Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Nền kinh tế tri thức Xu thế mới của xã hội thế kỉ XXI và khả năng tiếp cận của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 90 trang )

Nền kinh tế tri thức-xu thế của xã hội thế kỉ XXI và khả năng tiếp cận
của Việt Nam

Lời nói đầu
1.Tính cấp thiết của đề tài
Từ thập kỉ 80 đến nay do tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ
hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ năng lợng, công nghệ sinh học,
công nghệ vật liệu,... nền kinh tế thế giới đang biến đổi một cách sâu sắc, mạnh mẽ
về cơ cấu, chức năng và phơng thức hoạt động. Đây không phải là một sự biến đổi
bình thờng mà là một bớc ngoặt lịch sử có ý nghĩa trọng đại: nền kinh tế chuyển từ
kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức, nền văn minh loài ngời chuyển từ văn
minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ.
Chỉ trong một thời gian ngắn mà những khái niệm nh kinh tế thông tin, kinh
tế tri thức tởng nh xa lạ với chúng ta đã nhanh chóng trở thành hiện thực trên phạm
vi toàn cầu, và đối với nớc ta đòi hỏi hội nhập vào nền kinh tế tri thức có tính toàn
cầu đó đã trở thành điều không thể cỡng lại. Kinh tế tri thức chính là cánh cửa mở ra
cho các nền kinh tế đang phát triển tiếp cận và rút ngắn khoảng cách với các nớc
phát triển nếu biết đón bắt và tận dụng cơ hội. Ngợc lại, kinh tế tri thức cũng tạo ra
thách thức lớn hơn bao giờ hết đối với các nớc phát triển, đó là nguy cơ tụt hậu, đó
là khoảng cách ngày càng gia tăng về trình độ phát triển với các nớc phát triển.
Nhận thức rõ điều đó, Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX đã khẳng định
tranh thủ ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu
mới về khoa học và công nghệ, từng bớc phát triển kinh tế tri thức.
Là một nền kinh tế mới đang trong quá trình định hình, kinh tế tri thức trở thành
đối tợng thu hút sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học và hoạch định chính
sách trong và ngoài nớc. Nhiều vấn đề xoay quanh đợc đặt ra nh: Nền kinh tế tri
thức thực chất là nền kinh tế nh thế nào? Những đặc trng của nó là gì? Việt Nam đã
tiếp cận nền kinh tế tri thức ra sao? Để có thể tạo dựng hoặc tiến sâu hơn vào nền
kinh tế tri thức, phát triển kinh tế tri thức nớc ta phải làm những gì?... Những câu
hỏi này thực sự là những vấn đề lý luận và thực tiễn quan trọng và cấp thiết, cần đợc
luận giải thấu đáo, nhất là trong khi nớc ta đang thực hiện công nghiệp hóa gắn liền


với hiện đại hóa và từng bớc phát triển kinh tế tri thức. Với mong muốn góp một
phần nhỏ vào việc tìm hiểu và làm rõ phần nào những nội dung nêu trên, em quyết
định chọn đề tài: Nền kinh tế tri thức-xu thế mới của xã hội thế kỉ XXI và khả
năng tiếp cận của Việt Nam làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Qua đề tài này, em mong muốn hệ thống hoá bớc đầu những vấn đề lý luận và
thực tiễn về kinh tế tri thức, rút ra bài học kinh nghiệm quốc tế cho Việt Nam về
phát triển kinh tế tri thức đồng thời góp phần đa ra quan điểm đánh giá về tình hình
tiếp cận kinh tế tri thức ở nớc ta hiện nay trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp
nhằm xây dựng thành công nền kinh tế tri thức tại Việt Nam

1


Nền kinh tế tri thức-xu thế của xã hội thế kỉ XXI và khả năng tiếp cận
của Việt Nam
3. Phạm vi nghiên cứu
Vì đây là một đề tài rộng nên khoá luận này chỉ giới hạn trong khuôn khổ mục
đích nghiên cứu nêu trên. Trong từng vấn đề cụ thể, khoá luận cũng không thể đề
cập tất cả mọi khía cạnh mà chỉ tập trung vào những khía cạnh mà em đánh giá là
quan trọng hơn cả.
4. Phơng pháp nghiên cứu
Các phơng pháp nghiên cứu đợc sử dụng trong luận văn là: liệt kê, thống kê,
phân tích và tổng hợp, đối chiếu và so sánh, lôgic và lịch sử với tinh thần lý luận kết
hợp với thực tiễn.
5. Kết cấu của khoá luận
Ngoài tài liệu tham khảo, danh mục các chữ viết tắt, phần mở đầu và phần kết
luận, luận văn gồm 3 chơng:
Chơng I: Khái quát về sự xuất hiện và những nghiên cứu chung về kinh tế tri thức
Chơng II: Tình hình tiếp cận nền kinh tế tri thức tại Việt Nam

Chơng III: Quan điểm và giải pháp phát triển nền kinh tế tri thức tại Việt Nam
Trong quá trình thực hiện khoá luận, em đã nhận đợc sự quan tâm giúp đỡ quý
báu và tạo điều kiện thuận lợi từ các thầy cô giáo trong Khoa Kinh Tế Ngoại Thơng
đặc biệt là sự hớng dẫn tận tình của PGS.TS Phạm Duy Liên.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô.
Sinh viên
Phạm Thục Quyên

Chơng I: kháI quát về sự xuất hiện và những
nghiên cứu chung về kinh tế tri thức

I. Tri thức và vai trò của tri thức đối với phát triển
1. Tri thức
Từ những thập kỉ cuối thế kỉ XX cho tới nay khoa học và công nghệ đã có
những bớc phát triển kỳ diệu, đặc biệt đã xuất hiện cuộc cách mạng thông tin, cách
mạng tri thức và sự bùng nổ công nghệ cao. Do đó, nền kinh tế cũng dần biến đổi,
chuyển từ kinh tế công nghiệp lên nền kinh tế tri thức. Trong cuộc cách mạng công
nghiệp trớc đây, máy móc thay thế lao động cơ bắp của con ngời, còn ngày nay máy
tính giúp con ngời trong lao động trí óc, nhân lên gấp bội sức mạnh trí tuệ, sức sáng
tạo của con ngời. Thông tin, tri thức trở thành yếu tố quyết định nhất trong việc tạo
ra của cải, việc làm, nâng cao năng lực cạnh tranh. Tri thức trở thành hình thức cơ
bản nhất của vốn, quan trọng hơn cả tài nguyên, sức lao động. Lực lợng sản xuất xã
hội loài ngời từ dựa vào tài nguyên thiên nhiên đang chuyển dần sang dựa chủ yếu
vào năng lực trí tuệ của con ngời.

2


Nền kinh tế tri thức-xu thế của xã hội thế kỉ XXI và khả năng tiếp cận
của Việt Nam

Để hiểu kinh tế tri thức là gì, vấn đề đầu tiên phải làm rõ là tri thức đợc quan
niệm nh thế nào?
Theo nhiều tài liệu kinh điển thì tri thức đợc hiểu là kết quả của nhận thức, là
phản ánh trung thực của thực tiễn vào t duy của con ngời, tính đúng đắn của nó thể
hiện bằng sự kiểm nghiệm của thực tế đồng thời phù hợp với các nguyên lý của lý
luận về nhận thức trên cơ sở phơng pháp duy vật biện chứng.
Theo K.Marx, tri thức là sản phẩm của lao động (tức chỉ xét đối với con ngời sinh vật cao cấp có t duy, có hoạt động lao động), là kết quả của mức độ tích cực
của con ngời với tự nhiên. Còn đối với Khổng giáo, tri thức là biết đợc những gì cần
nói và làm thế nào để nói đúng.
Theo Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD thì: Tri thức là toàn bộ kết
quả về trí lực của loài ngời sáng tạo ra từ trớc đến nay, trong đó tri thức về khoa
học, về kỹ thuật, về quản lý là các bộ phận quan trọng nhất.
ở đây một cách tổng quát, chúng ta xem tri thức là kết quả nghiên cứu tìm tòi
một cách có hệ thống đối với qui luật khách quan của khoa học. Tri thức đợc OECD
định nghĩa gồm 4 chữ W:
Know what (biết cái gì): kiến thức về sự kiện, kiến thức này cũng đợc gọi
là thông tin.
Know why (biết tại sao): kiến thức khoa học về các nguyên lý và nguyên
tắc của thế giới tự nhiên. Loại kiến thức này là nền tảng cho các phát minh khoa học
và thờng đợc sáng tạo và phát triển trong các tổ chức đặc biệt nh viện nghiên cứu
hay trờng đại học.
Know who (biết ai): kiến thức về biết ai, biết cái gì và ai có thể làm đợc cái
gì. Nó bao hàm việc tạo ra các mối quan hệ xã hội để từ đó có thể biết về khả năng
mỗi ngời và việc sử dụng tri thức của họ một cách hợp lý nhất.
Know how (biết làm thế nào): hàm ý các kỹ năng, khả năng làm việc thực
tế. Đây là loại kiến thức thờng đợc sáng tạo và phát triển trong các cơ sở sản xuất.
Know what và know why có thể thu đợc từ việc đọc sách, hay học ở trờng,
know how học từ quá trình làm việc thực tế, và know who học từ môi trờng xã
hội.
Hiện nay, know when (biết khi nào) và know where (biết ở đâu) cũng dần

đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế tri thức năng động và thay đổi linh hoạt.
Nói chung tri thức là những hiểu biết của con ngời. Có nhiều loại hiểu biết ở
những mức độ và phạm vi khác nhau, một cách khái quát có thể nói: Know what
là ở mức độ thông tin, know why là ở mức độ các tri thức khoa học, know how
là những hiểu biết về công nghệ, know who là các tri thức xã hội, know where
và know when là những hiểu biết cần thiết về kinh doanh, thơng mại và làm kinh

3


Nền kinh tế tri thức-xu thế của xã hội thế kỉ XXI và khả năng tiếp cận
của Việt Nam
tế nói chung. Ngày nay, cùng với các tri thức khoa học kỹ thuật và công nghệ, các
tri thức về xã hội, về tổ chức quản lý, mỗi loại tri thức đó đều có tầm quan trọng của
mình, ngày càng phát triển phong phú và có ý nghĩa to lớn, nhiều trờng hợp là quyết
định trong việc tạo nên sự giàu có của một nền kinh tế.

