Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Môn quan hệ chính trị quốc tế tổ chức Liên hợp quốc những nguyên tắc cp bản tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.86 KB, 24 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN: QUAN HỆ CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ

ĐỀ TÀI: QUAN HỆ VIỆT NAM- UCRAINA VỀ CHÍNH TRỊ,
NGOẠI GIAO VÀ QUỐC PHÒNG GIAI ĐOẠN 2001- 2012

Sinh viên:
Lớp: Quan hệ quốc tế

Hà Nội, tháng 5 năm 2015
1


Liên Hợp quốc
-

Liên Hiệp Quốc hay Liên Hợp Quốc (thường được viết tắt là LHQ) là
một tổ chức quốc tế có mục đích duy trì hòa bình và an ninh trên thế giới,
phát triển các mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc và tiến hành hợp tác
quốc tế giữa các nước trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc bình đẳng và quyền
tự quyết của các dân tộc. Hiện nay, Liên Hiệp Quốc có 193 thành viên, bao
gồm phần lớn các quốc gia có chủ quyền trên Trái Đất. Liên Hiệp Quốc sử
dụng 6 ngôn ngữ chính thức: tiếng Ả Rập, tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng
Pháp, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Trung.

-

Từ trụ sở trong lãnh phận quốc tế tại thành phố New York, Liên Hiệp Quốc
và các cơ quan chuyên môn của nó quyết định các vấn đề về điều hành và
luật lệ. Theo hiến chương LHQ thì tổ chức này gồm 6 cơ quan chính, chủ
yếu gồm: Đại hội đồng, Hội đồng Bảo An, Hội đồng kinh tế và xã hội, Ban


thư kí, Tòa án Quốc tế vì Công lý,Hội đồng Quản thác. Ngoài ra, một số tổ
chức tiến hành quản lý các cơ quan của Hệ thống Liên Hiệp Quốc, ví dụ
nhưTổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp
Quốc (UNICEF).

-

Nhân vật đại diện tiêu biểu nhất của Liên Hiệp Quốc là Tổng thư kí, đương
nhiệm là Ban Ki-moon, người Hàn Quốc.

-

Kinh phí hoạt động của Liên Hiệp Quốc được hình thành bằng tài trợ đóng
góp tự nguyện và nguồn niên liễm có kiểm soát từ các nước thành viên.
Lịch sử hình thành
Trụ sở Liên Hiệp Quốc được đặt trong lãnh phận quốc tế
tại Manhattan, Thành phố New York, Hoa Kỳ.
Tiền thân của Liên Hiệp Quốc là Hội Quốc Liên (League of Nations),
vốn là một sáng kiến của Tổng thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson sauchiến
tranh thế giới thứ nhất. Hoa Kỳ tuy sáng lập nhưng lại không chính thức
làm hội viên, hơn thế quy chế hoạt động của hội lại lỏng lẻo, các cường
2


quốc như Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc
reland, Pháp, Nga, Đức, Ý, Nhật Bản tham gia vốn chỉ để tranh giành ảnh
hưởng cho mình. Dù hội đạt được một số thành tựu đáng kể trong công
cuộc giải phóng phụ nữ cũng như những hoạt động nhân đạo nhưng chiến
tranh thế giới thứ hai bùng nổ và buộc Hội quốc liên phải giải tán.
Sau Thế chiến thứ hai, các nước Khối Đồng Minh và nhân dân thế

giới có nguyện vọng giữ gìn hòa bình và ngăn chặn các cuộc chiến tranh
thế giới mới. Tại Hội nghị Yalta, nguyên thủ ba nước Liên Xô, Mĩ, Anh đã
thống nhất thành lập tổ chức quốc tế để giữ gìn hòa bình và an ninh thế
giới. Trên cơ sở Hội nghị Durbarton Oaks ở Washington, D.C., từ 25 tháng
4 đến 26 tháng 6 năm 1945, đại diện của 50quốc gia đã họp tại San
Francisco, California, Hoa Kỳ để thông qua Hiến chương Liên Hiệp Quốc.
Ngày 24 tháng 10 năm 1945, Liên Hiệp Quốc chính thức được thành lập.
Tuy vậy, Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc (General Assembly) đầu tiên, tham
dự bởi 51 nước, không được tổ chức cho mãi đến ngày 10 tháng
1 năm 1946 (tại Nhà họp chính Westminster ở Luân Đôn).
"Một sự nghiệp vĩ đại để tạ ơn Đức Chúa toàn năng..." Tổng thống
Mỹ Harry S. Truman đã nói như vậy về thành tựu của hội nghị tại San
Francisco, một hội nghị đã góp phần vào việc soạn thảo bản Hiến chương
Liên Hợp Quốc năm 1945. Câu nói của tổng thống Truman đã đại diện cho
hàng triệu người, những người tin rằng tổ chức mới này sẽ làm cho những
cuộc chiến tranh thế giới lùi sâu vào dĩ vãng. Lời tựa của bản Hiến chương
đã nêu rõ mục đích của tổ chức này: "Chúng tôi, những dân tộc của Liên
Hợp Quốc, quyết tâm cứu những thế hệ mai sau khỏi thảm họa chiến
tranh...".

3


Tổ chức Liên hợp quốc
1. Mục đích của Liên hợp quốc
- Duy trì hòa bình và an ninh quốc tế, và để đạt được mục đích đó:
tiến hành những biện pháp tập thể có hiệu quả nhằm ngăn chặn và loại trừ
các mối đe dọa hòa bình, nhằm đập tan mọi hành vi xâm lược và phá hoại
hòa bình khác, điều chỉnh hoặc giải quyết các tranh chấp quốc tế hoặc
những tình huống có thể dẫn đến sự phá hoại hòa bình, bằng các biện pháp

hòa bình, phù hợp với các nguyên tắc của công lý và luật pháp quốc tế;
- Phát triển mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc trên cơ sở tôn
trọng nguyên tắc bình đẳng và tự quyết của các dân tộc, và tiến hành những
biện pháp phù hợp khác để củng cố hòa bình thế giới;
- Thực hiện sự hợp tác quốc tế trong việc giải quyết các vấn đề quốc
tế về kinh tế, xã hội, văn hoá và nhân đạo, và trong việc thúc đẩy và
khuyến khích sự tôn trọng các quyền của con người và các quyền tự do cơ
bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ
hoặc tôn giáo; và
- Trở thành trung tâm phối hợp mọi hành động của các dân tộc, nhằm
đạt được những mục đích chung nói trên.

