu
Đánh giá thực trạng hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp và xác định các yếu tố ảnh
-
hưởng đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn xã Mỹ Tân.
Định hướng và đề xuất giải pháp hợp lý nhằm sử dụng đất nông nghiệp hiệu quả đáp
-
ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển nông nghiệp, nông thôn.
III Yêu cầu của đề tài
Nghiên cứu các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội trên địa bàn xã Mỹ Tân.
Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp với những chỉ tiêu phù hợp với điều kiện
II
-
cụ thể của xã Mỹ Tân.
Các đề xuất và giải pháp thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
IV Ý nghĩa nghiên cứu của đề tài
Củng cố kiến thức đã được tiếp thu trong nhà trường và những kiến thức thực tế cho
-
sinh viên trong quá trình thực tập tại cơ sở.
Nâng cao khả năng tiếp cận, thu thập số liệu và xử lý thông tin của sinh viên trong quá
-
trình thực hiện đề tài.
Trên cơ sở đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp từ đó đề xuất được những giải
-
pháp sử dụng hiệu quả cao đất nông nghiệp.
7
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Đất và vai trò của đất trong sản xuất nông nghiệp
1.1.1. Khái niệm về đất
Đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến những khái niệm, định nghĩa
về đất. Khái niệm đầu tiên của học giả người Nga Docutraiep năm 1987 cho rằng:
“Đất là một vật thể thiên nhiên cấu tạo độc lập lâu đời do kết quả quá trình hoạt động
tổng hợp của 5 yếu tố hình thành đất đó là: sinh vật, đá mẹ, khí hậu, địa hình và thời
gian”. Tuy vậy, khái niệm này chưa đề cập đến khả năng sử dụng và sự tác động của
các yếu tố khác tồn tại trong môi trường xung quanh. Do đó, sau này một số học giả
khác đã bổ sung các yếu tố: nước của đất, nước ngầm và đặc biệt là vai trò của con
người để hoàn chỉnh khái niệm về đất nêu trên. Ngoài ra, còn có một số học giả khác
cũng có những khái niệm về đất như sau:
Nhà thổ nhưỡng học Docutraiep cho rằng: “Đất là vật thể thiên nhiên cấu tạo
độc lập, lâu đời do kết quả quá trình hoạt động của 5 yếu tố hình thành đất đó là: đá
mẹ, sinh vật, khí hậu, địa hình và thời gian” [3].
Nhà nông học người Anh V.R William đã đưa ra khái niệm: “Đất là lớp mặt tơi
xốp của lục địa có khả năng tạo ra sản phẩm của cây”.
Trong phạm vi nghiên cứu về sử dụng đất, đất đai được nhìn nhận là một nhân
tố sinh thái. Với khái niệm này, đất đai bao gồm tất cả các thuộc tính sinh học và tự
nhiên của bề mặt trái đất có ảnh hưởng nhất định đến tiềm năng và hiện trạng sử dụng
đất. Đất theo nghĩa đất đai bao gồm: khí hậu, dáng đất, địa hình địa mạo, thổ nhưỡng,
thủy văn, thảm thực vật tự nhiên bao gồm cả rừng, cỏ dại trên đồng ruộng, động vật tự
nhiên, những biến đổi của đất do các hoạt động của con người [10].
Theo quan niệm của các nhà thổ nhưỡng và quy hoạch Việt Nam cho rằng: “Đất
là phần trên mặt của vỏ Trái đất mà ở đó cây cối có thể mọc được” [2] và đất đai được
hiểu theo nghĩa rộng: “Đất đai là một diện tích cụ thể của bề mặt trái đất, bao gồm tất
cả các yếu tố cấu thành của môi trường sinh thái ngay trên và dưới bề mặt bao gồm:
khí hậu, thời tiết, thổ nhưỡng, địa hình, mặt nước, các lớp trầm tích sát bề mặt cùng
với nước ngầm và khoáng sản trong lòng đất, động thực vật, trạng thái định cư của con
người, những kết quả của con người trong quá khứ và hiện tại để lại” [2].
8
Trong phạm vi nghiên cứu về sử dụng đất, đất đai được nhìn nhận là một nhân
tố sinh thái. Với khái niệm này, đất đai bao gồm tất cả các thuộc tính sinh học và tự
nhiên của bề mặt trái đất có ảnh hưởng nhất định đến tiềm năng và hiện trạng sử dụng
đất. Đất theo nghĩa đất đai bao gồm: khí hậu, dáng đất, địa hình địa mạo, thổ nhưỡng,
thủy văn, thảm thực vật tự nhiên bao gồm cả rừng, cỏ dại trên đồng ruộng, động vật tự
nhiên, những biến đổi của đất do các hoạt động của con người.
Theo quan niệm của các nhà thổ nhưỡng và quy hoạch Việt Nam cho rằng: “Đất
là phần trên mặt của vỏ trái đất mà ở đó cây cối có thể mọc được” và đất đai được hiểu
theo nghĩa rộng: “Đất đai là một diện tích cụ thể của bề mặt trái đất, bao gồm tất cả
các yếu tố cấu thành của môi trường sinh thái ngay trên và dưới bề mặt bao gồm: khí
hậu, thời tiết, thổ nhưỡng, địa hình, mặt nước, các lớp trầm tích sát bề mặt cùng với
nước ngầm và khoáng sản trong lũng đất, động thực vật, trạng thái định cư của con
người, những kết quả của con người trong quá khứ và hiện tại để lại”.
Với ý nghĩa đó, đất nông nghiệp là đất được sử dụng chủ yếu vào sản xuất của
các ngành nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, hoặc sử dụng
vào mục đích nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp. Khi nói đất nông nghiệp người ta
nói đất sử dụng chủ yếu vào sản xuất của các ngành nông nghiệp, bởi vì thực tế có
trường hợp đất đai được sử dụng vào mục đích khác nhau của ngành. Trong trường
hợp đó, đất đai được sử dụng chủ yếu cho hoạt động sản xuất nông nghiệp mới được
coi là đất nông nghiệp, nếu không sẽ là các loại đất khác (tùy theo việc sử dụng vào
mục đích nào là chính).
Tuy nhiên, để sử dụng đầy đủ hợp lý ruộng đất, trên thực tế người ta coi đất đai
có thể tham gia vào hoạt động sản xuất nông nghiệp mà không cần có đầu tư lớn nào
cả.