2. Vai trò của tri thức đối với phát triển
Quá trình phát triển lực lợng sản xuất của loài ngời có thể chia ra làm ba thời kì:
Thứ nhất là nền kinh tế nông nghiệp, cũng có thể gọi là kinh tế sức lao động: đặc trng chủ yếu là sản xuất bằng lao động thủ công, năng suất rất thấp và đất đai là tài
nguyên chủ yếu. Thứ hai là nền kinh tế công nghiệp, cũng đợc gọi là kinh tế tài
nguyên, dựa chủ yếu vào máy móc và tài nguyên thiên nhiên. Hiện nay khi thiên
niên kỷ mới bắt đầu, loài ngời đang bớc vào nền kinh tế tri thức, nền kinh tế chủ yếu
dựa vào tri thức và thông tin nên tri thức và thông tin trở thành yếu tố sản xuất quan
trọng hơn cả vốn và lao động. Quả thật, tri thức, thông tin, công nghệ luôn luôn có
vai trò thúc đẩy phát triển sản xuất, vai trò ấy tăng dần cùng với quá trình phát triển.
Trong nền kinh tế nông nghiệp vốn tri thức con ngời còn quá ít, công nghệ hầu nh
không đổi mới vì thế nên tác động của tri thức và công nghệ cha rõ rệt, do đó nền
kinh tế nông nghiệp kéo dài đến 6,7 nghìn năm, tiến bộ hết sức chậm chạp.
Cha bao giờ vai trò động lực của tri thức, của khoa học và công nghệ đối với sự

phát triển kinh tế xã hội trở nên rõ ràng, nổi bật nh ngày nay. Trớc đây các chuyên
gia còn tin rằng cứ đa thêm nguồn vốn và lao động vào quá trình sản xuất là sẽ có
thêm sự tăng trởng kinh tế. Những yếu tố này đã là chìa khoá để tạo ra của cải và đợc theo đuổi một cách mạnh mẽ và hăm hở. Hiện nay ngời ta nhận ra rằng việc vốn
và lao động đợc sử dụng nh thế nào còn quan trọng hơn cả việc sử dụng bao nhiêu
các nguồn lực đó. Gần đây các nhà nghiên cứu kinh tế (nh Romer, Schumpeter,
R.Solow) đều thừa nhận tri thức, công nghệ là yếu tố bên trong của hệ thống kinh
tế. Romer coi tri thức và công nghệ là yếu tố thứ ba của sản xuất, bên cạnh vốn và
lao động. Lập luận này đã đợc các nhà nghiên cứu chấp nhận. Không chỉ thế, tất cả
các quốc gia trên thế giới đều đang nhận thức rõ rằng việc sử dụng tri thức là phần
hợp thành cốt lõi của sự phát triển kinh tế thành công. Khả năng ứng dụng của tri
thức đã tạo nên sự khác nhau rõ nhất giữa chúng ta và tổ tiên chúng ta"- theo
Alvin Toffler.
Trong nền kinh tế tri thức, tri thức không những có vai trò sáng tạo, truyền bá
mà còn có vai trò truyền thông, sử dụng, trở thành nguồn lực của sản xuất. Do vậy,
đầu t phát triển tri thức là đầu t chủ yếu nhất. Điều này không có nghĩa là nền kinh
tế không cần vốn, nguồn tài nguyên thiên nhiên và nguồn nhân lực nữa mà trái lại,

4


Nền kinh tế tri thức-xu thế của xã hội thế kỉ XXI và khả năng tiếp cận
của Việt Nam
các yếu tố này về mặt giá trị còn đợc đầu t với số lợng đáng kể hơn, thậm chí đối
với trang thiết bị, máy móc công nghệ cao còn cần đầu t với một số lợng vốn rất lớn
nếu muốn theo kịp sự phát triển của thời đại, song vốn vô hình (nh thông tin, tri
thức, công nghệ, kỹ năng lao động) còn có giá trị cao hơn gấp bội, trở thành yếu
tố quan trọng nhất, phần vốn cơ bản nhất. Tri thức ngày càng trở thành nhân tố trực
tiếp của chức năng sản xuất. Đầu t vào tri thức trở thành yếu tố then chốt cho sự
tăng trởng kinh tế dài hạn. Trong các nớc phát triển, đầu t vô hình (vào giáo dục đào
tạo, khoa học công nghệ, văn hoá, phát triển con ngời) tăng nhanh hơn đầu t hữu

hình, ở Mỹ đầu t vô hình đã cao hơn đầu t hữu hình. Bốn thập niên trớc đây, vào
năm 1960, Hàn Quốc ở Châu á và Ghana ở Châu Phi có cùng mức thu nhập tính
theo đầu ngời. Ngày nay, thu nhập theo đầu ngời ở Hàn Quốc lớn hơn 6 lần so với
Ghana. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng một nửa sự khác biệt về thu nhập nêu trên là
do phơng thức thu nhận đợc và sử dụng tri thức tạo nên. Hàn Quốc đã thấu hiểu tầm
quan trọng của tri thức, và đã đầu t vào đó còn Ghana thì không và càng ngày càng
lạc hậu.
Việc thay thế các lực lợng sản xuất truyền thống bằng tri thức, bằng trí tuệ đã
làm thay đổi cách nhìn nhận của con ngời về các yếu tố đầu vào trong quá trình sản
xuất. Trớc đây, các yếu tố sản xuất luôn ở tình trạng báo động vì bị khai thác cạn
kiệt. Đến tận đầu thế kỉ XIX, ngời ta vẫn tin rằng rừng là vô hạn, nhng sang đến thế
kỉ XX, tất cả các quốc gia trên thế giới đều biết rằng diện tích rừng đang bị thu hẹp
theo cấp số nhân và với tốc độ nh thế, sang đến giữa thế kỉ XXI, Trái đất sẽ không
còn rừng. Ngợc lại, tri thức là yếu tố sản xuất đầu tiên mà ngời sản xuất không phải
lo lắng về sự cạn kiệt của nó. Không những không bị mất giá trị sau mỗi lần sử
dụng mà ngợc lại, giá trị của nó còn tăng lên nhiều lần. Bằng công nghệ khai thác
cấp cao, chỉ một lợng nhỏ tài nguyên đợc sử dụng nhng lại tạo ra những sản phẩm
có giá trị lớn. Ví dụ: năng lợng lấy từ hydro nặng trong 1 gallon nớc tơng đơng với
năng lợng lấy từ 300l xăng hoặc từ vài gram đá silic có thể tạo thành mạch tổ hợp
IC trong máy tính có giá trị bằng cả tấn thép. Tất cả điều này đạt đợc nhờ các vật
liệu thông minh và vốn kiến thức, trí tuệ để sáng chế ra chúng.
Bên cạnh đó, trong nền kinh tế tri thức, tri thức vừa đợc sử dụng để quản lý,
điều khiển, tham gia vào quá trình sản xuất nh công cụ sản xuất vừa trực tiếp là
thành tố trong sản phẩm nh nguyên liệu sản xuất. Vì vậy, ngoài vai trò là hàng hoá,
tri thức cũng là t liệu sản xuất. Tri thức để xử lý tri thức, để tạo ra tri thức và để quản
lý điều hànhCó thể nói cha có hàng hoá nào trong nền kinh tế lại có nhiều vai trò
quyết định đến nh vậy trong cả quan hệ sản xuất và lực lợng sản xuất cũng nh trong
phơng thức sản xuất nói chung.
II.Sự ra đời của nền kinh tế tri thức


5


Nền kinh tế tri thức-xu thế của xã hội thế kỉ XXI và khả năng tiếp cận
của Việt Nam
Sự phát triển của kinh tế trong lịch sử của nhân loại đã trải qua những giai đoạn
khác nhau. Trớc hết là kinh tế săn bắn và hái lợm tồn tại trong hàng trăm nghìn
năm. Tiếp đó là kinh tế nông nghiệp kéo dài khoảng 6,7 nghìn năm. Rồi đến kinh tế
công nghiệp xuất hiện lần đầu tiên ở Anh vào đầu nửa sau thế kỉ XVIII. Sau đó là
kinh tế tri thức, lúc đầu thờng gọi là kinh tế thông tin, đã ra đời ở Mỹ vào đầu những
năm 1980 tiếp theo ở nhiều nớc công nghiệp phát triển và ngày nay ở cả các nớc
NICs và các nớc đang phát triển khác.
Năm 1962, công trình nghiên cứu đầu tiên về kinh tế tri thức của Fritz Machlup
The production and distribution of knowledge in the United States (Sản xuất và
phân phối tri thức ở Mỹ) đã đợc xuất bản. Công trình này lần đầu tiên đa ra khái
niệm công nghiệp tri thức (knowledge industry) và lu ý mọi ngời về tầm quan
trọng và đặc biệt là sự tăng trởng nhanh chóng của khu vực kinh tế này. Fritz
Machlup lần đầu tiên đã nhận ra một sự thay đổi quan trọng trong nền kinh tế của nớc Mỹ: các họat động sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức trong một số lĩnh vực
rộng lớn đang phát triển nhanh hơn rất nhiều sự tăng trởng chung của nền kinh tế.
Năm 1958, ở Mỹ, ngành công nghiệp này đã chiếm 29% GNP (tức 136 tỉ đôla) và
sử dụng 31% tổng lực lợng lao động (tức 24 triệu ngời). Điểm đáng chú ý nhất là
tốc độ tăng trởng của ngành công nghiệp này trong thời gian 1947-1958 đạt 10.6%
hàng năm, bằng hai lần tốc độ tăng của GNP, chứng tỏ các nguồn lực quốc gia đã đợc thu hút một cách đáng kể vào các hoạt động về tri thức. 5 năm sau, năm 1963, tri
thức đã tạo ra ở Mỹ một giá trị gia tăng chừng 159 tỉ đôla, chiếm 33% GNP. 5 năm
sau nữa, năm 1968, phần công nghiệp tri thức của nớc Mỹ đã lên tới gần 40% GNP.
Phát hiện của Machlup đã đợc các tác giả khác xác nhận và không lâu sau đó các
nhà nghiên cứu còn chứng minh rằng hiện tợng tơng tự cũng xảy ra ở một số nớc
khác nh Anh, Đức, Pháp,..v.v.. Bắt đầu từ những năm 1980, nớc Mỹ muốn khôi
phục vị trí bá chủ thế giới của mình nhng không phải qua công nghiệp mà qua công
nghệ cao. Mỹ đã sẵn sàng cho một cuộc cách mạng KHCN, kinh tế thế giới chuyển

từ thời kì tự động hoá sang thời kì công nghệ cao. Theo các nhà nghiên cứu, đây
chính là thời điểm nền kinh tế tri thức hình thành và phát triển với các mũi nhọn
công nghệ cao: công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lợng
mới, công nghệ hàng không vũ trụ
Những thành tựu khoa học thế kỉ XVII dẫn tới cuộc cách mạng kỹ thuật lần thứ
nhất (cuối thế kỉ XVIII) thúc đẩy sự chuyển biến từ kinh tế nông nghiệp sang kinh
tế công nghiệp. Kinh tế công nghiệp đã phát triển nhanh trong hơn 200 năm qua,
của cải của loài ngời đã tăng lên hàng trăm lần, khoa học và công nghệ ngày càng
đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế xã hội và ngày càng có điều kiện để phát
triển nhanh hơn. Sau đó, những thành tựu nổi bật của khoa học đầu thế kỉ XX với
vai trò dẫn đầu của thuyết tơng đối và thuyết lợng tử là tiền đề cho cuộc cách mạng