2. Những nguyên tắc cơ bản
Để bảo đảm Liên Hợp Quốc là một tổ chức quốc tế thực sự phục vụ
mục tiêu chung của cộng đồng quốc tế, Hiến chương Liên Hợp Quốc cũng
quy định các nguyên tắc hoạt động của Tổ chức Liên Hợp Quốc, các
nguyên tắc chủ đạo gồm:
-

Bình đẳng chủ quyền của mọi thành viên.
Các thành viên của Liên hợp quốc tự nguyện thực hiện các nghĩa vụ của
Hiến chương.

4


-

Các thành viên của Liên hợp quốc giải quyết tranh chấp bằng phương pháp
hòa bình , không đe dọa hòa bình, không đe dọa hòa bình, an ninh và đạo lý


-

quốc tế.
Không đe dọa hòa bình, an ninh và đạo lý quốc tế.
Không đe dọa bằng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực chống lại quyền bất khả
xâm phạm về lãnh thổ hoặc sự độc lập về chính trị của bất cứ nước nào trái

-

với mục đích của Liên hợp quốc.
Mọi thành viên giúp đỡ Liên hợp quốc thành hiện các biện pháp cưỡng chế

-

đối với những nước gây ra hành động đe dọa hòa bình và an ninh quốc tế .
Bảo đảm những nước không phải là thành viên của Liên hợp quốc hành
động phù hợp với những nguyên tắc trên, vì đây là điều kiện cần thiết nhằm

a.

duy trì hòa bình và an ninh quốc tế.
Liên hợp quốc không can thiệp vào công việc nội bộ của bất cứ nước nào.
3. Điều kiện gia nhập Liên hợp quốc.
Tư cách thành viên của Liên Hiệp Quốc mở rộng cho tất cả các quốc
gia yêu chuộng hòa bình và chịu chấp nhận các nguyên tắc được đặt ra
trong Hiến chương hiện thời và trong các phán quyết của Tổ chức, có thể
và sẵn sàng thực thi những nguyên tắc đó.

b.


Sự thu nhận một quốc gia như thế vào Liên Hiệp Quốc sẽ bị ảnh
hưởng bởi quyết định của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc với sự giới thiệu
của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc.
4. Ngôn ngữ
- Liên Hiệp Quốc sử dụng sáu ngôn ngữ chính thức: tiếng Ả
Rập, tiếng Hoa, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga và tiếng Tây Ban
Nha.Ban thư ký sử dụng hai ngôn ngữ làm việc: (tiếng Anh và tiếng Pháp).
- Trụ sở được đặt tại New York ( Mỹ )

5


Trụ sở của Liên hợp quốc
5. Các cơ quan chủ yếu của Liên hợp quốc
Theo Hiến chương Liên hợp quốc có 6 cơ quan chủ yếu:
Đại hội đồng Liên Hợp Quốc
Các qui định của Hiến chương liên quan đến Đại hội đồng được đề cập trong
chương IV (từ Điều 9 đến 22), đã xác định thành phần, chức năng quyền hạn,
bầu cử và thủ tục. Những qui định khác liên quan đến Đại hội đồng còn được
nêu ở một số điều khoản khác.
1.1. Thành viên
Đại hội đồng là cơ quan đại diện rộng rãi nhất của Liên Hợp Quốc. Từ 51
thành viên ban đầu (những nướsc có đại diện dự Hội nghị tại Xan Phranxixcô
hoặc đã ký Tuyên ngôn của Liên Hợp Quốc ngày 1/1/1942, và những nước đã
ký và phê chuẩn Hiến chương Liên Hợp Quốc), số thành viên LHQ cho đến
giữa 2004 là 191.Khác với Hội đồng Bảo an, các thành viên Đại hội đồng đều
là các thành viên bình đẳng, không phân biệt quốc gia lớn hay nhỏ, mỗi quốc
gia thành viên đều được 1 phiếu bầu.


6


Các nước thành viên được chia theo nhóm khu vực để phân bổ vị trí khi
bầu vào các cơ quan cơ chế Liên Hợp Quốc. Hiện nay có 5 nhóm khu vực:
châu Á, châu Phi, Mỹ La-tinh và Ca-ri-bê, Đông Âu, phương Tây và các nước
khác. Cho đến ngày 31/5/2003, E-xtô-ni-a, Ki-ri-ba-ti, Đông Ti-mo và Pa-lau
không thuộc nhóm khu vực nào.
1.2. Chức năng quyền hạn
1.2.1. Xem xét và kiến nghị về các nguyên tắc hợp tác trong việc duy trì
hoà bình và an ninh quốc tế, kể cả những nguyên tắc liên quan đến giải trừ
quân bị và các qui định về quân bị;
1.2.2. Bàn bạc về các vấn đề liên quan tới hoà bình và an ninh quốc tế,
trừ trường hợp tình hình hoặc tranh chấp hiện đang được thảo luận tại Hội
đồng Bảo an, và đưa ra các khuyến nghị về các vấn đề đó;
1.2.3. Bàn bạc và khuyến nghị về các vấn đề theo qui định của Hiến
chương có tác động đến chức năng, quyền hạn của các cơ quan thuộc Liên
Hợp Quốc;
1.2.4. Nghiên cứu và khuyến nghị để thúc đẩy hợp tác chính trị quốc tế,
phát triển và pháp điển hoá luật pháp quốc tế; thực hiện các quyền con người
và các quyền tự do cơ bản cho mọi người, và hợp tác quốc tế trong các lĩnh
vực kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục và y tế;
1.2.5. Khuyến nghị các giải pháp hoà bình cho mọi tình huống có thể làm
phương hại quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc;
1.2.6. Nhận và xem xét các báo cáo của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc
và các cơ quan khác thuộc Liên Hợp Quốc;
1.2.7. Xem xét, thông qua ngân sách Liên Hợp Quốc và phân bổ đóng
góp của các nước thành viên;
1.2.8. Bầu các thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp
Quốc, các thành viên Hội đồng Kinh tế - Xã hội , các thành viên được bầu vào

