Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

CHỨNG cứ và CHỨNG MINH TRONG tố TỤNG HÀNH CHÍNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (440.43 KB, 37 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT
------------------

NIÊN LUẬN
CHỨNG CỨ VÀ CHỨNG MINH TRONG
TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH

Giáo viên hướng dẫn

Sinh viên thực hiện:

TS. Nguyễn Duy Phương

Nguyễn Thị Thu
Mã sinh viên: 13a5011358
Lớp: Luật K37D

Huế,6/2016
1


MỤC LỤC

2


Lời cảm ơn
Được sự phân công của tổ thực hành nghề nghiệp trường Đại Học Luật
Đại Học Huế và sự đồng ý của thầy giáo hướng dẫn TS.Nguyễn Duy Phương
sinh viên đã chọn đề tài “ chứng cứ chứng minh trong tố tụng hành chính”


làm niên luận.
Để hoàn thành niên luận này. Sinh viên xin chân thành cảm ơn thầy cô
giáo đã tận tình hướng dẫn, giảng dạy trong suốt quá trình học tập, nghiên
cứu tại trường Đại Học Luật Đại Học Huế.
Đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS.Nguyễn Duy
Phương, người đã chu đáo, hướng dẫn và tạo mọi điều kiện giúp em có thể
hoàn thành tốt bài niên luận này.
Mặc dù dã có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh
nhất. Song do mới buổi đầu làm quyen với công tác nghiên cứu cũng như hạn
chế về kiến thức và kinh nghiệm nên không khỏi tránh khỏi những thiếu sót
nhất định mà bản thân chưa thấy được. Sinh viên rất mong được sự góp ý của
quý thầy cô giáo, và các bạn đọc để bài niên luận này được hoàn chỉnh hơn.
Sinh viên xin chân thành cảm ơn!
Huế ngày 15/5/2016
Sinh viên
Nguyễn thị thu

3


A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài.
Cũng như các văn bản pháp luật tố tụng hình sự và dân sự, quy định về
chứng cứ, chứng minh chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống các quy
định về tố tụng hành chính, bởi đây là những quy định thể hiện bản chất của
tố tụng hành chính và tính dân chủ trong hoạt động tố tụng hành chính, là cơ
sở cho mọi hoạt động tố tụng để giải quyết vụ án hành chính có hiệu quả. Nội
dung của các quy định về chứng cứ, chứng minh thể hiện ý chí của nhà làm
luật, dựa trên quy luật khách quan của sự phát triển xã hội và bị chi phối bởi
nguyên tắc chung về chứng cứ, chứng minh. Các quy định về chứng cứ,

chứng minh trong tố tụng hành chính lần đầu tiên được ghi nhận trong Pháp
lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996, sửa đổi bổ sung năm
1998 và năm 2006. Tuy nhiên việc áp dụng các quy định của Pháp lệnh để
giải quyết các vụ án hành chính trong thời gian qua còn tuỳ tiện, thiếu thống
nhất. Không ít vụ án người khởi kiện phát hiện chứng cứ nhưng không đủ
điều kiện để thu thập được, ngoại trừ việc “cầu viện” toà án. Người bị kiện có
nghĩa vụ cung cấp chứng cứ nhưng cố tình không cung cấp hoặc cung cấp
không đầy đủ. Việc thu thập chứng cứ của đương sự, toà án từ phía các cơ
quan, tổ chức gặp không ít khó khăn do việc chậm trả lời, trả lời không chính
xác, không đầy đủ hoặc không đúng....Chính vì vậy các quy định này tiếp tục
được pháp điển hoá trong Luật Tố tụng hành chính năm 2010, có hiệu lực từ
ngày 01/7/2011. Việc pháp điển các quy định về thủ tục tố tụng nói chung và
quy định về chứng cứ, chứng minh trong Luật Tố tụng hành chính năm 2010
là hết sức cần thiết. Đây là văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực cao, điều
chỉnh một cách đầy đủ, toàn diện các quan hệ tố tụng trong giải quyết khiếu
kiện hành chính, đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, quản lý xã hội, quản lý nhà nước bằng pháp luật và tăng
cường bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
Thực trạng trên với mong muốn nghiên cứu làm sáng tỏ một cách đầy đủ
về cả lý luận và thực tiễn về chứng minh và chứng cứ trong tố tụng hành
chính sinh viên chọn đề tài: “chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hành
chính” làm niên luận.
4


2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Trước khi có Luật Tố Tụng Hành Chính năm 2010. Mọi thủ tục tố tụng
hành chính đều thực hiện theo các pháp lệnh trên. Bởi vậy, một số bài viết,
luận văn được nghiên cứu theo các pháp lệnh đó. Từ khi luật tố tụng hành
chính có hiệu lực kể từ ngày 1/7 năm 2011 vấn đề chứng minh và chứng cứ

mới chỉ có một số bài viết như “luật tố tụng hành chính bước tiến quan trọng
về quy định chứng cứ, chứng minh trong luật tố tụng hành chính năm 2010”
của tác giả Nguyễn Thị Thu Hương ,Khoa Đào tạo thẩm phán – Học viện Tư
pháp; “Những vấn đề cần chứng minh trong tố tụng hành chính” của thạc sĩ
Trần Thị Hạnh Dung đăng ngày 22/1/2013 trên trang wiki luật; “hoàn thiện
quy định của luật tố tụng hành chính về việc giao nộp, thu thập chứng cứ
trong vụ án hành chính” tác giả Nguyễn Sơn Lâm kiểm sát viện kiểm sát
nhân dân tối cao số 13/2014 tr 47-51. Những bài viết trên giả quyết nhiều khía
cạnh về vấn đề chứng cứ và vấn đề chứng minh trong các lĩnh vực cụ thể, là
tài liệu để sinh viên hoàn thiện bài niên luận này.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài.
Với một nội dung của một niên luận, sinh viên chưa có đủ điều kiện
nghiên cứu hết các vấn đề chứng cứ và chứng minh trong tất cả các vụ án
hành chính theo phạm vi điều chỉnh của luật tố tụng hành chính, vì vậy tác giả
chỉ nghiên cứu chuyên sâu về chứng cứ chứng minh trong phạm vi các vụ án
hành chính truyền thống, còn trong các lĩnh vực khác tác giả hi vọng sẽ có cơ
hội thực hiện đầy đủ nội dung của chế định này trong các công trình nghiên
cứu sau này.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài.
Niên luận được nghiên cứu theo phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin và một số phương pháp cụ thể như: lịch sử phân tích, so sánh, chứng
minh, tổng hợp và phương pháp xã hội, phương pháp khảo sát thăm dò...