6


Nền kinh tế tri thức-xu thế của xã hội thế kỉ XXI và khả năng tiếp cận
của Việt Nam
khoa học và công nghệ hiện đại ra đời và phát triển bắt đầu từ giữa thế kỉ XX và
trong một phần t cuối cùng của thế kỉ đã bớc sang giai đoạn mới giai đoạn bùng
nổ thông tin, tri thức, bùng nổ công nghệ; đặc biệt là các công nghệ cao nh công
nghệ thông tin (nhất là siêu xa lộ thông tin, Internet, multimedia tơng tác, thực tế
ảo), công nghệ sinh học (đặc biệt là công nghệ gen, công nghệ tế bào), công nghệ
vật liệu mới, công nghệ năng lợnglàm tăng nhanh nhịp độ tăng trởng kinh tế, dịch
chuyển mạnh cơ cấu kinh tế, tạo sự nhảy vọt trong lực lợng sản xuất, lực lợng sản
xuất bớc sang giai đoạn mới về chất, trong đó tri thức, thông tin trở thành yếu tố
hàng đầu của sản xuất, khoa học và công nghệ trở thành lực lợng sản xuất trực tiếp;
đây không chỉ là cách mạng trong khoa học công nghệ, trong phát triển lực lợng sản
xuất mà còn là cách mạng trong các quan niệm, các cách tiếp cận; nó đòi hỏi con
ngời phải đổi mới cách nghĩ, cách làm để thích nghi và làm chủ sự phát triển.
Quyền sở hữu đối với tri thức trở thành quan trọng nhất, hơn cả vốn và tài nguyên

đất đai. Ai chiếm hữu đợc nhiều tài sản trí tuệ hơn ngời ấy thắng.
Nh vậy, kinh tế tri thức đã đợc manh nha từ cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật
lần 1, lần 2 nhng phải đến những năm 80 của thế kỉ XX khi diễn ra cuộc cách mạng
KHCN thì nó mới xuất hiện và cũng chỉ mới xuất hiện ở một vài nớc phát triển nhất
nh Mỹ, Nhật Bản. Bắt đầu từ những năm 80 của thế kỉ XX, trớc hết ở Mỹ rồi sau đó
ở một số nớc khác, nền kinh tế quốc gia đã chuyển từ giai đoạn công nghiệp sang
một giai đoạn mới kinh tế tri thức, tơng tự nh trớc đây, vào đầu nửa sau thế kỉ
XVIII, bắt đầu từ nớc Anh đã có sự chuyển từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công
nghiệp.
Tóm lại, sự xuất hiện của kinh tế tri thức là tất yếu khách quan, đó không phải
là một bớc nhảy đột biến mà là kết quả phát triển lâu dài trên cơ sở kế thừa những
thành tựu của nền kinh tế nông nghiệp và nền kinh tế công nghiệp. Đồng thời, đó
cũng là kết quả của một quá trình phát triển khoa học, kĩ thuật, công nghệ với sự gia
tăng hàm lợng tri thức trong sản phẩm cũng nh tỉ trọng của nó trong GDP đến ngỡng để đợc gọi là kinh tế tri thức (theo OECD, tỉ trọng các ngành tri thức chiếm trên
70% GDP thì nền kinh tế mới đợc gọi là kinh tế tri thức).
III. Lý luận chung về nền kinh tế tri thức
1.Khái niệm nền kinh tế tri thức
Kinh tế tri thức- tên gọi phổ biến nhất của hình thái kinh tế này, là một thuật
ngữ xuất phát từ tiếng Anh: knowledge economy. Ngoài ra còn một số thuật ngữ
khác tơng đơng nh: nền kinh tế dựa trên tri thức (knowledge based economy),
nền kinh tế đợc dẫn dắt bởi tri thức (knowledge driven economy), nền kinh tế
dựa trên ý tởng (idea- based economy), nền kinh tế học hỏi (learning economy),

7


Nền kinh tế tri thức-xu thế của xã hội thế kỉ XXI và khả năng tiếp cận
của Việt Nam
xã hội thông tin (information society), nền kinh tế công nghệ cao (high-tech
economy), nền kinh tế số hoá (digital economy), nền kinh tế mới (new

economy)Thực ra, trong số các thuật ngữ trên, chỉ có thuật ngữ nền kinh tế dựa
trên tri thức xem ra có nội hàm bao quát hơn, gần với thuật ngữ kinh tế tri thức.
Hiện nay, theo đánh giá chung của các nhà khoa học hàng đầu trên thế giới,
kinh tế tri thức mới đang định hình ở một số nớc công nghiệp phát triển nh Mỹ và
Nhật Bản. Ngay cả các quốc gia còn lại trong nhóm các nớc công nghiệp phát triển
G8 cũng chỉ đang chuyển dần từng bớc cơ cấu kinh tế cho phù hợp với điều kiện
mới còn các quốc gia đang phát triển mới đang ở giai đoạn làm quen với khái niệm
mới này. Do đó, hiện cha có một định nghĩa thống nhất hay một công thức cụ thể
nào cho kinh tế tri thức.
Bộ Thơng mại và công nghiệp nớc Anh (năm 1998) cho rằng một nền kinh tế đợc dẫn dắt bởi tri thức là một nền kinh tế mà việc sản sinh và khai thác tri thức có
vai trò nổi trội trong quá trình tạo ra của cải.
Theo GS.VS Đặng Hữu, kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sản sinh ra, phổ
cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra
của cải, nâng cao chất lợng cuộc sống.
Tổ chức OECD định nghĩa kinh tế tri thức là kinh tế đợc xây dựng trên cơ sở
sản xuất, phân phối và sử dụng thông tin. Nói đơn giản đó là nền kinh tế dựa vào tri
thức. Các ngành sản xuất và dịch vụ mới do công nghệ cao tạo ra nh các dịch vụ
khoa học công nghệ, các dịch vụ tin học, các ngành công nghiệp công nghệ caođợc gọi là ngành kinh tế tri thức. Các ngành truyền thống nh công nghiệp, nông
nghiệp nếu đợc cải tạo bằng công nghệ cao, mà giá trị do tri thức mới, công nghệ
mới đem lại chiếm trên 2/3 tổng giá trị, thì những ngành ấy cũng là ngành kinh tế tri
thức. Nền kinh tế gồm chủ yếu các ngành kinh tế tri thức gọi là nền kinh tế tri thức.
Khác với loại hình kinh tế trớc đây, loại hình mà lấy công nghiệp truyền thống
làm nền tảng, lấy nguồn tài nguyên thiên nhiên thiếu thốn và ít ỏi làm chỗ dựa để
phát triển sản xuất; kinh tế tri thức lấy công nghệ cao làm lực lợng sản xuất, lấy trí
lực nguồn tài nguyên vô tận làm chỗ dựa chủ yếu, lấy công nghệ thông tin làm
nền tảng để phát triển.

8



Nền kinh tế tri thức-xu thế của xã hội thế kỉ XXI và khả năng tiếp cận
của Việt Nam

Hình 1: Cơ sở của kinh tế tri thức

Kinh tế tri thức

Công nghệ cao
(lực lợng sản xuất)

Tài nguyên trí lực

Công nghệ thông
tin (nền tảng)

Nguồn: Vũ Trọng Lâm (2004), Kinh tế tri thức ở Việt Nam Quan điểm và
giải pháp phát triển, tr29
Nh vậy có thể thấy trong nền kinh tế tri thức vẫn còn nông nghiệp và công
nghiệp nhng hai ngành này chiếm tỉ lệ thấp. Cũng nh trong nền kinh tế công nghiệp
vẫn còn nông nghiệp nhng nông nghiệp chiếm tỉ lệ nhỏ bé. Trong nền kinh tế tri
thức, chiếm đa số là các ngành kinh tế dựa vào tri thức, dựa vào các thành tựu mới
nhất của khoa học và công nghệ.

Các chỉ tiêu
Đầu vào của sản
xuất

Bảng 1: So sánh khái quát các thời đại kinh tế
Kinh tế nông
Kinh tế công

Kinh tế tri thức
nghiệp
nghiệp
Lao động, đất đai, Lao động, đất đai,
Lao động, đất đai, vốn,
vốn
vốn, công nghệ,
công nghệ, thiết bị, tri

9


Nền kinh tế tri thức-xu thế của xã hội thế kỉ XXI và khả năng tiếp cận
của Việt Nam

Các quá trình chủ
yếu

Trồng trọt, chăn
nuôi

Đầu ra của sản xuất

Lơng thực

thiết bị
Chế tạo, gia công

Của cải, hàng hoá
tiêu dùng, các xí

nghiệp, nền công
nghiệp
Sử dụng súc vật, cơ Công nghiệp và
giới hoá đơn giản
dịch vụ là chủ yếu
Nông dân
Công nhân
< 0.3% GDP
1-2% GDP
<10%
>30%

thức, thông tin
Thao tác, điều khiển,
kiểm soát, xử lý thông
tin
Sản phẩm đáp ứng nhu
cầu ngày càng cao của
cuộc sống, công nghiệp
tri thức, vốn tri thức
Các ngành kinh tế tri
thức thống trị
Công nhân tri thức
>3% GDP
>80%

Công nghiệp chủ yếu
thúc đẩy phát triển
Cơ cấu xã hội
Đầu t cho R&D

Tỉ lệ đóng góp của
KHCN cho tăng trởng kinh tế
<1% GDP
2-4% GDP
>6% GDP
Đầu t cho giáo dục
Nhỏ
Lớn
Rất lớn
Tầm quan trọng của
giáo dục
Tỉ lệ mù chữ cao
Trung học
Sau trung học
Trình độ văn hoá
trung bình
Không lớn
Lớn
Rất lớn
Vai trò của truyền
thông
Nguồn: Vũ Trọng Lâm(2004), Kinh tế tri thức ở Việt Nam, quan điểm và giải pháp
phát triển, tr28
Nh vậy có thể nói kinh tế tri thức là một giai đoạn phát triển mới của các nền
kinh tế sau kinh tế công nghiệp với vai trò của sản xuất, phân phối và sử dụng tri
thức trong tăng trởng kinh tế ngày càng trở nên quan trọng. Tri thức đã trở thành
nhân tố hàng đầu của sản xuất, vợt lên trên các nhân tố sản xuất cổ truyền vốn và
lao động. Đây chính là cốt lõi của kinh tế tri thức.
2.Những đặc trng của nền kinh tế tri thức
2.1. Tri thức khoa học và công nghệ cùng với lao động kỹ năng cao là lực lợng

sản xuất thứ nhất, là lợi thế phát triển quyết định
Đặc điểm lớn nhất làm cho nền kinh tế tri thức khác biệt với nền kinh tế công
nghiệp hay nền kinh tế nông nghiệp là tri thức trở thành yếu tố quyết định nhất của
sản xuất, hơn cả lao động và tài nguyên thiên nhiên. Điều này đã đợc P. Drucker
khẳng định từ năm 1994: Các nớc đang phát triển không còn có thể mong chờ đặt
sự phát triển của mình dựa trên lợi thế so sánh về lao động - tức lao động công
nghiệp rẻ đợc nữa. Lợi thế so sánh có hiệu quả bây giờ phải là ứng dụng tri thức.
Quả thật, lịch sử phát triển hiện đại chứng tỏ rằng lợi thế về các nguồn lực
truyền thống nh tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao động rẻ và vốn ngày càng giảm
bớt. Trong khi đó trình độ KHCN và nguồn nhân lực kĩ năng cao (bao gồm nhân lực