Hội đồng Quản thác, cùng Hội đồng Bảo an bầu các thẩm phán Toà án quốc tế,

7


và bầu Tổng thư ký Liên Hợp Quốc (nhiệm kỳ 5 năm) theo khuyến nghị của
Hội đồng Bảo an.
Theo nghị quyết "Đoàn kết vì hoà bình" (Uniting for Peace) thông qua tại
Đại hội đồng tháng 11/1950, Đại hội đồng có thể hành động nếu Hội đồng Bảo
an, vì không đạt được sự nhất trí giữa các thành viên, không thể có hành động
trong một trường hợp có nguy cơ đe doạ hoà bình, phá vỡ hoà bình hoặc hành
động xâm lược. Đại hội đồng được quyền xem xét vấn đề ngay lập tức để có
khuyến nghị với các nước thành viên thực hiện các biện pháp tập thể, trong
trường hợp phá hoại hoà bình hoặc xâm lược, bao gồm biện pháp sử dụng vũ
lực khi cần thiết, để duy trì và khôi phục hoà bình và an ninh quốc tế.
* Bầu Chủ tịch, các phó Chủ tịch: Đại hội đồng bầu 1 Chủ tịch và 21 Phó
Chủ tịch cho từng khoá họp.
* Chủ tịch có thể cử một phó Chủ tịch làm Quyền chủ tịch, có quyền hạn
và nghĩa vụ như Chủ tịch.
* Chủ tịch tuyên bố khai mạc và kết thúc các phiên họp, hướng dẫn thảo
luận, cho phép các đoàn phát biểu, nêu các vấn đề và tuyên bố các quyết định;
quyết định về các kiến nghị thủ tục (points of order), toàn quyền kiểm soát và
bảo đảm trật tự các phiên họp. Khuyến nghị Đại hội đồng về giới hạn thời
gian, số lần đại biểu được phát biểu, giới hạn danh sách đại biểu phát biểu.
* Chủ tịch không tham gia bỏ phiếu.
Vai trò của Ban thư ký
Ban thư ký tiếp nhận dịch, in và phát các tài liệu, báo cáo, nghị quyết,
biên bản, các bài phát biểu tại phiên họp và các công việc khác theo yêu cầu .
2.3. Thủ tục hoạt động của Hội đồng Bảo an
Theo Hiến chương, Hội đồng Bảo an phải được tổ chức một cách phù

hợp để có thể hoạt động thường xuyên và liên tục nhằm ứng phó với các tình
huống liên quan đến hoà bình và an ninh quốc tế có thể đặt ra ở bất cứ thời
điểm nào. Hiện tại, hoạt động của Hội đồng Bảo an được tiến hành dựa trên

8


Các qui tắc thủ tục tạm thời (gồm 61 qui tắc) được Hội đồng Bảo an thông qua
và liên tục cập nhật tại các phiên họp.
* Các phiên họp: Các hình thức họp của Hội đồng Bảo an bao gồm họp
chính thức, họp kín và trao đổi không chính thức. Hội đồng Bảo an có thể triệu
tập phiên họp bất thường (periodic meetings) theo yêu cầu của các quốc gia
thành viên Liên Hợp Quốc hoặc của Tổng thư ký Liên Hợp Quốc khi có những
xung đột hoặc những tình huống có khả năng đe doạ hoà bình và an ninh quốc
tế. Một nước không phải thành viên Liên Hợp Quốc cũng có thể đưa cuộc
tranh chấp, trong đó bản thân nước đó là một bên tham gia tranh chấp, ra trước
Hội đồng Bảo an để cơ quan này xem xét giải quyết với điều kiện là nước đó
phải thừa nhận trước là sẽ tuân thủ trách nhiệm giải quyết hoà bình cuộc tranh
chấp theo qui định của Hiến chương Liên Hợp Quốc. Sau khi nhận được yêu
cầu như vậy của các đối tượng trên, Chủ tịch Hội đồng Bảo an sẽ lập tức thông
báo cho các nước uỷ viên tình hình trên và tiến hành các thủ tục khác để tổ
chức cuộc họp của Hội đồng Bảo an để xem xét vấn đề. Ngoài những cuộc
họp thuộc dạng trên, Hội đồng Bảo an còn tiến hành các cuộc họp trên cơ sở
thường xuyên (continuous basis) nhằm có thể ứng phó được một cách nhanh
chóng những biến chuyển của tình hình và để kiểm phối các hoạt động gìn giữ
hoà bình của Liên Hợp Quốc trên cơ sở các báo cáo của Tổng thư ký Liên Hợp
Quốc.
* Mỗi uỷ viên Hội đồng Bảo an phải luôn có một đại diện tại Trụ sở Liên
Hợp Quốc. Chức Chủ tịch Hội đồng Bảo an được luân phiên hàng tháng giữa
các nước uỷ viên theo thứ tự vần chữ cái của tiếng Anh.

* Tham gia các phiên họp: Ngoài các thành viên Hội đồng Bảo an, bất cứ
thành viên nào của Liên Hợp Quốc, hay một quốc gia nào không phải thành
viên Liên Hợp Quốc, nếu là đương sự trong vụ tranh chấp mà Hội đồng Bảo
an đang xem xét, cũng được mời đến tham dự nhưng không có quyền biểu
quyết trong những cuộc thảo luận liên quan đến vụ tranh chấp ấy. Hội đồng
Bảo an ấn định những điều kiện mà Hội đồng xét thấy để cho một nước không
9


