Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Tài liệu Đề tài " ĐƯƠNG SỰ – CHỦ THỂ ĐẦU TIÊN VÀ QUAN TRỌNG NHẤT CỦA HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ" docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (387.6 KB, 24 trang )





Đề tài " ĐƯƠNG SỰ
– CHỦ THỂ ĐẦU
TIÊN VÀ QUAN
TRỌNG NHẤT
CỦA HOẠT ĐỘNG
CHỨNG MINH
TRONG TỐ TỤNG
DÂN SỰ"
ĐƯƠNG SỰ – CHỦ THỂ ĐẦU TIÊN VÀ QUAN
TRỌNG NHẤT CỦA HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
QUÁCH MẠNH QUYẾT – LỚP DÂN SỰ B KHÓA 31 CHÍNH QUI, ĐẠI HỌC
LUẬT HÀ NỘI
Hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự là một quá trình gồm hoạt động của tòa
án, viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng trong việc cung cấp, thu thập,
nghiên cứu và đánh giá chứng cứ làm cơ sở cho yêu cầu, phản đối yêu cầu của mình
và phán quyết của tòa án trên cơ sở quy định của pháp luật.
Hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự có ba đặc điểm cơ bản:
- Hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự là một quá trình nhận thức diễn ra suyên
suốt vụ án dân sự, được bắt đầu khi có quyết định thụ lý đơn khởi kiện cho đến khi tòa án
ra phán quyết. Khởi đầu là việc chứng minh của nguyên đơn cho yêu cầu của mình thông
qua đơn khởi kiện, tiếp đến là hoạt động chứng minh của bị đơn bác yêu cầu của nguyên
đơn, yêu cầu phản tố (nếu có), hoạt động chứng minh của người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan, của Viện kiểm sát (nếu có)… và kết thúc khi tòa án chứng minh cho phán
quyết của mình thông qua một bản án có giá trị bắt buộc thi hành.
- Bản chất của chứng minh chính là việc sử dụng chứng cứ.
Hai yếu tố cấu thành vụ án dân sự là yếu tố chủ quan (đương sự) và yếu tố khách quan


(bao gồm đối tượng – mục đích khởi kiện và nguyên nhân – cách thức bảo vệ quyền của
các chủ thể trước tòa án). Hoạt động chứng minh được xếp vào các yếu tố thuộc mặt
khách quan của vụ án. Điều này có nghĩa là yếu tố cấu thành vụ án đã vốn có, vốn đã tồn
tại, nay chỉ đi tìm lại, diễn đạt lại một cách đầy đủ nhất, đúng đắn nhất. Hay nói cách
khác, hoạt động chứng minh là hoạt động thông qua việc sử dụng chứng cứ để tái hiện lại
sự thật khách quan của vụ án.
Là một yếu tố quan trọng nên khái niệm chứng cứ được luật tố tụng dân sự của nhiều
nước đề cập đến. Cá biệt còn có một số nước xây dựng luật về chứng cứ thể hiện sự quan
trọng của vấn đề này. Luật tố tụng dân sự Nhật Bản định nghĩa: “Chứng cứ là một tư liệu
thông qua đó một tình tiết được tòa án công nhận và là một tư liệu, cơ sở thông qua đó
tòa án được thuyết phục là một tình tiết có tồn tại hay không?” hoặc theo điều 401 Luật
chứng cứ của Mỹ định nghĩa “Chứng cứ là những gì mà hàm chứa trong nó sự tồn tại
của bất cứ một sự thực nào mà bản thân sự hàm chứa đó ảnh hưởng tới việc xác định
được một hành động hơn hoặc kém hơn”. Trong Luật TTDS 2004, khái niệm chứng cứ
lần đầu tiên được ghi nhận một cách tương đối đầy đủ tại Điều 81, theo đó:
“Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cá nhân, cơ quan,
tổ chức khác giao nộp cho Tòa án hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do
bộ luật này quy định mà tòa án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay phản đối của
đương sự là có căn cứ hợp pháp hay không cũng như những tình tiết khác cần thiết cho
việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự”.
Quá trình chứng minh không có gì khác ngoài việc sử dụng chứng cứ đúng đắn (thỏa mãn
ba yêu cầu về tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp) bao gồm bốn giai đoạn
khác nhau là cung cấp, thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ. Các giai đoạn này có
mối liên hệ mật thiết với nhau, chỉ có giai đoạn trước mới có giai đoạn sau, và giai đoạn
sau sẽ là cơ sở để đánh giá tính đúng đắn và triệt để của giai đoạn trước. Phải có hoạt
động thu thập, cung cấp chứng cứ thì mới phát sinh hoạt động nghiên cứu, đánh giá
chứng cứ và kết quả của họat động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ sẽ phát sinh những
nhận thức từ vụ án dân sự, nhận thức này có đúng đắn, khách quan và toàn diện hay
không hoàn toàn phụ thuộc vào việc cung cấp, thu thập chứng cứ có đầy đủ và đúng hay
không. Bốn giai đoạn này kéo dài, nối tiếp và đan xen nhau, không thể tách bạch cơ học