10


Nền kinh tế tri thức-xu thế của xã hội thế kỉ XXI và khả năng tiếp cận
của Việt Nam
trí tuệ) càng đóng vai trò quyết định thắng lợi trong cuộc đua tranh, cạnh tranh phát
triển. ở Mỹ tỷ lệ đóng góp của ngành sản xuất điện tử - tin học cho tăng trởng kinh
tế lên đến 45% trong 3 năm qua, còn mức đóng góp của ngành xây dựng và xe hơi
vốn là trụ cột của kinh tế Mỹ chỉ còn 14% và 4%. Thời kì tăng trởng cao kéo dài
gần 10 năm qua ở Mỹ chính là dựa vào sự mở rộng các ngành kinh tế tri thức. ở các
nớc OECD, sản lợng và việc làm đã đợc mở rộng rõ rệt ở những ngành công nghệ
cao, những ngành kinh tế tri thức. Hiện khoảng 50% GDP của các nớc OECD là đã
dựa trên tri thức. Lợi nhuận của các hãng Intel, Microsoft đã đạt mức 24% doanh
thu kéo dài trong nhiều năm, trong khi lợi nhuận của các hãng thuộc các ngành
công nghiệp truyền thống chỉ đạt mức trên 10% năm, thậm chí còn thấp hơn. [2,
55]. Thực tế trên đây cho thấy các ngành công nghiệp nền tảng, công nghiệp nặng
then chốt vốn đợc xem là trụ cột của các quốc gia với các ông vua thép, vua dầu lửa,
vua ôtô,đang ngày càng lùi vào dĩ vãng, nhờng chỗ cho các ngành kinh tế mới các ngành kinh tế tri thức. .Nh vậy, lần đầu tiên trong lịch sử loài ngời, tri thức, trí
tuệ con ngời và kỹ năng lao động trở thành lợi thế phát triển lớn nhất, quyết định

nhất. KHCN đợc nhất trí thừa nhận là lực lợng sản xuất thứ nhất theo nghĩa là yếu tố
quan trọng và quyết định tiến trình phát triển kinh tế.
Với vị trí nh vậy trong nền kinh tế tri thức, tri thức cũng đã tạo ra một hiện tợng
cha từng có từ trớc đến nay, đó là sự thu hẹp khoảng cách giữa ngời trí thức và ngời
công nhân. Kinh tế tri thức càng phát triển thì khoảng cách này càng đợc thu hẹp.
Hiện tợng này chứng minh điều K. Marx đã từng chỉ ra là khi hàm lợng cơ bắp
trong sản phẩm do con ngời làm ra giảm đến mức cực nhỏ thì lúc đó sẽ xuất hiện
giai cấp công nhân khoa học. Lực lợng công nhân lao động chân tay (hay còn gọi là
công nhân cổ xanh) giảm đi (tính chung ở các nớc phát triển lực lợng công nhân cổ
xanh trong công nghiệp chỉ chiếm khoảng 20% lực lợng lao động) tơng ứng với sự
gia tăng mạnh mẽ của lực lợng công nhân khoa học, công nhân trí thức hay còn gọi
là công nhân cổ trắng. ở Mỹ, 60% lực lợng công nhân là công nhân trí thức. Trong
nhiều ngành hiện nay không còn phân biệt giữa ngời công nhân và nhà khoa học
nữa. Những ngời làm việc trong các phòng thí nghiệm, trong các xởng phần mềm để
tạo ra sản phẩm mới là các nhà khoa học nhng cũng chính họ lại là ngời trực tiếp
tham gia vào quá trình sản xuất ra sản phẩm nh một ngời công nhân thực thụ. Trong
nền kinh tế tri thức, vai trò của ngời công nhân trí thức là rất quan trọng, họ là lực lợng chủ yếu tạo ra của cải cho xã hội, tiêu biểu cho lực lợng sản xuất mới. Chính vì
vậy, lực lợng công nhân trí thức hầu nh không phải đối mặt với vấn đề thất nghiệp.
Thậm chí, những ngành có hàm lợng tri thức cao nh máy tính, viễn thông, thông
tincòn đang trong tình trạng khan hiếm lao động và có nhu cầu cao về nhập khẩu
lao động từ nớc ngoài.
2.2. Tốc độ biến đổi cực kỳ cao

11


Nền kinh tế tri thức-xu thế của xã hội thế kỉ XXI và khả năng tiếp cận
của Việt Nam
Nền kinh tế tri thức có đặc điểm quan trọng là tốc độ biến đổi cực kỳ cao. Có
rất nhiều bằng chứng chứng minh điều đó:

Tốc độ sản sinh tri thức tăng theo cấp số nhân. Theo một số tính toán, lợng
tri thức của loài ngời đợc nhân đôi sau mỗi 15 năm và với cấp độ chất lợng khác
hẳn. Cách đây 100 năm để làm việc đó loài ngời cần gấp hơn 3 lần thời gian đó.
Càng lùi vào quá khứ thì quãng thời gian nhân đôi tri thức càng lớn, đo bằng nhiều
thập kỉ. Thật vậy, tri thức của loài ngời ở thế kỉ XIX cứ 50 năm thì tăng gấp đôi, vào
giữa thế kỉ XX, cứ 10 năm tăng gấp đôi và đến những năm 1970 cứ 5 năm tăng gấp
đôi và tới những năm 1980 cứ 3 năm tăng gấp đôi.
Tốc độ thay đổi giá cả cũng diễn ra rất nhanh. Các sản phẩm càng hiện đại
thì tốc độ biến đổi giá cả càng lớn. Sự phát triển nh vũ bão của công nghệ tin học và
truyền thông rút ngắn ngày càng nhanh thời gian chọn lọc, đánh giá, sử dụng và
sáng tạo thông tin, khiến cho giá trị sử dụng tri thức cũng bị rút ngắn lại nhanh
chóng. Cùng với sự ra đời của các sản phẩm mới, giá cả sản phẩm đặc biệt là các
sản phẩm công nghệ cao đang trong xu hớng giảm đi. Nếu phải cần đến 60 năm để
cớc vận tải biển và phí cảng biển giảm đi một nửa thì cũng trong thời gian ấy cớc
hàng không giảm đi 6 lần và giá dịch vụ điện thoại giảm đi 82 lần. Đặc biệt hơn, chỉ
trong vòng 30 năm từ năm 1960 đến năm 1990, giá máy tính đã giảm đi 125 lần.
Chi phí cho phát triển tri thức rất lớn nhng chi phí cho các sản phẩm càng về sau
càng giảm, ví dụ: chi phí cho việc nghiên cứu đĩa chơng trình Window đầu tiên tốn
50 triệu USD, nhng đĩa thứ hai và các đĩa tiếp theo chỉ tốn 3 USD. Vì vậy, việc tiếp
cận và trao đổi tri thức ở phạm vi toàn cầu trong nền kinh tế tri thức càng có ý nghĩa
hơn, cạnh tranh trong kinh tế tri thức trớc hết là cạnh tranh với thời gian [4, 44].
Cùng với quá trình định hình từng bớc của nền kinh tế tri thức, tốc độ áp
dụng và phổ biến các thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ ngày càng cao.

Hình 2: Số năm cần để công nghệ đạt đợc 50 triệu ngời sử dụng

12


Nền kinh tế tri thức-xu thế của xã hội thế kỉ XXI và khả năng tiếp cận

của Việt Nam

Nguồn: Keith Benzanson, Dự thảo báo cáo về chiến lợc KHCN và công nghiệp cho
Việt Nam. VIE/99/002
2.3. Sản xuất công nghệ trở thành loại hình sản xuất quan trọng nhất, tiên tiến
nhất, tiêu biểu nhất của nền sản xuất tơng lai
Các ngành kinh tế tri thức đều phải dựa vào công nghệ mới để đổi mới và phát
triển. Các doanh nghiệp đều có sản xuất công nghệ, đồng thời có nhiều doanh
nghiệp chuyên sản xuất công nghệ, có thể gọi là doanh nghiệp tri thức, trong đó
khoa học và sản xuất đợc nhất thể hoá, không còn phân biệt phòng thí nghiệm với
công xởng, những ngời làm việc trong đó là công nhân tri thức vừa nghiên cứu vừa
sản xuất.
Vì sản xuất công nghệ có ý nghĩa quyết định nh thế nên ngời ta chạy đua vào
đầu t mạo hiểm, tức là đầu t cho nghiên cứu triển khai nhằm tạo ra công nghệ mới.
Năm 1998 ở Mỹ đầu t mạo hiểm cho phát triển Internet hơn 3.5 tỉ USD (năm 1997
là 2.1 tỉ, năm 1996 là 1.1 tỉ) và riêng quý II năm 1999 đã đầu t 3.8 tỉ. Đó chính là
nguồn gốc của sự làm giàu lên rất nhanh chóng của các doanh nghiệp tri thức. Hiện
nay trên lĩnh vực CNTT các doanh nghiệp tri thức phát triển rất nhanh, chỉ trong
khoảng 5-10 năm từ chỗ tay không trở thành những tài sản khổng lồ hàng chục tỉ
USD nh Nescape, Yahoo, Dell, Cisco,...vợt xa những doanh nghiệp truyền thống có
tên tuổi, có lịch sử lâu đời. Microsoft của Bill Gates cũng chỉ mới hơn 20 năm.
Trong số các doanh nghiệp lớn nhất thế giới, các doanh nghiệp CNTT đã chiếm đa
số.
Sự hình thành và phát triển các khu công nghệ (technology park) là yếu tố rất
quan trọng thúc đẩy phát triển nhanh sự ra đời các công nghệ mới. Đây là những vờn ơm công nghệ, ở đây có các điều kiện thuận lợi để nhất thể hoá quá trình nghiên
cứu, thực nghiệm khoa học, triển khai công nghệ và sản xuất, nhờ đó các ý tởng
khoa học nhanh chóng trở thành công nghệ và đa ra sản xuất. Những thập kỉ gần
đây trên thế giới các khu công nghệ phát triển rất nhanh, đó là một cách tổ chức để