phải thành viên Liên Hợp Quốc được tham gia các cuộc thảo luận ấy là hợp lý.
Trong các phiên họp kín, chỉ có các nước uỷ viên và các nước mà Hội đồng
Bảo an thấy trực tiếp có liên quan hoặc cần thiết phải tham dự mới được tham
dự theo thoả thuận chung của thành viên Hội đồng Bảo an.
* Kết quả phiên họp : Thay vì tiến hành các cuộc họp chính thức, Hội
đồng Bảo an hiện nay thường thiết lập các nhóm làm việc toàn thể (Working
Groups of the Whole) ở mức chuyên viên ở các cấp nhằm soạn thảo các dự
thảo nghị quyết và tuyên bố của chủ tịch.
* Bỏ phiếu: Mỗi thành viên Hội đồng Bảo an có một phiếu. Các quyết
định liên quan đến thủ tục được thông qua với số phiếu thuận của ít nhất là 9
trong số 15 thành viên bất kể là thường trực hay không thường trực. Các quyết
định về các vấn đề thực chất chỉ được thông qua khi có ít nhất 9 phiếu thuận,
trong đó theo Hiến chương phải gồm các phiếu tán thành (concurring vote) của
tất cả các nước thành viên thường trựcTrong thực tế áp dụng qui tắc này, việc
một nước uỷ viên thường trực bỏ phiếu trắng, hoặc không tham gia bỏ phiếu,
không bị coi là phủ quyết. Bất cứ quốc gia nào, dù là thành viên thường trực
hay không thường trực, cũng không được phép tham gia bỏ phiếu về các quyết
định có liên quan tới các biện pháp giải quyết tranh chấp mà quốc gia đó là
một thành viên tham gia.
3. Hội đồng Kinh tế - Xã hội Liên Hợp Quốc
3.1 Cơ sở pháp lý và tôn chỉ mục đích

Hội Đồng Kinh tế Xã Hội Liên Hợp Quốc (Economic and Social Council
- ECOSOC) là một trong 6 cơ quan chính của Liên Hợp Quốc.
Theo Hiến chương LHQ, một trong những mục tiêu chính của Tổ chức
này là: "Thực hiện hợp tác quốc tế trong việc giải quyết những vấn đề quốc tế
về kinh tế, xã hội, văn hóa hoặc nhân đạo, thúc đẩy và khuyến khích sự tôn
trọng nhân quyền và những quyền tự do căn bản cho tất cả mọi người, không
phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo" (Chương I, điều 1, điểm
3). Cụ thể, LHQ sẽ thúc đẩy (Chương IX, điều 55, điểm a,b,c):
10


- Nâng cao mức sống, đầy đủ việc làm, điều kiện tiến bộ và phát triển
kinh tế xã hội
- Giải quyết những vấn đề quốc tế về kinh tế, xã hội, y tế và các vấn đề
liên quan, và sự hợp tác quốc tế về văn hóa và giáo dục, và
- Tôn trọng và thực hiện quyền con người và các quyền tự do cơ bản cho
tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo
Trách nhiệm thực hiện những chức năng trên trước hết thuộc về Đại Hội Đồng
LHQ. Theo điều 60 của Hiến chương LHQ, ECOSOC được đặt dưới quyền
của Đại Hội Đồng và được Đại hội đồng giao trách nhiệm trực tiếp thực hiện
các chức năng về kinh tế, xã hội của LHQ.
3.2 Thành viên:
Số thành viên ban đầu của ECOSOC là 18. Từ tháng 8/1965 tăng lên 27
và từ tháng 10/1973 cho đến nay là 54 nước thành viên LHQ do ĐHĐ bầu.
Các ghế được phân theo khu vực địa lý : 14 nước Châu Phi, 11 nước Châu Á,
6 nước Đông Âu, 10 nước Mỹ La tinh và Caribe, 13 nước Tây Âu và các nước
khác.
Hàng năm ĐHĐ LHQ phải bầu lại 18 nước thành viên ECOSOC với nhiệm kỳ
3 năm, thông thường bắt đầu từ 1/1 đến 31/12. Nước thành viên vừa hết nhiệm
kỳ có thể tái ứng cử.ĐHĐ thường thông qua không bỏ phiếu bầu các nước đã

được các nhóm khu vực nhất trí đề cử (Endorsement).Nếu các nước không
thống

nhất

được

trong

nhóm

thì

ĐHĐ

phải

bỏ

phiếu

bầu.

3.3 Chức năng và quyền hạn:
ECOSOC là cơ quan soạn thảo và điều phối các chính sách thúc đẩy hợp
tác quốc tế trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội và nhân quyền của LHQ. Phần
lớn các Nghị quyết và Quyết định của ĐHĐ LHQ về kinh tế, xã hội, nhân
quyền, nhân đạo đều bắt nguồn từ các khuyến nghị do ECOSOC trình lên.
Theo Hiến chương LHQ, ECOSOC có những chức năng và quyền hạn chính
sau:

- Thực hiện hoặc đề xuất những nghiên cứu, điều tra và làm báo cáo về các
11


vấn đề quốc tế trong lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, và giáo dục, y tế và
những vấn đề liên quan khác, và có thể đưa ra những khuyến nghị về các vấn
đề đó đối với ĐHĐ, các nước thành viên LHQ và các tổ chức chuyên môn hữu
quan;
- ECOSOC có thể đưa ra những khuyến nghị nhằm thúc đẩy tôn trọng và thực
hiện quyền con người;
- ECOSOC soạn thảo các văn kiện và điều ước quốc tế về những vấn đề
thuộc thẩm quyền của mình để trình ĐHĐ và có thể triệu tập các Hội nghị
quốc tế về những vấn đề đó, theo các thủ tục của LHQ;
- ECOSOC có thể phối hợp hoạt động với những tổ chức chuyên môn của
LHQ, thông qua tham khảo và khuyến nghị với các tổ chức đó, cũng như bằng
cách khuyến nghị với ĐHĐ và các thành viên LHQ;
- ECOSOC sẽ mời bất cứ nước thành viên LHQ nào tham dự, không bỏ
phiếu, các cuộc thảo luân của HĐ về vấn đề liên quan đến nước thành viên đó;
- ECOSOC có thể thu xếp cho đại diện các tổ chức chuyên môn LHQ tham dự,
không bỏ phiếu, các cuộc thảo luận của HĐ và các cuộc thảo luận của các Ủy
ban do HĐ lập ra, và cho các đại diện của HĐ tham gia các cuộc thảo luận của
các tổ chức chuyên môn LHQ;
- ECOSOC có thể có những thu xếp thích hợp để tham khảo các tổ chức
phi chính phủ liên quan đến những vấn đề thuộc thẩm quyền của HĐ, thu xếp
qua các tổ chức quốc tế và khi thích hợp, có thể qua các tổ chức quốc gia của
nước thành viên sau khi đã tham khảo nước thành viên đó;
- ECOSOC có nghĩa vụ thực hiện những chức năng khác được quy định trong
Hiến chương LHQ, hoặc có thể được Đại hội đồng giao cho..
4. Hội đồng Quản thác
4.1. Cơ sở pháp lý

