Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

CÁC vụ KIỆN VI PHẠM NGUYÊN tắc đãi NGỘ QUỐC GIA TRONG WTO, bài học KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (556.03 KB, 36 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT
----

NIÊN LUẬN
Đề tài:

CÁC VỤ KIỆN VI PHẠM NGUYÊN TẮC ĐÃI NGỘ
QUỐC GIA TRONG WTO, BÀI HỌC KINH NGHIỆM
CHO VIỆT NAM

Họ và tên sinh viên: HOÀNG THỊ HOA THÀNH

THỪA THIÊN HUẾ, 06/2016


ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT
----

NIÊN LUẬN
KHÓA 37

Đề tài:

CÁC VỤ KIỆN VI PHẠM NGUYÊN TẮC ĐÃI NGỘ
QUỐC GIA TRONG WTO, BÀI HỌC KINH NGHIỆM
CHO VIỆT NAM

GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN:
ThS.VŨ THỊ HƯƠNG



SINH VIÊN THỰC HIỆN:
HOÀNG THỊ HOA THÀNH
LỚP: Luật Kinh tế K37B
MSSV: 13A5021206

THỪA THIÊN HUẾ, 06/2016


Lời cảm ơn
Xin chân thành cảm ơn giảng viên hướng dẫn, Ths. Vũ Thị Hương đã tận tình
giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu, từ việc chọn đề tài nghiên cứu, lập đề cương
chi tiết đến các bước cuối cùng để hoàn thành bài niên luận của em.
Em cũng xin cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của quý thầy cô Trường Đại
học Luật - Đại học Huế đã truyền đạt những kiến thức và kỹ năng trong suốt
quá trình em học tập và nghiên cứu. Với những kiến thức em tiếp thu được sẽ
là nền tảng cho em hoàn thành được bài niên luận này và là hành trang cho
em bước ra xã hội thực hiện ước mơ của mình.
Ngoài ra, em cũng xin cảm ơn gia đình, bạn bè đã nhiệt tình giúp đỡ em
trong quá trình học tập cũng như quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu này.
Trong quá trình nghiên cứu, em không thể tránh khỏi những sai sót,
kinh mong quý thầy cô đóng góp ý kiến để em hoàn thiện được bài niên luận
của mình một cách tốt nhất. Em xin chân thành cảm ơn!
Huế, tháng 6 năm 2016
Sinh viên
Hoàng Thị Hoa Thành


MỤC LỤC



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DSB: Cơ quan giải quyết tranh chấp
GATS: Hiệp định chung về thương mại dịch vụ
GATT: Hiệp định chung về thuế quan và thương mại
LPOM: Tổ chức Tiếp thị sản phẩm gia cầm
MFN: Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc
NT: Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia
SBS: Hệ thống Phát sóng Seoul
SCM: Hiệp định SCM về Trợ cấp và Biện pháp đối kháng
TRIPS: Hiệp định TRIPS về các khía cạnh liên quan tới thương mại của
quyền sở hữu trí tuệ
WTO: Tổ chức thương mại thế giới


6


A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Nước ta đang bước vào “sân chơi” toàn cầu, sự vận hành của nền kinh tế
tuân theo các quy luật của nền kinh tế như quy luật cung cầu, quy luật cạnh
tranh và quy luật giá trị. Sự can thiệp của Nhà nước dần bị loại bỏ, việc Nhà
nước giúp sức cho doanh nghiệp nội địa là hành vi vi phạm các cam kết khi
tham gia các tổ chức quốc tế, điều ước quốc tế. Việc một Nhà nước hay Chính
phủ sử dụng công cụ hành chính để can thiệp vào thị trường sẽ là căn cứ để
các quốc gia khác khởi kiện. Để tận dụng các ưu thế của việc tham gia “sân
chơi” quốc tế, mỗi một quốc gia đều phải tôn trọng quyền lợi, các cam kết của
mình. Các quốc gia phải đảm bảo thực hiện các nguyên tắc trong pháp luật
thương mại quốc tế, đặc biệt là nhóm nguyên tắc về phân biệt đối xử. Mọi

hành vi vi phạm nguyên tắc phân biệt đối xử đều là nguyên nhân phát sinh các
tranh chấp, các vụ kiện làm ảnh hưởng đến quan hệ thương mại của hai hay
nhiều quốc gia, có khi ảnh hưởng đến cả tình hình chính trị của các nước liên
quan. Mọi vụ tranh chấp kéo dài ảnh hưởng nghiêm trọng đến kim ngạch xuất
khẩu của các bên, tốn kém về thời gian, chi phí để giải quyết tranh chấp. Vì
vậy, người viết tiến hành nghiên cứu đề tài: “Các vụ kiện vi phạm nguyên
tắc đãi ngộ quốc gia trong WTO, bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”. Từ
đó có cách đi phù hợp với pháp luật quốc tế mà vẫn bảo vệ được các ngành
sản suất nội địa, giữ vững quan hệ thương mại tốt đẹp với các quốc gia.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài này, người viết mong muốn góp phần làm rõ hơn
các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về nguyên tắc đãi
ngộ quốc gia.
Các quy định của pháp luật quốc tế về đề tài nghiên cứu có nhiều quy
định chưa rõ ràng, nội hàm của các quy định chưa được giải thích một cách
nhất quán. Từ nhiều cách hiểu khác nhau về cùng một quy định làm cho các
chủ thể vận dụng khác nhau, là nguyên nhân phát sinh các tranh chấp làm ảnh
hưởng đến quan hệ thương mại giữa các quốc gia và quan hệ chính trị cũng có
7


thể bị ảnh hưởng. Ngoài việc tìm hiểu pháp luật quy định về nguyên tắc đãi
ngộ quốc gia thì người viết còn tìm hiểu về cách thức giải quyết tranh chấp
trong quan hệ thương mại trên thực tế khi các chủ thể vi phạm pháp luật
thương mại quốc tế. Từ đó, người viết trang bị cho bản thân những kiến thức
cần thiết trong học tập cũng như công việc sau này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Bài niên luận tập trung nghiên cứu pháp luật quốc
tế cũng như pháp luật Việt Nam về nguyên tắc Đãi ngộ quốc gia và thông qua
một số vụ kiện thực tế về tranh chấp trong WTO vi phạm nguyên tắc này. Từ

đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Với tầm quan sát và đúc kết thực tiễn còn giới hạn
ở vị trí là một sinh viên, bài niên luận chỉ tham khảo và phân tích một số tài
liệu liên quan đến các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam
về nguyên tắc Đãi ngộ quốc gia trong thương mại quốc tế, kết hợp một số vụ
kiện thực tế từ đó đưa ra một số kết luận để hoàn thiện bài niên luận.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu bài niên luận đã sử dụng dựa trên sự kết hợp
của các phương pháp sau:
- Phương pháp diễn dịch, quy nạp
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
Trên cơ sở thu thập, tổng hợp thông tin từ các tài liệu trang web uy tín để
có cách nhìn tổng quát về đề tài. Sau đó sử dụng phương pháp diễn dịch và
phân tích để đưa ra những kết luận. Trong đề tài dựa trên quan điểm, cách
nhìn nhận vấn đề của cá nhân.
5. Kết cấu niên luận
Bài niên luận gồm 2 chương:
Chương 1: Một số vấn đề về lý luận về nguyên tắc Đãi ngộ quốc gia
Chương 2: Một số vụ kiện trong WTO vi phạm nguyên tắc Đãi ngộ quốc
gia, bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

8


B. NỘI DUNG
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC ĐÃI NGỘ
QUỐC GIA
1.1 Khái quát về nguyên tắc đãi ngộ quốc gia trong WTO
Trên nền tảng của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại
(General Agreement on Tariffs and - GATT 1947) thì Tổ chức Thương mại

Thế giới WTO được thành lập nhằm mục đích loại bỏ hay giảm thiểu các rào
cản thương mại để tiến đến tự do thương mại. Mọi thành viên của WTO được
yêu cầu phải cấp cho những thành viên khác những ưu đãi nhất định trong
quan hệ thương mại (trừ những ngoại lệ) như sự nhượng bộ về thương mại
được cấp bởi một thành viên của WTO cho một quốc gia khác thì phải cấp
cho mọi thành viên của WTO.
Để đảm bảo mục đích trong quá trình hoạt động thì WTO cũng đưa ra
các nguyên tắc hoạt động. Các nguyên tắc cơ bản này được sử dụng phổ biến
trong quan hệ thương mại quốc tế: nguyên tắc Đối xử tối huệ quốc (MFN),
nguyên tắc Đãi ngộ quốc gia (NT), nguyên tắc mở cửa thị trường, nguyên tắc
thương mại công bằng. Một trong các nguyên tắc trên thì nguyên tắc Đãi ngộ
quốc gia (NT) ngày càng thể hiện vai trò của mình trong quan hệ thương mại
quốc tế hiện này.
1.1.1 Khái niệm về nguyên tắc Đãi ngộ quốc gia
Nguyên tắc Đãi ngộ quốc gia (NT) được hiểu là một quốc gia cho phép
các sản phẩm, dịch vụ, nhà cung cấp nước ngoài được hưởng những ưu đãi
ngang hoặc tương đương với những ưu đãi mà các sản phẩm, dịch vụ, nhà
cung cấp nước sở tại đang được hưởng hoặc sẽ được hưởng trong tương lai.
Nguyên tắc NT, được quy định tại III Hiệp định GATT, điều 17 GATS
(Hiệp định chung về thương mại dịch vụ) và điều 3 TRIPS (Hiệp định về các
khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ). Nguyên tắc NT
được hiểu là hàng hóa nhập khẩu, dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ của nước
ngoài phải được đối xử không kém thuận lợi hơn so với hàng hóa, dịch vụ và
9


quyền sở hữu trí tuệ trong nước. Điều 3 TRIPS quy định: “Mỗi thành viên
phải chấp nhận cho công dân các nước thành viên khác sự đối xử không kém
thiện chí hơn so với sự đối xử của thành viên đó đối với công dân của mình
trong việc bảo hộ sở hữu trí tuệ.”

Trong quan hệ thương mại quốc tế, nguyên tắc NT là bộ phận không
thể thiếu trong các thỏa thuận song phương, đa phương. Đãi ngộ quốc gia là
nguyên tắc cấm các bên phân biệt đối xử giữa hàng nhập khẩu và hàng sản
xuất trong nước đối với thuế nội bộ hoặc các quy định khác của Chính phủ.
1.1.2 Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia trong một số Hiệp định của WTO
1.1.2.1 Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia trong Hiệp định GATT
Nguyên tắc NT được các Hiệp định song phương, đa phương quy định
nhưng vai trò của nó được khẳng định khi nó được quy định là một trong các
nguyên tắc hàng đầu của GATT 1947 và là một bộ phận cấu thành quan trọng
của WTO, sau đó được quy định mới trong GATT 1994.
Theo quy định của GATT thì nguyên tắc NT được coi là những quy tắc
cư xử mà nước sở tại phải thực hiện dành cho hàng hóa, dịch vụ hay cho
thương nhân nước ngoài đã vào sâu thị trường nội địa, vì vậy phạm vi áp
dụng cho nguyên tắc này là các biện pháp nội địa. Điều III của Hiệp định
GATT 1994 quy định rõ các biện pháp áp dụng cho nguyên tắc NT:
-

Thuế là lệ phí trong nước (điều III:1,2): (i) đối với hàng hóa nhập khẩu, hàng
hóa các nước thành viên không được phải chịu thuế hay lệ phí cao hơn hàng
hóa nội địa cùng loại, (ii) các nước thành viên không được phép áp dụng thuế
hay lệ phí trong nước đối với hàng hóa nhập khẩu hoặc hàng hóa nội địa để

-

bảo hộ nền sản xuất nội địa.
Vấn đề mua bán hàng hóa (điều III:4) các quy định của pháp luật liên quan
đến bán hàng, chào hàng, chào bán, mua, chuyên chở, phân phối hoặc sử dụng
không được phân biệt đối xử kém thuận lợi hơn so với các sản phẩm có xuất

-


xứ nội địa cùng loại.
Quy chế về số lượng hàng hóa (điều III:5) các nước thành viên không được
phép áp dụng hoặc duy trì một quy tắc định lượng nội địa nào về pha trộn, chế
10


biến hay sử dụng sản phẩm tính theo khối lượng cụ thể hay tỷ lệ, trực tiếp hay
gián tiếp đòi hỏi một khối lượng hay tỉ lệ nhất định của bất cứ một sản phẩm
nào chịu sự điều chỉnh của quy tắc đó phải được cung cấp từ nguồn địa.
Tuy nhiên, nguyên tắc NT trong GATT 1994 cũng dành ra những trường
hợp ngoại lệ cho các thành viên nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi của các
nước đang phát triển:
(i)

Các nhà sản xuất được cung cấp một khoản tiền trợ cấp theo quy định tại điều
III:8, quy định này không ngăn cản việc chi trả các khoản trợ cấp chỉ dành
cho các nhà sản xuất nội địa, kể cả các khoản trợ cấp dành cho các nhà sản
xuất nội địa có xuất xứ từ các khoản thu thuế nội địa áp dụng phù hợp với các
quy định của điều khoản này và các khoản trợ cấp thực hiện thông qua việc
Chính phủ mua các sản phẩm nội địa. Ngoài ra, để các nước thành viên được
phép áp dụng ngoại lệ này thì các thành viên phải tuân thủ các quy định của
Hiệp định Nông nghiệp và Hiệp định SCM (Hiệp định về Trợ cấp và các Biện