13



Nền kinh tế tri thức-xu thế của xã hội thế kỉ XXI và khả năng tiếp cận
của Việt Nam
đi nhanh vào kinh tế tri thức. Tại Mỹ, chiếc nôi của kinh tế tri thức, cho đến nay đã
có hơn 300 khu công nghệ cao, Pháp có khoảng 35, Nhật có khoảng 32 khu. Khu
công nghệ tiêu biểu nhất là thung lũng Silicon. Nó là cái nôi của công nghệ cao của
thế giới, cái nôi của Internet, rất nhiều công nghệ cao của thế giới và Internet ra đời
từ đó. Khu công nghệ cao Silicon đến nay đã thu hút hơn 7000 công ty kĩ thuật cao,
tổng giá trị thị trờng khoảng 450 tỉ USD, mức lơng của những ngời làm việc ở đây
cao gấp 5 lần mức lơng bình quân ở Mỹ, số nhà triệu phú tăng lên hàng ngày. Cũng
nh thung lũng Silicon, hiện ngời ta đang nói nhiều đến Đầm điện tử thuộc trờng
đại học Cambridge (Anh) một khu công nghệ cao hình thành trong một thời gian
rất ngắn, thu nạp đợc hơn 1000 công ty kỹ thuật cao, sản lợng hàng năm hơn 3 tỉ
USD [1, 55]
Vì nền sản xuất dựa vào công nghệ cao tiêu hao ít nguyên liệu, năng lợng, thải
ra ít phế thải, cho nên trong nền kinh tế tri thức có thể thực hiện đợc sản xuất sạch,
không gây ô nhiễm môi trờng. Nhờ đó kinh tế tri thức còn đợc coi là nền kinh tế
phát triển bền vững.
2.4. Công nghệ thông tin có vai trò quan trọng
Ngày nay, thông tin đợc đánh giá là một trong những nguồn tài nguyên quan
trọng nhất, sở hữu thông tin là sở hữu một nguồn tài sản lớn. Mọi ngời đều có nhu
cầu thông tin và đợc truy nhập vào các kho thông tin cần thiết cho mình. Mọi lĩnh
vực hoạt động trong xã hội đều có tác động của CNTT để nâng cao năng suất, chất
lợng, hiệu quả, cũng chính vì vậy nhiều ngời gọi nền kinh tế tri thức là nền kinh tế
số hay kinh tế mạng. Thơng mại điện tử, thị trờng ảo, tổ chức ảo, xí nghiệp ảo, làm
việc từ xađợc thiết lập làm cho các hoạt động sản xuất kinh doanh rất nhanh nhạy,
linh hoạt, khoảng cách bị xoá dần, ý nghĩa của vị trí địa lý giảm đi.
Thực tế đã cho thấy, việc thu thập thông tin nhanh hay chậm, chính xác hay
không chính xác có thể mang lại cho doanh nghiệp hàng tỉ đồng và cũng có thể làm

doanh nghiệp bị thua lỗ một khoản còn lớn hơn con số đó. Do đó, trong nền kinh tế
tri thức còn xuất hiện một khía cạnh khác của cạnh tranh, đó là cạnh tranh với nhau
về thông tin: ai có thông tin trớc ngời đó sẽ thắng. Đây chính là nguyên nhân giải
thích cho sự phát triển mạnh mẽ của CNTT trong kỉ nguyên này. Nó đã giúp cho
mọi hoạt động trong xã hội, trong nền kinh tế đợc chất lợng hơn, hiệu quả hơn qua
việc thâm nhập vào mọi lĩnh vực của cuộc sống và một xã hội càng có tốc độ xã hội
hoá thông tin cao thì càng tiến gần hơn tới nền kinh tế tri thức. Chính vì vậy, CNTT
chiếm một tỉ trọng ngày càng lớn trong nền kinh tế. Theo số liệu của các nớc trong
EU thì các doanh nghiệp và ngời tiêu thụ của EU trong năm 1997 đã chi tiêu cho
các sản phẩm và dịch vụ CNTT nhiều hơn cho các khu vực ôtô, sắt thép và hàng
không cộng lại. Từ năm 1995 đến nay, tốc độ tăng trởng GDP trong khu vực kinh tế
thông tin này dao động trong khoảng 7.5-9%, trong khi tốc độ tăng trởng GDP nói

14


Nền kinh tế tri thức-xu thế của xã hội thế kỉ XXI và khả năng tiếp cận
của Việt Nam
chung là 2-3%, tốc độ tăng việc làm của khu vực này trong năm 1996 và 1997 là
7% và 8.8% trong khi đối với toàn nền kinh tế nói chung là 0.5 và 0.6%. Việc sử
dụng các sản phẩm và dịch vụ tin học, truyền thông ngày càng phổ biến. Năm 1987,
năm công ty lớn nhất trong CNTT là Microsoft, Intel, Compaq, Dell và Cisco có số
vốn trên thị trờng chứng khoán là 12 tỉ USD và đến năm 1997, số vốn tích luỹ này
đã đạt tới 600 tỉ USD, tức là tăng lên 50 lần trong vòng cha đầy 10 năm. Trong
khoảng 1970-1990, ở Mỹ có tới khoảng 90% việc làm mới đợc tập trung trong các
lĩnh vực dịch vụ tri thức và xử lý thông tin.
Hầu hết các quốc gia trên thế giới ngày nay đều dành một tỉ lệ lớn trong GDP
cho phát triển CNTT và Internet. Hàn Quốc hiện đang xây dựng siêu xa lộ thông tin
nối 10 triệu hộ gia đình, trình độ phát triển CNTT của Trung Quốc đợc dự đoán
trong 10 năm tới sẽ theo kịp tốc độ phát triển của Mỹ, Hồng Kông đang lập cảng

thông tin đầu t khoảng 7 tỉ USD. Thế giới ngày nay cũng đang có xu hớng đầu t vào
phát triển hệ thống siêu xa lộ thông tin với các máy tính tí hon đợc cài ở khắp nơi,
điều khiển mọi hoạt động trong nền kinh tế, từ đó đi tới mọi xã hội tự động hoá
hoàn toàn, hầu nh không cần tới nhân công sản xuất nữa.
2.5. Xã hội trong nền kinh tế tri thức là xã hội học tập
Nhận thức rõ vai trò và vị trí của tri thức trong nền kinh tế tri thức đã làm con
ngời ý thức nghiêm túc hơn về vấn đề học tập. Sự bùng nổ thông tin, bùng nổ tri
thức mới làm mỗi cá thể trong nền kinh tế phải liên tục đào tạo và tự đào tạo nếu
không muốn bị tụt hậu so với thời đại. Giáo dục rất phát triển, mọi ngời đều học tập,
học thờng xuyên, học ở trờng và học trên mạng để không ngừng trau dồi kĩ năng,
phát triển trí sáng tạo. Không học tập thờng xuyên thì không phát triển đợc nền kinh
tế tri thức. Mọi ngời thờng xuyên đợc bổ túc, cập nhật kiến thức, chủ động theo kịp
sự đổi mới và có khả năng thúc đẩy sự đổi mới. Với sự bùng nổ thông tin và sự luôn
đổi mới kiến thức thì mô hình giáo dục truyền thống: đào tạo xong rồi ra làm việc là
không còn phù hợp nữa mà còn phải đào tạo cơ bản, ra làm việc và tiếp tục đào tạo,
vừa đào tạo vừa làm việc. Con ngời phải học tập suốt đời, vừa học vừa làm việc. Hệ
thống giáo dục phải đảm bảo cho mọi ngời bất cứ lúc nào bất cứ ở đâu cũng có thể
học tập đợc. Mạng thông tin có ý nghĩa rất quan trọng cho việc học tập suốt đời.
Trong nền kinh tế tri thức, đầu t cho giáo dục và cho khoa học chiếm tỉ lệ rất
cao. Nói chung đầu t vô hình (cho con ngời, cho giáo dục, khoa học, văn hoá xã
hội) cao hơn đầu t hữu hình (đầu t xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật). Phát triển
con ngời trở thành nhiệm vụ trung tâm của xã hội, vốn con ngời là yếu tố then chốt
nhất tạo ra giá trị cho doanh nghiệp tri thức. Hiện nay ở các quốc gia đang chuyển
sang nền kinh tế tri thức, kinh phí nghiên cứu khoa học chiếm khoảng 6-8% GDP,
kinh phí cho giáo dục chiếm khoảng 8-10% GDP.
2.6. Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế toàn cầu hoá

15



Nền kinh tế tri thức-xu thế của xã hội thế kỉ XXI và khả năng tiếp cận
của Việt Nam
Nhà kinh tế học nổi tiếng, giáo s Viện kỹ thuật học Massenly Mỹ, Lester
Thurow trong cuốn Tơng lai của Chủ nghĩa t bản đã từng nhấn mạnh rằng: Lần
đầu tiên trong lịch sử loài ngời đã xuất hiện hiện tợng là bất cứ cái gì cũng có thể
sản xuất bất cứ nơi nào và tiêu thụ ở mọi nơi khác trên trái đất.
Đúng nh nhận định của ông, thị trờng và sản phẩm mang tính toàn cầu, một sản
phẩm sản xuất ở bất kì nơi nào cũng có thể nhanh chóng có mặt khắp nơi trên thế
giới, rất ít sản phẩm do một nớc làm ra mà phần lớn là kết quả của sự tập hợp các
phần việc đợc thực hiện từ nhiều nơi trên thế giới, kết quả của công ty ảo, xí nghiệp
ảo, làm việc từ xaCông nghệ thông tin, nhất là mạng Internet làm cho không gian
trở nên nhỏ bé. Tri thức, công nghệ, vốn, hàng hoá, lao động, cách quản lýkhông
bị bó buộc trong biên giới một quốc gia, giúp cho hoạt động kinh tế mang tính toàn
cầu. Quá trình toàn cầu hoá cũng là quá trình chuyển sang nền kinh tế tri thức, toàn
cầu hoá và kinh tế tri thức thúc đẩy nhau, gắn quyện với nhau, là hai anh em sinh
đôi của cuộc cách mạng KHCN hiện đại. Toàn cầu hoá một mặt tạo thuận lợi cho sự
phát triển nhanh kinh tế tri thức ở các nớc, nhng đồng thời cũng đặt nhiều thách
thức rủi ro. Mối quan hệ kinh tế, công nghiệp, thơng mại xuyên quốc gia giữa các nớc, các khu vực và các doanh nghiệp thúc đẩy kinh tế toàn cầu phát triển và tạo ra
áp lực cạnh tranh gay gắt. Có rất ít công ty, doanh nghiệp tồn tại đợc trong cuộc
cạnh tranh ấy, mà chủ yếu chỉ có các công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia với tiềm
lực tài chính mạnh, vốn đầu t lớn, phạm vi hoạt động trên toàn thế giới. Các công ty
này phát triển cha từng có trong lịch sử và đóng vai trò hết sức quan trọng, chúng
thúc đẩy xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá. Theo thống kê của Liên Hợp Quốc
năm 1998, trong số hàng chục triệu công ty đang xuất hiện khắp nơi trên thế giới có
44000 công ty xuyên quốc gia, trong đó 28000 công ty con có tổng giá trị sản xuất
chiếm 40% GDP thế giới, chiếm 50% giá trị thơng mại của thế giới. Hàng năm, đầu
t trực tiếp nớc ngoài của chúng chiếm 90% đầu t trực tiếp thế giới.
Tự do hoá thị trờng đang tạo tiền đề thuận lợi cho kinh tế thế giới, đặc biệt là
thông tin, viễn thông và vận tải, từ đó hình thành một kết cấu hạ tầng toàn cầu thúc
đẩy rất mạnh việc điều chỉnh các ngành cũ và phát triển các ngành mới. Hệ thống