Theo Chương XII Hiến chương Liên Hợp Quốc, Hệ thống Quản thác với
nhiệm vụ giám sát các vùng Lãnh thổ quản thác được đặt trong Hệ thống theo
các thoả thuận riêng với quốc gia quản lý các vùng lãnh thổ này. Hệ thống này
12


áp dụng với: (i) các vùng lãnh thổ nằm trong nhiệm vụ quản lý do Hội quốc
liên đưa ra; (ii) các vùng lãnh thổ tách ra từ các quốc gia kẻ thù sau Chiến
tranh thế giới thứ hai; các vùng lãnh thổ do các quốc gia có trách nhiệm quản
lý được tự nguyện đặt trong Hệ thống. Mục tiêu căn bản của Hệ thống là thúc
đẩy tiến bộ chính trị, kinh tế, xã hội tại các vùng lãnh thổ quản thác và sự phát
triển của các vùng này hướng tới chính phủ tự quản và độc lập.
4.2. Thành phần
Hội đồng Quản thác gồm những thành viên sau đây của Liên Hợp Quốc:
* Những thành viên được quyền quản lý những vùng lãnh thổ quản thác;
* Những thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an;
* Một số thành viên do Đại hội đồng bầu ra trong thời hạn 3 năm để đảm
bảo đủ số lượng thành viên của Hội đồng;
* Quản thác được phân bổ ngang nhau giữa những thành viên Liên Hợp
Quốc quản lý các lãnh thổ quản thác và những thành viên không quản lý
những lãnh thổ đó.
4.3. Chức năng, quyền hạn
* Xem xét những báo cáo của nhà đương cục được giao quản lý lãnh thổ
quản thác;
* Nhận xét và đơn thỉnh cầu sau khi tham khảo ý kiến nhà đương cục nói
trên;
* Cử người đến quan sát định kỳ từng lãnh thổ do nhà đương cục nói trên quản
lý theo thời hạn được thoả thuận với nhà đương cục ấy;
* Tiến hành những việc trên hay những việc khác theo đúng những điều
khoản của các hiệp định về quản thác.

5. Tòa án Quốc tế
5.1. Thành phần
Toà án quốc tế gồm 15 thẩm phán, là công dân của các quốc gia thành
viên Liên Hợp Quốc, do Đại hội đồng và Hội đồng Bảo an cùng bầu ra.
5.2 Chức năng
13


Chức năng chính của Toà án quốc tế là giải quyết hoà bình các tranh chấp
quốc tế, vụ kiện do các quốc gia đưa lên phù hợp với luật pháp quốc tế. Mục
tiêu của toà án là áp dụng các tập quán quốc tế để thiết lập các quy tắc được
các quốc gia liên quan chính thức công nhận; các thông lệ quốc tế được chấp
nhận như luật; các nguyên tắc chung của luật pháp được các quốc gia công
nhận; các phán quyết của tòa án...
Tòa án cũng khuyến nghị Đại hội đồng, Hội đồng Bảo an về lĩnh vực luật
pháp, các vấn đề luật pháp nổi lên trong phạm vi hoạt động của các cơ quan
này, khuyến nghị các cơ quan khác của Liên Hợp Quốc, các cơ quan chuyên
môn với sự uỷ quyền của Đại hội đồng.
5.3. Hoạt động
* Giải quyết theo luật pháp các tranh chấpCơ quan chính của Liên Hợp
Quốc giải quyết các tranh chấp là Toà án quốc tế. Kể từ khi thành lập năm
1946, đến nay đã có 72 vụ được các nước đưa ra trước Toà án quốc tế, 22
trường hợp hỏi ý kiến của các tổ chức quốc tế. Hầu hết các trường hợp được
Toà giải quyết song kể từ năm 1981, đã có 4 trường hợp được chuyển cho các
Uỷ ban đặc biệt giải quyết theo đề nghị của các bên liên quan. 11 trường hợp
vẫn chưa được giải quyết.
Các trường hợp đưa ra giải quyết tại Toà án quốc tế bao gồm nhiều lĩnh
vực như: quyền về lãnh thổ (vụ tranh chấp giữa Pháp và Anh năm 1953, giữa
Bỉ và Hà Lan năm 1959, giữa Ấn Độ và Bồ Đào Nha năm 1960, giữa
Buốckina Phaxô và Mali năm 1986, giữa Libi và Sát năm 1990), liên quan đến

luật biển (trường hợp Anbani phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại do thuỷ
lôi trong vùng lãnh hải của mình gây ra cho tầu của Anh năm 1949, tranh chấp
giữa Anh và Na uy về đánh cá), các cuộc tranh chấp liên quan đến nguyên tắc
và luật lệ quốc tế trong việc phân định ranh giới thềm lục địa, trên biển và trên
bộ (vụ giữa Libi và Manta năm 1985, Canađa và Mỹ năm 1984, Đan mạch và
Na uy năm 1993, giữa En Xanvađo và Honđurat năm 1992 ...), về bảo vệ
ngoại giao, bảo vệ môi trường, thực hiện các nghĩa vụ của lực lượng uỷ thác
14