từ thời điểm nào đến thời điểm nào là giai đoạn cung cấp, thu thập, nghiên cứu hay đánh
giá chứng cứ. Nhưng có thể nhận thấy rằng những giai đoạn này kéo dài suyên suốt quá
trình giải quyết vụ án dân sự, nó chỉ kết thúc khi tòa án ra phán quyết. Mặc dù có thể tòa
án cấp dưới đã ra quyết định giải quyết vụ án nhưng bản án này lại được giải quyết tiếp
theo trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm thì lại phát sinh hoạt động chứng minh
mới độc lập với hoạt động chứng minh trước đây.
- Chủ thể của hoạt động chứng minh rất đa dạng
Như đã phân tích ở trên, chứng minh là làm cho rõ là đúng, là có thật. Trong một vụ án
cụ thể có rất nhiều ý kiến cần phải được chứng minh là đúng, là có thật đồng nghĩa với
việc chủ thể thực hiện hoạt động chứng minh là đa dạng. Nguyên đơn chứng minh cho
yêu cầu của mình, bị đơn chứng minh cho bác yêu cầu, yêu cầu phản tố (nếu có) tòa án
chứng minh cho phán quyết của mình, Viện kiểm sát chứng minh cho kháng nghị phúc
thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm của mình… Ngoài ra, khi đương sự không đủ khả năng
tham gia tố tụng hoặc không hiểu biết về pháp luật, không có kinh nghiệm tố tụng họ có
thể nhờ người khác thay mình tham gia tố tụng từ đó phát sinh ra các chủ thể khác tham
gia tố tụng như người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự…
họ có quyền và nghĩa vụ không giống nhau xuất phát từ vị trí tố tụng cũng như thỏa thuận
giữa họ và đương sự nhưng đây cũng là những chủ thể của họat động chứng minh.
1. Đương sự – người phát động và giới hạn hoạt động chứng minh
Chứng minh là một quá trình nhận thức kéo dài suyên suốt vụ án với bốn giai đoạn kế
tiếp nhau liên tục là thu thập, cung cấp, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ, giai đoạn trước là
tiền đề của giai đoạn sau, giai đoạn sau củng cố và đánh giá giai đoạn trước. Tính liên tục
của bốn giai đoạn được khởi động bằng việc nguyên đơn nộp đơn khởi kiện. Đơn khởi
kiện chính là biểu hiện rõ nét nhất của quyền đi kiện (tố quyền) của cá nhân, cơ quan tổ
chức. Khi pháp luật thừa nhận cho một chủ thể những quyền năng nhất định cũng đồng
thời phải đảm bảo cho quyền năng ấy được thực hiện thông qua một thủ tục tố tụng và
nguyên đơn phải cụ thể hóa quyền đó bằng một đơn khởi kiện để yêu cầu bảo vệ, đây
chính là “gạch nối” giữa luật nội dung và luật hình thức. Khi được thụ lý, đơn khởi kiện
sẽ làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ được quy định cụ thể trong BLTTDS buộc
nguyên đơn không thể tự xử để bảo vệ quyền lợi của mình, buộc bị đơn dù không muốn