thông tin toàn cầu tạo cơ hội cho nhiều nớc đang phát triển có thể truy cập, khai
thác kho tri thức toàn cầu để phát triển nhanh, thu hẹp khoảng cách với các nớc phát
triển nhng đồng thời cũng làm gia tăng sự lệ thuộc vào các siêu cờng. Các công ty
xuyên quốc gia đem đến cho các nớc đang phát triển những sản phẩm giá thành
thấp hơn nhờ nguồn tài nguyên dồi dào và sức lao động rẻ của các n ớc đang phát
triển. Nhng đồng thời các nớc đang phát triển đã phải trả giá đắt cho sự tăng trởng,
chịu nhiều thiệt thòi, nguồn tài nguyên bị cạn kiệt nhanh, môi trờng sinh thái ô
nhiễm..v.v.. Cho tới nay thì khoảng cách giàu nghèo đang tăng nhanh do chênh lệch
nhiều về tri thức, nếu rút ngắn đợc khoảng cách về tri thức thì sẽ thu hẹp đợc

16


Nền kinh tế tri thức-xu thế của xã hội thế kỉ XXI và khả năng tiếp cận
của Việt Nam
khoảng cách giàu nghèo. Các nớc đi sau phải có đủ bản lĩnh để có thể vơn lên, sớm
tiến kịp các nớc đi trớc, nếu không đủ bản lĩnh, không chớp lấy thời cơ thì đất nớc
tụt hậu ngày càng xa hơn và bị gạt ra ngoài lề.
2.7. Sáng tạo, đổi mới thờng xuyên là động lực chủ yếu nhất thúc đẩy sự phát triển
Công nghệ đổi mới rất nhanh, vòng đời công nghệ rút ngắn; quá trình từ lúc ra
đời, phát triển rồi tiêu vong của một lĩnh vực sản xuất hay một công nghệ chỉ mấy
năm, thậm chí mấy tháng. Các doanh nghiệp muốn trụ đợc và phát triển thì phải
luôn đổi mới công nghệ và sản phẩm. Sáng tạo là linh hồn của sự đổi mới. Trớc đây
ngời ta hay chọn những công nghệ đã chín muồi còn bây giờ thì phải tìm chọn các
công nghệ mới nảy sinh, cái chín muồi là cái sắp sửa tiêu vong. Ví dụ nh khi các
loại modem (Bộ chuyển đổi tín hiệu số sang tín hiệu tơng tự giúp máy tính truyền
và nhận dữ liệu qua mạng tơng tự) tốc độ cao hơn ra đời với giá thành ngày càng rẻ
hơn sẽ phủ nhận các loại modem thế hệ trớc tốc độ thấp hơn.
Với ý nghĩa nh vậy, sáng tạo là yếu tố không thể thiếu đợc và có ý nghĩa quyết
định đối với nền kinh tế tri thức. Hàm lợng sáng tạo trong một nền kinh tế càng cao

càng cho thấy sự phát triển của nền kinh tế đó. Thực tế cho thấy ở những n ớc có nền
kinh tế phát triển cao nh Nhật Bản, Mỹ, Đức, Anhchiếm phần lớn số lợng các phát
minh sáng chế và giải pháp hữu ích trên toàn thế giới. Đối với các nền kinh tế này,
việc sáng tạo lại càng đặc biệt đợc coi trọng và bảo vệ hơn các nớc đang và kém
phát triển nhiều, bởi vì họ hiểu rõ vai trò và sự cần thiết của sáng tạo. Ngoài ra, sáng
tạo còn là yếu tố tích cực tác động đến nhiều mặt của nền kinh tế tri thức nh : giáo
dục, khoa học, công nghệ tài nguyên, tri thứcTóm lại, sáng tạo là tiêu chí đánh
giá, là cơ sở cũng nh động lực để phát triển nhiều mặt của một nền kinh tế tri thức
toàn diện.
Trên đây là những đặc điểm cơ bản phân biệt nền kinh tế tri thức với các nền
kinh tế khác đã từng tồn tại trong lịch sử. Việc xác định chính xác những đặc điểm
này có ý nghĩa định hớng rất quan trọng đối với mỗi quốc gia trong việc đề ra các
chính sách vĩ mô để phát triển nền kinh tế theo hớng nền kinh tế tri thức.
3. Cách thức đo lờng mức độ phát triển của nền kinh tế tri thức
Đo lờng trình độ phát triển kinh tế tri thức của một quốc gia là một trong những
khó khăn lớn nhất của kinh tế học tri thức. Những chỉ số kinh tế truyền thống không
nắm bắt và phản ánh đầy đủ tầm quan trọng ngày càng tăng của tri thức trong những
hoạt động kinh tế ở nhiều nớc. Trong những năm gần đây, đã có nhiều nỗ lực để
phát triển và hoàn thịên khả năng đo lờng và thống kê kinh tế tri thức tuy vậy cho
đến nay kết quả vẫn còn khiêm tốn.
Để đo lờng trình độ kinh tế tri thức, ngời ta thờng sử dụng một hệ thống bao
gồm rất nhiều chỉ tiêu phân tích. Hiện nay, có sự khác nhau trong các nghiên cứu về
kinh tế tri thức ở sự lựa chọn các chỉ tiêu đặc trng cho kinh tế tri thức hay các thành

17


Nền kinh tế tri thức-xu thế của xã hội thế kỉ XXI và khả năng tiếp cận
của Việt Nam
phần cơ bản của kinh tế tri thức. Sau đây là khái quát một số cách thức đo l ờng trình

độ phát triển của kinh tế tri thức.
3.1. Hệ thống chỉ tiêu đo lờng kinh tế tri thức của Ngân hàng thế giới World Bank
Chơng trình Tri thức vì phát triển của WB sử dụng phơng pháp Ma trận đánh
giá tri thức KAM (Knowledge Assessment Matrix) bao gồm một bộ 59 chỉ tiêu đánh
giá cơ cấu và tính chất kinh tế xã hội của một quốc gia về trình độ kinh tế tri thức.
Tất cả các chỉ tiêu đợc quy về thang điểm 10. Điểm bình quân của 59 chỉ tiêu đợc
gọi là chỉ số phát triển kinh tế tri thức KEI. Mục tiêu của KAM là xác định các vấn
đề và cơ hội mà một nớc phải đối mặt trong bối cảnh kinh tế tri thức, cũng nh những
trọng tâm chính sách và đầu t trong tơng lai. Hiện nay WB đã tính KAM cho 75 nớc, liên tục cập nhật những số liệu mới nhất và công bố trên Internet. Theo WB, bộ
59 chỉ tiêu này nhằm đo lờng bốn mảng thiết yếu trong sự phát triển kinh tế dựa trên
tri thức, đó là:
Một môi trờng kinh tế và thể chế cung cấp nhiều sự khuyến khích đối với
việc sử dụng có hiệu quả những tri thức hiện có và tri thức mới, và thúc đẩy sự nẩy
nở tinh thần kinh doanh.
Một lực lợng lao động có giáo dục và có kỹ năng để sản xuất, chia sẻ và sử
dụng tốt tri thức.
Một kết cấu hạ tầng thông tin năng động để tạo điều kiện thuận lợi cho việc
liên lạc, truyền bá và xử lý hữu hiệu thông tin.
Một hệ thống đổi mới có hiệu quả gồm các hãng, trung tâm nghiên cứu, trờng đại học, các nhà t vấn và các tổ chức khác để khai thác tri thức toàn cầu, cập
nhật và đồng hoá chúng nhằm phục vụ cho những nhu cầu địa phơng.
Thêm vào đó, KAM còn bao gồm một số chỉ số theo dõi thành tích chung của
nền kinh tế. Những chỉ số này cho thấy một nền kinh tế đã thực sự sử dụng tốt tri
thức nh thế nào vì sự phát triển kinh tế và xã hội chung.
Hệ thống các chỉ tiêu của KAM bao gồm 7 chỉ tiêu đo lờng thành tựu kinh tế, 8
chỉ tiêu đo lờng chế độ kinh tế, 7 chỉ tiêu đo lờng chế độ thể chế, 14 chỉ tiêu đo lờng
nguồn lực con ngời, 12 chỉ tiêu đo lờng hệ thống đổi mới và 11 chỉ tiêu đo lờng kết
cấu hạ tầng thông tin. Dới đây là so sánh chỉ số phát triển kinh tế tri thức ở một số
quốc gia Đông á.

18



Nền kinh tế tri thức-xu thế của xã hội thế kỉ XXI và khả năng tiếp cận
của Việt Nam

Quốc gia

KEI

Bảng 2. Các chỉ số cụ thể
Cơ chế u
Hệ thống
Giáo dục
đãi kinh
đổi mới
tế

8.41
9.71
9.56
5.16
Singapore
8.67
8.35
9.24
8.03
Đài Loan
7.67
5.57
8.47

7.89
Hàn Quốc
6.16
6.18
6.82
4.35
Malaysia
5.34
5.51
5.97
5.10
Thái Lan
4.30
4.95
3.61
4.91
Philippines
4.36
4.01
5.10
4.06
Trung Quốc
3.27
3.36
3.31
3.45
Indonesia
3.17
2.85
2.83

3.50
Việt Nam
1.50
1.08
1.43
1.90
Lào
Nguồn: World Bank, Chơng trình Tri thức vì phát triển, số liệu 2008

Công
nghệ
thông tin
và truyền
thông
9.19
9.07
8.74
7.30
4.78
3.74
4.28
2.94
3.49
1.57

/>3.2. Hệ thống chỉ tiêu đo lờng kinh tế tri thức của APEC
APEC đã xây dựng một hệ thống gồm 25 chỉ tiêu chính để đo lờng và so sánh
các nớc khác nhau về phơng tiện trình độ phát triển kinh tế tri thức. Các nhóm chỉ
tiêu này đợc chia thành 4 nhóm:
- Môi trờng kinh doanh (8 chỉ tiêu)

- Kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin liên lạc (5 chỉ tiêu)
- Phát triển nguồn nhân lực (6 chỉ tiêu)
- Hệ thống đổi mới (6 chỉ tiêu)
3.3. Hệ thống chỉ tiêu đo lờng kinh tế tri thức của các nớc OECD
Trong một báo cáo của OECD năm 1999, để đo lờng sự phát triển kinh tế tri
thức ở các nớc OECD mở rộng, các tác giả đã sử dụng một loạt các chỉ tiêu đặc tr ng, có thể xếp vào 4 nhóm: những chỉ tiêu đo lờng các đầu vào và đầu ra tri thức,
những chỉ tiêu đo lờng sự truyền bá tri thức, những chỉ tiêu đo lờng tri thức và
những chỉ tiêu về vốn con ngời.
ở các nớc OECD, các ngành dựa trên tri thức (nh các ngành chế tạo dùng công
nghệ cao và các dịch vụ nhiều tri thức nh tài chính, bảo hiểm, truyền thông), phần
của các ngành này hiện chiếm khoảng 50% GDP và tăng nhanh hơn GDP, s ố lợng
công nhân tri thức chiếm trên 60% lực lợng lao động.
3.4. Theo các tác giả trong chuyên đề Nền kinh tế phi vật chất của tạp chí
Le Courier de lUNESCO tháng 12/1998, có thể đánh giá trình độ phát triển
của kinh tế tri thức thông qua 4 thành phần chính của kinh tế tri thức nh sau:
- CNTT kể cả Internet

19


Nền kinh tế tri thức-xu thế của xã hội thế kỉ XXI và khả năng tiếp cận
của Việt Nam
- Sở hữu trí tuệ theo nghĩa rộng, bao gồm bằng sáng chế, quyền tác giả, tên gọi
đã đăng kí, nhãn hiệu, quảng cáo, dịch vụ tài chính, cố vấn xí nghiệp, thị tr ờng
tài chính, y tế và giáo dục.
- Các th viện và ngân hàng dữ liệu điện tử, các sản phẩm nghe nhìn
- Công nghệ sinh học, các th viện và ngân hàng dữ liệu truyền thống, công
nghiệp dợc phẩm
3.5. Hiện nay bảng chỉ số Gifford 1999 (chỉ số xã hội thông tin) cũng đợc nhiều nớc đang sử dụng. Ví dụ năm 2000 các chuyên gia New Zealand đã lập bảng tính cho
một số nớc (xem chi tiết trong phụ lục III). Để đo lờng chính xác hơn, cần phải bổ

sung thêm các chỉ tiêu về mặt văn hóa, đạo đức của sự phát triển.
IV. Xu hớng phát triển nền kinh tế tri thức trên thế giới
Không ít nhà phân tích cho rằng dới tác động của cách mạng KHCN và quá
trình toàn cầu hoá, kinh tế tri thức đang hình thành ở nhiều nớc phát triển sẽ trở
thành một xu thế quốc tế lớn trong một hoặc hai thập kỉ tới.. Tuy nhiên, bao giờ
kinh tế tri thức sẽ hoàn chỉnh và lan toả ra toàn thế giới thì còn nhiều ý kiến khác
nhau: những ngời lạc quan ớc tính vào khoảng năm 2030 các nớc phát triển đều trở
thành các nền kinh tế tri thức, Liên Hợp Quốc thì dự báo vào thập kỉ thứ ba, một số
ý kiến khác lại cho rằng giai đoạn quá độ sang kinh tế tri thức sẽ kéo dài suốt thế kỉ
XXI. Bất luận nh thế nào thì trên thực tế cũng đang diễn ra một sự quá độ sang một
nền kinh tế khác với nền kinh tế đã từng tồn tại cho tới nay. Quá trình chuyển giao
này đã và đang diễn ra mạnh mẽ trong các nền kinh tế phát triển, đặc biệt là ở Mỹ,
Canada, EU, Nhật Bản, Hồng Kông, Singapore, Australia. Nhiều nghiên cứu trên thế
giới cho thấy hầu hết các nớc thuộc OECD và APEC, các yếu tố thuộc kinh tế tri
thức đã phát triển ở mức khá cao. Hiện nay, trong các nớc OECD, các ngành công
nghiệp dựa trên tri thức đã đóng góp khoảng 50% GDP. Tỷ lệ này ở Singapore là
57%, Mỹ: 55.3%, Nhật: 53%, Canada: 51% và 48% ở Australia. Các cơ sở hạ tầng
thông tin đợc đặc biệt quan tâm đầu t và phát triển, đảm bảo tốt các nhu cầu thông
tin với giá cả ngày càng giảm. Hiện nay Mỹ dẫn đầu thế giới với khoảng 46% dân
số sử dụng Internet, Nhật Bản 37%, EU 20%. Australia và Canada có tới 50% số
dân sử dụng điện thoại di động, 40% có máy tính cá nhân và 30% sử dụng mạng
Internet. Thơng mại điện tử, một lĩnh vực quan trọng của kinh tế tri thức đã phát
triển hết sức nhanh chóng, đặc biệt ở Mỹ, Canada và Australia. Mức tăng trong lĩnh
vực này trong vài năm qua đã đạt tới con số vài trăm %. Nhiều nớc phát triển đã
thay đổi rõ rệt chính sách, chuyển hẳn u tiên cao cho việc tăng đầu t vào phát triển
khoa học, công nghệ và giáo dục. Năm 2007, tổng đầu t của Nhà nớc cho nghiên
cứu khoa học, công nghệ mới và phát triển giáo dục tại Bắc Âu và Pháp chiếm 910% GDP, 8.8% ở Canada, 8.4% ở Mỹ, 8% ở Đức và 6.8% ở Australia. Tính từ giữa
thập niên 80 trở lại đây, mức tăng bình quân đầu t vào lĩnh vực này của các nớc đạt

20



Nền kinh tế tri thức-xu thế của xã hội thế kỉ XXI và khả năng tiếp cận
của Việt Nam
trên 2.8%. Phần Lan là nớc đạt tiêu chuẩn cao về giáo dục đào tạo, tại đây học sinh
tiếp cận với CNTT từ khi còn nhỏ, tất cả các trờng đều truy cập Internet với tốc độ
nhanh.
Việc phát triển các ngành kinh tế tri thức kéo theo đòi hỏi phải có một đội ngũ
công nhân trí thức, tức là những ngời lao động đợc đào tạo có kiến thức và trình độ
nghề nghiệp cao. Đội ngũ này trong các nớc phát triển tăng lên nhanh chóng, hiện
nay, tỷ lệ công nhân trí thức chiếm gần 40% lực lợng lao động trong các nớc nói
trên, dự kiến đến năm 2010 sẽ tăng lên 80%. Phần Lan đã đào tạo số cử nhân khoa
học và công nghệ gấp 5 lần số cử nhân luật. Riêng ở Mỹ, chỉ trong lĩnh vực CNTT,
vốn chỉ chiếm 8.3% tổng sản phẩm quốc nội nhng đã đóng góp gần 1/3 sự tăng trởng của kinh tế Mỹ. Số ngời làm việc liên quan đến lĩnh vực Internet tăng gấp đôi
so với năm 1999 và thu nhập hàng năm của ngành này tăng 74 %.
Ngày nay nhiều nớc công nghiệp phát triển khác và cả một số nớc công nghiệp
mới ở Châu Mỹ Latinh và Châu á cũng đã bớc vào giai đoạn phát triển kinh tế tri
thức mặc dù có chậm và ở một trình độ thấp hơn so với các nớc Châu Âu và Mỹ.
Các nớc NICs đang chuyển mạnh theo hớng phát triển kinh tế tri thức và đã đạt đợc
nhiều tiến bộ trong đó Singapore và Hàn Quốc có quyết tâm cao tiến vào kinh tế tri
thức. Năm 1992, kế hoạch IT2000 đợc ban hành nhằm biến Singapore thành hòn
đảo thông minh. Ngày nay, một nửa số gia đình tại Singapore đã có máy vi tính cá
nhân và 1/5 ngời dân dùng Internet. Hàn Quốc hiện đang đầu t rất mạnh cho R&D,
tăng nhanh số ngời sử dụng Internet và đẩy mạnh hoạt động ngoại thơng thực hiện
qua thơng mại điện tử. Một số nớc khác nh Trung Quốc, Malaysia, Thái Lan cũng
đã tích cực chuẩn bị các cơ sở cơ bản cho phát triển kinh tế tri thức, đặc biệt là tập
trung xây dựng và phát triển những ngành kinh tế có hàm lợng tri thức cao nh thông
tin, công nghệ phần mềm, nghiên cứu và ứng dụng công nghệ sinh học, vũ trụ, dịch
vụ, giáo dục, đào tạo. Hiện nay Trung Quốc đang đứng hàng thứ ba thế giới sau Mỹ,
Nhật, ngang hàng với Pháp, Đức về các sản phẩm công nghệ cao trong tổng sản

phẩm công nghệ xuất khẩu. Theo số liệu thống kê tính đến cuối tháng 2 vừa qua, số
ngời sử dụng Internet tại Trung Quốc đã lên đến 220 triệu ngời, vợt qua con số 217
triệu ngời của Mỹ và đứng đầu thế giới. ấn Độ cũng có nhiều cố gắng trong lĩnh vực
CNTT: doanh thu từ xuất khẩu phần mềm đạt hơn 5 tỉ USD năm 2000 và phấn đấu
đến năm 2010 đạt 50 tỉ USD. Các khu khai thác kĩ thuật cao của Trung Quốc đã tạo
đợc hơn 2 triệu việc làm cho công nhân. Vùng Bengal ấn Độ là một trong những
trung tâm sản xuất và xuất khẩu phần mềm lớn nhất Châu á với hơn 250 công ty.
Công nghệ phần mềm ấn Độ tạo ra 50 vạn cơ hội việc làm có lơng cao cho ngời ấn
cả ở trong và ngoài nớc. Có sự đan xen giữa các nhân tố của nền kinh tế mới. Ngay
trong từng lĩnh vực sản xuất cụ thể, những yếu tố truyền thống để tạo nên các sản
phẩm vẫn tiếp tục tham gia vào quá trình sản xuất, nhng giá trị của chúng trong cấu

21


Nền kinh tế tri thức-xu thế của xã hội thế kỉ XXI và khả năng tiếp cận
của Việt Nam
thành sản phẩm giảm đi, và ngợc lại, giá trị của phần chất xám (vốn con ngời, công
nghệ cao) ngày càng chiếm vị trí áp đảo. Có thể thấy kinh tế tri thức đang xuất hiện
ngày càng nhiều và có những đóng góp ngày càng rõ nét vào nền kinh tế.

