Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Sự phát triển nguồn nhân lực - Vai trò của nó với sự nghiệp Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa với nên kinh tế tri thực ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.06 KB, 20 trang )

Đề tài: Sự phát triển nguồn nhân lực - vai trò của nó với sự nghiệp CNH - HĐH
và với nền kinh tế tri thức ở nớc ta. Thực trạng và thách thức
--------------------
I. Khái niệm nguồn nhân lực
Ngày nay, khi vai trò của nguồn nhân lực đang ngày càng đợc thừa
nhận nh một yếu tố quan trọng bên cạnh vốn và công nghệ cho mọi sự tăng
trởng thì một trong những yêu cầu để hoà nhập vào nền kinh tế khu vực cũng
nh thế giới là phải có đợc một nguồn nhân lực có đủ sức đáp ứng đợc những
yêu cầu của trình độ phát triển của khu vực, của thế giới, của thời đại.
Nguồn nhân lực là toàn bộ những ngời lao động đang có khả năng
tham gia vào các quá trình lao động và các thế hệ nối tiếp sẽ phục vụ cho xã
hội.
Nguồn nhân lực với t cách là một yếu tố của sự phát triển kinh tế-xã
hội là khả năng lao động cả xã hội đợc hiểu theo nghĩa hẹp hơn, bao gồm
nhóm dân c trong độ tuổi lao động có khả năng lao động. Với cách hiểu này
nguồn nhân lực tơng đơng với nguần lao động.
Nguồn nhân lực còn có thể hiểu là tổng hợp cá nhân những con ngời
cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể chất và
tinh thần đợc huy động vào quá trình lao động. Với cách hiểu này nguồn
nhân lực bao gồm những ngời từ giới hạn dới độ tuổi lao động trở lên.
Nguồn nhân lực đợc xem xét trên giác độ số lợng và chất lợng. Số lợng
nguồn nhân lực đợc biểu hiện thông qua các chỉ tiêu quy mô và tốc độ tăng
nguồn nhân lực. Các chỉ tiêu này có quan hệ mật thiết với chỉ tiêu quy mô và
tốc độ tăng dân số. Quy mô dân số càng lớn, tốc độ tăng dân số càng cao thì
dẫn đến quy mô và tốc độ tăng nguồn nhân lực càng lớn và ngợc lại. Tuy
nhiên, mối quan hệ dân số và nguồn nhân lực đợc biểu hiện sau một thời gian
1
nhất định (vì đến lúc đó con ngời muốn phát triển đầy đủ, mới có khả năng
lao động).
Khi tham gia vào các quá trình phát triển kinh tế-xã hội, con ngời
đóng vai trò chủ động, là chủ thể sáng tạo và chi phối toàn bộ quá trình đó, h-


ớng nó tới mục tiêu nhất định. Vì vậy, nguồn nhân lực không chỉ đơn thuần
là số lợng lao động đã có và sẽ có mà nó còn phải bao gồm một tổng thể các
yếu tố thể lực, trí lực, kỹ năng làm việc, thái độ và phong cách làm việc... tất
cả các yếu tố đó ngày nay đều thuộc về chất lợng nguồn nhân lực và đợc
đánh giá là một chỉ tiêu tổng hợp là văn hoá lao động. Ngoài ra, khi xem xét
nguồn nhân lực, cơ cấu của lao động-bao gồm cả cơ cấu đào tạo và cơ cấu
ngành nghề cũng là một chỉ tiêu rất quan trọng.
Cũng giống nh các nguần lực khác, số lợng và đặc biệt là chất lợng
nguồn nhân lực đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc tạo ra của cải vật
chất và tinh thần cho xã hội.
Để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và nhu cầu sử dụng lao động,
những ngời lao động phải đợc đào tạo, phân bổ và sử dụng theo cơ cấu hợp
lý, đảm bảo tính hiệu quả cao trong sử dụng. Một quốc gia có lực lợng lao
động đông đảo, nhng nếu phân bổ không hợp lý giữa các ngành, các vùng, cơ
cấu đào tạo không phù hợp với nhu cầu sử dụng thì lực lợng lao động đông
đảo đó không những không trở thành nguần lực để phát triển mà nhiều khi
còn là gánh nặng cản trở sự phát triển.
vai trò của nó với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và với nền kinh tế tri thức ở nớc ta.
Ngày nay, trớc sự phát triển nh vũ bão của cuộc cách mạng khoa học
công nghệ và thông tin, sự giao lu trí tuệ và t tởng liên minh kinh tế giữa các
khu vực trên thế giới. Sự ra đời của nhiều công ty xuyên quốc gia đã tạo ra
tốc độ tăng trởng kinh tế cha từng thấy. Tình hình đó đã dẫn đến sự quốc tế
2
hoá kinh tế thế giới, gây nên những đảo lộn về chính trị xã hối sâu sắc mang
tính toàn cầu và đang đi đến thiết lập một trật tự thế giới mới. Trong bối cảnh
đó, khu vực châu á-Thái Bình Dơng đang nổi lên là khu vực kinh tế năng
động nhất. Một trong những yếu tố chủ chốt thúc đẩy tăng trởng kinh tế
nhanh chóng là vai trò của nguồn nhân lực.
Nền kinh tế tri thức là kinh tế dựa trên các trụ cột chủ yếu là công

nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới... Để có đợc nền
kinh tế tri thức cần phải xây dựng cơ sở hạ tầng vững chắc để phát triển khoa
học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin; đồng thời phải đầu t cho
phát triển giáo dục đào tạo. hay nói cách khác phải đầu t cho phát triển nguồn
nhân lực. Suy cho cùng tri thức là hệ quả, là tất yếu của sự phát triển nguồn
nhân lực. Các nớc muốn phát triển nền kinh tế tri thức cần phải đầu t cho phát
triển con ngời mà cốt lõi là phát triển giáo dục và đào tạo,đặc biệt là đầu t
phát triển nhân tài. Nhà kinh tế học ngời Mỹ, ông Garry Becker-ngời đợc giải
thởng Nobel về kinh rế năm 1992, đã khẳng định:''không có đầu t nào mang
lại nguần lợi lớn nh đầu t cho giáo dục (Nguồn: The Economist
17/10/1992). Nhờ có sự đầu t cho phát triển nguồn nhân lực mà nhiều nớc chỉ
trong một thời gian ngắn đã nhanh chóng trở thành nớc công nghiệp phát
triển.
Việt nam là nớc đang phát triển có lực lợng sản xuất ở trình độ thấp,
nền kinh tế tri thức đối với Việt Nam là khái niệm hoàn toàn mới mẻ. Do vậy,
có ý kiến cho rằng nền kinh tế tri thức đối với Việt Nam hiện nay quá xa và
không hiện thực; cho rằng Việt Nam phải xây dựng xong CNH, HĐH để làm
tiền đề cho kinh tế tri thức ra đời và phát triển, kinh tế tri thức không chỉ bao
gồm các ngành mới xuất hiện dựa trên công nghệ cao, mà còn cả các ngành
truyền thống đợc cải tạo bằng khoa học công nghệ cao. Do đó không nên chờ
cho đến khi sự nghiệp CNH, HĐH kết thúc mới tiến hành xây dựng kinh tế
tri thức, mà ngay trong giai đoan này, để phát triển và theo kịp các nớc trên
3
thế giới, chúng ta phải đồng thời quan tâm tới những lĩnh vực mà chúng ta có
thể tiếp cận.
Đối với Việt Nam, một đất nớc nông nghiệp, rõ dàng chúng ta không
thể xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức nh các nớc công nghiệp phát
triển. Thực ra đó là sự tiếp tục quá trình CNH, HĐH đất nớc ở một trình độ
cao hơn, dựa trên chất xám của con ngời. Mặt khác do xuất phát điểm của lực
lợng sản xuất của ta thấp, mà tiếp cận kinh tế tri thức ở Việt Nam phải phù