1.1.2.Vai trò và ý nghĩa của đất đai trong nông nghiệp
Đất là khoảng không gian lãnh thổ cần thiết đối với mọi quá trình sản xuất trong
các ngành kinh tế quốc dân và hoạt động của con người. Nói về tầm quan trọng của
đất, C.Mac viết: “Đất là một phòng thí nghiệm vĩ đại, kho tàng cung cấp các tư liệu lao
động, vật chất, là vị trí để định cư, là nền tảng của tập thể” (C.Mac 1949). Đối với
nông nghiệp: đất đai là yếu tố tích cực của quá trình sản xuất, là điều kiện vật chất
đồng thời là đối tượng lao động (luôn chịu tác động trong quá trình sản xuất như cầy,
9
bừa, xới, xáo,...) và công cụ lao động. Quá trình sản xuất luôn có mối quan hệ chặt chẽ
với độ phì nhiêu và quá trình sinh học tự nhiên của đất.
Thực tế cho thấy, trong quá trình phát triển xã hội loài người, sự hình thành và
phát triển của mọi nền văn minh, các thành tựu khoa học công nghệ đều được xây
dựng trên nền tảng cơ bản – sử dụng đất. Trong nông nghiệp, ngoài vai trò là cơ sở
không gian, đất còn có hai chức năng đặc biệt quan trọng:
-
Là đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của con người trong quá trình sản xuất.
Đất tham gia tích cực vào quá trình sản xuất cung cấp cho cây trồng nước và muối
khoáng, các chất dinh dưỡng khác cần thiết cho sự sinh trưởng và phát triển của cây
trồng. Như vậy, đất trở thành công cụ sản xuất. Năng suất và chất lượng sản phẩm phụ
thuộc vào độ phì nhiêu của đất. Trong tất cả các loại tư liệu sản xuất dùng trong nông
nghiệp chỉ có đất mới có chức năng này.
Chính vì vậy có thể nói rằng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu và đặc biệt trong
nông nghiệp.
1.2.Sử dụng đất trên quan điểm sinh thái và phát triển bền vững
1.2.1.Sử dụng đất và những nhân tố ảnh hưởng đến việc sử dụng đất
1.2.1.1.Sử dụng đất là gì?
Sử dụng đất là một hệ thống các biện pháp nhằm điều hòa mối quan hệ người –
đất trong tổ hợp với nguồn tài nguyên thiên nhiên khác và môi trường. Căn cứ vào quy
luật phát triển kinh tế xã hội cùng với yêu cầu không ngừng ổn định và bền vững về
mặt sinh thái, quyết định phương hướng chung và mục tiêu sử dụng đất hợp lý nhất là
tài nguyên đất đai, phát huy tối đa công dụng của đất nhằm đạt tới hiệu ích sinh thái,
kinh tế, xã hội cao nhất. Vì vậy, sử dụng đất thuộc phạm trù hoạt động kinh tế của
nhân loại. Trong mỗi phương thức sản xuất nhất định, việc sử dụng đất theo yêu cầu
của sản xuất và đời sống cần căn cứ vào thuộc tính tự nhiên của đất đai. Với vai trò là
nhân tố của sức sản xuất, các nhiệm vụ và nội dung sử dụng đất đai được thể hiện ở
khía cạnh sau :
-
Sử dụng đất hợp lý về không gian, hình thành hiêu quả kinh tế không gian sử dụng đất.
Phân phối hợp lý cơ cấu đất đai trên diện tích đất đai được sử dụng, hình thành cơ cấu
-
kinh tế sử dụng đất.
Quy mô sử dụng đất cần có sự tập trung thích hợp, hình thành quy mô kinh tế sử dụng
đất.
10
-
Giữ mật độ sử dụng đất đai thích hợp, hình thành việc sử dụng đất đai một cách kinh
tế, tập trung, thâm canh.
1.2.1.2.Những nhân tố ảnh hưởng đến việc sử dụng đất nông nghiệp
a. Nhóm yếu tố về điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên (đất, nước, khí hậu, thời tiết,…) có ảnh hưởng trực tiếp đến
sản xuất nông nghiệp. Bởi vì các yếu tố của điều kiện tự nhiên là tài nguyên để sinh
vật tạo nên sinh khối. Do vậy, cần đánh giá đúng điều kiện tự nhiên để trên cơ sở đó
xác định cây trồng vật nuôi chủ lực phù hợp và định hướng đầu tư thâm canh đúng.
Theo Mác, điều kiện tự nhiên là cơ sở hình thành địa tô chênh lệch 1. Theo
N.Borlang – người được giải Nobel về giải quyết lương thực cho các nước phát triển
cho rằng : yếu tố duy nhất quan trọng hạn chế năng suất cây trồng ở tầm cỡ thế giới
của các nước đang phát triển, đặc biệt đối với nông dân thiếu vốn là độ phì của đất.
Điều kiện về đất đai, khí hậu, thời tiết có ý nghĩa quan trọng đối với sản xuất
nông nghiệp. Nếu điều kiện tự nhiên thuận lợi, các hộ nông dân có thể lợi dụng những
yếu tố đầu vào không kinh tế thuân lợi để tạo ra nông sản hàng hóa với giá rẻ.
Sản xuất nông nghiệp là ngành kinh doanh năng lượng ánh sáng mặt trời dựa
trên các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội khác.
• Yếu tố khí hậu
Thực vật nói chung và cây trồng nói riêng muốn sống, sinh trưởng và phát triển
đòi hỏi phải có đầy đủ các yếu tố sinh trưởng là ánh sáng, nhiệt độ, không khí, nước và
dinh dưỡng. Trong đó, ánh sáng, nhiệt độ, lượng mưa và độ ẩm không khí chính là các
yếu tố khí hậu [1]. Chính vì thế, khí hậu là một trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp
đến sinh trưởng, năng suất và sản lượng cây trồng, ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng
đất nông nghiệp.
Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa, tuy nhiên vì sự khác biệt về vĩ độ địa lý
và địa hình nên khí hậu có khuynh hướng khác biệt nhau khá rõ nét theo từng vùng.
Miền bắc có nhiệt độ trung bình 22,2 – 23,5 0C, lượng mưa trung bình từ 1.500 – 2.400
mm, tổng số giờ nắng từ 1.650 – 1.750 giờ/năm. Trong khi đó, ở miền nam, khí hậu
mang tính chất xích đạo, nhiệt độ trung bình 22,6 – 27,5 0C, lượng mưa trung bình
1.400 – 2.400 mm, nắng trên 2.000 giờ/năm.