cũng bị xét xử đồng thời với đó ràng buộc tòa án có thẩm quyền phải giải quyết yêu cầu
của nguyên đơn. Trong quá trình chứng minh nói chung lại diễn ra nhiều quá trình chứng
minh nhỏ như chứng minh cho yêu cầu của nguyên đơn, bác yêu cầu của bị đơn, yêu cầu
phản tố của bị đơn, yêu cầu của người thứ ba… nhưng có một điểm chung là tất cả các
yêu cầu đó đều bắt đầu phát sinh từ đương sự hay đương sự là người bắt đầu hoạt động
chứng minh.
Theo nguyên tắc chung, khi nguyên đơn nộp đơn khởi kiện thì nội dung của đơn kiện chỉ
coi là hợp lệ khi có “tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là có căn cứ
và hợp pháp” (điểm i khoản 2 Điều 164 BLTTDS), nếu không đáp ứng điều kiện này thì
đơn khởi kiện sẽ không được tòa án chấp nhận và tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện theo căn
cứ tại Điều 169 BLTTDS. Như thế, hoạt động chứng minh đã được bắt đầu và hoạt động
chứng minh này được thực hiện bởi nguyên đơn. Khi bị đơn, người thứ ba có yêu cầu thì
cũng phải chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp theo nguyên tắc tại điều
79 BLTTDS:
“1. Đương sự có yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải đưa ra
chứng cứ để chứnh minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp.
2. Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải chứng minh sự phản đối
đó là có căn cứ và phải đưa ra chứng cứ để chứng minh.”
Bản chất của quá trình tố tụng là giải quyết những mâu thuẫn, bất đồng giữa hai bên
nguyên – bị, lợi ích của một bên sẽ đồng thời là nghĩa vụ của bên kia. Vì thế cần thiết
phải có một bên thứ ba trung lập, khách quan đứng ra giải quyết và điều hòa lợi ích giữa
các bên – trọng trách này được giao cho nhà nước và thể hiện cụ thể là tòa án có thẩm
quyền với quyền lực cưỡng chế cũng như tính trung lập sẽ đảm bảo được quyền lợi hợp
pháp của các bên, duy trì trật tự và ổn định của xã hội. Tuy vậy, trách nhiệm của tòa án
cũng chỉ được thực hiện khi đương sự có yêu cầu, điều này thể hiện rõ nét nhất quyền tự
định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự. Trong suốt quá trình giải quyết vụ án nhận
thức của tòa án cũng dựa trên hoạt động chứng minh của đương sự. Là người đưa ra yêu
cầu, phát động tranh chấp nên thông thường đương sự là người bắt đầu của hoạt động
chứng minh và cũng chính từ yêu cầu của đương sự sẽ giới hạn hoạt động chứng minh
không chỉ của đương sự mà còn của tòa án và những chủ thể khác của hoạt động chứng

minh.
Ví dụ khi nguyên đơn khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng mua bán nhà. Nguyên đơn phải
chứng minh mình có căn cứ cho yêu cầu hủy hợp đồng. Nếu bị đơn không đồng ý, họ sẽ
phải chứng minh điều ngược lại. Tòa án cũng chỉ cần kiểm tra hợp đồng đã được xác lập
là có hiệu lực pháp luật hay không? Hoạt động chứng minh trong vụ án này sẽ bắt đầu khi
nguyên đơn nộp đơn khởi kiện và được tòa án thụ lý. Trong đơn khởi kiện, nguyên đơn
sẽ thực hiện họat động chứng minh thông qua việc cung cấp những chứng cứ như hợp
đồng vô hiệu, bị đơn vi phạm nghĩa vụ đã cam kết… Toàn bộ quá trình chứng minh sẽ
xoay quanh hợp đồng mua bán nhà giữa hai bên nguyên – bị. Mặc dù bị đơn có thể có
yêu cầu phản tố như yêu cầu bồi thường thiệt hại… nhưng nó cũng có liên quan mật thiết
với việc chứng minh hợp đồng trên có hay không hiệu lực pháp luật.
2. Đương sự – chủ thể chứng minh chủ yếu
Khi nguyên đơn sử dụng quyền đi kiện (hành xử tố quyền) của mình thì cũng là lúc vụ án
được phát động kéo theo đó là rất nhiều các chủ thể khác nhau bao gồm hai loại chính là
người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng. Mỗi
người một chức năng, nhiệm vụ khác nhau và trong đó, hầu hết đều liên quan đến hoạt
động chứng minh nhưng hoạt động chứng minh của đương sự là chủ yếu bởi một số điểm
như sau:
2.1. Đương sự là người thực hiện hầu hết công việc thu thập và cung cấp chứng cứ
Nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của đương sự là một nghĩa vụ có tính lịch sử. Kế thừa điều
đó, BLTTDS 2004 đã quy định đương sự là người thu thập cung cấp chứng cứ chủ yếu,
tòa án chỉ tham gia thu thập trong một số ít trường hợp như như lấy lời khai của người
làm chứng khi xét thấy cần thiết (khoản 1 Điều 87 BLTTDS), đối chất khi thấy có sự mâu
thuẫn trong lời khai của các đương sự, người làm chứng (khoản 1 Điều 88 BLTTDS),
định giá tài sản trong trường hợp các bên thỏa thuận mức giá thấp nhằm mục đích trốn
thuế hoặc giảm mức đóng án phí (điểm b khoản 1 Điều 92 BLTTDS ). Còn lại, các biện
pháp thu thập chứng cứ khác được quy định tại chương VII BLTTDS – chứng cứ và
chứng minh, đều thuộc về đương sự như: đương sự có quyền được khai báo (Điều 86),
yêu cầu lấy lời khai của người làm chứng (Điều 87), yêu cầu đối chất (Điều 88), giám
định, giám định bổ xung (Điều90), yêu cầu định giá tài sản (Điều 92), yêu cầu cơ quan tổ