hợp với điều kiện của Việt Nam, tức mang những đặc thù của mình. Do đó
việc xác định nội dung các ngành kinh tế trong quá trình CNH, HĐH, chuẩn
bị các điều kiện vật chất và con ngời để tiếp cận kinh tế tri thức trở thành
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của mọi cấp, mọi ngành, nhất là các cấp
hoạch định chiến lợc. Trong việc chuẩn bị ấy việc nghiên cứu thực trạng
mạnh, yếu và tìm ra giải pháp phát triển nguồn nhân lực là quan trọng và cấp
bách nhất trong giai đoạn hiện nay.
Theo kinh nghiệm của nhiều nớc thì nếu chỉ có lực lợng lao động
đông và rẻ thì không thể tiến hành công nghiệp hoá, mà đòi hỏi phải có một
đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn cao. Chính nhờ lực lợng lao động
có trình độ chuyên môn cao mà Nhật Bản và các nớc Nics (các nớc công
nghiệp mới) vận hành có hiệu quả công nghệ nhập khẩu hiện đại, sản xuất ra
nhiều mặt hàng có sức cạnh tranh cao với các nớc công nghiệp phát triển trên
thế giới.
Để đảm bảo thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nớc, phải bồi dỡng và phát huy nhân tố con ngời. Với t cách là mục
tiêu và động lực phát triển, con ngời có vai trò to lớn không những trong đời
sống kinh tế mà còn trong lĩnh vực hoạt động khác. Bởi vậy phải quan tâm,
nâng cao chất lợng con ngời, không chỉ với t cách là ngời lao động sản xuất,
mà với t cách là công dân trong xã hội, một cá nhân trong tập thể, một thành
viên trong cộng đồng nhân loại... không thể thực hiện đợc công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nếu không có đội ngũ đông đảo những công nhân lành nghề,
4
những nhà khoa học kỹ thuật tài năng, giỏi chuyên môn nghiệp vụ, những
nhà doanh nghiệp tháo vát, những nhà lãnh đạo, quản lý tận tuỵ, biết nhìn xa
trông rộng.
Vào những năm 80, quan điểm phát triển nguồn nhân lực đã trở thành
vấn đề quan tâm đặc biệt ở châu á-Thái Bình Dơng. Con ngời đợc coi là yếu
tố quan trọng nhất của sự phát triển. Trong thời đại mới, muốn giải quyết hài
hoà các yếu tố ciung và cầu có liên quan đến chiến lợc phất triển nguồn nhân

lực thì cần xem xét khía cạnh nguồn nhân lực theo quan hệ một phía. Phải
thấy đợc vai trò sản xuất của nguồn là vấn đề cốt lõi của học thuyết vốn con
ngời. Và vai trò sản xuất của nguồn nhân lực có quan hệ chặt chẽ với vai trò
tiêu dùng đợc thể hiện bằng chất lợng cuộc sống. Cơ chế nối liền hai vai trò
là trả công cho ngời lao động tham gia các hoạt động kinh tế và thu nhập đầu
t trở lại để nâng cao mức sống của con ngời tạo nên khả năng nâng cao mức
sống cho toàn xã hội và làm tăng năng suất lao động... các nớc nghèo ở châu
á đều nhận thức do tốc độ tăng dân số quá nhanh nhiều quốc gia coi việc
giảm đói nghèo còn quan trọng hơn cả giáo dục, đó là một thiệt thòi to lớn.
Việt Nam đang hớng tới một nền kinh tế thị trờng theo định hớng xã
hội chủ nghĩa có sự quản lý vĩ mô của Nhà nớc với mục tiêu bảo đảm cho
dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng văn minh, an ninh quốc gia và sự bền
vững của môi trờng. Nền kinh tế Việt Nam chỉ có thể đạt đợc tốc độ tăng tr-
ởng nhanh, hiệu quả kinh tế-xã hội cao khi nền kinh tế ấy thực sự dựa trên cơ
sở công nghiệp hoá, hiện đại hoá. trong đó phải lấy việc phát huy nguồn lực
con ngời làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển bền vững.
5
III. Thực trạng, thách thức và xu hớng phát triển của nguồn
nhân lực Việt Nam.
1. Số lợng (quy mô) nguồn nhân lực Việt Nam.
a. Quy mô nguồn nhân lực Việt Nam.
Việt Nam là một trong những nớc đông dân số với quy mô dân số
đứng
thứ hai Đông nam á và thứ mời ba trên thế giới. Một đất nớc với cơ cấu dân
số trẻ với số ngời trong độ tuổi 16-34 chiếm 60% trong tổng số 35,9 triệu ng-
ời lao động: nguần bổ sung hàng năm là 3%-tức khoảng 1,24 triệu ngời. Theo
tổng điều tra dân số ngày 1-4-1999, quy mô dân số nớc ta là 76,3 triệu ngời
và dự tính đến năm 2010 quy mô dân số nớc ta vào khoảng 95 triệuvà số ng-
ời trong tuổi lao động gần 58 triệu, chiếm 60,7% dân số. Dự báo thời kỳ
2001 đến 2010 cần tạo thêm chỗ làm việc mới cho khoảng 11-12 triệu lao