Trải dài trên 15 vĩ độ, Việt Nam có 7 tiểu vùng khí hậu khác nhau nên chúng ta
có thể đa dạng hóa các loại cây trồng, vật nuôi. Chính vì thế, sử dụng đất cũng đa dạng
11
và giảm được rủi ro vì có thể trồng các loại cây trồng có nguồn gốc nhiệt đới, á nhiệt
đới và cả ôn đới.
Khí hậu là yếu tố quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến việc phân bố các loại cây
trồng, cũng như thời vụ cây trồng trong sản xuất nông nghiệp. Nếu như ở trung du và
miền núi phía Bắc có thể trồng mận, đào, chuối, súp lơ xanh,… ở đồng bằng sông
Hồng có thể trồng các loại rau vụ đông có nguồn gốc ôn đới…thì ở đồng bằng sông
Cửu Long có thể trồng sầu riêng, măng cụt…hay miền Đông Nam Bộ và Tây Nguyên
có thể trồng chôm chôm, trái bơ, thanh long…là những cây nhiệt đới điển hình [5].
Yếu tố khí hậu nhiều khi ảnh hưởng rõ nét đến hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp với mức độ khác nhau. Ở đồng bằng sông Hồng và Bắc trung bộ, nhiệt độ thấp
vụ đông và thời kỳ đầu vu xuân kèm theo ẩm ướt, mưa phùn, thiếu ánh sáng làm hạn
chế sinh trưởng và phát triển của cây trồng ưa nắng, ưa nhiệt nhưng lại phù hợp cho
cây trồng ưa lạnh có nguồn gốc ôn đới. Trời âm u thiếu ánh sáng cũng là điều kiện cho
sâu bệnh phát triển phá hại mùa màng.
• Yếu tố đất trồng
Cùng với khí hậu, đất tạo nên môi trường sống của cây trồng. Đất trồng với các
đặc tính như loại đất, thành phần cơ giới, chế độ nước, độ phì…có vai trò quan trọng
đối với sự sinh trưởng, phát triển và năng suất của cây trồng, ảnh hưởng đến hiệu quả
sử dụng đất nông nghiệp.
Đất giữ cây đứng vững trong không gian, cung cấp cho cây các yếu tố sinh
trưởng như nước, dinh dưỡng và không khí [1]. Độ phì là một trong những yếu tố quan
trọng nhất của đất. Vị trí từng mảnh đất có ảnh hưởng đến quá trình hình thành độ phì
của đất. Độ phì nhiêu của đất liên quan trực tiếp đến năng suất cây trồng. Do vậy, tùy
theo vị trí địa hình, chất đất mà lựa chọn, bố trí cây trồng thích hợp trên từng loại đất
mới cho năng suất, hiệu quả sử dụng đất cao.
• Yếu tố cây trồng
Trong sử dụng đất nông nghiệp, cây trồng là yếu tố trung tâm. Con người
hưởng lợi trực tiếp từ những sản phẩm của cây trồng. Những sản phẩm này cung cấp
lương thực, thực phẩm cho các nhu cầu thiết yếu cho con người và cho xuất khẩu.
Việc bố trí cây trồng và kiểu sử dụng đất hợp lý trên đất đem lại những giá trị
cao về mặt hiệu quả cho cả người sản xuất và môi trường đất. Ngược lại, nếu cây trồng
12
được bố trí bất hợp lý, sử dụng đất bừa bãi không những gây thất thu cho người nông
dân mà còn ảnh hưởng xấu đến đất.
Ngày nay, với sự phát triển nhanh chóng của những tiến bộ khoa học, kỹ thuật,
các giống cây trồng mới với chất lượng và năng suất cao, thời gian sinh trưởng ngắn
xuất hiện ngày càng nhiều. Sản xuất nông nghiệp hàng hóa phát triển gắn với việc tăng
hệ số sử dụng đất. Vì vậy, những tiến bộ trong công tác giống cây trồng đã tạo cơ hội
cho việc phát triển nông nghiệp hàng hóa.
b. Nhóm yếu tố về điều kiện kinh tế, xã hội
• Yếu tố con người
Con người là nhân tố tác động trực tiếp tới đất và hưởng lợi từ đất. Khi dân số
còn thấp, trình độ và nhu cầu thấp, việc khai thác quỹ đất nông nghiệp còn ở mức hạn
chế, hiệu quả không cao nhưng sự bền vững trong sử dụng đất nông nghiệp được đảm
bảo. Ngược lại, ngày nay, khi dân số tăng nhanh kéo theo sự gia tăng các nhu cầu thì
tài nguyên đất nông nghiệp bị khai thác nhiều, triệt để hơn nhằm đạt năng suất và hiệu
quả cao hơn. Vì vậy, quy luật sinh thái và tự nhiên bị xâm phạm, tính bền vững tài
nguyên đất kém hơn [6]. Việc đảm bảo cân bằng giữa sử dụng và bảo vệ đất trở thành
vấn đề cấp thiết.
Đối với các hoạt động kinh tế nói chung, sản xuất nông nghiệp nói riêng, dân số
vừa là thị trường cầu của sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, vừa là nguồn cung về lao
động cho sản xuất. Các hoạt động kinh tế sẽ không thể phát triển nếu không có thị
trường tiêu thụ các sản phẩm do chúng tạo ra [6]. Đặc biệt, đối với một nền sản xuất
nông nghiệp hàng hóa thì điều này lại càng trở nên quan trọng.
Chất lượng nguồn lao động cũng đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động
sản xuất nông nghiệp. Nếu người dân có kinh nghiệm, kỹ thuật, có ý thức trong sản
xuất thì việc sử dụng đất nông nghiệp sẽ đạt hiệu quả cao.
• Yếu tố kinh tế
Đối với mỗi quốc gia, mức độ phát triển của nền kinh tế quốc dân có ảnh hưởng
lớn đến các hoạt động sản xuất nói chung và sử dụng đất nông nghiệp nói riêng và
ngược lại. Nếu sử dụng đất có hiệu quả sẽ góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Khi kinh tế phát triển, nó sẽ làm tiền đề cho quá trình sử dụng đất đạt được hiệu quả
cao hơn, thông qua việc đầu tư, áp dụng tiến bộ kỹ thuật, công nghệ cao làm nâng cao
năng suất và chất lượng sản phẩm cây trồng.