(ii)

pháp đối kháng).
Việc phân bổ thời gian chiếu phim vì mục đích thương mại giữa phim nước
ngoài và phim trong nước theo quy định tại điều IV, hạn ngạch về thời gian trình
chiếu sẽ quy định thời gian chiếu phim có xuất xứ nội địa quy định tỷ trọng tối

thiểu trong tổng số thời gian thực trình chiếu phim với mục đích thương mại từ
mọi xuất xứ trong một thời kỳ không dưới một năm, và sẽ tính trên cơ sở thời

(iii)

gian thực chiếu mỗi năm hoặc tương ứng tính theo từng rạp;
Quy định về vấn đề mua sắm Chính phủ tại điều III:8(a) các quy định của
Điều khoản này sẽ không áp dụng với việc các cơ quan Chính phủ mua sắm
nhằm mục đích cho tiêu dùng của Chính phủ chứ không phải để bán lại nhằm
mục đích thương mại hay đưa vào sản xuất nhằm mục đích thương mại.
1.1.2.2 Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia trong Hiệp định GATS
Trong quan hệ thương mại quốc tế thì nguyên tắc NT không chỉ điều
chỉnh các quan hệ thương mại trong lĩnh vực hàng hóa mà còn điều chỉnh
trong lĩnh vực dịch vụ. GATS quy định: "Trong thương mại dịch vụ, các nước
phải dành cho dịch vụ và các nhà cung cấp của nước khác thuộc lĩnh vực
11


ngành nghề đã được mỗi nước đưa vào danh mục cam kết cụ thể của mình
những ưu đãi không kém hơn những ưu đãi nước đó dành cho dịch vụ và nhà
cung cấp nước mình.
Nếu trong thương mại hàng hóa là cam kết chung thì trong thương mại
dịch vụ là cam kết cụ thể. Tức là mỗi quốc gia sẽ có cam kết cụ thể về đối xử
quốc gia đối với từng phương thức cung cấp dịch vụ của từng phân ngành
dịch vụ. Các quy định thuộc phạm vi áp dụng nguyên tắc NT trong thương
mại dịch vụ: điều kiện đối với nhà cung cấp dịch vụ muốn cung cấp dịch vụ
tại nước sở tại; phạm vi hoạt động của nhà cung cấp dịch vụ khi đã được phép
cung cấp dịch vụ tại nước sở tại.
Trong lĩnh vực về thương mại quốc tế về dịch vụ thì GATS cũng dành
cho các bên những ngoại lệ nhất định. GATS không quy định các thành viên

chỉ được áp dụng ngoại lệ ở riêng lĩnh vực nào mà việc áp dụng hạn chế đối
xử quốc gia sẽ do nước sở tại quyết định và đạt được sự đồng thuận từ các
nước thành viên khác qua các vòng đàm phán. Chính vì vậy có thể thấy cam
kết về nguyên tắc NT trong Biểu cam kết dịch vụ là kết ngược, tại đó các
quốc gia nếu ra các trường hợp ngoại lệ của nguyên tắc NT cho từng phương
thức cung cấp dịch vụ cho từng phân ngành dịch vụ.
1.1.2.3 Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia liên quan đến thương mại trong
lĩnh vực sở hữu trí tuệ (TRIPS)
Cũng như quan hệ hàng hóa hay dịch vụ thì quan hệ sở hữu trí tuệ cũng
được điều ước quốc tế điều chỉnh. Điều 3 của Hiệp định TRIPS quy định:
“ Mỗi Thành viên phải chấp nhận cho các công dân của các Thành viên khác
sự đối xử không kém thiện chí hơn so với sự đối xử của Thành viên đó đối
với công dân của mình trong việc bảo hộ sở hữu trí tuệ”. Một yêu cầu đặt ra
khi áp dụng quy định này là cần lưu ý đến những ngoại lệ của các điều ước
quốc tế liên quan như: Công ước Paris về Bảo hộ quyền Sở hữu công nghiệp,
Công ước Berne về bảo hộ tác phẩm văn học nghệ thuật, cụ thể được quy
định ở một số điều như sau:
12


Điều 13: Các thành viên của Hiệp ước TRIPS quy định các hạn chế và
ngoại lệ đối với các độc quyền trong những trường hợp đặc biệt nhất định,
không mâu thuẫn với việc khai thác bình thường một tác phẩm và không làm
tổn hại một cách bất hợp pháp của người nắm quyền.
Điều 17: TRIPS quy định rằng cho phép các thành viên có thể quy định
một số ngoại lệ nhất định đối với các quyền được cấp liên quan đến một nhãn
hiệu hàng hóa, chẳng hạn như việc sử dụng với các mục đích lành mạnh các
thuật ngữ mang tính chất mô tả, với điều kiện là những ngoại lệ đó không làm
tổn hại đến lợi ích hợp pháp của các chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hóa và các
bên thứ ba.

Đối với quy định về cấp Patent cũng có các quy định ngoại lệ khi cấp
Patent, nó được quy định rõ ở điều 30: “Các thành viên có thể quy định một
số ngoại lệ nhất định đối với các độc quyền được cấp trên cở sở Patent với
điều kiện là các ngoại lệ đó không mâu thuẫn với việc khai thác bình thường
Patent đó và không làm tổn hại một cách bất hợp lý tới lợi ích hợp pháp của
chủ sở hữu Patent và lợi ích hợp pháp của bên thứ ba.”
Ngoài ra còn một số quy định khác, mục đích của các quy định ngoại lệ
này giúp cho các chủ thể (đặc biệt là những quốc gia đang phát triển) bảo vệ
lợi ích của các bên khi tham gia vào quan hệ thương mại quốc tế liên quan
đến đối tượng là quyền sở hữu trí tuệ. Trong bối cảnh hiện nay, vấn đề quyền
sở hữu trí tuệ được các bên quan tâm, có thể nói là đây là đối tượng trong
chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp khi tham gia vào quan hệ thương
mại quốc tế.
1.1.3 Phân biệt nguyên tắc đối xử tối huệ quốc với nguyên tắc đãi ngộ
quốc gia
Cũng như các ngành luật khác, quan hệ thương mại quốc tế được Luật
thương mại quốc tế điều chỉnh. Để cho các hoạt động của các chủ thể trong
quan hệ thương mại được diễn ra thường xuyên, ổn định thì cần các quy tắc
cơ bản của ngành luật đó điều chỉnh. Không là ngoại lệ, trong quan hệ thương
mại quốc tế được hai nguyên tắc cơ bản này điều chỉnh, giữa hai nguyên tắc
13


