Vấn đề 7: Trên cơ sở lý luận về quan hệ chính trị và kinh tế, hãy phân tích
tính tất yếu và nội dung, các giải pháp để xây dựng và phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN của nước ta hiện nay ?
Để luận giải và làm sáng tỏ vai trò của nhân tố chính trị đối với phát triển kinh
tế, bản chất quan hệ giữa chính trị và kinh tế. Trước hết chúng ta cần nắm vững khái
niệm chính trị và kinh tế, bản chất quan hệ giữa chính trị và kinh tế.
Có nhiều quan niệm khác nhau về chính trị, chủ nghĩa Mác - Lênin xem xét
chính trị ở nhiều góc độ khác nhau, tuy vậy, trong bản chất của những hiện tượngvà
sự kiện của đời sống chính trị có một đặc trưng qui định tính chính trị của chúng;
Đó là lợi ích (đặc biệt là lợi ích kinh tế.). Do vậy, có thể xem chính trị - xét đến
cùng - là quan hệ về lợi ích các giai cấp, các nhóm xã hội, các quốc gia, các dân tộc;
là sự tham gia vào những công việc của Nhà nước, là việc vạch hướng đi và xác
định những hình thức, nhiệm vụ của Nhà nước.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê nin: Kinh tế là toàn bộ phương thức
sản xuất và trao đổi của một chế độ xã hội, là nguồn gốc của mọi biến đổi xã hội và
những đảo lộn chính trị. Theo nghĩa thực thể, kinh tế được tiếp cận ở hai phương
diện: xét về mặt xã hội của quá trình sản xuất, thì đó là mối quan hệ giữa người với
người trong quá trình sản xuất, phân phối và tiêu dùng của cải trong xã hội. (ở giác
độ này, người ta quan tâm trước hết vấn đề sở hữu về tư liệu sản xuất ). Ở phương
diện thứ hai, chỉ nền kinh tế quốc dân với các ngành, các lĩnh vực kỹ thuật cụ thể
đang hoạt động. ( ở giác độ này, người ta thường quan tâm đến sức mạnh hiệu suất,
hiệu quả của nền kinh tế quốc dân trong một thời điểm hay một giai đoạn lịch sử cụ
thể nào đó.)
Mối quan hệ chính trị với kinh tế được các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-Lênin
xem xét trên quan điểm duy vật lịch sử thông qua phân tích mối quan hệ giữa kiến
trúc thượng tầng với cơ sở hạ tầng và nó được phản ánh một cách rõ nét trong luận
điểm của Lênin, Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, Đến lượt nó, bao giờ
1
cũng tác động đến sự phát triển của kinh tế, văn hoá và xã hội. Chính trị không thể
không chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế. Thông qua mối quan hệ này, có thể
trình bày mối quan hệ chính trị với kinh tế trên hai vấn đề sau đây:
Một là, chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế. Điều này có nghĩa là kinh tế
mang tính thứ nhất, chính trị mang tính thứ hai. Xét đến cùng, kinh tế là yếu tố
quyết định sự hình thành và phát triển chính trị. Hay nói cách khác, sự hình thành,
tồn tại và phát triển chính trị phải dựa trên cơ sở đòi hỏi khách quan của sự phát
triển kinh tế. Xét đến cùng, chính trị không phải là mục đích mà là phương tiện để
thực hiện mục đích kinh tế. Điều lưu ý ở đây là sự phản ảnh của chính trị đối với
kinh tế không phải là sự phản ánh có tính chất vật lý đơn thuần và cũng không phản
ánh những nhu cầu lợi ích mang tính cá nhân mà nó chỉ phản ánh những nhu cầu lợi
ích kinh tế có tính cộng đồng xã hội.
Hai là, chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế. trong khi
khẳng định vai trò quyết định của kinh tế với chính trị thì chủ nghĩa Mác Lênin
tuyệt nhiên cũng không phủ định vị trí độc lập tương đối của chính trị đối với kinh
tế. Vai trò của chính trị đối với kinh tế được thể hiện ở những điểm sau: Chính trị
phải bảo vệ những thành quả kinh tế mà chính trị đã đạt được nhằm duy trì địa vị
của giai cấp thống trị. Chính trị có thể tạo ra những nhân tố, những điều kiện tác
động vào kinh tế, định hướng phát triển kinh tế theo những mục tiêu nhất định với
những xu hướng sau: Nếu tác động cùng chiều, đồng thuận với tất yếu phát triển
kinh tế thì sẽ làm cho kinh tế phát triển nhanh hơn; Nếu tác động ngược lại sẽ kìm
hãm phát triển kinh tế; hoặc tác động đó làm cản trở một vài xu hướng phát triển
nào đó của nền kinh tế và qui định những xu hướng phát triển khác.