13
• Cơ chế chính sách
Do có tầm quan trọng đặc biệt nên nông nghiệp, nông thôn luôn giành được
những ưu tiên trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Trong mỗi nền kinh tế,
người nông dân tiến hành sản xuất, kinh doanh ở những điều kiện khác nhau, đặc biệt
là các điều kiện về tự nhiên và kinh tế, gây ra bất bình đẳng về thu nhập. Mặt khác, thị
trường luôn hàm chứa các hoạt động cạnh tranh không lành mạnh dẫn đến một số
người giàu lên do có những việc làm bất chính. Vì vậy, nhà nước cần can thiệp vào thị
trường thông qua những chính sách có tính chất trợ giúp và phân phối lại thu nhập
nhằm đảm bảo sự công bằng xã hội [9]. Các chính sách đầu tư cho nông nghiệp và
nông thôn, chính sách tín dụng nông thôn, chính sách về giải quyết việc làm và xóa đói
giảm nghèo, khuyến nông…thực sự đã giúp ích rất nhiều trong quá trình sử dụng đất
nông nghiệp của những người nông dân.
Trong sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp hàng hóa, người
nông dân thường chịu thiệt thòi do hạn chế về kiến thức thị trường, thông tin thị
trường, sức mua… Hơn nữa, các hiệu ứng tràn ra ngoài trong sản xuất nông nghiệp
cũng làm cho sản xuất không hiệu quả : việc sử dụng bừa bãi phân hóa học, thuốc trừ
sâu, thuốc trừ cỏ… có tác động tiêu cực đến môi trường, nguồn nước, không khí và
đất. Do vậy, việc nhà nước can thiệp bằng các chính sách và pháp luật thích hợp đã tạo
điều kiện, khuyến khích, hướng dẫn sản xuất nông nghiệp và đảm bảo tính bền vững
của các yếu tố nguồn lực trong sản xuất nông nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả sử
dụng đất nông nghiệp [9].
Cũng bằng các chính sách thích hợp, sử dụng đất nông nghiệp được đảm bảo ổn
định và lâu dài. Trong những năm qua, Chính phủ đã không ngừng ban hành sửa đổi
và bổ sung những chủ trương, chính sách về đất đai nhằm mục đích thúc đẩy sự phát
triển sản xuất nông nghiệp nông thôn. Luật đất đai 2013 đã thể chế hóa và nới rộng
quyền của người sử dụng đất. Đây là một chính sách khuyến khích người nông dân
đầu tư vào sản xuất dài hạn, thay đổi cơ cấu cây trồng nhằm phát triển sản xuất hàng
hóa một cách có hiệu quả [5]. Mặc dù đất đai thuộc sở hữu toàn dân nhưng pháp luật
công nhận quyền sử dụng lâu dài đối với đất. Người sử dụng đất không chỉ được
quyền sử dụng đất lâu dài mà còn được quyền thừa kế những đầu tư trên đất. Điều đó
đã trở thành động lực quan trọng trong phát triển nông nghiệp. Nó làm cho người nông
dân yên tâm đầu tư trên đất, sử dụng đất nông nghiệp một cách chủ động và hiệu quả,
14
phát huy được lợi thế so sánh của từng vùng, từng miền. Thưc tế cho thấy, chính sách
về đất đai thông thoáng sẽ là cơ sở để hình thành các phương thức sản xuất mới như
thâm canh, tăng vụ, nâng cao hiệu quả sử dụng đất canh tác, đặc biệt là sử dụng để sản
xuất cây trồng có giá trị hàng hóa cao. Các quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông
nghiệp cũng là cơ sở để phát triển hệ thống cây trồng, vật nuôi và khai thác đất một
cách đầy đủ và hợp lý, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để đầu tư thâm canh và tiến
hành tập trung hóa, chuyên môn hóa, hiện đại hóa nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất
nông nghiệp.
c. Nhóm yếu tố các biện pháp kỹ thuật canh tác
Biện pháp kỹ thuật canh tác là tác động của con người vào đất đai, cây trồng,
vật nuôi, nhằm tạo nên sự hài hòa giữa các yếu tố của quá trình sản xuất để hình thành,
phân bố và tích lũy năng suất kinh tế. Đây là những vấn đề thể hiện sự hiểu biết về đối
tượng sản xuất, về thời tiết, về điều kiện môi trường và thể hiện những dự báo thông
minh của người sản xuất. Lựa chọn các động tác kỹ thuật, lựa chọn chủng loại và cách
sử dụng các đầu vào phù hợp với các quy luật tự nhiên của sinh vật nhằm đạt được các
mục tiêu đề ra là cơ sở để phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa. Theo Frank Elli
và Douglass C.North, ở các nước phát triển, khi có tác động tích cực của kỹ thuật,
giống mới, thủy lợi, phân bón tới hiệu quả thì cũng đặt ra yêu cầu mới đối với tổ chức
sử dụng đất. Có nghĩa là ứng dụng công nghệ sản xuất tiến bộ là một đảm bảo vật chất
cho kinh tế nông nghiệp tăng trưởng nhanh dựa trên việc chuyển đổi sử dụng đất. Cho
đến giữa thế kỷ 20, trong nông nghiệp nước ta, quy trình kỹ thuật có thể góp phần đến
30% của năng suất kinh tế [3]. Như vậy, nhóm các biện pháp kỹ thuật đặc biệt có ý
nghĩa quan trọng trong quá trình khai thác đất theo chiều sâu và nâng cao hiệu quả sử
dụng đất nông nghiệp.
Khoa học kỹ thuật đóng vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Cải tiến kỹ thuật trước hết làm tăng cung về
hàng hóa nông sản, cũng tức là làm phát triển kinh tế. Áp dụng khoa học (kiến thức),
kỹ thuật (công cụ), công nghệ (kỹ năng) để tăng năng suất, hiệu quả sản xuất, kinh
doanh, phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn một cách bền vững [9]. Thông qua
việc áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp như giống cây
trồng, vật nuôi mới, các quy trình kỹ thuật trong canh tác, trong chế biến bảo quản…
15
làm tăng năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi, tăng hiệu quả sử dụng nguồn lực
như đất đai, lao động, vốn.
Lựa chọn các tác động khoa học kỹ thuật, lựa chọn chủng loại và cách sử dụng
các đầu vào phù hợp với các quy luật tự nhiên của sinh vật sẽ đạt được mục tiêu đề ra.