có nhiều điểm tương đồng như: về vị trí thì hai nguyên tắc này là hai nguyên
tắc nền tảng của Luật quốc tế; mục đích của hai nguyên tắc là hướng tới thực
hiện mục tiêu không phân biệt đối xử và tự do hóa thương mại, phá bỏ những
rào cản giữa các nước thành viên nhằm nâng cao đời sống, tăng việc làm, đảm
bảo tự do; cả hai nguyên tắc đều được các điều ước quốc tế ghi nhận và đảm
bảo thực hiện trong các Hiệp định GATT, GATS, TRIPS, và cuối cùng là tạo
điều kiện tốt nhất cho người tiêu dùng được sử dụng các loại sản phẩm phong

phú, đa dạng với điều kiện chất lượng ngày càng cao.
Bên cạnh đó, hai nguyên tắc này cũng có những khác biệt nhất định đối
với quan hệ thương mại quốc tế.
Thứ nhất, nguyên tắc MFN được hiểu là chế độ ưu đãi của một nước
dành cho nước khác giống như chế độ ưu đãi đã dành hoặc sẽ dành cho nước
thứ ba dựa trên những cam kết thương mại (thông qua các điều ước quốc tế
được ký kết giữa các quốc gia). Còn về nguyên tắc NT thì cho phép các sản
phẩm, dịch vụ, nhà cung cấp nước ngoài được hưởng những ưu đãi mà các
sản phẩm, dịch vụ, nhà cung cấp nước sở tại đang được hưởng hoặc sẽ được
hưởng trong tương lại.
Thứ hai, xét về bản chất của hai nguyên tắc thì MFN hướng đến việc
không phân biệt đối xử hàng hóa nước ngoài với nhau, trong khi nguyên tắc
NT không phân biệt hàng hóa nhập khẩu với hàng hóa nội địa.
Thứ ba, về phạm vi áp dụng nguyên tắc. MFN chủ yếu được áp dụng
trong lĩnh vực thuế quan, các loại lệ phí liên quan đến xuất nhập khẩu,
phương pháp đánh thuế và các khoản phí, lệ phí, nguyên tắc, thủ tục xuất
nhập khẩu, các trường hợp đánh thuế, phí nội địa đối với hàng hóa nhập khẩu,
về các luật lệ quy định và các điều kiện ảnh hưởng đến bán hàng. Còn nguyên
tắc NT thì chủ yếu áp dụng trong lĩnh vực thuế, lệ phí trong nước (không
được đánh cao hơn so với sản phẩm trong nước), điều kiện cạnh tranh (pháp
luật quy định và các yếu tố khác), phân phối, vận chuyển,...
Thứ tư, xét về các trường hợp ngoại lệ của hai nguyên tắc. Về nguyên tắc
MFN thì áp dụng đối với những nước tham gia chế độ thuế quan đặc biệt, hội
14


nhập kinh tế khu vực và thế giới tạo ra hành lang pháp lý thống nhất thúc đẩy
quá trình giao lưu, hợp tác trong khu vực và thế giới, áp dụng đối với các
nước đang phát triển hay còn được gọi là chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập.
Trong khi đó các ngoại lệ của NT lại hướng đến các vấn đề như: cung cấp các

khoản tiền trợ cấp với người sản xuất trong nước, phân bổ thời gian chiếu
phim trong nước và chiếu phim nước ngoài, mua sắm Chính phủ, các khoản
chi phí, viện trợ trong nước được tính trên cơ sở các hoạt động mang tính kinh
tế của phương tiện vận tải.
1.2 Quy định của pháp luật Việt Nam về nguyên tắc đãi ngộ quốc gia
Để đảm bảo thực thi các điều ước quốc tế đã tham gia, tận dụng tối đa các
lợi ích mà các điều ước đó mang lại thì nội dung các điều ước phải được nội hóa
thành các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ pháp luật trong nước. Các
quy định đó được áp dụng trong thực tế một cách trực tiếp hay gián tiếp thì mục
đích cuối cũng là thu được những lợi ích tốt nhất từ việc gia nhập, tham gia các
điều ước quốc tế và hội nhập kinh tế với nền kinh tế thế giới.
1.2.1 Các văn bản pháp luật quy định về nguyên tắc đãi ngộ quốc gia
Pháp luật Việt Nam về nguyên tắc NT và nguyên tắc MFN gồm các văn
bản sau đây:
- Pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội số 41/2002/PLUBTVQH10 25/5/2002 về đối xử tối huệ quốc và đãi ngộ quốc gia trong
thương mại quốc tế (Pháp lệnh MFN, NT).
- Quy định về MFN và NT trong cam kết gia nhập WTO của Việt Nam và
các Hiệp định thương mại song phương và đa phương mà Việt Nam đã ký kết
(theo nguyên tắc ưu tiên áp dụng điều ước quốc tế, các nguyên tắc thừa nhận
trong các văn bản này sẽ được ưu tiên áp dụng trong trường hợp có mâu thuẫn
giữa các văn bản này với các quy định của pháp luật nội địa của Việt Nam).
1.2.2 Nội dung pháp luật quy định của pháp luật Việt Nam về nguyên
tắc đãi ngộ quốc gia
Xuyên suốt tất cả các Hiệp định mà nước ta đã tham gia và ký kết luôn
đề cao các nguyên tắc của pháp luật quốc tế thể hiện tinh thần tôn trọng pháp
15


luật quốc tế đồng thời bảo vệ và phát huy các ưu thế của các Hiệp định để
phát triển kinh tế trong nước. Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia được Việt Nam tôn