22


Nền kinh tế tri thức-xu thế của xã hội thế kỉ XXI và khả năng tiếp cận
của Việt Nam

Chơng II: tình hình tiếp cận nền kinh tế tri
thức tại việt nam
I. Cơ sở để xây dựng nền kinh tế tri thức tại Việt Nam

1. Những điều kiện cơ bản hình thành nền kinh tế tri thức
Trớc hết phải khẳng định rằng kinh tế tri thức không phải là một bớc nhảy đột
biến hay một sáng tạo của một lý thuyết nào đó mà là hình thái phát triển cao hơn,
có tính tiến hoá của nền kinh tế thị trờng phát triển cao. Chính sự phát triển kinh tế
chính trị, xã hội, văn hoá đến mức cao độ ở các nớc công nghiệp phát triển đã tạo
tiền đề cho sự ra đời của nền kinh tế tri thức ở các nớc đó và các nớc đang phát triển
muốn tiến đến nền kinh tế tri thức thì cũng không có cách nào khác là phải chuẩn bị
và cố gắng tạo cho mình có đợc những tiền đề đó.
Kinh nghiệm thực tế từ các nớc phát triển và đang phát triển tổng kết cho thấy
có những tiền đề cơ bản mà bất cứ một quốc gia nào, dù nớc đó đã và đang tiến
thẳng vào nền kinh tế tri thức hay đang tìm cách tiếp cận nền kinh tế tri thức cũng
cần phải có.
1.1. Một Nhà nớc pháp quyền dân chủ.
Kinh nghiệm thành công cũng nh thất bại của hầu hết các nớc, đặc biệt là Mỹ,
cho thấy, nền kinh tế tri thức đòi hỏi không chỉ có đầu t mạnh cho phát triển công
nghệ hiện đại, mà còn phải tạo dựng đợc một Nhà nớc pháp quyền, một môi trờng
chính trị và xã hội dân chủ cho phép mọi ngời dân có thể bày tỏ quan điểm và chính
kiến cũng nh các ý tởng sáng tạo của mình, và những điều kiện thuận lợi đối với kinh
doanh, nơi mà doanh nghiệp có thể lờng trớc đợc mọi rủi ro trên cơ sở một môi trờng
hiệu quả, an toàn và ổn định cho việc hình thành, sản xuất và tiêu thụ tri thức. Đó trớc
hết phải là một môi trờng chính trị dân chủ, kích thích kinh tế hớng đầu t vào tri thức
và khai thác một cách có hiệu quả tri thức cho phát triển kinh tế. Sáng tạo là bản chất
của kinh tế tri thức, mà dân chủ lại là tiền đề cho sự sáng tạo những tri thức mới. Do
đó, không có dân chủ thì sẽ không có tri thức mới, và tất yếu không thể có kinh tế tri
thức. Vì vậy, mệnh đề dân chủ - sáng tạo và kinh tế tri thức là thống nhất và có mối
quan hệ biện chứng. Điều này chỉ ra rằng, kinh tế tri thức đồng thời vừa sản sinh ra
thể chế chính trị dân chủ, vừa yêu cầu thể chế chính trị cần phải đổi mới theo hớng
dân chủ thì kinh tế tri thức mới phát triển đợc.
Để đảm bảo cho nền kinh tế tri thức hình thành và phát triển tốt cần phải quan
tâm đến một môi trờng pháp lý rõ ràng, ổn định, không bị thay đổi một cách tuỳ

tiện, bảo đảm tự do hoàn toàn cho việc tiếp cận, trao đổi và xử lý thông tin, trong đó
giá trị của tri thức phải đợc bảo vệ bằng luật sở hữu trí tuệ. Mục tiêu của bảo vệ

23


Nền kinh tế tri thức-xu thế của xã hội thế kỉ XXI và khả năng tiếp cận
của Việt Nam
quyền sở hữu trí tuệ chính là khuyến khích hoạt động sáng tạo, cổ vũ và kích thích
đầu t vào sản xuất tri thức đồng thời thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh và sử dụng một

cách tiết kiệm, hiệu quả nhất các nguồn lực trí tuệ của xã hội.
1.2. Một nền kinh tế thị trờng phát triển cao
Để tiến đến nền kinh tế tri thức thì điều kiện đầu tiên và quan trọng đối với các
quốc gia là phải có một nền kinh tế thị trờng phát triển cao với các thị trờng tài
chính hoạt động hữu hiệu trên cả bình diện quốc tế lẫn trong nớc. Doanh nghiệp
trong kinh tế tri thức vừa cần vốn đầu t khổng lồ vừa phải chạy đua với thời gian và
đơng đầu với những rủi ro lớn, nên hơn bao giờ hết hoạt động của họ trong kinh tế
tri thức phụ thuộc rất lớn vào nguồn cung cấp vốn từ các thị trờng tài chính. Ngợc
lại, sự bình ổn của thị trờng tài chính cũng gắn bó mật thiết với công việc kinh
doanh của doanh nghiệp. Bảo đảm sự hoạt động của một nền kinh tế với những quan
hệ phức tạp và nhạy cảm nh vậy chỉ có thể thành công ở một quốc gia có nền kinh tế
thị trờng vững mạnh.
1.3. Hệ thống giáo dục đào tạo phát triển, tạo ra nguồn nhân lực có chất lợng
Động lực của nền kinh tế tri thức thể hiện ra ngay chính trong khái niệm của nó,
đó là tri thức. Khác với các mô hình kinh tế truyền thống dựa vào sức lao động và
tài nguyên, trong nền kinh tế tri thức, khả năng sáng tạo tri thức, trình độ tiếp cận và
vận dụng tri thức mang ý nghĩa quyết định thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Sự bùng
nổ tri thức mới, việc đẩy nhanh tiến bộ KHCN và sự cạnh tranh ngày càng tăng làm
cho việc tiếp thu tri thức càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Cho nên, để tiến

tới nền kinh tế tri thức, trớc hết và chủ yếu là chú trọng phát triển một cách toàn
diện nguồn nhân lực, khuyến khích và bồi dỡng nhân tài.
Trong nền kinh tế tri thức, tri thức trở thành nguồn duy nhất tạo ra lợi thế so
sánh dài hạn, nhng tri thức chỉ đợc áp dụng thông qua kỹ năng cá nhân, nên giáo
dục đào tạo phải trở thành quốc sách hàng đầu của những nớc đi vào nền kinh tế tri
thức. Nền kinh tế tri thức đòi hỏi một hệ thống giáo dục và đào tạo tiên tiến, khoa
học, tạo ra nguồn nhân lực có chất lợng và một hệ thống đổi mới quốc gia năng
động trong đó, doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trờng đại học và các tác nhân có liên
quan khác sẽ tơng tác một cách có hiệu quả để tạo ra, phổ biến và sử dụng tri thức,
đổi mới công nghệ và sản phẩm, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và cải thiện
vị trí quốc gia. Đào tạo nguồn nhân lực trong kỷ nguyên của nền kinh tế tri thức
phải hớng tới mục tiêu biến tri thức thành kỹ năng, tri thức phải thành trí lực và suy
rộng ra dân trí phải trở thành nhân lực. Có thể nói, lĩnh vực đầu t quan trọng nhất để
thúc đẩy nền kinh tế tri thức phát triển chính là đầu t vào vốn con ngời, làm thế nào
để có thể đào tạo, thu hút và sử dụng tốt nhân tài. Tri thức không thể ra đời, tồn tại,
phát triển và phổ cập nhanh ở những nớc có trình độ dân trí thấp và một hệ thống
nghiên cứu khoa học thiếu tính hợp tác và đổi mới.

24


Nền kinh tế tri thức-xu thế của xã hội thế kỉ XXI và khả năng tiếp cận
của Việt Nam
1.4. Cơ sở hạ tầng thông tin phát triển cao.
Cơ sở hạ tầng thông tin, trong đó có công nghệ tin học và thông tin phát triển
cao là một trong những điều kiện căn bản nhất đảm bảo sự phát triển của kinh tế tri
thức. Đó không những là một ngành kinh tế then chốt, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
tri thức mà còn là điều kiện đảm bảo hiệu quả của việc tiếp cận, trao đổi, xử lý
thông tin, sáng tạo tri thức của các ngành kinh tế - xã hội khác. Công nghệ thông tin
là chìa khoá để đi vào nền kinh tế tri thức. Đầu t phát triển các ngành công nghệ cao

mà trớc hết là công nghệ thông tin là hớng đi mà hầu hết các nớc đều triệt để đi theo
nhằm tạo dựng cơ sở khoa học cho nền kinh tế tri thức.
Cách mạng thông tin là tác nhân căn bản của kinh tế tri thức. Sự phổ cập những
thành quả do cách mạng thông tin mang lại khiến cho con ngời có nhiều kênh khác
nhau để thu nhận tri thức. Sự hội tụ của hoạt động máy tính và mạng máy tính đã
xoá bỏ những giới hạn về về lu giữ và truyền đạt tri thức. Với sự phát triển của công
nghệ thông tin, con ngời giờ đây đã có thể gửi đi những khối lợng lớn thông tin tới
bất cứ đâu trên thế giới trong giây lát với chi phí không ngừng giảm. Công nghệ
thông tin đã tạo điều kiện dễ dàng cho việc thu nhận và hấp thụ tri thức, cung cấp
cho các nớc đang phát triển những cơ hội để tiến hành nhanh quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế. Trong sản xuất kinh doanh, sự phát triển công nghệ thông tin sẽ dẫn
đến cái mà chúng ta thờng nghe nói là cuộc cách mạng giảm chi phí điều hành. Chi
phí liên lạc thấp cũng góp phần không nhỏ giúp các doanh nghiệp có những phản
ứng kịp thời cho mọi biên động trên phạm vi toàn cầu, thúc đẩy toàn cầu hoá doanh
nghiệp.
Nh vậy, cơ sở hạ tầng thông tin đã chuyển lên một cấp mới, trở thành tầng nền
tảng của toàn bộ cơ sở hạ tầng để chuyển sang nền kinh tế tri thức. Cơ sở hạ tầng
thông tin là cơ sở kinh tế - kỹ thuật mới về chất cha từng có trớc đây và ngày càng
khẳng định vai trò của nó trong quá trình tiến vào nền kinh tế tri thức.
2. Cơ sở để xây dựng nền kinh tế tri thức tại Việt Nam
2.1. Cơ hội cho Việt Nam
Đối với một nớc đang phát triển nh Việt Nam, quá trình hình thành kinh tế tri
thức vừa đem lại những cơ hội, đồng thời vừa đặt ra những thách thức không nhỏ.
Thời cơ lớn nhất là thông qua phát triển kinh tế tri thức, chúng ta có điều kiện đi tắt,
đón đầu đợc công nghệ và tri thức hiện đại, áp dụng ngay vào quá trình phát triển
kinh tế - xã hội. Các công nghệ, tri thức khoa học hiện đại mang đặc điểm là tác
động nhanh chóng, xuyên suốt các lĩnh vực của đời sống xã hội, cho nên có thể tận
dụng các kênh thông tin và mạng Internet để tiếp cận, nắm bắt. Về đờng lối, chúng
ta không thể rập khuôn theo mô hình công nghiệp hoá mà các nớc đi trớc đã đi.
Cũng không nên hiểu công nghiệp hoá chủ yếu là xây dựng công nghiệp mà phải

hiểu đây là sự chuyển nền kinh tế từ tình trạng lạc hậu, năng suất, chất lợng, hiệu

25


×