Cơ chế của sự tác động đó là: thông qua đường lối chính sách của một Đảng
cầm quyền thông qua hoạt động quản lý của nhà nước với hệ thống các công cụ, đòn
bẩy mà Nhà nước đó sử dụng trong lĩnh vực kinh tế như tài chính, thuế khoá, tiền tệ
… Điều lưu ý ở đây là trong những hoàn cảnh đặc biệt, trong những điều kiện lịch
2
sử cụ thể, nhiều khi phải biết hi sinh lợi ích kinh tế trước mắt để đạt được mục tiêu
chính trị lâu dài.
Như mọi người đã biết, kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh
trình độ phát triển nhất định của văn minh nhân loại. Kinh tế thị trường là một thành
tựu to lớn của nền văn minh nhân loại. Đó là là nền kinh tế rất năng động, khai thác
triệt để tiềm năng của nhân loại, tạo ra lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng
với trình độ vượt bậc, tạo ra năng suất lao động cao chưa từng có trong lịch sử nhân
loại, tạo ra lượng hàng hóa khổng lồ với chất lượng ngày càng cao, mẫu mã ngày
càng đẹp, đáp ứng nhu cầu không ngừng của xã hội.Từ trước đến nay, nó tồn tại và
phát triển chủ yếu dưới CNTB, là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của
CNTB. CNTB đã biết lợi dụng ưu thế tối đa của kinh tế thị trường để phục vụ cho
mục tiêu phát triển tiềm năng kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận và một cách khách
quan nó thúc đẩy lực lượng sản xuất của xã hội phát triển mạnh mẽ. Ngày nay kinh
tế thị trường TBCN đã đạt tới giai đoạn phát triển khá cao và phồn thịnh trong các
nước tư bản phát triển. Tuy nhiên, kinh tế thị trường TBCN không phải là van năng.
Bên cạnh mặt tích cực, nó còn có mặt trái, có khuyết tật từ trong bản chất của nó do
chế độ tư hữu TBCN chi phối. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, càng
ngày mâu thuẫn của CNTB càng bộc lộ sâu sắc, không giải quyết được các vấn đề
xã hội,làm tăng thêm tính bất công và bất ổn của xã hội, đào sâu thêm hố ngăn cách
giữa người giàu và người nghèo. Hơn thế nữa, trong điều kiện toàn cầu hoá hiện
nay, nó còn ràng buộc các nước kém phát triển trong quỹ đạo bị lệ thuộc và bị bóc
lột theo quan hệ “trung tâm - ngoại vi”. Có thể nói nền kinh tế thị trương TBCN
toàn cầu ngày nay là sự thống trị của một số ít nước lớn hay là một số tập đoàn
xuyên quốc gia đối với đa số các nước ngèo, làm tăng thêm mâu thuẫn giữa các
nước giàu và các nước nghèo.
Chính vì thế mà, như chủ nghĩa Mác đã phân tích và dự báo, CNTB tất yếu
phải nhường chỗ cho một phương thức sản xuất và cế độ mới văn minh hơn, nhân
đạo hơn. CNTB mặc dù đã và đang tìm mọi cách để tự điều chỉnh, tự thích nghi
3
bằng cách phát triển “nền kinh tế thị trường hiện đại”, “nền kinh tế thị trường xã
hội”, “CNTB nhân dân”, “nhà nước phúc lợi chung”… tức là phải có sự can thiệp
trực tiếp của Nhà nước và cũng phải chăm lo vấn đề xã hội nhiều hơn, nhưng do
mâu thuẫn từ trong bản chất của nó, CNTB không thể tự giải quyết được, có chăng
nó chỉ tạm thời xoa dịu được phần nào mâu thuẫn mà thôi. Nền kinh tế thị trương
TBCN hiện đại đang ngày càng thể hiện tự phủ định và tự tiến hoá để chuẩn bị
chuyển sang giai đoạn hậu công nghiệp, theo xu hướng xã hội hoá. Đây là tất yếu
khách quan, là quy luật phát triển của xã hội. Nhân loại muốn tiến lên, xã hội muốn
phát triển thì dứt khoát không thể dừng lại ở kinh tế thị trường TBCN.