trọng và cụ thể hóa bằng pháp luật quốc gia. Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ
Quốc hội số 41/2002/PL-UBTVQH10 ngày 25 tháng 5 năm 2002 về đối xử
tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế.
1.2.2.1 Khái niệm nguyên tắc đãi ngộ quốc gia theo pháp luật Việt Nam
Theo quy định của Pháp lệnh về đối xử tối huệ quốc và đối xử quốc gia
thì nguyên tắc NT không đưa khái niệm chung mà đã tách ra theo từng lĩnh
vực điều chỉnh trong quan hệ thương mại quốc tế:
Đối xử quốc gia trong thương mại hàng hoá là đối xử không kém thuận
lợi hơn đối xử mà Việt Nam dành cho hàng hoá nhập khẩu so với hàng hoá
tương tự trong nước.
Đối xử quốc gia trong thương mại dịch vụ là đối xử không kém thuận lợi
hơn đối xử mà Việt Nam dành cho dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ nước
ngoài so với dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ tương tự trong nước.
Đối xử quốc gia trong đầu tư là đối xử không kém thuận lợi hơn đối xử
mà Việt Nam dành cho đầu tư và nhà đầu tư nước ngoài so với đầu tư và nhà
đầu tư trong nước trong những điều kiện tương tự.
Đối xử quốc gia đối với quyền sở hữu trí tuệ là đối xử không kém thuận
lợi hơn đối xử mà Việt Nam dành cho việc xác lập, bảo hộ và thực thi các
quyền sở hữu trí tuệ và mọi lợi ích có được từ các quyền đó của tổ chức, cá
nhân nước ngoài so với tổ chức, cá nhân trong nước.
1.2.2.2 Nội dung chính của Pháp lệnh MFN, NT
Pháp lệnh đã quy định các nội dung của pháp luật quốc tế về nguyên tắc
phân biệt đối xử, tạo hành lang pháp lý cần thiết để mở cửa thị trường, tham
gia vào “sân chơi” quốc tế. Bên cạnh những hiệu quả mà Pháp lệnh mang lại
thì quy định của pháp luật Việt Nam còn có những quy định chưa phù hợp với
yêu cầu hiện tại. Qua tìm hiểu thì một số vụ kiện xảy ra có một phần nguyên
nhân từ những quy định của pháp luật quốc tế. Các quy định đó chưa thống
16



nhất, nội hàm các quy định chưa được hiểu nhất quán, các chủ thể có các cách
hiểu khác nhau dẫn đến những hành vi vi phạm. Ví dụ như những quy định về
sản phẩm tương tự hay các biện pháp phòng vệ được các chủ thể hiểu và vận
dụng khác nhau hoặc các quy định chưa được giải thích đầy đủ và thừa nhận
trong tất cả các điều khoản liên quan. Vì thế, các chủ thể thực hiện không
thống nhất và có các hành vi vi phạm gây nên các vụ kiện ảnh hưởng đến
quan hệ thương mại giữa các nước với nhau.
Khái niệm “sản phẩm tương tự” có nội hàm khác nhau giữa các điều luật
trong quy định của GATT 1994 và các hiệp ước quy định cụ thể các điều
khoản của GATT đã gây nên những vụ tranh chấp. Vì thế, pháp luật Việt Nam
nên quy định thống nhất nội hàm của khái niệm “sản phẩm tương tự” trong tất
cả các quy định liên quan một cách đầy đủ hơn, chi tiết hơn để tránh các cách
hiểu, cách giải thích khác nhau về vấn đề này.
Tóm lại, nếu các quốc gia tham gia hay ký kết các Điều ước quốc tế có
liên quan đến nguyên tắc NT thì các quốc gia bị thiệt hại có quyền khởi kiện
đến WTO về hành vi vi phạm pháp luật quốc tế trong lĩnh vực thương mại
tương ứng. Khi xảy ra một tranh chấp trong WTO thì các bên phải tuân thủ cơ
chế giải quyết tranh chấp của WTO được xây dựng trên các nguyên tắc sau
đây: công bằng, nhanh chóng, hiệu quả và chấp nhận được đối với các bên
tranh chấp, phù hợp với mục tiêu bảo toàn các quyền và nghĩa vụ, phù hợp
với các điều ước quốc tế trong lĩnh vực thương mại có liên quan dựa trên các
quy phạm của tập quán thương mại quốc tế về việc giải thích các điều ước
quốc tế. Ngoài ra, khi giải quyết các tranh chấp trong WTO thì các bên còn áp
dụng được các quy định trong GATT 1947 khi tiến hành giải quyết tranh
chấp, đây là nguyên tắc có ý nghĩa quan trọng về vấn đề tồn tại hệ thống
thương mại toàn cầu là nguyên tắc “cấm đơn phương áp dụng các biện pháp
trả đũa” khi chưa được phép của WTO.

17



Chương 2. MỘT SỐ VỤ KIỆN TRONG WTO VI PHẠM NGUYÊN TẮC
ĐÃI NGỘ QUỐC GIA VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
Tranh chấp là một hiện tượng đang rất phổ biến hiện nay, đặc biệt trong
quan hệ thương mại quốc tế. Nó tồn tại mang tính chất tất yếu cùng với quá
trình vận động và phát triển của quan hệ thương mại toàn cầu trong giai đoạn
hiện nay. Khi các quan hệ thương mại phát triển ngày càng đa dạng, phức tạp,
nó không đơn thuần xảy ra ở trong một quốc gia hay một khu vực mà nó đang
là vấn đề toàn cầu. Các bên tranh chấp không chỉ là các nước phát triển mà
còn là tranh chấp giữa các nước đang phát triển hay giữa nước đang phát triển
với nước phát triển. Những tranh chấp thương mại đó làm ảnh hưởng nghiêm
trọng đến quan hệ thương mại của các quốc gia. Một nguyên nhân dẫn đến
tranh chấp là do các quốc gia sở tại vi phạm các nguyên tắc cơ bản của WTO,
để bảo vệ nền sản xuất nội địa một số quốc gia đã vi phạm nguyên tắc Đãi
ngộ quốc gia. Để giải quyết các xung đột về lợi ích của các chủ thể và duy trì
quan hệ thương mại quốc tế thì WTO đã đưa ra cách thức giải quyết các tranh
chấp và dung hòa được những nhu cầu của các bên. Sau đây là một số vụ
tranh chấp vi phạm nguyên tắc Đãi ngộ quốc gia điển hình.
2.1 Một số vụ kiện trong WTO vi phạm nguyên tắc Đãi ngộ quốc gia
2.1.1 Vụ kiện thịt bò Hàn Quốc
Mâu thuẫn trong quan hệ thương mại quốc tế có khả năng làm cho quan hệ
ngoại giao của 2 Nhà nước trở nên căng thẳng và tình hình chính trị bất ổn. Một
ví dụ điển hình là vụ kiện giữa Hoa Kỳ với Hàn Quốc trong vụ kiện tranh chấp
thịt bò nhập khẩu và việc quản lý hạn ngạch nhập khẩu thịt bò của Hàn Quốc.
2.1.1.1 Quan điểm của các bên tranh chấp
Các bên tranh chấp trong vụ kiện tranh chấp thịt bò nhập khẩu và việc
quản lý hạn ngạch nhập khẩu thịt bò của Hàn Quốc gồm:
-