động (cha kể số lao đông tồn động các năm chuyển sang), bình quân mỗi
năm phải tạo thêm 1,1 đến 1,2 triệu chỗ làm việc mới. Tính đến 1/7/2000,
tổng lực lợng lao động cả nớc có 38.643.089 ngời, so với kết quả điều tra tại
thời điểm 1/7/1996 tăng bình quân hàng năm là 975.645 ngời, với tốc độ tăng
2,7% một năm, trong khi tốc độ tăng bình quân hàng năm của thời kỳ này là
1,5% một năm.
Chỉ tính riêng số lợng cán bộ chính quyền cơ sở ( bao gồm cán bộ
công tác ở các xã, phờng, thị trấn) cũng cho ta thấy nớc ta có số lợng lao
đông đảo, số lợng lao động ngày một gia tăng. Theo quy định trong Nghị
định 174/CP ban hành tháng 9 năm 1994, cơ cấu số lợng của uỷ ban nhân
dân xã, phờng, thị trấn gồm có 1 chủ tịch, 1 phó chủ tịch và 5 uỷ viên uỷ ban.
Với khoảng 1 vạn xã, đội ngũ cán bộ chính quyền cơ sở gồm có số lợng trên
dới 70000 ngời. Tuy nhiên, nếu tính theo cách định biên theo cơ cấu cán bộ
cơ sở theo Nghị định 50-CP ngày 26-7-1995 thì ngoài số uỷ viên uỷ ban đã
6
nêu trên, còn có chức danh khác đợc bố trí theo yêu cầu của từng địa phơng
với mức quy định nh sau:
- Dới 5000 dân: 12 cán bộ.
- Từ 5000 dân đến dới 10000 dân : 14 cán bộ.
- Từ 10000 dân đến 15000 dân :16 cán bộ.
- Từ 15000 dân đến 20000 dân :18 cán bộ.
- Từ 20000 dân trở lên tối đa không quá 20 cán bộ.
Từ số cán bộ làm công tác đoàn thể, số cán bộ chính quyền cơ sở gồm
chủ tịch uỷ ban nhân dân, phó chủ tịch uỷ ban nhân dân và các thành viên
của uỷ ban dao động từ khoảng 7 đến 13 ngời tuỳ theo từng loại xã.
Đến Nghị định 09/1998/NĐ-CP ban hành ngày 23-1-1998 số lợng cán
bộ chính quyền cơ sở loại xã sau đây đợc ấn định nh sau :
- Dới 10000 dân :17-19 cán bộ.
- Từ 10000 đến 20000 dân: 19-21 cán bộ.
- Trên 20000 dân cứ thêm 3000 dân thêm 1 cán bộ, tối đa không quá