1.2.2.Quan điểm sử dụng đất bền vững
Đất đai là nguồn tài nguyên có hạn trong khi đó nhu cầu của con người về các
sản phẩm được lấy từ đất ngày càng tăng. Mặt khác, đất nông nghiệp ngày càng bị thu
hẹp do chuyển sang các mục đích khác. Vì vậy, sử dụng đất nông nghiệp ở nước ta cần
hướng tới mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội trên cơ sở đảm bảo an ninh lương
thực, thực phẩm, tăng cường nguyên liệu cho công nghiệp và hướng tới xuất khẩu. Sử
dụng đất nông nghiệp trong sản xuất nông nghiệp dựa trên cơ sở cân nhắc những mục
tiêu phát triển kinh tế xã hội, tận dụng được tối đa lợi thế so sánh về điều kiện sinh thái
và không làm ảnh hưởng xấu đến môi trường là những nguyên tắc cơ bản và cần thiết
để đảm bảo cho khai thác và sử dụng bền vững tài nguyên đất đai. Do đó đất nông
nghiệp cần được sử dụng theo nguyên tắc « đầy đủ và hợp lý ».
• Quan điểm sử dụng đất nông nghiệp bền vững :
Theo FAO, nông nghiệp bền vững bao gồm quản lý hiệu quả tài nguyên cho
nông nghiệp (đất đai, lao động…) để đáp ứng nhu cầu cuộc sống của con người, đồng
thời giữ gìn và cải thiện tài nguyên thiên nhiên, môi trường và bảo vệ tài nguyên thiên
nhiên. Hệ thống nông nghiệp bền vững là hệ thống có hiêu quả kinh tế, đáp ứng cho
nhu cầu xã hội về an ninh lương thực, đồng thời giữ gìn và cải thiện tài nguyên thiên
nhiên và chất lượng của môi trường sống cho đời sau.
Hệ thống nông nghiệp bền vững là phải đáp ứng cho nhu cầu ngày càng cao về
ăn và mặc thích hợp cho hiệu quả kinh tế, môi trường và xã hội gắn với việc tăng phúc
lợi trên đầu người. Đáp ứng nhu cầu là một phần quan trọng, vì một phần sản lượng
nông nghiệp cần thiết phải được tăng trưởng trong những thập kỉ tới.
Các quan điểm trên về nông nghiệp bền vững có nhiều cách biểu thi khác nhau,
song về nội dung thường gồm 3 thành phần cơ bản:
-
Bền vững về an ninh lương thực trong thời gian dài trên cơ sở hệ thống nông nghiệp
-
phù hợp điều kiện sinh thái và không tổn hại đến môi trường .
Bền vững về tổ chức quản lí , hệ thống nông nghiệp phù hợp trong mối quan hệ con
-
người hiện tại và cả cho đời sau .
Bền vững thể hiện ở tính cộng đồng trong hệ thống nông nghiệp quản lí .
16
Phát triển nông nghiệp bền vững chiếm vị trí quan trọng , nhiều khi có tính
quyết định trong sự phát triển chung của xã hội . Điều cơ bản nhất của phát triển nông
nghiệp bền vững cải thiện chất lượng cuộc sống trong sự tiếp cận đúng đắn về môi
trường để giữ gìn tài nguyên đất đai cho thế hệ sau và điều quan trọng nhất là phải biết
sử dụng hợp lí tài nguyên đất đai, giữ vững, cải thiện chất lượng môi trường, có hiệu
qur kinh tế, năng suất cao và ổn định, tăng trưởng chất lượng cuộc sống, bình đẳng các
thế hệ và hạn chế rủi ro .
• Các nguyên tắc về sử dụng đất nông nghiệp bền vững :
Duy trì và nâng cao các hoạt động sản xuất ;
Giảm thiểu mức rủi ro trong sản xuất ;
Bảo vệ tài nguyên tự nhiên và ngăn chặn suy thoái đất và nước ;
Có hiệu quả lâu bền ;
Được xã hội chấp nhận.
Năm nguyên tắc trên là cốt lõi của việc sử dụng đất đai bền vững, nếu sử dụng
đất đai đảm bảo các nguyên tắc trên thì đất đai được bảo vệ cho phát triển nông nghiệp
bền vững.
Để duy trì sự sống của con người, nhân loại đâng phải đương đầu với nhiều vấn
đề hết sức phức tạp và khó khăn, sự bùng nổ dân số, nạn ô nhiễm và suy thoái môi
trường, mất cân bằng sinh thái,…Nhiều nước trên thế giới đã xây dựng và phát triển
nông nghiệp theo quan điểm nông nghiệp bền vững.
Nông nghiệp bền vững là tiền đề và điều kiện cho định cư lâu dài. Một trong
những cơ sở quan trọng bậc nhất của nông nghiệp bền vững là thiết lập được các hệ
thống sử dụng đất hợp lý.
Phát triển nông nghiệp bền vững sẽ vừa đáp ứng nhu cầu của hiện tại, vừa đảm
bảo nhu cầu của các thế hệ tương lai. Một quan niệm khác cho rằng : phát triển nông
nghiệp bền vững là sự quản lý và bảo tồn sự thay đổi về tổ chức và kỹ thuật nhằm đảm
bảo thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người cả cho hiện tại và mai sau. Để
phát triển nông nghiệp bền vững ở nước ta cần nắm vững mục tiêu về tác dụng lâu
bền của từng mô hình, để duy trì và phát triển đa dạng sinh học.
Việc quản lý và sử dụng đất bền vững bao gồm tổ hợp các công nghệ, chính sách
và hoạt động nhằm liên hợp các nguyên lý kinh tế - xã hội với các quan tâm về môi
trường và đồng thời :
- Duy trì hoặc nâng cao sản lượng (hiệu quả sản xuất)
- Giảm rủi ro sản xuất (an toàn)
17
-
Bảo vệ tiềm năng nguồn lực tự nhiên và ngăn ngừa thoái hóa đất, nước (bảo vệ)
- Có hiệu quả lâu dài (bền vững)
- Được xã hội chấp nhận (tính chấp nhận)
1.2.3.Hiệu quả sử dụng đất
• Khái niệm về hiệu quả
Khái niệm về hiệu quả được sử dụng trong đời sống xã hội, nói đến hiệu quả
người ta sẽ hiểu là công việc đạt kết quả tốt. Như vậy, hiệu quả là kết quả mong muốn,
cái sinh ra kết quả mà con người mong đợi và hướng tới. Nó có nội dung khác nhau ở
lĩnh vực khác nhau. Trong sản xuất, hiệu quả có nghĩa là năng suất, hiệu suất. Trong
kinh doanh, hiệu quả là lãi suất, lợi nhuận, trong lao động hiệu quả là năng suất lao
động được đánh giá bằng số lượng thời gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản
phẩm hoặc là bằng số lượng sản phẩm được sản xuất ra trong một đơn vị thời gian.