tại lãnh thổ Tây Nam châu Phi, các vấn đề liên quan đến xung đột khu vực,
việc thực hiện các công ước quốc tế của các nước ... các trường hợp liên quan
đến quan hệ giữa Liên Hợp Quốc và các nước thành viên như việc phái viên
của Liên Hợp Quốc bị sát hại, đóng góp của các nước vào ngân sách hoạt động
gìn giữ hoà bình... cũng được các bên liên quan đưa ra tại Toà án quốc tế để
nhận được ý kiến tham khảo.
* Pháp điển hoá luật pháp quốc tế
Uỷ ban về luật pháp quốc tế đã được Đại hội đồng thành lập năm 1947
nhằm thúc đẩy sự phát triển và pháp điển hoá luật pháp quốc tế theo hướng
tiến bộ. Công việc chủ yếu của Uỷ ban là soạn thảo luật pháp quốc tế, lĩnh vực
luật pháp cần soạn thảo có thể do Uỷ ban tự chọn hoặc do Đại hội đồng hoặc
Hội đồng Kinh tế - Xã hội (ECOSOC) gợi ý. Khi Uỷ ban hoàn tất dự thảo các
điều khoản, Đại hội đồng sẽ triệu tập một hội nghị quốc tế để quyết định đưa
các điều khoản dự thảo đó vào một công ước quốc tế, sau đó sẽ mở cho các
nước tham gia.
Năm 1966, đáp ứng đòi hỏi của Liên Hợp Quốc phải giữ một vai trò tích
cực trong việc giảm bớt và loại bỏ các cản trở đối với thương mại quốc tế, Đại
hội đồng đã thành lập Uỷ ban Liên Hợp Quốc về luật thương mại quốc tế
(UNCITRAL) để thúc đẩy sự thống nhất và hài hoà theo hướng tiến bộ của
luật thương mại quốc tế. Uỷ ban gồm 36 thành viên, đại diện cho các khu vực

địa lý và các hệ thống kinh tế và luật pháp khác nhau, có báo cáo hàng năm lên
Đại hội đồng và trình báo cáo lên Hội nghị Liên Hợp Quốc về Thương mại và
Phát triển.
6. Ban Thư ký Liên hiệp quốc
6.1. Khái quát
Ban thư ký Liên Hợp Quốc (gọi tắt là Ban thư ký) là một trong sáu cơ
quan chính của Liên Hợp Quốc.
Tổng thư ký hiện nay là Ngài Kofi Annan, quốc tịch Gana, nhậm chức
từ ngày 1/1/1997.
15


6.2. Cơ cấu tổ chức
Theo Chương XV của Hiến chương Liên Hợp Quốc, Ban thư ký gồm
có một Tổng thư ký và một số nhân viên tuỳ theo nhu cầu của tổ chức.
Tổng thư ký do Đại hội đồng bổ nhiệm, theo kiến nghị của Hội đồng Bảo
an. Tổng thư ký là viên chức cao cấp nhất của Tổ chức Liên Hợp Quốc
(Điều 97).
6.3. Chức năng, nhiệm vụ
* Tổng thư ký hoạt động với tư cách là người có cương vị cao nhất
của Ban thư ký trong tất cả các cuộc họp của Đại hội đồng, của Hội đồng
Bảo an, của Hội đồng Kinh tế - Xã hội và của Hội đồng Quản thác. Tổng
thư ký thực hiện các chức năng theo quy định của Hiến chương Liên Hợp
Quốc và các nhiệm vụ khác do các cơ quan này giao phó. Tổng thư ký trình
Đại hội đồng báo cáo hàng năm về hoạt động của Liên Hợp Quốc (Điều
98).
* Tổng thư ký có thẩm quyền lưu ý Hội đồng Bảo an về bất cứ vấn đề nào
mà theo ông, có thể đe doạ việc duy trì hoà bình và an ninh quốc tế (Điều
99).
* Trong khi thực thi nhiệm vụ của mình, Tổng thư ký và các nhân viên

không được tìm kiếm hay chấp nhận những chỉ thị của bất cứ một chính
phủ nào hoặc của một cơ quan quyền lực nào ngoài Liên Hợp quốc. Tổng
thư ký và các nhân viên không được hành động trái với địa vị viên chức
quốc tế của họ và chỉ chịu trách nhiệm trước Liên hợp quốc (Điều 100,
khoản 1).
* Tổng thư ký bổ nhiệm các nhân viên của mình theo những quy định
do Đại hội đồng xác lập (Điều 101, khoản 1).
* Một số nhân viên thích hợp được bổ nhiệm để phục vụ thường trực
Hội đồng Kinh tế - Xã hội, Hội đồng Quản thác và nếu cần, các cơ quan
khác của Liên Hợp Quốc

16


6.4. Các Tổng thư ký Liên Hợp Quốc từ khi tổ chức này được thành
lập
* Trygve Lie, Na Uy, nhậm chức ngày 2/2/1946
* Dag Hammarskjold, Thuỵ Điển, nhậm chức ngày 10/4/1953
*

U

Thant,

Mianma,

nhậm

chức


ngày

3/11/1961

* Kurt Waldheim, Áo, nhậm chức ngày 22/12/1971
* Javier Perez De Cuillar, Pê-ru, nhậm chức ngày 15/12/1981
* Boutros Boutros Ghali, Ai Cập, nhậm chức ngày 1/1/1992
* Kofi Annan, Gana, nhậm chức ngày 1/1/1997
VI- Vai trò hoạt động của Liên hợp quốc trong cộng đông quốc tế Và
đối với Việt nam.
1. Vai trò của liên hợp quốc trong quan hệ quốc tế hiện đại Trước hết,
sứ mệnh cao cả của LHQ được ghi rõ trong những dòng đầu tiên của Hiến
chương LHQ là sự phản ánh nguyện vọng cháy bỏng của các dân tộc mới
trải qua những mất mát chưa từng có trong chiến tranh thế giới thứ hai - đó
là ngăn ngừa một cuộc chiến tranh thế giới mới. Nhận thức sâu sắc về sự
cần thiết của một cơ sở toàn diện cho hòa bình, các quốc gia thành viên đề
ra mục đích hàng đầu của LHQ là duy trì hòa bình và an ninh quốc tế, đồng
thời xác định những mục đích quan trọng khác cho các hoạt động của LHQ
là tăng cường quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc, thúc đẩy hợp tác để giải
quyết các vấn đề quốc tế về kinh tế, xã hội, văn hóa, nhân đạo và bảo đảm
quyền con người. Các quốc gia cũng trao cho LHQ vai trò là trung tâm điều
hòa các hành động của các dân tộc hướng theo những mục đích đó. Để tạo
điều kiện về tổ chức, thể chế cho LHQ đảm nhiệm được vai trò của mình,
các quốc gia đã quy định trong Hiến chương những nguyên tắc cho quan hệ
giữa các quốc gia và hoạt động của LHQ mà sau này trở thành những
nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. Cùng với đó là bộ máy gồm sáu
cơ quan chính chịu trách nhiệm về các lĩnh vực hoạt động khác nhau là Đại
hội đồng (ĐHĐ), Hội đồng Bảo an (HĐBA), Hội đồng Kinh tế và Xã hội
17