5


5. Mục đích nhiệm vụ nghiên cứu đề tài.
- Nghiên cứu các vấn đề lí luận và thực tiễn của chứng cứ và chứng minh
trong tố tụng hành chính.
- Nghiên cứu đưa ra những vấn đề cơ bản nhất, giúp cho việc nhận thức

một cách rõ nét về chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hành chính.
- Từ việc nghiên cứu những hạn chế, bất cập, vướng mắc trong thực tiễn
đề xuất những kiến nghị trong việc hoàn thiện các quy định về chứng cứ.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của niên luận.
- Xây dựng khái niệm khoa học về chứng cứ và khái niện chứng minh
trong tố tụng hành chính.
- Chỉ ra các vấn đề của chứng cứ trong tố tụng hành chính.
- Chỉ ra những bất cập của luật thực định và những vướng mắc về chứng
cứ và chứng minh trong thực tiễn cần giải quết và nêu những kiến nghị cho
việc hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
7. kết cấu của niên luận.
Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phần
nội dung của niên luận bao gồm 2 chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận và quy định về chứng cứ và chứng
minh trong tố tụng hành chính.
Chương II: thực tiễn áp dụng và phương thức hoàn thiện chế định
chứng chứ và chứng minh trong tố tụng hành chính.

B. NỘI DUNG

6


CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH VỀ CHỨNG
CỨ VÀ CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH
I.

CHỨNG CỨ TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH.

1.1 .Khái niện chứng cứ và các thuộc tính của chứng cứ.

1.1.1. Khái niệm chứng cứ.
Chứng cứ là vấn đề trung tâm và quan trọng của tố tụng hành chính.có
thể nói mọi hoạt động trong quá trình chứng minh chủ yếu xoay quanh vấn đề
chứng cứ, mọi giai đoạn của tố tụng hành chính mở ra, kết thúc và kết quả
đều phụ thuộc phần lớn vào chứng cứ. Có thể nói, chứng cứ là phần quan
trọng, lớn nhất để chứng minh vụ án hành chính. Dựa vào chứng cứ để các
đương sự có cơ sở để chứng minh bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình;
các cơ quan tiến hành tố tụng có đủ hay không đủ điều kiện để xác định tình
tiết của vụ án hành chính đúng, đủ, chính xác để bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp cho công dân và bảo vệ pháp luật. Vì vậy việc nhận định chứng cứ có
vai trò quan trọng nhất trong hoạt động chứng minh của tố tụng hành chính,
từ đó giúp việc nhận thức đúng đắn về hoạt động thực tiễn.
Cơ sở về lý luận: quan điểm vật chất sinh ra không bao giờ mất đi, mà
nó chỉ chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác và mọi sự vật hiện tượng có
mối liên hệ phổ biến. Từ đó, các tài liệu, sự kiện, hiện vật được coi là chứng
cứ cũng là một dạng vật chất, nó phản ánh vào đầu óc con người và lưu lại
trong đầu óc trí nhớ.
Do vậy đương sự muốn chứng minh quyền và lợi ích hợp pháp của mình
phải cung cấp cho tòa án và các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền
những chứng cứ mà luật tố tụng hành chính coi đó là một trong những nguồn
của chứng cứ. Để làm rõ sự thật khác quan khi thụ lí vụ án vụ án hành chính,
tòa án phải làm sáng tỏ những tình tiết liên quan đến vụ án như: việc xác lập
nghĩa vụ của đương sự trên cơ sở nào? Các đương sự đã cung cấp được các
chứng cứ gì? Và có khả năng thu thập thêm được một số chứng cứ gì khác? Từ
đó tòa án sẽ tiếp tục nhận vụ án thực hiện tất cả các biện pháp để nhằm thu thập
7


đầy đủ, toàn diện, chính xác, đúng đắn các loại nguồn chứng cứ mà pháp luật
có quy định để có cơ sở giải quyết khách quan, đúng đắn vụ án hành chính.

Ở Việt Nam, khái niệm chứng cứ được xây dựng từ thực tế khác quan
của bản thân chứng cứ chứ không lệ thuộc vào ý chí con người; đánh giá
chứng cứ trong mối liên hệ biện chứng, mỗi chứng cứ đều có nguồn gốc dẫn
đến sự hình thành nên nó, sự tồn tại của chứng cứ luôn ở dạng động, liên quan
tới nhau. Từ đó luật tố tụng hành chính Việt Nam định nghĩa về chứng cứ như
sau: Chứng cứ trong vụ án hành chính là những gì có thật được đương sự, cá
nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho tòa án hoặc do Tòa án thu thập
được theo trình tự, thủ tục do luật này quy định mà Tòa án dùng làm căn cứ
để xác đinh yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp
hay không cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng
đắn vụ án hành chính ( điều 74 luật tố tụng hành chính 2010) hay nói cách
khác, chứng cứ trong vụ án hành chính là những gì có thật được đương sự, cơ
quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án trong quá trình tố
tụng hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do Luật này quy
định mà Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của
vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ
và hợp pháp.(điều 80 luật tố tụng hành chính 2015 sửa đổi)
1.1.2. Các thuộc tính của chứng cứ.
- Tính khách quan của chứng cứ.
Chứng cứ trước hết là những gì có thật tồn tại khách quan không phụ
thuộc vào ý thức chủ quan của con người. Đương sự và các cơ quan tiến hành
tố tụng không được tạo ra chứng cứ, nếu vậy tính khách quan sẽ không còn;do
đó không thể coi là chứng cứ.con người phát hiện tìm kiếm và thu thập chứng
cứ. Con người nghiên cứu và đánh giá để sử dụng nó.