25 cán bộ.
Nh vậy, nếu trừ số cán bộ làm công tác đoàn thể, số lợng cán bộ làm
công tác chính quyền cơ sở đã tăng lên ở từng loại xã từ 3 đến 5 ngời và nếu
lấy bình quân mỗi xã có khoảng 20 cán bộ, thì tổng số cán bộ chính quyền cơ
sở trong cả nớc sẽ vào khoảng trên dới 150.000 ngời. So với đội ngũ công
chức hành chính trong cả nớc từ cấp huyện lên trung ơng hiện có khoảng trên
dới 200.000 ngời, thì đội ngũ cán bộ làm công tác chính quyền cơ sở không
phải là nhỏ. Ngoài số đó ra còn có khoảng 200.000 là đại biểu hội đồng dân
c, những ngời đang đợc chính quyền cơ sở trao những quyền hạn nhất định về
mặt chính quyền, hợp thành một đội ngũ cán bộ đông đảo ở cơ sở và trong
toàn quốc.
7
So với các nớc trong khu vực, quy mô dân số Việt Nam cùng với
Philippin và Thái Lan ở vào khoảng trung bình. Nhng nếu so sánh với thế
giới thì về quy mô dân số, Việt Nam đứng thứ 13, còn trong ASEAN, Việt
Nam xếp thứ hai, chỉ sau Inđônêxia. điều đó đợc thể hiện qua bảng sau:
Một số chỉ tiêu về dân số và lao động của các nớc ASEAN
Nớc
Dânsố
1994
(Triệu ng-
ời)
Tỷ lệ tăng dân số(%)
Lực lợng lao động
1960-1992 1992-2000
1994
(triệu
ngời)
% tăng
giai đoạn

90-94
%
trong
dân
số
Brunây 0,284 3,8 2,1 0,112 ---
Inđônêxia 192,2 2,2 1,7 81,2 1,1 43
Malaixia 19,5 2,6 2,1 7,85 2,8 38
Philippin 68,6 2,7 2,0 27,48 3,0 56
Thái Lan 59,4 2,4 1,1 32,84 1,1 56
Việt Nam 72,5 2,2 2,1 33,7 2,8 49
Xingapo 2,93 1,7 1,7 1,69 2,9 56
Nguồn: - Chỉ tiêu và chỉ số phát triển con ngời,Nxb Thống kê, Hà Nội,
1995.
Xem bảng trên ta thấy dân số trong toàn khối giai đoạn 1960-1992 còn
khá cao, trừ Xingapo có tỷ lệ là 1,7% và trải qua thời kỳ chuyển tiếp dân số.
Trong giai đoạn 1992-2000, có thêm Inđônêxia và Thái Lan giảm đợc tỷ lệ
tăng dân số. Riêng Việt Nam luôn nằm ở nhóm có tỷ lệ gia tăng dân số cao
trong khu vực: 2,2% trong giai đoạn 1992-2000. điều này dẫn đến sự gia tăng
lực lợng lao động trong những năm 90 còn cao ở phần lớn các nớc trong
khối: Malaixia là 2,8%; Philippin là 3%; Việt Nam là 2,8%; Xingapo là
2,9%. Với tốc độ tăng dân số nhanh và còn đợc duy trì nh vậy, tỷ lệ gia tăng
lực lợng lao động của Việt Nam trong cả giai đoạn 1960-1992 và tiếp theo
cho đến nay là điều khó tránh khỏi. Năm 1986, Việt Nam mới có 30,3 triệu
8
ngời trong độ tuổi lao động thì đến năm 1995 đã tăng đến 40,2 triệu ngời,
bình quân mỗi năm tăng khoảng một triệu ngời, tức là khoảng 3,22%. Ngoài
ra còn phải kể đến số ngời ngoài độ tuỏi lao động nhng thực tế có làm việc
cũng tăng lên, tạo thành một nguần cung cấp về lao động khá dồi dào: cuối
năm 1995 có 3,7 triệu ngời, trong đó có 1,3-1,4 triệu trẻ em (nguần: kim