Bên khởi kiện: Hoa Kỳ

Bên bị kiện: Hàn Quốc
Bên thứ 3: Australia, Canada, New Ziland

18


Cuối những năm 90 của thế kỉ XX, Hàn Quốc thực thi việc nhập khẩu,
phân phối và bán thịt bò để bình ổn chính sách theo Luật về Phân phối và
Bình ổn giá sản phẩm nông nghiệp và thủy sản và Luật gia cầm. Việc thực thi
chính sách mới của Bộ Nông nghiệp và thủy sản đã xuất hiện một hệ thống
bán lẻ kép về loại sản phẩm là thịt bò nhập khẩu và nội địa. Hệ thống này bao
gồm các cửa hàng riêng biệt cho thịt bò nhập khẩu và thịt bò trong nước. Các
loại thịt bò nhập khẩu chỉ có thể được bán trong các của hàng thịt bò nhập
khẩu đặc biệt, trừ thịt bò nhập khẩu đã được đóng gói trước. Không chỉ thế,
thị bò nhập khẩu không được bán tại khoảng 45.000 cửa hàng bán lẻ, các nhà
phân phối có quy mô lớn như các siêu thị và khi bán thịt bò nhập khẩu cần
phải có một khu vực riêng dành cho thịt bò nhập khẩu và phải treo biển “Cửa
hàng chuyên bán thịt bò nhập khẩu”.
Trước những hành vi nêu trên, Hoa Kỳ đã yêu cầu tham vấn Hàn Quốc
về việc Hàn Quốc phân biệt đối xử với thịt bò nhập khẩu với thịt bò nội địa
khi hạn chế việc bán thịt bò nhập khẩu tại các cửa hàng chuyên biệt (hệ thống
bán lẻ kép), hạn chế cách thức trưng bày hàng bán và các biện pháp khác
nhằm hạn chế cơ hội bán hàng của thịt bò nhập khẩu. Hoa Kỳ cho rằng các
hành vi của Hàn Quốc đã vi phạm Hiệp định về nông nghiệp khi hạn chế nhập
khẩu thịt bò và trợ cấp cho ngành công nghiệp chăn nuôi nội địa. Bằng lập
luận của mình, Hoa Kỳ đã khẳng định Hàn Quốc đã vi phạm các điều II, III,
XI và điều XVII của GATT 1994, điều 3, 4, 6, 7 của Hiệp định về nông
nghiệp và điều 1, 3 của Hiệp định nhượng quyền nhập khẩu.
Ngày 01/02/1999, Hòa Kỳ đã yêu cầu tham vấn Hàn Quốc về vấn đề
này. Ngày 13/04/1999, Australia yêu cầu tham vấn với Hàn Quốc về vấn đề

tương tự trên của Hoa Kỳ.
Theo quan điểm từ phía Hàn Quốc thì Hàn Quốc khẳng định hệ thống
bán lẻ được thành lập và đi vào hoạt động của hệ thống bán lẻ kép để giải
quyết các thực tiễn về việc hàng hóa, sản phẩm bị giả mạo trên thị trường, để
chống lại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo Luật Cạnh tranh
không lành mạnh. Để chống lại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên.
19


Hàn Quốc cũng duy trì hạn ngạch nhập khẩu đối với thịt bò nhất quán với
WTO. Hạn ngạch được phân bố giữa LPMO, một công ty thương mại nhà
nước và SBS, một cơ chế cho phép pháp nhân, chứ không phải là LPMO nhập
khẩu thịt bò. Sự ra đời của SBS được thành lập dựa trên tham vấn giữa Hàn
Quốc với các nước: Hoa Kỳ, Australia, New Ziland vào giữa năm 1993 về hệ
thống quản lý thịt bò nhập khẩu Hàn Quốc.
LPMO nhập khẩu thịt bò theo giá thị trường thế giới thông qua hệ thống
đấu thầu và phân phối thịt bò thông qua đấu giá cho các nhà bán buôn hoặc
bán trực tiếp cho các nhà chế biến hoặc quân đội. LPMO kiểm soát nhập khẩu
thịt bò hoặc bằng cách từ chối không đặt thầu hoặc làm chậm chễ tiến trình
thầu. LPMO xác định việc kế hoạch mua hàng hàng năm và kế hoạch phân
phối cho năm tiếp theo, có tính đến mức dự báo cho nhu cầu thịt bò trong
nước, sản xuất và giá cả. LPMO đặt ra giá đấu thầu chấp nhận được ở mức tối
thiểu cho khối lượng và loại thịt bò nhập khẩu trên cơ sở hàng ngày. Từ lập
luận của mình, Hàn Quốc bác bỏ lập luận của Hoa Kỳ cũng như của Australia.
Đồng thời khẳng định các hành vi của mình không vi phạm quy định của
GATT năm 1994 và cho rằng nếu hệ thống bán lẻ kép của mình và các biện
pháp quản lý liên quan có vi phạm điều III:4 của GATT 1994 thì các hành vi
trên thuộc ngoại lệ của điều XX(d) của GATT 1994.
2.1.1.2 Tóm tắt vụ kiện
Tranh chấp này liên quan đến các biện pháp được áp dụng đối với thịt bò

nhập khẩu và việc quản lý hạn ngạch nhập khẩu thịt bò của Hàn Quốc. Hoa
Kỳ và Australia đã khiếu nại hệ thống bán lẻ kép của Hàn Quốc đã phân biệt
thịt bò nhập khẩu và nội địa và các quy định theo điều III:4 của GATT 1994.
Hoa Kỳ và Australia phản đối việc quản lý hạn ngạch nhập khẩu thịt bò của
LPMO trên cơ sở lập luận chúng vi phạm Điều XI:1 và XVII của GATT 1994.
Hàn Quốc bảo vệ các biện pháp của mình với lập luận họ không vi phạm các
nghĩa vụ này của GATT và cho rằng nếu hệ thống bán lẻ kép và các biện pháp
quản lý liên quan vi phạm điều III:4 của GATT 1994 thì chúng được cho phép
theo ngoại lệ của điều XX(d) của GATT 1994.
20


2.1.1.3 Các vấn đề trong vụ kiện tranh chấp thịt bò nhập khẩu và việc
quản lý hạn ngạch nhập khẩu thịt bò của Hàn Quốc
Từ các quan điểm của các bên thì các vấn đề đặt ra cho cơ quan giải
quyết: (i) Liệu hệ thống bán lẻ kép của Hàn Quốc và biện pháp liên quan có vi
phạm điều XI:1 của GATT 1994 với việc phân biệt đối xử giữa thịt bò trong
nước với thịt bò nhập khẩu hay không? (ii) Nếu hệ thống bán lẻ kép của Hàn
Quốc vi phạm điều XI:1 của GATT 1994, liệu điều này có được phép theo
ngoại lệ điều XX(d) của GATT 1994 hay không? (iii) Liệu LPMO của Hàn
Quốc có xử sự nhất quán với các nghĩa vụ đặt ra cho một Doanh nghiệp
Thương mại nhà nước (STE) như yêu cầu của Điều XVII của GATT 1994 hay
không? (iv) Liệu IPMO có đặt ra các hạn chế thiếu nhất quán với điều XI:1
của GATT 1994 hay không?
2.1.1.4 Lập luận của các bên và kết quả
Hoa Kỳ và các nước thứ ba đều cho rằng việc Hàn Quốc sử dụng hệ
thống bán lẻ kép và các biện pháp tiếp thị liên quan mà phía Hàn Quốc cho là
để ngăn chặn hành vi cạnh tranh không lành mạnh đã vi phạm điều III:4 của
GATT 1994, hành vi này thực chất là dành nhiều ưu đãi cho thịt bò trong
nước. Hành vi nêu trên của Hàn Quốc đã được GATT quy định và Hàn Quốc