8


- Tính liên quan của chứng cứ.
Chứng cứ liên quan đến vụ án hành chính là những tài liệu mà nội dung

của nó phản ánh khách quan các tính tiết sự kiện về quan hệ pháp luật hành
chính trong vụ khiếu kiện. Chứng cứ đó khẳng định sự tồn tại một sự kiện bất
kì có giá trị làm sáng tỏ những vẫn đề chứng minh của vụ án. Tính liên quan
của chứng cứ là khả năng xác định những tình tiết thuộc đối tượng chứng
minh của vụ án.
- Tính hợp pháp của chứng cứ.
Chứng chứ được đương sự, cá nhân, cơ quan tổ chức khác giao nộp cho
tòa án hoặc do tòa án thu thập được theo trình tự thủ tục luật định. Đặc tính này
dòi hỏi phải được đưa ra từ những nguồn hợp pháp và thu thập một cách hợp
pháp. Nếu chứng cứ được thu thập không hợp pháp thì tòa án sẽ không chấp
nhận vì nếu không được tòa án chấp nhận thì không được gọi là chứng cứ.
1.2 Nguồn của chứng cứ.
Một trong nhưng vấn đề quan trọng về chứng cứ đó là xác đinh nguồn
chứng cứ, đó là nơi phát hiện hoặc nơi có thể cung cấp chứng cứ cho việc giải
quyết vụ án hành chính. Nguồn của chứng cứ được hiểu là nơi chứa đựng
hoặc nơi có thể cung cấp, rút ra chứng cứ. Điều 75 luật tố tụng hành chính
năm 2010 quy định: chứng cứ trong tố tụng hành chính có thể được thu thập
từ các nguồn sau đây;
1. Các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được;
2. Vật chứng;
3. Lời khai của đương sự;
4. Lời khai của người làm chứng;
5. Kết luận giám định;
6. Biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ;
7. Kết quả định giá, thẩm định giá tài sản;
8. Các nguồn khác mà pháp luật có quy định.
9


Ngoài các nguồn trên tại điều 81 luật tố tụng hành chính bổ sung sửa đổi

năm 2015 còn có quy định thêm:
-

Văn bản xác nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng lập.

-

Văn bản công chứng, chứng thực.
1.3 Nghĩa vụ cung cấp giao nộp , xác minh thu thập , bảo quản,
bảo vệ, đánh giá công bố, sử dụng chứng cứ.
1.1.3. Nghĩa vụ cung cấp, giao nộp chứng cứ.
Điều 72 Luật tố Tụng hành chính năm 2010 quy định về Nghĩa vụ cung
cấp chứng cứ, chứng minh trong tố tụng hành chính
- Người khởi kiện có nghĩa vụ cung cấp bản sao quyết định hành chính
hoặc quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về
quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, bản sao quyết định giải quyết khiếu nại
(nếu có), cung cấp chứng cứ khác để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
mình; trường hợp không cung cấp được thì phải nêu rõ lý do.
- Người bị kiện có nghĩa vụ cung cấp cho Tòa án hồ sơ giải quyết khiếu
nại (nếu có) và bản sao các văn bản, tài liệu mà căn cứ vào đó để ra quyết
định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết
khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh hoặc có hành vi hành chính.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ
để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Điều 77 luật tố tụng hành chính 2010 quy định về việc Giao nộp chứng
cứ như sau:
- Trong quá trình Toà án giải quyết vụ án hành chính, đương sự có quyền
và nghĩa vụ giao nộp chứng cứ cho Toà án; nếu đương sự không nộp hoặc nộp
không đầy đủ thì phải chịu hậu quả của việc không nộp hoặc nộp không đầy
đủ đó, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

- Việc đương sự giao nộp chứng cứ cho Toà án phải được lập biên bản về
việc giao nhận chứng cứ. Trong biên bản phải ghi rõ tên gọi, hình thức, nội
dung, đặc điểm của chứng cứ; số bản, số trang của chứng cứ và thời gian
10


nhận; chữ ký hoặc điểm chỉ của người giao nộp, chữ ký của người nhận và
dấu của Toà án. Biên bản phải lập thành hai bản, một bản lưu vào hồ sơ vụ án
hành chính và một bản giao cho đương sự nộp chứng cứ giữ.
- Đương sự giao nộp cho Toà án chứng cứ bằng tiếng dân tộc thiểu số,
tiếng nước ngoài phải kèm theo bản dịch sang tiếng Việt được công chứng,
chứng thực hợp pháp.
Về việc Giao nộp tài liệu, chứng cứ tại Điều 83 Luật tố Tụng hành chính
2015 có hiệu lực ngày 1/7/2016 có một số quy định mới như:
-

Khoản 1 “...nếu đương sự không nộp hoặc nộp không đầy đủ tài liệu, chứng
cứ do Tòa án yêu cầu mà không có lý do chính đáng thì Tòa án căn cứ vào tài
liệu, chứng cứ mà đương sự đã giao nộp và Tòa án đã thu thập theo quy định
tại khoản 2 Điều 84 của Luật này để giải quyết vụ án”

-

Khoản 4 “Thời gian giao nộp tài liệu, chứng cứ do Thẩm phán được phân
công giải quyết vụ án ấn định nhưng không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử
theo thủ tục sơ thẩm quy định tại Điều 130 của Luật này”.

-

Khoản 5 “Trường hợp tài liệu, chứng cứ đã được giao nộp chưa bảo đảm đủ

cơ sở để giải quyết vụ án thì Thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung
tài liệu, chứng cứ”.