Vận dụng học thuyết Mác vào xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga sau cách
mạng tháng Mười, trong điều kiện phải chiến đấu để bảo vệ chính quyền non trẻ,
V.I.Lênin cũng đã chủ trương áp dụng mô hình “Chính sách cộng sản thời chiến”.
( 1917 - 1920). Mô hình này có những đặc trưng sau: Công hữu hoá toàn bộ nền
kinh tế quốc dân (dưới hình thức Nhà nước và tập thể); trưng thu, thu mua, trưng
dụng mọi của cải xã hội cần thiết cho cuộc chiến tranh giữ nước. Như vậy, vai trò
kiểm soát và chi phối của yếu tố Nhà nước, chính trị đối với các hoạt động kinh tế
và quan hệ kinh tế là tuyệt đối. Nhờ chính sách này mà đã giúp Nhà nước nắm được
toàn bộ các nguồn lực, từ đó tạo nên sức mạnh cần thiết để bảo vệ chính quyền non
trẻ của mình.
Nhưng chỉ sau một thời ngắn, Lênin đã phát hiện ra sai lầm, khắc phục sự nóng
vội bằng cách đưa ra thực hiện “Chính sách kinh tế mới” (NEP) mà nội dung cơ bản
của nó là khuyến khích phát triển kinh tế hàng hoá, chấp nhận ở mức độ nhất định
cơ chế thị trường. Theo Lênin, để xây dựng CNXH ở một nước còn tương đối lạc
hậu về kinh tế như nước Nga, cần phải sử dụng quan hệ hàng hoá - tiền tệ và phát
triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, đặc biệt là sử dụng CNTB Nhà nước để
phát triển LLSX. Tuy chỉ mới thực hiện trong thời gian ngắn nhưng NEP đã đem
lại những kết quả tích cực cho nước Nga: hồi phục và phát triển nền kinh tế bị chiến
tranh tàn phá, nhiều ngành kinh tế bắt đầu hoạt động năng động, nhộn nhịp hơn.
4
Tiếc rằng, tư tưởng của Lê-nin về xây dựng CNXH về chính sách NEP đã không
được tiếp tục thực hiện sau khi người qua đời. Sự thành công và phát triển mạnh mẽ
suốt một thời gian khá dài của Liên Xô ( cũ ) trong công cuộc CNH đất nước bằng
mô hình kinh tế dựa trên chế độ công hữu về TLSX, kế hoạch hoá tập trung cao độ;
phân phối thu nhập mang tính bình quân; kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường bị loại
bỏ đã có sức hấp dẫn lớn đối với nhân loại và làm cho giới lý luận kinh tế của các
nước XHCN và các nước đang phát triển tuyệt đối hoá, biến thành công thức để áp
dụng cho tất cả các nước đi theo con đường XHCN. Tuy vậy, do duy trì lâu mô hình
kinh tế này mà kinh tế xã hội bắt đầu rơi vào tình trạng trì trệ, tạo nên khủng hoảng
xã hội; sự bất bình của nông dân và sự chống đối của binh lính.