(ECOSOC), Hội đồng Quản thác (chính thức chấm dứt hoạt động theo
quyết định của Hội nghị thượng đỉnh năm 2005), Tòa án quốc tế và Ban
Thư ký. Trong số đó, Hội đồng Bảo an được trao trách nhiệm hàng đầu
trong việc duy trì hòa bình, an ninh quốc tế và được các quốc gia ủy quyền
đưa ra các biện pháp, kể cả các biện pháp cưỡng chế nhằm giải quyết hòa
bình các tranh chấp, chống lại các đe dọa xâm lược, phá hoại hòa bình. Vai
trò quan trọng của LHQ cũng thể hiện qua thực tiễn hoạt động trong 65
năm qua, tác động tích cực, to lớn đến mọi mặt của đời sống quốc tế và
từng dân tộc tuy rằng tổ chức này đã phải trải qua nhiều khó khăn và chịu
một số hạn chế. Từ con số 51 quốc gia thành viên vào năm 1951, LHQ hiện
có tới 192 quốc gia thành viên và trở thành một hệ thống toàn diện gồm các
cơ quan chính nêu trên, nhiều cơ quan phụ trợ, 20 tổ chức chuyên môn và 5
Ủy ban kinh tế - xã hội đặt ở các khu vực. Nói đến số lượng thành viên
đông đảo như hiện nay của LHQ, chúng ta có thể kể đến thành công của
LHQ trong việc thúc đẩy quá trình phi thực dân hóa, góp phần đưa các
vùng lãnh thổ không tự quản gồm tới 750 triệu người trở thành 80 quốc gia
độc lập.
2.2.1. 1. Duy trì hòa bình và an ninh quốc tế Đóng góp lớn nhất của
LHQ là đã góp phần ngăn ngừa không để xảy ra một cuộc chiến tranh thế
giới mới trong 62 năm qua. Một số cuộc khủng hoảng quốc tế đã được giải
quyết với sự trung gian hòa giải của LHQ.Theo thống kê của LHQ, tổ chức
này đã hỗ trợ các cuộc thương lượng đưa đến giải pháp hòa bình cho hơn
170 cuộc xung đột ở các khu vực. Theo yêu cầu của các bên trong xung
đột, LHQ đã triển khai 60 hoạt động gìn giữ hòa bình (HĐGGHB LHQ)
nhằm góp phần tạo môi trường thuận lợi cho các bên đi đến các thỏa thuận
chấm dứt xung đột và thực hiện các thỏa thuận đó. LHQ đã soạn thảo và
xây dựng được 15 công ước quốc tế về giải trừ quân bị, đóng góp tích cực
vào việc duy trì hòa bình và ổn định thế giới. Vì những hoạt động kể trên,
lực lượng gìn giữ hòa bình của LHQ đã được trao tặng Giải thưởng Hòa

18


bình Nobel vào năm 1988, sau đó Tổ chức LHQ và ông Tổng Thư ký Kofi
Annan được tặng Giải thưởng này vào năm 2001.
2.2.1.2. Phát triển Kinh tế - văn hóa – xã hội Trong lĩnh vực phát
triển, việc tạo môi trường kinh tế, thương mại, tài chính quốc tế bình đẳng
và quan tâm thích đáng đến lợi ích của các nước đang phát triển là ưu tiên
trong hoạt động của LHQ, trong đó có việc nhằm thúc đẩy Vòng đàm phán
Doha hiện nay về thương mại vì phát triển. Từ năm 1960, ĐHĐ LHQ đề ra
các chiến lược phát triển cho từng thập kỷ nhằm huy động hợp tác quốc tế
cho các mục tiêu phát triển chung, nhất là ở các nước đang phát triển; bên
cạnh đó, các tổ chức LHQ đã có sự hỗ trợ trực tiếp về vốn, tri thức cho các
nỗ lực phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục và y tế của các nước
này. Tại diễn đàn này, các quốc gia đã ký kết hơn 500 điều ước quốc tế đa
phương quan trọng trong nhiều lĩnh vực của giao lưu quốc tế, trong đó có
Công ước về Luật biển (năm 1982), đưa ra khuyến nghị định hướng cho
các chủ đề của luật pháp quốc tế và xây dựng chuẩn mực cho các lĩnh vực
chuyên môn khác nhau.
2.2.1.3. Bảo đảm, thúc đẩy quyền con người Trong lĩnh vực bảo đảm,
thúc đẩy quyền con người, các quốc gia thành viên đã xây dựng các văn
kiện cơ bản nhất trong lĩnh vực nhân quyền là Tuyên ngôn Nhân quyền,
Công ước về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa và Công ước về quyền dân
sự và chính trị làm cơ sở cho hơn 80 công ước, tuyên bố được thông qua
sau này về các vấn đề khác nhau về quyền con người
. 2.2.2. Khả năng tiến tới một siêu quyền lực Hiện nay, thế giới đã
bước sang kỷ nguyên văn minh, mọi quan hệ quốc tế đều được thiết lập,
giải quyết theo cách thức hòa bình, hữu nghị, hợp tác và cùng phát triển.
Do đó, với vai trò là ngôi nhà chung của gần 200 quốc gia và vùng lãnh
thổ, Liên hiệp quốc đang có một vai trò rất to lớn, được đánh giá là có khả

năng tiến tới một siêu quyền lực Tại Hội nghị cấp cao thế giới năm 2005,
các nhà lãnh đạo các quốc gia đã nhất trí về ý nghĩa sống còn của việc xây
19