-

Khoản 6 “Trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập được tài liệu,
chứng cứ và có yêu cầu hoặc xét thấy cần thiết, Tòa án có thể tự mình hoặc ủy
thác tiến hành xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để làm rõ các tình tiết của
vụ án”.
Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, đương sự có quyền và nghĩa
vụ giao nộp chứng cứ cho Tòa án, nếu đương sự không nộp hoặc không nộp đầy
đủ thì phải chịu hậu quả của việc không nộp, hoặc nộp không đầy đủ đó.
Việc đương sự nộp chứng cứ cho Tòa án phải được lập thành biên bản
về giao nhận chứng cứ. Trong biên bản phải ghi rõ tên gọi, hình thức, nội
dung đặc điểm, của chứng cứ, số bản, số trang của chứng cứ và thời gian
nhận, chữ ký hoặc điểm chỉ của người giao nộp,chữ ký của người nhận và dấu
11


của Tòa án. Biên bản được lập thành hai bản, một bản lưu vào hồ sơ vụ án
hành chính và một bản giao cho đương sự nộp chứng cứ giữ.
1.1.4. Xác minh thu thập chứng cứ.
Điều 78 Luật tố Tụng hành chính quy định về việc Xác minh, thu thập
chứng cứ như sau:
- Trường hợp xét thấy chứng cứ có trong hồ sơ vụ án hành chính chưa đủ cơ sở
để giải quyết thì Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án yêu cầu đương
sự giao nộp bổ sung chứng cứ.
- Trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập được chứng cứ và có yêu
cầu hoặc xét thấy cần thiết, Toà án có thể tự mình hoặc ủy thác tiến hành xác
minh, thu thập chứng cứ để làm rõ các tình tiết của vụ án.

- Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Toà án xác minh, thu thập chứng cứ trong
quá trình giải quyết vụ án. Trường hợp kháng nghị bản án, quyết định của Toà
án, Viện kiểm sát có thể tự mình thu thập hồ sơ, tài liệu, vật chứng trong quá
trình giải quyết vụ án.
- Các biện pháp xác minh, thu thập chứng cứ bao gồm:
+ Lấy lời khai của đương sự;
Thẩm phán chỉ tiến hành lấy lời khai của đương sự khi đương sự chưa có
bản khai hoặc nội dung bản khai chưa đầy đủ, rõ ràng. Đương sự phải tự viết
bản khai và ký tên của mình. Trong trường hợp đương sự không thể tự viết
được thì Thẩm phán lấy lời khai của đương sự. Việc lấy lời khai của đương sự
chỉ tập trung vào những tình tiết mà đương sự khai chưa đầy đủ, rõ ràng.
Thẩm phán tự mình hoặc Thư ký Toà án ghi lại lời khai của đương sự vào
biên bản. Thẩm phán lấy lời khai của đương sự tại trụ sở Toà án, trong trường
hợp cần thiết có thể lấy lời khai của đương sự ngoài trụ sở Toà án.
Biên bản ghi lời khai của đương sự phải được người khai tự đọc lại hay
nghe đọc lại và ký tên hoặc điểm chỉ. Đương sự có quyền yêu cầu ghi những
sửa đổi, bổ sung vào biên bản ghi lời khai và ký tên hoặc điểm chỉ xác nhận.
Biên bản phải có chữ ký của người lấy lời khai, người ghi biên bản và dấu của
Toà án; nếu biên bản được ghi thành nhiều trang rời nhau thì phải ký vào từng
12


trang và đóng dấu giáp lai. Trường hợp biên bản ghi lời khai của đương sự
được lập ngoài trụ sở Toà án thì phải có người làm chứng hoặc xác nhận của
Ủy ban nhân dân, cơ quan công an cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi lập biên
bản. Trường hợp đương sự không biết chữ thì phải có người làm chứng do
đương sự chọn.
Việc lấy lời khai của đương sự chưa đủ 18 tuổi, người bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự phải được tiến hành với sự có mặt của người đại diện theo
pháp luật hoặc người đang thực hiện việc quản lý, trông nom người đó.

(Điều 79 luật tố tụng hành chính 2010)
+ Lấy lời khai người làm chứng;
Theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết, Thẩm phán tiến
hành lấy lời khai của người làm chứng. Thủ tục lấy lời khai của người làm
chứng được tiến hành như việc lấy lời khai của đương sự. (điều 80 Luật tố
tụng hành chính 2010)
+ Đối chất;
Theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy có sự mâu thuẫn trong lời
khai của các đương sự, người làm chứng, Thẩm phán tiến hành đối chất giữa
các đương sự với nhau, giữa đương sự với người làm chứng hoặc giữa những
người làm chứng với nhau. Việc đối chất phải được ghi thành biên bản, có chữ
ký của những người tham gia đối chất.(điều 81 Luật tố tụng hành chính 2010)
+ Xem xét, thẩm định tại chỗ;
Việc xem xét, thẩm định tại chỗ phải do Thẩm phán tiến hành với sự có
mặt của đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi có đối
tượng cần xem xét, thẩm định; phải báo trước việc xem xét, thẩm định tại chỗ
để đương sự biết và chứng kiến việc xem xét, thẩm định đó.
Việc xem xét, thẩm định tại chỗ phải được ghi thành biên bản. Biên bản
phải ghi rõ kết quả xem xét, thẩm định, mô tả rõ hiện trường, có chữ ký của
người xem xét, thẩm định và chữ ký hoặc điểm chỉ của đương sự nếu họ có
mặt, của đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi có đối
13


tượng cần xem xét, thẩm định và những người khác được mời tham gia việc
xem xét, thẩm định. Sau khi lập xong biên bản, người xem xét, thẩm định
phải yêu cầu đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi có
đối tượng cần xem xét, thẩm định ký tên và đóng dấu xác nhận.( điều 82 luật
tố tụng hành chính 2010)
Tại điều 88 luật tố tụng hành chính 2015 có hiệu lực ngày 1/7/2016 Bổ