chức, cá nhân đang nắm giữ giao chứng cứ (điểm b khoản 2 Điều 58)… Đương sự có thể
thực hiện quyền, nghĩa vụ cung cấp chứng cứ của mình thông qua hai cách là tự mình thu
thập hoặc nhờ tòa án thu thập hộ khi đủ điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 85:
“Trong trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập được chứng cứ và có yêu cầu
thì Thẩm phán có thể tiến hành một hoặc một số biện pháp sau đây để thu thập chứng cứ:
a) lấy lời khai của người làm chứng
b) Quyết định định giá tài sản
c) Xem xét, thẩm định tại chỗ
đ) ủy thác thu thập chứng cứ
e) Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được
hoặc hiện vật khác liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự”
Nhìn chung, việc thu thập chứng cứ là trách nhiệm của đương sự đối với yêu cầu của
mình, họ có sự chủ động trong các thao tác thu thập, yêu cầu thu thập. Tuy nhiên không
thể nói là việc thu thập không có sự can thiệp của nhà nước bởi nếu không can thiệp sẽ
gây ra tình trạng lộn xộn và đôi khi chứng cứ thu thập được không có giá trị pháp lý.
BLTTDS đã quy định đầy đủ trình tự và điều kiện để đương sự thực hiện quyền năng
này, đây chính là vấn đề về thủ tục. Khi vi phạm về thủ tục luật định thì chứng cứ do
đương sự thu thập được cũng sẽ không được chấp nhận, tạo ra tính công bằng giữa các
bên.
Trong giai đoạn cung cấp chứng cứ thì đương sự chính là người cung cấp chứng cứ cho
tòa án. Đây chính là hoạt động giao nộp chứng cứ vào hồ sơ vụ án, chứng cứ nhiều hay ít
sẽ giới hạn việc tranh luận giữa các bên, chứng cứ càng cụ thể, xác đáng bao nhiêu thì
việc tranh luận và trách nhiệm của tòa án càng đơn giản bấy nhiêu. Quyền và nghĩa vụ
cung cấp chứng cứ của đương sự được quy định thành một nguyên tắc tố tụng “ Đương
sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho tòa án” (Điều 6) áp dụng chung cho cả
các cơ quan tổ chức khởi kiện bảo vệ quyền lợi cho người khác. Người khởi kiện phải
thực hiện nghĩa vụ cung cấp chứng cứ ngay khi nộp đơn khởi kiện tại tòa án theo quy
định tại Điều 165 BLTTDS “Người khởi kiện phải nộp kèm theo đơn khởi kiện tài liệu,
chứng cứ để chứng minh cho những yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp”. Bị
đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền cung cấp chứng cứ khi tòa án thông