Trong xã hội, hiệu quả xã hội là có tác dụng tích cực đối với một lĩnh vực xã hội nào
đó.
• Hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế là một phạm trù phản ánh chất lượng của các hoạt động kinh tế.
Theo ngành thống kê định nghĩa thì hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế, biểu hiện
của sự tập trung phát triển theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai thác các nguồn lực
và sự chi phí các nguồn lực trong quá trình sản xuất. Nâng cao hiệu quả kinh tế là một
tất yếu của mọi nền sản xuất xã hội, yêu cầu của công tác quản lý kinh tế buộc phải
nâng cao chất lượng các hoạt động kinh tế làm xuất hiện phạm trù hiệu quả kinh tế.
Nền kinh tế của mỗi quốc gia đều phát triển theo hai chiều: chiều rộng và chiều
sâu, phát triển theo chiều rộng là huy động mọi nguồn lực vào sản xuất, tăng đầu tư
chii phí vật chất, lao động, kỹ thuật, mở mang thêm nhiều ngành nghề, xây dựng thêm
nhiều nhà máy, xí nghiệp… Phát triển theo chiều sâu là đẩy mạnh việc áp dụng các
tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ sản xuất, tiến hành hiện đại hóa, tăng cường
chuyên môn hóa và hợp tác hóa, nâng cao trình độ sử dụng các nguồn lực, chú trọng
chất lượng sản phẩm và dịch vụ. Phát triển theo chiều sâu là nhằm nâng cao hiệu quả
kinh tế. Hiệu quả kinh tế là tiêu chuẩn cao nhất của mọi sự lựa chọn kinh tế của các tổ
chức kinh tế trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Theo C.Mac thì quy luật kinh tế đầu tiên trên cơ sở sản xuất tổng thể là quy luật
tiết kiệm thời gian và phân phối một cách có kế hoạch thời gian lao động theo các
ngành sản xuất khác nhau.
18
Như vậy, hiệu quả kinh tế được hiểu là mối tương quan so sánh giữa lượng kết
quả đạt được vơí lượng chi phí bỏ trong các hoạt động sản xuất. Kết quả đạt được là
phần giá trị thu được của sản phẩm đầu ra, lượng chi phí bỏ ra là phần giá trị của các
nguồn lực đầu vào. Mối tương quan đó cần xét cả về phần so sánh tuyệt đối với tương
đối cũng như xem xét mối quan hệ chặt chẽ giữa hai đai lượng đó.
Hiệu quả kinh tế lả phạm trù kinh tế mà trong đó sản xuất đạt hiệu quả kinh tế và
hiệu quả phân bổ. Điều đó có nghĩa là cả hai yếu tố hiện vật và giá trị đều tính đến khi
xem xét sử dụng các nguồn lực trong nông nghiệp. Nếu đạt được một trong hai yếu tố
hiệu quả kỹ thuật và phân bổ thì khi đó hiệu quả sản xuất mới đạt được hiệu quả kinh
tế.
Từ những vấn đề trên có thể kết luận rằng bản chất của hiệu quả kinh tế sử dụng
đất là: Trên một diện tích đất nhất định, sản xuất ra một khối lượng của cải vật chất
nhiều nhất, với một lượng đầu tư chi phí về vât chất và lao động thấp nhất nhằm đáp
ứng yêu cầu ngày càng tăng về vật chất của xã hội. Xuất phát từ vấn đề này mà trong
quá trình đánh giá đất nông nghiệp cần phải chỉ ra được loại hình sử dụng đất hiệu quả
kinh tế cao.
• Hiệu quả xã hội
Hiệu quả xã hội là mối tương quan so sánh giữa kết quả xét về mặt xã hội và tổng
chi phí bỏ ra. Hiệu quả về mặt xã hội trong sử dụng đất nông nghiệp chủ yếu được xác
định bằng khả năng tạo việc làm trên một đơn vị diện tích đất nông nghiệp.
Từ những quan niệm trên cho thấy giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội có
mối quan hệ mật thiết với nhau, chúng là tiền đề của nhau và là một phạm trù thống
nhất, phản ánh mối quan hệ giữa kết quả sản xuất với các lợi ích xã hội mà nó mang
lại. Trong giai đoạn hiện nay, việc đánh giá hiệu quả xã hội của các loại hình sử dụng
đất nông nghiệp là nội dung được nhiều nhà khoa học quan tâm.
• Hiệu quả môi trường
Hiệu quả môi trường là xem xét sự phản ứng của môi trường đối với hoạt động
sản xuất. Từ các hoạt động sản xuất, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp đều ảnh hưởng
không nhỏ đến môi trường. Đó có thể là ảnh hưởng tích cực đồng thời có thể là ảnh
hưởng tiêu cực. Thông thường hiệu quả kinh tế thường mâu thuẫn với hiệu quả môi
trường. Chính vì vây, khi xem xét cần phải đảm bảo tính cân bằng với phát triển kinh
tế, nếu không thường sẽ bị thiên lệch và có những kết luận không tích cực.
19
Xét về khía cạnh hiệu quả môi trường, đó là việc đảm bảo chất lượng đất không
bị thoái hóa, bạc màu và nhiễm các chất hóa học trong canh tác. Bên cạnh đó còn có
các yếu tố như độ che phủ, hệ số sử dụng đất, mối quan hệ giữa các hệ thống phụ trợ
trong sản xuất nông nghiệp như chế độ thủy văn, bảo quản chế biến, tiêu thụ hàng hóa.
1.3.Sơ lược về vấn đề sử dụng đất nông nghiệp trên thế giới
Trong sản xuất nông nghiệp thì đất đai là nhân tố vô cùng quan trọng. Trên thế
giới, mặc dù sự phát triển của sản xuất nông nghiệp của các nước không giống nhau
nhưng tầm quan trọng của nó đối với xã hội thì quốc gia nào cũng thừa nhận. Hầu hết
các nước đều coi nông nghiệp là cơ sở nền tảng của sự phát triển. Tuy nhiên, khi dân
số ngày một tăng nhanh thì nhu cầu lương thực, thực phẩm là một sức ép rất lớn.