sung thêm thành phần tham gia xem xét, thẩm định tại chỗ gồm Thẩm phán,
đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã, công an xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan,
tổ chức nơi có đối tượng cần xem xét, thẩm định; phải báo trước việc xem xét,
thẩm định tại chỗ để đương sự biết và chứng kiến việc xem xét, thẩm định đó.
+ Trưng cầu giám định;
Theo yêu cầu của đương sự hoặc khi xét thấy cần thiết, Thẩm phán ra
quyết định trưng cầu giám định. Trong quyết định trưng cầu giám định phải
ghi rõ tên, địa chỉ của người giám định, đối tượng cần giám định, những vấn
đề cần giám định, các yêu cầu cụ thể cần có kết luận của người giám định.
Người giám định nhận được quyết định trưng cầu giám định phải tiến
hành giám định theo quy định của pháp luật.
Trong trường hợp xét thấy kết luận giám định chưa đầy đủ, rõ ràng hoặc
có vi phạm pháp luật thì theo yêu cầu của một hoặc các bên đương sự, Thẩm
phán ra quyết định giám định bổ sung hoặc giám định lại.
Người đã thực hiện việc giám định trước đó không được thực hiện giám
định lại.
( điều 83 luật tố tụng hành chính 2010)
Việc trưng cầu giám định, yêu cầu giám định tại điều 89 luật tố tụng
hành chính 2015 có hiệu lực ngày 1/7/2016 có điểm mới như sau:
Việc giám định lại được thực hiện trong trường hợp có căn cứ cho rằng
kết luận giám định lần đầu không chính xác, có vi phạm pháp luật hoặc trong
trường hợp đặc biệt theo quyết định của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân

14


tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao theo quy định của Luật giám định
tư pháp”.
+ Quyết định định giá tài sản, thẩm định giá tài sản;
Toà án ra quyết định định giá tài sản, thẩm định giá tài sản theo yêu cầu

của một hoặc các bên đương sự hoặc khi Toà án xét thấy cần thiết.
Hội đồng định giá do Toà án quyết định thành lập gồm Chủ tịch Hội
đồng là đại diện cơ quan tài chính và các thành viên là đại diện các cơ quan
chuyên môn có liên quan. Hội đồng định giá chỉ tiến hành định giá khi có mặt
đầy đủ các thành viên của Hội đồng. Trong trường hợp cần thiết, đại diện Ủy
ban nhân dân cấp xã nơi có tài sản định giá được mời chứng kiến việc định
giá. Các đương sự được thông báo trước về thời gian, địa điểm tiến hành định
giá, có quyền tham dự và phát biểu ý kiến về việc định giá. Quyền quyết định
về giá đối với tài sản định giá thuộc Hội đồng định giá.
Cơ quan tài chính và các cơ quan chuyên môn có liên quan có trách
nhiệm cử người tham gia Hội đồng định giá và tạo điều kiện để họ làm nhiệm
vụ. Người được cử làm thành viên Hội đồng định giá có trách nhiệm tham gia
đầy đủ vào việc định giá.
Việc định giá phải được ghi thành biên bản, trong đó ghi rõ ý kiến của
từng thành viên, của đương sự nếu họ tham dự. Quyết định của Hội đồng định
giá phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành. Các thành
viên Hội đồng định giá, đương sự, người chứng kiến ký tên vào biên bản.
Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành việc Toà án quyết định thẩm
định giá tài sản. (điều 85 luật tố tụng hành chính 2010)
+ Ủy thác thu thập chứng cứ;
Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính, Toà án có thể ra quyết định
ủy thác để Toà án khác hoặc cơ quan có thẩm quyền quy định tại khoản 4
Điều này lấy lời khai của đương sự, của người làm chứng, thẩm định tại chỗ,
định giá tài sản hoặc các biện pháp khác để thu thập chứng cứ, xác minh các
tình tiết của vụ án hành chính.
15


Trong quyết định ủy thác phải ghi rõ tên, địa chỉ của người khởi kiện,
người bị kiện và những công việc cụ thể ủy thác để thu thập chứng cứ.

Toà án nhận được quyết định ủy thác có trách nhiệm thực hiện công việc
cụ thể được ủy thác trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định
ủy thác và thông báo kết quả bằng văn bản cho Toà án đã ra quyết định ủy
thác; trường hợp không thực hiện được việc ủy thác thì phải thông báo bằng
văn bản cho Toà án đã ra quyết định ủy thác và nêu rõ lý do.
Trong trường hợp việc thu thập chứng cứ phải tiến hành ở ngoài lãnh thổ
Việt Nam thì Toà án làm thủ tục ủy thác thông qua cơ quan có thẩm quyền
của Việt Nam hoặc các cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài theo điều ước
quốc tế mà nước đó và Việt Nam là thành viên hoặc thực hiện trên nguyên tắc
có đi có lại nhưng không trái với pháp luật Việt Nam, phù hợp với pháp luật
và tập quán quốc tế. (điều 86 luật tố tụng hành chính 2010)
Tại khoản 5 điều 92 Luật tố tụng hành chính 2015 có hiệu lực ngày
1/7/2016 có điểm mới như sau:
“Trường hợp không thực hiện được việc ủy thác theo quy định tại khoản
3 và khoản 4 Điều này hoặc đã thực hiện việc ủy thác nhưng không nhận
được kết quả trả lời thì Tòa án giải quyết vụ án trên cơ sở chứng cứ đã có
trong hồ sơ vụ án”.
+ Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ.
Trong trường hợp đương sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập
chứng cứ mà vẫn không thể tự mình thu thập được thì có thể yêu cầu Toà án tiến
hành thu thập chứng cứ nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hành chính.
Đương sự yêu cầu Toà án tiến hành thu thập chứng cứ phải làm đơn ghi
rõ vấn đề cần chứng minh; chứng cứ cần thu thập; lý do vì sao tự mình không
thu thập được; họ, tên, địa chỉ của cá nhân, tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức
đang quản lý, lưu giữ chứng cứ cần thu thập.
Toà án, Viện kiểm sát có thể yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang
quản lý, lưu giữ cung cấp cho mình chứng cứ.
16



Cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ chứng cứ có trách
nhiệm cung cấp đầy đủ, kịp thời chứng cứ theo yêu cầu của Toà án, Viện kiểm
sát trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu; trường hợp không
cung cấp đầy đủ, kịp thời chứng cứ theo yêu cầu của Toà án, Viện kiểm sát thì
tùy theo mức độ vi phạm có thể bị xử lý theo quy định của pháp luật. ( Điều
87 luật tố tụng hành chính 2010)
Tại điều 93 luật tố tụng hành chính 2015 thì việc ủy thác thu thập chứng
cứ có điểm mới sau:
Khoản 3 “...Việc xử lý trách nhiệm đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân
không phải là lý do miễn nghĩa vụ cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án”;
Khoản 4 “Trường hợp Viện kiểm sát có yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng
cứ thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thực hiện theo quy định tại
khoản 3 Điều này”.
Điều 84 về việc xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ Luật tố tụng hành
chính 2015 có hiệu lực từ ngày 1/7/2016 có một số quy đinh mới như sau:
-

Khoản 1 quy định những biện pháp thu thập chứng cứ mà đương sự có quyền
tự mình thực hiện;

-

Khoản 4 “Trong giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm, Thẩm tra viên có thể tiến
hành các biện pháp thu thập chứng cứ quy định tại điểm a và điểm g khoản 2
Điều này.
Khi Thẩm tra viên tiến hành biện pháp quy định tại điểm g khoản 2 Điều
này, Tòa án phải ra quyết định, trong đó nêu rõ lý do và yêu cầu của Tòa án”.

-


Khoản 5 “Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày thu thập được tài liệu,
chứng cứ, Tòa án phải thông báo cho các đương sự để họ thực hiện quyền,
nghĩa vụ của mình”

-

Khoản 6 “...Trường hợp kháng nghị bản án hoặc quyết định của Tòa án theo
thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm thì Viện kiểm sát có thể xác minh,
thu thập tài liệu, chứng cứ để bảo đảm cho việc kháng nghị”.
17


18


1.1.5. Bảo quản, bảo vệ chứng cứ.
Điều 88. Luật tố tụng hành chính 2010 quy định về bảo quản chứng cứ
như sau:
-

Chứng cứ đã được giao nộp tại Toà án thì việc bảo quản chứng cứ đó do Toà

án chịu trách nhiệm.
- Chứng cứ không thể giao nộp được tại Toà án thì người đang lưu giữ chứng
cứ đó có trách nhiệm bảo quản.
- Trong trường hợp cần giao chứng cứ cho người thứ ba bảo quản thì Thẩm
phán ra quyết định và lập biên bản giao cho người đó bảo quản. Người nhận
bảo quản phải ký tên vào biên bản, được hưởng thù lao và phải chịu trách
nhiệm về việc bảo quản chứng cứ.
Điều 91 luật tố tụng hành chính 2010 quy định về bảo vệ chứng cứ

- Trong trường hợp chứng cứ đang bị tiêu hủy, có nguy cơ bị tiêu hủy hoặc sau
này khó có thể thu thập được thì đương sự có quyền làm đơn đề nghị Toà án
quyết định áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo toàn chứng cứ. Toà án có
thể quyết định áp dụng một hoặc một số trong các biện pháp niêm phong, thu
giữ, chụp ảnh, ghi âm, ghi hình, phục chế, khám nghiệm, lập biên bản và các
biện pháp khác.
- Trong trường hợp người làm chứng bị đe doạ, khống chế hoặc mua chuộc để
không cung cấp chứng cứ hoặc cung cấp chứng cứ sai sự thật thì Toà án có
quyền quyết định buộc người có hành vi đe doạ, khống chế hoặc mua chuộc
phải chấm dứt hành vi đe doạ, khống chế hoặc mua chuộc người làm chứng.
Trường hợp hành vi đe doạ, khống chế hoặc mua chuộc có dấu hiệu tội phạm
thì Toà án chuyển cho cơ quan điều tra có thẩm quyền xem xét về trách nhiệm
hình sự.
1.1.6. Đánh giá chứng cứ.
Hoạt động đánh giá chứng cứ trong tố tụng hành chính là hoạt động xác
định giá trị chứng minh của chứng cứ từ yêu cầu đảm bảo tính hợp pháp, tính
xác thực và tính liên quan đến vụ án hành chính.

19


Tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án hành chính được thu thập từ nhiều
nguồn khác nhau như tài liệu của đương sự trong vụ án hành chính. Tài liệu
chứng cứ do Tòa án thu thập bổ sung. Do đó chủ thể tiến hành tố tụng cần
phải nẵm vững và sử dụng tốt phương pháp đánh giá chứng cứ có vai trò quan
trọng trong việc tìm ra sự thật khách quan của vụ án.
Khi đánh giá chứng cứ chủ thể tiến hành tố tụng cần thiết phải lựa chọn
tiêu chí đánh giá, phải so sánh đối chiếu giữa các chứng cứ với nhau, phải dựa
trên suy luận hợp lý và quy định của pháp luật để đưa ra kết luận về vụ án.
Điều 79 luật tố tụng hành chính 2010 quy định: “ Việc chứng cứ phải

khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính xác. Tòa án phải đánh giá từng chứng
cứ, sự liên quan giữa các chứng cứ và khẳng định giá trị pháp lý của từng
chứng cứ.”
Đánh giá chứng cứ trong tố tụng hành chính được tiến hành đồng thời
theo các bước sau:
+ Xác định đúng đắn, khách quan các tình tiết thực tế của vụ án, cụ thể
các thành viên trong hội đồng xét xử phải lắng nghe tranh luận từ cả hai bên
đương sự các tình tiết sự kiện của vụ án do cách bên trình bày phải được thẩm
định kỹ càng, thông qua việc kiểm tra đánh giá trong suốt quá trình giải quyết
vụ án.
+ Đánh giá từng chứng cứ, là việc phân tích chứng cứ về những mặt
những yếu tố cấu thành thuộc tính của chứng cứ như: chứng cứ có liên quan
đến vụ án; chứng cứ đó có hợp pháp hay không; chứng cứ đó quan trọng như
thế nào đối với kết quả của vụ án hành chính.
+ Đánh giá tổng hợp các chứng cứ, có nghĩa là liên kết các sự kiện lại
thành một logic nhằm chứng minh cho tất cả các vấn đề phải chứng minh của
vụ án. Khi đánh giá tổng hợp cần chú ý đến các vấn đề như : tính đầy đủ và
hợp pháp của chứng cứ; mối liên kết giữa các chứng cứ trong việc làm rõ các
tình tiết của vụ án này; tình tiết mới phát minh cần thu thập bổ sung chứng cứ.