Ngọc Cơng, ''phân tích và dự báo thị trờng lao động ở nớc ta'', Bộ kế hoạch và
đầu t, tạp chí kinh tế và dự báo, số 5/1997, tr.19).
Đối với Việt Nam, ngoài hai yếu tố về số ngời trong và ngoài độ tuổi
lao động kể trên, còn có thể tính đến một số yếu tố mang tính chất biến động
cơ học làm tăng nguần lao động của Việt Nam hiện nay nh: số bộ đội giải
ngũ; số lao động đi làm ở các nớc Đông Âu, Trung Đông trở về; số ngời tỵ
nạn ở Thái Lan, Hồng Kông, Malaixia, Việt kiều ở Campuchia hồi hơng
Nh vậy, Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào và thờng xuyên đợc bổ
sung bằng đội ngũ lao động trẻ, hùng hâụ, tạo nên một trong những u thế cho
Việt Nam trong việc tham gia và hoà nhập vào nền kinh tế khu vực va thế
giới.
b. Quy mô nguồn nhân lực qua đào tạo cuả Việt Nam và việc sử dụng
nguồn nhân lực này.
Việt Nam tuy có lực lợng lao động dồi dào nhng lực lợng lao động đã
qua đào tạo thực tế lại thiếu. đó là mâu thuẫn về quy mô của nguồn nhân lực
nớc ta, chúng ta vừa thừa vừa thiếu nguồn nhân lực.
Hiện nay đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan quản lý nhà nớc
thuộc các bộ, các ngành ở các cơ quan trung ơng có 129763 ngời, trong đó có
74% công chức có trình độ từ đại học trở lên.
Khi nói đến nguồn nhân lực của một quốc gia thờng ngời ta hay quan
tâm đến số lợng học sinh, sinh viên đợc đào tạo hàng năm ở các trờng trung
học chuyên nghiệp, trờng công nhân kỹ thuật, các trờng đại học, cao đẳng
trong quốc gia đó. Bởi đó là con số nói lên số lao động đợc đào tạo hàng năm
9
và chất lợng nguồn nhân lực của quốc gia. ở Việt Nam, số học sinh và sinh
viên thuộc các trờng trung học chuyên nghiệp, kỹ thuật, cao đẳng và đại học
trong cả nớc từ năm 1992 đến năm 1997 (chỉ tính học sinh, sinh viên hệ
chính quy) nh sau: Đơn vị tính:
1.000 ngời
Năm 1992 1993 1994 1995 1996 1997

Trung học chuyên nghiệp 107,8 119,0 155,6 170,5 172,4 164,1
Số tốt nghiệp 43,5 44,9 49,0 56,3 59,3 68,3
Công nhân kỹ thuật 57,6 68,7 74,7 58,7 69,9 102,5
Số tốt nghiệp 35,2 38,0 64,9 66,4 75,1 70,6
Cao đẳng, đại học 136,8 157,1 203,3 297,9 509,3 662,8
Số tốt nghiệp 24,8 29,1 36,9 58,5 78,5 74,1
Nguồn: niên giám thống kê 1998-Nxb Thống kê, 1999, tr342, 345
&349
Theo bảng trên ta thấy, cơ cấu đào tạo ở các cấp bậc rất khác nhau, số
sinh viên cao đẳng,đại học tăng nhanh trong những năm gần đây, trong khi
đó số học sinh trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật tăng rất chậm
và biến đổi bất thờng khi lên khi xuống nhất là số công nhân kỹ thuật. Nếu
năm 1994 các trờng công nhân kỹ thuật có 74.700 học sinh, thì năm 1995
còn 58.700 học sinh , song đến năm 1997 lại tăng lên 102.500 học sinh.
Chính điều đó tạo nên sự thiếu hụt lớn số công nhân kỹ thuật và cán bộ có
trình độ trung cấp, và ngợc lại dẫn tới sự lãng phí chất xám, bởi sẽ có những
sinh viên có trình độ cao đẳng hoặc đại học đảm nhận những công việc của
công nhân kỹ thuật hoặc trung cấp. Hiện nay số sinh viên đại học, cao đẳng
vẫn tiếp tục tăng nhanh, năm 2000 số sinh viên cao đẳng, đại học là gần 1
triệu bằng 1,8 lần năm 1995, vợt dự kiến kế hoạch 5 năm (1996-2000) là
13% (Lê Quang Trung: biện pháp cho vấn đề lao động thất nghiệp ở thành
thị-Vụ chính sách lao động và việc làm) và năm học 2001-2002 tổng chỉ tiêu
cho các trờng cao đẳng, đại học tăng 5% tức khoảng 160.000 sinh viên, tăng
10.000 sinh viên so với năm trớc.
10

×