Trong khi đó, đất đai có hạn, đặc biệt quỹ đất nông nghiệp lại có xu hướng giảm do
chuyển sang mục đích phi nông nghiệp.Để đảm bảo an ninh lương thực, loài người
phải tăng cường các biện pháp khác, khai hoang đất đai phục vụ cho mục đích nông
nghiệp. Vì vậy, đất đai là đối tượng bị khai thác triệt để, trong khi đó các biện pháp
bảo vệ và tăng độ phì cho đất không được chú trọng dẫn tới hậu quả môi trường sinh
thái bị phá vỡ. hàng loạt diện tích đất bị thoái hóa trên phạm vi toàn thế giới, người ta
ước tính có tới 15% tổng diện tích đất trên trái đất bị thoái hóa do những hành động
bất cần của con người gây ra.
Theo P.Buringh, toàn bộ đất nông nghiệp của thế giới chừng khoảng 3,3 tỷ ha
(chiếm khoảng 22% tổng diện tích đất liền); nhưng có khoảng 78% (xấp xỉ 11,7% tỷ
ha) không dùng được vào nông nghiệp. Đất trồng trọt là đất đang sử dụng, cũng có loại
đất hiện taị chưa sử dụng nhưng có khả năng trồng trọt. Đất đang trồng trọt cả thế giới
có khoảng 1,5 tỷ ha (chiếm xấp xỉ 10,8% tổng diện tích đất đai và 46% đất đang có
khả năng trồng trọt). Như vậy, còn 54% đất có khả năng trồng trọt chưa được khai
thác. Tiềm năng đất nông nghiệp của hành tinh chúng ta khoảng 3 – 5 tỷ ha. Trong lịch
sử tiến hóa của nhân loại, con người đã làm hư hại khoảng 1,4 tỷ ha đất và hàng năm
có khoảng 6 -7 triệu ha đất nông nghiệp bị loại bỏ do xói mòn và thoái hóa. Với năng
suất trung bình hiện nay để thỏa mãn nhu cầu về sản phẩm nông nghiệp phải có 0,40
ha đất canh tác trên đầu người. Như vậy, hàng năm trên thế giới phải khai thác để đưa
vào sản xuất nông nghiệp khoảng 30 triệu ha. Trong thực tế để đáp ứng nhu cầu ngày
càng tăng của con người về sản phẩm nông nghiệp phải đi theo hai hướng: (1) Thâm
canh tăng vụ, tăng năng suất cây trồng, (2) Mở rộng diện tích đất nông nghiệp. Dù đi
20
theo hướng nào cũng phải tiến hành điều tra, nghiện cứu đất đai để nắm vững số lượng
và chất lượng đất đai, bao gồm: điều tra lập bản đồ đất, đánh giá hiện trạng sử dụng
đất, đánh giá phân hạng đất và quy hoạch sử dụng đất hợp lý (Dent.D, 1986, 1987,
1992, Dugan.J, 1990, FAO, 1976,1983, 1985, 1992). Trong khoảng 30 năm trở lại đây
tổ chức FAO đã có những hoạt động về vấn đề nghiên cứu đất, những hoạt động này
nhằm vào 4 hướng chủ yếu: (1) Lập bản đồ tài nguyên đất; (2) Đánh giá đất đai; (3)
Nghiên cứu hiệu suất tiềm năng đất đai; (4) Sử dụng, quản lý và bảo vệ đất. Công tác
nghiên cứu chuyên đề về đất và sử dụng đất đã được triển khai từ đầu thế kỷ 20 đến
nay cùng với công tác lập bản đồ đất. Trong đó công tác đánh giá hiệu quả sử dụng đất
đặc biệt được chú trọng.
Trên thế giới đất đai phân bổ ở các châu lục không đều. Tuy có diện tích đất
nông nghiệp khá cao so với các châu khác nhưng châu Á lại có tỷ lệ diện tích đất nông
nghiệp trên diện tích tự nhiên thấp và lại là khu vực có tỷ lệ dân số đông trên thế giới.
Có các quốc gia dân số đông nhất nhì thế giới như: Trung Quốc. Ấn Độ, Indonexia. Ở
châu Á đất đồi núi chiếm 35% tổng diện tích, tiềm năng đất trồng trọt nhờ nước trời là
khá lớn khoảng 407 triệu ha, trong đó xấp xỉ 282 triệu ha đang được trồng trọt.
Theo tài liệu của FAO/UNESCO: trên thế giới hàng năm có khoảng 15% diện
tích đất bị suy thoái vì lý do tác động con người, trong đó suy thoái vì xói mòn do
nước chiếm khoảng 55,7 % diện tích, do gió 28% diện tích, mất chất dinh dưỡng do
rửa trôi 12,2% diện tích. Ở Trung Quốc, diện tích đất bị suy thoái là 280 triệu ha,
chiếm 30% lãnh thổ, trong đó có 36,67 triệu ha đất đồi bị xói mòn nặng; 6,67 triệu ha
đất bị chua mặn; 4 triệu ha đất bị úng, lầy. Tại khu vực châu Á Thái Bình Dương có
khoảng 860 ha đất đã bị hoang mạc hóa làm ảnh hưởng đến đời sống của 150 triệu
người. Theo kết quả điều tra của FAO, 1992, do chế độ canh tác không tốt đã gây xói
mòn đất nghiêm trọng dẫn đến suy thoái đất, đặc biệt ở vùng nhiệt đới và vùng đất
dốc. Mỗi năm lượng đất bị xói mòn tại các châu lục là: châu Âu, châu Úc, châu Phi: 5
– 10 tấn/ha, châu Mỹ: 10 – 20 tấn/ha, châu Á: 30 tấn/ha.
Đông Nam Á là một khu vực đặc biệt, từ số liệu của UNDP năm 1995 cho ta
thấy đây là khu vực dân số khá đông trên thế giới nhưng diện tích canh tác thấp: bình
quân đất canh tác trên đầu người của các nước như sau: Indonesia 0,12 ha; Malaysia
0,27 ha; Philipin 0,13 ha; Thái Lan 0,42 ha; Việt Nam 0,1 ha. Như vậy, chỉ có Thái
21
Lan là diện tích đất canh tác trên đầu người khá nhất và Việt Nam là quốc gia đứng
vào hàng thấp nhất trong số các quốc gia ASEAN.
Những vấn đề môi trường đã trở nên mang tính toàn cầy và được phân thành 2
loại chính: một loại gây ra bởi công nghiệp hóa và các kỹ thuật hiện đại, loại khác gây
ra bởi lối canh tác tự nhiên. Hệ sinh thái nhiệt đới vốn cân bằng một cách mỏng manh
rất dễ bị đảo lộn bởi các phương thức canh tác phản tự nhiên, buộc con người phải sản
xuất nông nghiệp theo hướng sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường, thỏa mãn các
yêu cầu của thế hệ hiện tại nhưng không làm phương hại đến nhu cầu của các thế hệ
tương lai, đó là mục tiêu của việc xây dựng và phát triển nông nghiệp bền vững và đó
cũng là hướng đi trong tương lai.