20


1.1.7. Công bố và sử dụng chứng cứ.
Công bố chứng cứ là việc công khai tại phiên tòa các chứng cứ. Điều 90
luật tố tụng hành chính 2010 quy định:
Mọi chứng cứ được công bố và sử dụng công khai như nhau,trừ trường
hợp chứng cứ có liên quan đến bí mật nhà nước, thuần phong mỹ tục của dân
tộc, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật đời tư của cá nhân theo
yêu cầu chính đáng của đương sự. Người tiến hành tố tụng, người tham gia tố

tụng phải giữ bí mật theo quy định của pháp luật về những chứng cứ thuộc
trường hợp không công bố công khai.
Sử dụng chứng cứ là dùng chứng cứ để bác bỏ yêu cầu hay chấp nhận
yêu cầu của đương sự là có căn cứ hợp pháp hay không, cũng như các tình tiết
khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hành chính.
II.

CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH.

2.1 Khái niện và ý nghĩa chứng minh trong tố tụng hành chính.
2.1.1. Khái niệm chứng minh.
Mỗi vụ án hành chính được giải quyết tại Tòa án đều chứa đựng trong nó
nhiều mâu thuẫn giữa các đương sự, do đó việc giải quyết các vu án này
thường rất phức tạp. Để việc giải quyết vụ án hành chính được đúng đắn, mỗi
vấn đề mà các bên đưa ra cần phải được xác minh, làm rõ trước khi tòa án đưa
ra phán quyết cuối cùng. Như vậy chứng minh là một hoạt động cơ bản trong
Tố tụng hành chính và kết quả giải quyết vụ án hành chính phụ thuộc một
phần lớn vào kết quả của hoạt động chứng minh. Đối với các đương sự thì
hoạt động chứng minh lại càng quan trọng bởi lẽ nếu không chứng minh
được cơ sở của các quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án thì quyền
lợi của họ sẽ không được bảo vệ.
Như vậy chứng minh trong tố tụng hành chính là quá trình làm rõ sự thật
khách quan vụ án hành chính, được thực hiện bởi các chủ thể tiến hành tố
tụng và chủ thể tham gia tố tụng nhằm giải quyết các vụ án hành chính được

21


cách khách quan, công bằng, đúng pháp luật qua đó bảo vệ quyền và lơi ích
hợp pháp của cá nhân tổ chức.

2.1.2. Ý nghĩa của chứng minh trong tố tụng hành chính.
Chứng ming trong tố tụng hành chính là hoạt động của các chủ thể tiến
hành tố tụng và chủ thể tham gia tố tụng. Kết quả giải quyết vụ án hành chính
phụ thuộc vào kết quả của hoạt động chứng minh. Chứng minh là biện pháp
duy nhất để xác định các sự kiện, tình tiết của vụ việc, tính đúng đắn của hoạt
động xét xử.
Thông qua hoạt động chứng minh, thẩm phán biết rõ được nội dung vụ
việc để tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Đối với các đương sự và luật sư,
chứng minh là vấn đề quan trọng để thuyết phục hồi đồng xét sử và bảo vệ
quyền lợi của mình.
Trước Tòa án nếu đương sự và luật sư không chứng minh được sự tồn tại
quyền và lợi ích hợp pháp của họ thì quyền là lợi ích hợp pháp đó không thể
được Tòa án bảo vệ.
2.2 Nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng hành chính.
Chứng minh là hoạt động của các chủ thể tố tụng trong việc làm rõ các
tình tiết sự kiện của vụ án. Xác định rõ nghĩa vụ chứng minh của các chủ thể
góp phần bảo đảm giải quyết đúng đắn vụ án. Trong tố tụng dân sự và tố tụng
hành chính nghĩa vụ chứng minh trước tiên thuộc về đương sự, bởi đương sự
là người có quyền lợi thiết thực.
Khoản 1 điều 8 luật tố tụng hành chính quy định: đương sự có quyền và
nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh yêu cầu của mình là
có căn cứ và hợp pháp.
Nội dung này thể hiện: Đương sự có yêu cầu toà án bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình phải đưa ra chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của
mình là có căn cứ và hợp pháp. Đương sự phản đối yêu cầu của người khác
đối với mình phải chứng minh sự phản đối đó là có căn cứ và phải đưa ra
chứng cứ chứng minh. Đương sự có nghĩa vụ đưa ra chứng cứ để chứng minh,
22