đã thực hiện hành vi vi phạm nguyên tắc NT. Điều III:4 quy định “Sản phẩm
nhập khẩu từ lãnh thổ của bất cứ một bên ký kết nào vào lãnh thổ của bất cứ
một bên ký kết khác sẽ được hưởng đãi ngộ không kém phần thuận lợi hơn sự
đãi ngộ dành cho sản phẩm tương tự có xuất xứ nội về mặt luật pháp, quy tắc
và các quy định tác động đến bán hàng, chào bán, mua, chuyên chở, phân
phối hoặc sử dụng hàng trên thị trường nội địa. Các quy định của khoản này
sẽ không ngăn cản việc áp dụng các khoản thu phí vận tải khác biệt chỉ hoàn
toàn dựa vào yếu tố kinh tế trong khai thác kinh doanh các phương tiện vận
tải và không dựa vào quốc tịch của hàng hoá”.
Việc Hàn Quốc thực hiện bán hàng qua hệ thống kép đã vi phạm nguyên
tắc này. Ở khâu phân phối, trưng bày sản phẩm thì đã có việc phân biệt, cụ thể
là thịt bò nhập khẩu không được bán ở khoảng 45.000 cửa hàng hay trong các
21


nhà phân phối lớn như siêu thị thì thịt bò nhập khẩu phải đặt của hàng riêng
biệt có treo các biển “ Cửa hàng chuyên bán thịt bò nhập khẩu”.
Phía Hàn Quốc đưa ra lập luận chứng minh cho các hành vi vi phạm của
mình là bảo vệ quyền lợi, uy tín của các nhà nhập khẩu cũng như nhà sản xuất
trong nước vì hành vi này hạn chế, ngăn chặn các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh của các đối thủ của nhau trên thị trường Hàn Quốc. Mặt khác, thịt
bò nhập khẩu và thịt bò nội địa đều do một hệ thống quản lý điều tiết như
nhau. Về phía người tiêu dùng vẫn tự do lựa chọn các cửa hàng bán thịt bò
nhập khẩu hay của hàng bán thịt bò nội địa, tất cả đều dựa trên cơ chế điều
tiết của thị trường. Mặt khác, việc mở cửa hàng bán thịt bò nhập khẩu hay thịt
bò nội địa do các nhà kinh doanh tự quyết định một cách tự do, Hàn Quốc
không can thiệp đến vấn đề này. Còn vấn đề hạn ngạch nhập khẩu thịt bò nhất
quán với WTO mà Hàn Quốc chưa sử dụng hết kể từ khi tham gia vào WTO.
Theo quy định tại điều III:4 hướng đến “sản phẩm tương tự”. Để áp dụng
điều III:4 của GATT các khởi kiện đã chứng minh được thịt bò trong nước với

thịt bò nhập khẩu là “sản phẩm tương tự” của nhau (vấn đề này được hai bên
đồng ý, không bên nào có quan điểm khác), việc phân biệt của Hàn Quốc được
thực hiện thông qua các quy định trong nước cụ thể là việc thực thi Luật về
Phân phối và Bình ổn giá sản phẩm nông nghiệp và thủy sản và Luật Gia cầm.
Vấn đề tiếp theo cần chứng minh là các hành vi của Hàn Quốc đã tạo sự phân
biệt đối xử giữa thịt bò trong nước với thịt bò nhập khẩu. Các nước khởi kiện
đưa ra lập luận dựa vào hệ thống cửa hàng bán lẻ kép đã loại thịt bò nhập khẩu
ra khỏi hệ thống bán lẻ thông thường, việc các cửa hàng bán thịt bò nhập khẩu
bị nằm ở các khu vực chuyên biệt hay việc các cửa hàng treo các biển ghi chú
bán sản phẩm nhập khẩu đã tước bỏ cơ hội cạnh tranh với sản phẩm trong
nước. Ngoài ra, Hàn Quốc đã khiến người tiêu dùng bị hạn chế khả năng so
sánh các sản phẩm trong nước với nhập khẩu về giá cả, chất lượng, từ đó tạo ra
sự phân biệt sản phẩm trong nhận thức người tiêu dùng. Ngoài ra, trên thị
trường Hàn Quốc có nhiều sản phẩm có hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh
nhưng Hàn Quốc chỉ áp dụng hệ thống cửa hàng bán lẻ kép cho thịt bò nhập
22


khẩu. Mục đích của điều III:4 là hướng tới các sản phẩm nhập khẩu tiếp cận thị
trường nội địa một cách hiệu quả và các sản phẩm này được dành các cơ hội thị
trường tương tự như các sản phẩm trong nước. Với hành vi phân biệt qua hệ
thống phân phối và cách thức trưng bày thì thịt bò nhập khẩu đã bị tước bỏ các
lợi ích cần thiết theo quy định tại điều III:4 của GATT 1994.
Từ những lập luận, chứng cứ mà các bên tranh chấp cung cấp, Ban hội
thẩm quyết định rằng: Hàn Quốc đã có những hành vi vi phạm, các quy định
của Hàn Quốc là trái với quy định của điều III:4; còn vấn đề hạn ngạch nhập
khẩu mà Hàn Quốc cho rằng là hành vi nhất quán với WTO thì Ban hội thẩm
khẳng định sự tồn tại của nó không liên quan đến hệ thống bán lẻ kép, là vi
phạm điều III:4, hệ thống bán lẻ kép cần tôn trọng các quy định của WTO đặc
biệt trong vụ kiện này là điều III:4 của GATT 1994.