1.4.Sơ lược về vấn đề sử dụng đất nông nghiệp ở Việt Nam
Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường: Việt Nam có tổng diện tích đất tự nhiên là
33.096.731 ha. Tính đến năm 2014, đất nông nghiệp là 26.822.953 ha, chiếm 81,04%
tổng diện tích đất tự nhiên trong đó đất được dùng cho sản xuất nông nghiệp:
10.231.717 ha, chiếm khoảng 38,15% diện tích đất nông nghiệp, diện tích đất lâm
nghiệp: 15.845.333 ha chiếm 59,07% diện tích đất nông nghiệp. Diện tích mặt nước
nuôi trồng thủy sản: 707.827 ha, chiếm 2,64% diện tích đất nông nghiệp, còn lại là đất
nông nghiệp khác và đất làm muối.
Việc phân bố đất nông nghiệp không đồng đều giữa các vùng: vùng đồng bằng
sông Cửu Long có diện tích đất rộng lớn, trong khi các vùng đồng bằng Bắc Bộ, Trung
Bộ và duyên hải miền Trung đất đai rất hạn hẹp.
Việt Nam thuộc vùng nhiệt đới ẩm châu Á có nhiều thuận lợi cho phát triển sản
xuất nông nghiệp. Tuy nhiên nguồn đất có hạn, dân số lại đông, bình quân đất tự nhiên
trên người là 0,45 ha, chỉ bằng 1/3 mức bình quân của thế giới, xếp thứ 135 trên thế
giới, xếp thứ 9/10 Đông Nam Á. Mặt khác, dân số lại tăng nhanh làm cho bình quân
diện tích đất trên người sẽ tiếp tục giảm.
Trong khi đó, diện tích đất nông nghiệp có chiều hướng giảm nhanh do chuyển
mục đích sử dụng. Vì thế, nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp là yêu cầu cần
thiết đối với Việt Nam trong những năm tới.
Sử dụng đất là một hệ thống các biện pháp nhằm điều hòa mối quan hệ giữa
người và đất đai. Mục tiêu của con người là sử dụng đất khoa học và hợp lý. Mục tiêu
đặt ra là sử dụng tối đa và có hiệu quả toàn bộ quỹ đất của quốc gia, nhằm phục vụ
22
phát triển nền kinh tế quốc dân và phát triển xã hội. Việc sử dụng đất dựa trên nguyên
tắc là ưu tiên đất đai cho sản xuất nông nghiệp.
1.5.Thực trạng về vấn đề sử dụng đất nông nghiệp tại địa bàn xã Mỹ Tân
Diện tích đất nông nghiệp toàn xã là 554,94 ha, chiếm 54,00% tổng diện tích
đất tự nhiên. Sản xuất nông nghiệp ở đây mới chỉ quan tâm đến vấn đề hiệu quả kinh
tế đối với sản xuất nông nghiệp mà chưa nhìn nhận, quan tâm đến những khả năng bền
vững trong sử dụng đất, trình độ thâm canh sản xuất nông nghiệp còn thấp, chưa có
biện pháp bảo vệ môi trường nên các hoạt động sản xuất nông nghiệp đã làm đất bị
suy thoái. Việc xác định và lựa chọn các loại hình sử dụng đất có hiệu quả cao và bền
vững là rất cần thiết cho mục đích sản xuất nông nghiệp lâu dài của xã.
23
CHƯƠNG II
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu trực tiếp của đề tài là quỹ đất nông nghiệp và các yếu tố
liên quan đến quá trình sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn xã.
- Các yếu tố kinh tế - xã hội, môi trường có liên quan tác động đến sử dụng đất
nông nghiệp của xã.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài được tiến hành nghiên cứu trên đại bàn xã bao gồm các loại đất nông
nghiệp và các loại hình sử dụng đất nông nghiệp.
2.3. Nội dung nghiên cứu
2.3.1. Đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội
- Điều kiện tự nhiên: vị trí địa lý, đất đai, khí hậu, địa hình địa mạo, thủy văn,
nguồn nước;
- Điều kiện kinh tế - xã hội: tình hình kinh tế nông nghiệp, cơ sở hạ tầng, trình
độ canh tác, loại hình sử dụng đất;
- Phân tích, đánh giá những thuận lợi và hạn chế của điều kiện tự nhiên, kinh tế
xã hội đến sản xuất nông nghiệp.
2.3.2. Đánh giá hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp
- Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp;
- Thực trạng phát triển ngành nông nghiệp;
- Xác định các loại hình sử dụng đất chính của xã;
- Đánh giá khả năng đáp ứng của quỹ đất nói chung và quỹ đất nông nghiệp nói
riêng với sự phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu lương thực của người dân trên địa
bàn.
2.3.3. Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
- Nghiên cứu các loại hình sử dụng đất chủ yếu trên địa bàn xã;
- Đánh giá hiệu quả các loại hình sử dụng đất nông nghiệp: hiệu quả kinh tế,
hiệu quả xã hội và hiêu quả môi trường;
- Lựa chọn các loại hình sử dụng đất thích hợp theo nguyên tắc sử dụng bền
vững.
24
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả các loại hình sử dụng đất nông
nghiệp trong tương lai.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp thu thập số liệu, tài liệu
- Thu thập các tài liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội;
- Thu thập số liệu, tài liệu về địa chất, địa hình, đất đai, phân loại đất và các loại
hình sử dụng đất của xã;
- Thu thập các số liệu về tình hình sử dụng đất.
2.4.2. Phương pháp thống kê, xử lý số liệu
- Phương pháp thống kê được ứng dụng để xử lý các số liệu điều tra, thu thập
được trong quá trình nghiên cứu;
- Sử dụng phần mềm Excel để xử lý, tổng hợp, phân tích số liệu và đánh giá
hiệu quả kinh tế.
2.4.3. Phương pháp minh họa bằng các bảng, biểu đồ
- Phương pháp biểu đồ, bảng được ứng dụng để thể hiện một số kết quả
nghiên cứu.
- Phương pháp bản đồ được ứng dụng để thể hiện các kết quả nghiên cứu
thông qua bản đồ hiện trạng sử dụng đất thể hiện trên bản đồ tỷ lệ 1:5.000.
25