nếu không đưa ra được chứng cứ hoặc không đầy đủ chứng cứ thì phải chịu
hậu quả của việc không chứng minh được hoặc chứng minh không đầy
đủ.Theo đó, người khởi kiện có nghĩa vụ cung cấp bản sao quyết định hành
chính hoặc quyết định buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về việc
quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, bản sao quyết định giải quyết khiếu nại
(nếu có), cung cấp các chứng cứ khác để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
mình; trường hợp không cung cấp được phải nêu rõ lý do. Người bị kiện có
nghĩa vụ cung cấp cho Tòa án hồ sơ giải quyết khiếu nại (nếu có) và bản sao
các văn bản, tài liệu mà căn cứ vào đó để ra quyết định hành chính, quyết
định kỉ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử
lý vụ việc cạnh tranh hoặc có hành vi hành chính.
Hơn ai hết, đương sự phải biết rõ các thông tin về sự kiện liên quan vụ
án và để chứng minh cho quyền lợi của mình, họ phải đưa ra được chứng cứ.
Luật Tố tụng hành chính năm 2010 tại Điều 49 quy quyền và nghĩa vụ của các
đương sự:
1. “Cung cấp tài liệu, chứng cứ để chứng minh và bảo vệ quyền lợi của
mình
2. Được biết, đọc, ghi chép, sao chụp và xem các tài liệu chứng cứ do
các đương sự khác cung cấp hoặc do toà án thu thập
3. Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức, đang lưu giữ quản lý chứng cứ
cung cấp chứng cứ đó cho mình
4. Đề nghị toà án xác minh thu thập chứng cứ của vụ án mà tự mình
không thể thực hiện được; đề nghị toà án triệu tập người làm chứng; trưng cầu
giám định; định giá tài sản; thẩm định giá tài sản”.
Quy định nêu trên giúp cho đương sự hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của
mình trong việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh, tạo điều kiện cho đương sự
chủ động thu thập được tài liệu cần thiết để xuất trình cho toà án, loại trừ tình
trạng ỷ lại toà án của các đương sự và đảm bảo tính minh bạch trong hoạt
động chứng minh của các chủ thể tố tụng. Với quy định trên, tài liệu trong hồ
23



sơ vụ án sẽ được xác định rõ gồm: tài liệu từ nguồn có sẵn đối với mỗi bên
đương sự; tài liệu thuộc sở hữu của bên đương sự đối lập; tài liệu do toà án
thu thập. Điều này mang lại lợi ích không chỉ cho các bên đương sự mà cả toà
án trong việc dễ dàng phát hiện chứng cứ bổ sung, bảo quản, đánh giá sử
dụng chứng cứ một cách hiệu quả và khoa học.
Pháp luật tố tụng nói chung và Luật Tố tụng hành chính nói riêng đang
có xu hướng ngày càng hoàn thiện hơn các quy định về cơ chế hoạt động bổ
trợ tư pháp. Trong đó người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự có vai trò
quan trọng. Quyền và nghĩa vụ chứng minh của người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự được xác lập trên cơ sở quyền và nghĩa vụ chứng
minh của đương sự. Để người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
thực hiện đúng chức năng của mình là trợ giúp các đương sự trong việc chứng
minh quyền lợi, Điều 55, khoản 4 điểm b Luật Tố tụng hành chính năm 2010
quy định người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền và
nghĩa vụ: “xác minh, thu thập chứng cứ và cung cấp chứng cứ cho toà án,
nghiên cứu hồ sơ vụ án và được ghi chép, sao chụp những tài liệu có trong hồ
sơ vụ án để thực hiện việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự”.
Còn đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án thì có nghĩa
vụ cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Với tư cách là chủ thể đưa ra các phán quyết về vụ án, toà án phải làm
sáng tỏ các nội dung cần chứng minh của vụ án trên cơ sở tài liệu, chứng cứ
do các bên đương sự cung cấp và do tự mình thu thập. Hoạt động chứng minh
của toà án thực chất là việc kiểm tra xác minh tính xác thực của các tài liệum,
chứng cứ do các bên đương sự xuất trình thông qua áp dụng các biện pháp thu
thập chứng cứ.
2.3 Đối tượng chứng minh trong tố tụng hành chinh.
Đối tượng chứng minh là tổ hợp các tình tiết, sự kiện, vấn đề liên quan
vụ án hành chính cần được xác định trong quá trình giải quyết vụ án hành

chính.
24


Xác định được đối tượng chứng minh là điều kiện cần thiết để nhận thức
vụ việc được chính xác. Nếu không xác định được đối tượng chứng minh sẽ
làm cho hoạt động chứng minh của các đương sự, cũng như Tòa án không có
cơ sở khoa học, dẫn chứng đến tình trạng xác định cả những sự kiện không
liên quan vụ án và bỏ sót những tình tiết có ý nghĩa pháp lý quan trọng.
Ví dụ: ông A là công chức UBND huyện B khiếu kiện quyết định kỷ luật
buộc thôi việc ra Tòa án hành chính huyện B với 3 lý do: thành phần hội đồng
kỷ luật không hợp pháp; quyền tự bảo vệ bị vi phạm; biện pháp xử lý kỉ luật
không có căn cứ. Ông A yêu cầu hủy quyết định kỷ luật buộc thôi việc.
Như vậy, những vấn đề chứng minh trong vụ việc này được xác định:
+ ông A có quyền và lợi ích bị xâm hại trực tiếp từ quyết định kỉ luật
buộc thôi việc hay không?(tính hợp pháp, tính có căn cứ của yêu cầu khởi
kiện). Tính hợp pháp, tính có căn cứ của yêu cầu khởi kiện và đối tượng tranh
chấp của vụ án hành chính phải được chứng minh bằng các tình tiết khách
quan của vụ việc như: tình tiết sự kiện về hành vi vi phạm công vụ của ông A.
+ quyết định kỷ luật buộc thôi việc hợp pháp hay bất hợp pháp về thẩm
quyền, trình tự thủ tục nội dung hay không?các tình tiết khách quan của vụ
việc sẽ được đối chiếu với quy định của pháp luật về cán bộ, công chức như
thẩm quyền thủ tục, hình thức nội dung sẽ là cơ sở để giúp cho tòa án phán
quyết về tính hợp pháp hay bất hợp pháp của quyết định kỷ luật buộc thôi
việc đối với ông A.
+ thiệt hại thực tế phát sinh từ quyết định kỷ luật buộc thôi việc?. Tình
tiết liên quan đến thiệt hại thực tế khi áp dụng hình thức kỷ luật buộc thôi việc
đối với ông A.
Như vậy để xác định những vẫn đề chứng minh trong vụ án hành chính,
Tòa án cần phải tiến hành các bước sau:

+ khái quát vụ việc, xác định tình tiết đôi tượng yêu cầu.
+ xác định các nội dung đang tranh chấp.
+ Đánh giá quy phạm pháp luật nội dung cần áp dụng giải quyết vụ án.
25


×