dựng một hệ thống đa phương hữu hiệu, lấy LHQ làm trung tâm nhằm đối
phó với những thách thức đa dạng, toàn cầu như hiện nay. Trước hết siêu
quyền lực của Liên hợp quốc được thể hiện ở việc duy trì hòa bình và an
ninh quốc tế. Hiện nay, trong quan hệ quốc tế, không còn thời mà nước lớn
có thể dùng vũ lực để đánh nước nhỏ bất cứ khi nào họ muốn.Luật quốc tế
hiện nay đã có nhiều văn bản quy định về việc cấm dùng vũ lực và đe dọa
dùng vũ lực.Khi có các mối đe doạ, phá hoại hoà bình, hoặc các hành động
xâm lược, thì Liên hiệp quốc có quyền can tiệp để loại bỏ mối đe dọa
này.Theo đó, Hội đồng Bảo an có thể áp dụng các biện pháp nhằm giải
quyết hoà bình các tranh chấp, xung đột và khi cần thiết, có thể sử dụng các
biện pháp, kể cả cưỡng chế và vũ lực, nhằm loại trừ các mối đe doạ, phá
hoại hoà bình, hoặc các hành động xâm lược. Thứ hai là đối với các vấn đề
kinh tế - xã hội, Liên hợp quốc đã thực hiện hợp tác quốc tế trong việc giải
quyết những vấn đề quốc tế về kinh tế, xã hội, văn hóa hoặc nhân đạo, thúc
đẩy và khuyến khích sự tôn trọng nhân quyền và những quyền tự do căn
bản cho tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ
hoặc tôn giáo" . Cụ thể, Liên hợp quốc sẽ thúc đẩy: Nâng cao mức sống,
đầy đủ việc làm, điều kiện tiến bộ và phát triển kinh tế xã hội; Giải quyết
những vấn đề quốc tế về kinh tế, xã hội, y tế và các vấn đề liên quan, và sự
hợp tác quốc tế về văn hóa và giáo dục, và; Tôn trọng và thực hiện quyền
con người và các quyền tự do cơ bản cho tất cả mọi người không phân biệt
chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo Đối với việc giải quyết các
xung đột và tranh chấp quốc tế, nhiệm vụ trọng tâm của Liên hợp quốc là
giải quyết các cuộc xung đột bằng biện pháp hoà bình phù hợp với các
nguyên tắc của công lý và luật pháp quốc tế, trong đó có phương pháp sử

dụng trọng tài và giải quyết của toà án (theo luật pháp). Ngoài ra, trong
vòng hơn sáu thập kỷ qua, Liên hợp quốc đã bảo trợ cho trên 456 thoả
thuận đa phương bao gồm mọi lĩnh vực hoạt động giữa các nhà nước và nỗ
lực của loài người. Liên hợp quốc cũng là người tiên phong quan tâm tới
20


những vấn đề toàn cầu mới hiện nay như: môi trường, khoảng không vũ
trụ, lao động di cư, buôn lậu ma tuý và chủ nghĩa khủng bố. Có thể nói,
không một quốc gia hoặc một tổ chức, một liên minh nào trên thế giới có
vai trò và đủ thẩm quyền để giải quyết mọi vấn đề của các quốc gia như
Liên hợp quốc. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, Liên hợp quốc là tổ chức
duy nhất có thể giải quyết mọi vấn đề từ an ninh quốc tế, kinh tế, xã hội,
văn hóa đến nhân quyền của các quốc gia trên thế giới. Hiện nay, Liên hợp
quốc đang thúc đẩy mạnh mẽ việc xây dựng các mối quan hệ quốc tế công
bằng, lành mạnh dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế và các nguyên tắc của
Hiến chương LHQ; đóng góp tích cực vào việc thu hẹp khoảng cách phát
triển, trong đó có việc thực hiện Các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ, để
toàn cầu hóa trở thành một lực lượng tích cực đối với toàn thể nhân dân thế
giới; thực hiện cải tổ toàn diện LHQ. Hiện nay, LHQ đang triển khai nhiều
biện pháp cụ thể theo các định hướng này để hướng tới là một tổ chức siêu
quyền lực

21


Kết luận
Tổ chức Liên hợp quốc ra đời thực sự có ý nghĩa to lớn trong đời sống
chính trị quốc tế trong 65 năm qua
Đây là sự kiện quan trọng đánh dấu sự xuất hiện của các hoạt động

ngoại giao đa phương hiện đại, một bước ngoặt quyết định trong lịch sử
phát triển của nền ngoại giao đa phương nói chung. Những bất trắc hiện
nay trong tình hình kinh tế, tài chính thế giới và những thách thức gay gắt
toàn cầu như biến đổi khí hậu, tình trạng thiếu năng lượng, lương thực đòi
hỏi chúng ta cùng tăng cường hiệu quả trong hợp tác quốc tế. Cộng đồng
quốc tế mong muốn các nước phát triển có các biện pháp ổn định kinh tế,
tài chính vĩ mô, đồng thời thực hiện những cam kết quốc tế về cải thiện
quan hệ kinh tế quốc tế, hệ thống thương mại và tài chính, giảm nợ, chuyển
giao khoa học, công nghệ. Để sự hợp tác đó thực sự hiệu quả cần tính đến
điều kiện đặc thù, các quan tâm và lợi ích chính đáng của các quốc gia
Trong tình hình quốc tế phức tạp hiện nay, Liên hợp quốc càng cần thể hiện
được vai trò của mình trong việc ngăn ngừa chiến tranh và thúc đẩy hợp tác
quốc tế ứng phó với những thách thức đang được đặt ra. Để có thể thực
hiện vai trò này, càng cần cùng nhau thúc đẩy cải tổ Liên hợp quốc một
cách dân chủ, toàn diện, nhằm mục tiêu tăng cường vai trò và khả năng của
Liên hợp quốc, trong đó có Đại hội đồng, Hội đồng Bảo an, Hội đồng Kinh
tế Xã hội và các cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc.

22


Tài liệu tham khảo
-


/>option=com_content&view=article&catid=28:ctc20012&id=60:tc2001so2l

-

hqvtantg&Itemid=63

Giáo trình môn Quan hệ chính trị quốc tế
/>
-

/> />option=com_content&view=article&catid=28:ctc20012&id=60:tc2001so2l

-

hqvtantg&Itemid=63
Lịch sử lớp 12.

23


MỤC LỤC

24



×