báo về việc khởi kiện của nguyên đơn “Trong thời hạn mười năm ngày kể từ ngày nhận
được thông báo, người được thông báo phải nộp cho tòa án văn bản ghi ý kiến của mình
đối với yêu cầu của người khởi kiện và tài liệu chứng cứ kèm theo, nếu có” (khoản 1
Điều 175). Trong quá trình giải quyết vụ án đương sự có quyền cung cấp chứng cứ ở bất
kỳ giai đoạn nào, nếu không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ sẽ phải chịu những
hậu quả về việc đó “Trong quá trình tòa án giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền
và nghĩa vụ giao nộp chứng cứ cho tòa án; Nếu đương sự không nộp hoặc nộp không đầy
đủ thì phải chịu hậu quả của việc không nộp hoặc không nộp đầy đủ đó…” (khoản 1
Điều 84 ). Tại phiên tòa sơ thẩm “Đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự có quyền bổ sung chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ
và hợp pháp” (khoản 3 Điều 221). Đương sự còn có thể giao nộp chứng cứ tại cấp phúc
thẩm “kèm theo đơn kháng cáo là tài liệu, chứng cứ bổ xung nếu có để chứng minh cho
kháng cáo của mình là có căn cứ và hợp pháp”, tại phiên tòa phúc thẩm “đương sự,
Kiểm sát viên có quyền xuất trình bổ sung chứng cứ” (khoản 3 Điều 271). Trong giai
đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của pháp luật, đương sự cũng có thể giao
nộp chứng cứ bổ sung tại tòa án hoặc viện kiểm sát để bảo vệ cho quyền lợi của mình.
Việc quy định đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và thời điểm cung cấp mở rộng
tại tất cả quá trình giải quyết là tạo điều kiện để đương sự có thể phát huy hết khả năng
của mình trong việc cung cấp chứng cứ.
2.2. Đương sự là người tham gia tích cực trong hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ
Một trong những lý do để xếp hai hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ cùng một
giai đoạn chứng minh là vì không thể tách bạch một cách cơ học rõ ràng từ thời điểm nào
đến thời điểm nào là giai đoạn nghiên cứu và đánh giá chứng cứ. Hai hoạt động này đan
xen, diễn ra trong suốt quá trình giải quyết vụ án đòi hỏi không những phải có hệ thống
chứng cứ đầy đủ mà còn đòi hỏi chủ thể nghiên cứu, đánh giá phải nhìn nhận một cách
toàn diện, đặt hệ thống chứng cứ trong mối liên hệ biện chứng, tác động lẫn nhau. Yêu
cầu đặt ra là phải loại bỏ được những yếu tố mang tính “ngẫu nhiên”, tìm ra các yếu tố
“tất nhiên” – mang tính quy luật nội tại mới có thể nhận thức chính xác vụ án.
Thông thường, hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ là của thẩm phán phụ trách giải
quyết vụ án hoặc các thành viên của hội đồng xét xử và phải tuân theo nguyên tắc đánh

giá chứng cứ được quy định tại Điều 96 BLTTDS:
“1. Việc đánh giá chứng cứ phải khách quan, toàn diện, đầy đủ và chính xác.
2. Tòa án phải đánh giá từng chứng cứ, sự liên quan giữa các chứng cứ và khẳng định
giá trị của từng chứng cứ.”
Quy định này là cần thiết vì tòa án là cơ quan phán xử đòi hỏi việc xem xét phải thật sự
công bằng và không thiên vị bên nào. Nhưng để tòa án nhận biết được nhanh nhất, khách
quan nhất thì các đương sự và một số chủ thể khác cũng có thể tham gia vào hoạt động
nghiên cứu, đánh giá chứng cứ và thực tế đã cho thấy, rất nhiều vụ án hoạt động nghiên
cứu, đánh giá chứng cứ của tòa án đạt hiệu quả cao lại dựa trên kết quả nghiên cứu, đánh
giá của đương sự. Điều này thể hiện tính tích cực của đương sự trong hoạt động này.
Liên quan đến hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ trong tố tụng dân sự, đương sự
có một số quyền như:
Đương sự có quyền “được biết, ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do các đương sự
khác xuất trình hoặc do tòa án thu thập” (điểm d khoản 2 Điều 58). Khi có quyền được
biết này, đương sự sẽ có sự chủ động cao trong việc nghiên cứu, đánh giá chứng cứ cũng
như tìm kiếm những bằng chứng để phủ nhận quan điểm của đối phương.
Tại phiên tòa sơ thẩm hoặc phúc thẩm đương sự có quyền và nghĩa vụ tham gia phiên tòa
(Điều 199, 200, 201), được nghe lời trình bày của các bên (Điều 221), được trình bày
quan điểm ý kiến của mình (Điều 197), được tham gia hỏi tại phiên tòa (Điều 222) và đặc
biệt BLTTDS đã dành một phần là mục 4 chương XIV để quy định về việc tranh luận
giữa các đương sự, đây là sự thể hiện rõ ràng nhất về vai trò của đương sự trong việc

×