Vấn đề tiếp theo là hành vi vi phạm của Hàn Quốc được áp dụng điều
XX(d) hay không vì Hàn Quốc cho rằng nếu hệ thống cửa hàng bán lẻ kép có
vi phạm điều III:4 thì vẫn thuộc trường hợp ngoại lệ của điều III:4 của GATT
1994, coi đó là một biện pháp cần thiết để thực thi Luật về Chống các hành vi
không lành mạnh nhằm ngăn chặn sự giả mạo. Ban hội thẩm đã bác bỏ lập luận
của Hàn Quốc về việc hưởng ngoại lệ của điều III:4 vì Hàn Quốc không “cần
thiết” sử dụng hệ thống cửa hàng bán lẻ kép và Hàn Quốc cũng có thể sử dụng
các biện pháp khác để ngăn cản hành vi giả mạo, vi phạm cạnh tranh không
lành mạnh. Ngoài sản phẩm thịt bò thì Hàn Quốc còn có nhiều sản phẩm bị giả
mạo nhưng Hàn Quốc chỉ sử dụng biện pháp là hệ thống bán lẻ kép cho thịt bò
nhập khẩu, điều này chứng tỏ còn có các biện pháp khác thay thế cho biện pháp
sử dụng đối với thịt bò nhập khẩu nhưng Hàn Quốc đã không sử dụng. Vì thế
Ban hội thẩm cũng đã từ chối lập luận từ phía Hàn Quốc.
Ngoài việc vi phạm nguyên tắc NT thì Hàn Quốc còn bị Hoa Kỳ và các
nước thứ ba khởi kiện vì hành vi vi phạm điều XI:1 và điều XVII. Hàn Quốc
đã sử dụng hạn ngạch nhập khẩu thịt bò nhập khẩu đã vi phạm quy định tại
điều XI:1 thông qua hành vi hạn chế phân phối sản phẩm tại khoảng 45.000
cửa hàng. Ban hội thẩm cũng cho rằng LMPO đã làm chậm trễ việc bán thịt
23


bò nhập khẩu, họ đã không hành động nhất quán với các quy định chung về
không phân biệt đối xử theo quy định của điều XVII:1(a).
Hàn Quốc đã phúc thẩm quyết định của Ban hội thẩm nhưng không được
chấp nhận. Như vậy, hành vi của Hàn Quốc đã vi phạm các quy tắc của GATT
1994, ảnh hưởng đến lợi ích của các quốc gia có hoạt động thương mại tại
Hàn Quốc, đặc biệt là các nước trong vụ tranh chấp về các hành vi từ phía
Hàn Quốc.
2.1.2 Vụ kiện ô tô Inđônêsia
Khi tham gia vào các tổ chức thương mại có tính chất toàn cầu như

WTO, thì không riêng các nước phát triển mà ngay cả các nước đang phát
triển cũng bị kiện về các tranh chấp thương mại. Như vậy, yêu cầu hàng đầu
đặt ra tính công bằng khi giải quyết các vụ kiện tranh chấp cần được ưu tiên
để giúp các nước đang phát triển giảm thiểu tác động tiêu cực sau vụ kiện.
Trong quy định của Luật quốc tế nói chung hay trong WTO nói riêng, các
nước đang phát triển có thể sử dụng một số đặc quyền để việc tham gia các
“sân chơi” quốc tế tránh khỏi các tác động tiêu cực nhất có thể.
Một trong các nước đang phát triển dính vào một vụ kiện với các nước
phát triển hàng đầu thế giới là vụ kiện giữa Inđônsia với các nước Hoa Kỳ,
Ấn Độ, EU, Hàn Quốc về các biện pháp thuế và thuế quan cho loại hàng hóa
là ô tô.
2.1.2.1 Quan điểm của các bên tranh chấp
Các bên trong tranh chấp về các biện pháp thuế và thuế quan của các nhà
sản xuất ô tô vào thị trường Inđônêsia:
-

Bên khởi kiện: Cộng đồng Châu Âu
Bên bị khởi kiện: Inđônêsia
Bên thứ ba: Hoa Kỳ, Ấn Độ, Hàn Quốc
Để bảo vệ nền sản xuất ô tô nội địa còn non yếu, Inđônêsia đã thực hiện
hai chính sách ưu đãi cho nền sản xuất nội địa là Hệ thống ưu đãi 1993 được
sửa đổi 2 lần là vào năm 1995 và năm 1996 và Chương trình Ô tô quốc gia.
Để thực thi hiệu quả của chính sách khuyến khích phát triển nền sản xuất ô tô
24


nội địa, Inđônêsia đã sử dụng các biện pháp thuế và thuế quan để bảo vệ nền
sản xuất nội địa của mình. Cụ thể là: các loại ô tô nhập khẩu nguyên chiếc
(lắp ráp hoàn chỉnh) nhập khẩu vào thị trường nội địa Inđônêsia sẽ chịu thuế
tiêu thụ đặc biệt là 35% và các loại thuế nhập khẩu là lên đến 200% (phụ

thuộc vào từng loại xe nhập khẩu mà chịu mức thuế khác nhau); hệ thống Ưu
đãi năm 1993 (sửa đổi năm 1995, 1996) cho phép giảm hoặc miễn các loại
thuế đối với các phần, linh kiện và các phần phụ do các nhà sản xuất
Inđônêsia nhập khẩu được dựa trên tỉ lệ, hàm lượng nội địa của thành phẩm ô
tô và loại hình ô tô được nhập khẩu và chương trình của Hệ thống năm 1993
còn xóa bỏ hoàn toàn thuế tiêu thụ đặc biệt đối với một vài loại hàng hóa liên
quan đến ô tô.
Inđônêsia cho rằng các biện pháp mà mình thực hiện là biện pháp phòng
vệ thương mại - trợ cấp. Nên các chính sách đó là phù hợp với quy định của
pháp luật quốc gia cũng như Luật quốc tế.
Còn theo quan điểm của nước yêu cầu tham vấn và bên thứ ba thì cho
rằng các biện pháp mà Inđônêsia đã thực hiện là vi phạm quy định của Luật
quốc tế cụ thể như: EU cho rằng chính sách thuế và thuế quan của Inđônêsia
đánh vào hàng nhập khẩu là ô tô, các linh kiện kèm theo và các biện pháp
kèm theo đã vi phạm nghĩa vụ được quy định tại điều I, III của GATT 1994 vi
phạm nguyên tắc NT và nguyên tắc MFN và điều 2 của Hiệp định TRIMs và
điều 3 của Hiệp định SCM; Nhật Bản thì cho rằng các biện pháp, chích sách
của Inđônêsia đã vi phạm điều I:1, III:2,III:4 và X:3(a) của GATT 1994 và
điều 2, điều 5.4 của Hiệp định TRIMs; Hoa Kỳ thì có quan điểm rằng
Inđônêsia đã vi phạm điều I, III của GATT 1994, điều 2 của Hiệp định
TRIMs, điều 3,6 và điều 28 của Hiệp định SCM và điều 3, 20, 65 của Hiệp
định TRIPS.
Các bên khởi kiện điều cho rằng các biện pháp thuế và thuế quan đã vi
phạm các quy định của Luật quốc tế. Ví dụ, Inđônêsia đã có hành vi phân biệt
xuất xứ hàng hóa, cụ thể: đối với xe chở khách mà có sử dụng các linh kiện,
phụ tùng trong nước dưới 20% thì bị đánh thuế lên đến 100% thuế nhập khẩu
25



×