Việt Nam là một nước nghèo, kinh tế, kỹ thuật lạc hậu, trình độ xã hội còn
thấp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Đi lên CNXH là mục tiêu, lý tưởng của
những người cộng sản và nhân dân VN, là khát vọng ngàn đời thiêng liêng của cả
dân tôc VN. Nhưng đi lên CNXH bằng cách nào? Đó là câu hỏi lớn và cực kỳ hệ
trọng, muốn trả lời thật không đơn giản. Suốt một thời gian dài VN, cũng như nhiều
nước khác đã áp dụng mô hình xã hội kiểu Xô viết, mô hình kinh tế kế hoạch tập
trung, mang tính bao cấp. Mô hình này đã thu đựơc những kết quả quan trọng, nhất
là đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ đất nước có chiến tranh. Nhưng về sau, mô
hình này bộc lộ những khuyết điểm; và trong công tác chỉ đạo cũng phạm phải một
số sai lầm mà nguyên nhân sâu xa là bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý chí, lối suy
nghĩ và hành động đơn giản, nóng vội, không tôn trọng quy luật khách quan, nhận
thức về CNXH không đúng với thực tế VN.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn hơn và đầy đủ hơn về CNXH và con đường đi
lên CNXH ở VN, đại hội VI Đảng CSVN tháng 12/1986 đã đề ra đường lối đổi mới
toàn diện đất nước nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng CNXH. Đại
hội đưa ra những quan niệm mới về con đường, phương pháp xây dựng CNXH, đặc
biệt là quan niệm về công nghiệp hoá XHCN trong thời kỳ quá độ, về cơ cầu kinh
tế, thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hoá và thị trường, phê phán
5
triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, và khẳng định chuyển hẳn sang hạch
toán kinh doanh. Đại hội chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với
những hình thức kinh doanh phù hợp; coi trọng việc kết hợp lợi ích cá nhân, tập thể
và xã hội…
Hội nghị TW6 (3/1989) khoá VI, phát triển thêm một bước đưa ra quan điểm
phát triển nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên CNXH, coi
chính sách kinh tế nhiều thành có ý nghĩa chiến lược lâu dài có tính qui luật từ ổan
xuất nhỏ đi lên CNXH. Đến Đại hội VII (6/1991) ĐCS Việt Nam tiếp tục nói rõ hơn
chủ trương này và khẳng định đây là chủ trương chiến lược, là con đường đi lên
CNXH ở Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên
CNXH của Đảng khẳng định : “Phát triển nền KT hàng hoá nhiều thành phần theo
định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước”.
Đại hội VIII của Đảng (6/1996) đưa ra một kết luận mới rất quan trọng : “Sản xuất
hàng hoá không đối lập với CNXH mà là thành tựu phát triển của nền văn minh
nhân loại, tồn tại khách quan cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi
CNXH đã được xây dựng”. Nhưng lúc đó cũng mới nói nền kinh tế hàng hoá, cơ
chế thị trường chưa dùng khái niệm “kinh tế thị trường”. Phải đến Đại hội IX của
Đảng (tháng 4/2001) mới chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định
hướng XHCN”. Đại hội khẳng định: Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN
là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ
quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Đây là kết quả sau nhiều năm nghiên cứu, tìm tòi,
tổng kết thực tiển; và là bước phát triển mới về tư duy lý luận của ĐCS Việt Nam.
Chính từ thực tiễn của đổi mới mà giờ đây Đảng ta đã nhận thức đầy đủ hơn về
nội dung thực chất của quá trình xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần trong thời
kỳ quá độ lên CNXH ở VN. Báo cáo chính trị của đại hội đại biểu toàn quốc lần IX
của Đảng CSVN đã khẳng định: “Thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là
bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường XHCN, cùng phát triển
6
lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò
chủ đạo, kinh tế Nhà nước cùng kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc của nền kinh tế quốc dân”
Đây là một quá trình nhận thức từ ĐH VI đến ĐH IX của Đảng về mối quan hệ
giữa chính trị và kinh tế, nhận thức và xử lý mối quan hệ này trên cơ sở đặc điểm
của dân tộc, đặc điểm của thời đại- nền KT3 đó là quy luật khách quan của kinh tế;
định hướng XHCN là vai trò chính trị tác động định hướng đường lối phát triển kinh
tế của nước ta hiện nay. Củng cố vững chắc độc lập dân tộc và chế độ XHCN. Tuy
nhiên nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp- Nhịp
điều tăng trưởng kinh tế chậm dần trong 5 năm qua- năm 2000 đã tăng trở lại nhưng
vẫn chưa đạt mức tăng trưởng cao giữa thập niên 90. Nhịp độ tăng trưởng tổng sản
phẩm trong nước (GDP) và GDP bình quân đầu người, nhịp độ tăng giá sản xuất
công nghiệp, dịch vụ, kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu không đạt chỉ tiêu do Đại
hội VIII đề ra. Nhìn chung, năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm chưa tốt,
giá thành cao thị trường tiêu thu sản phẩm hẹp- cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm,
đầu tư thấp, lãng phí thát thoát nhiều. nhịp độ thu hút đầu tư giảm… tình trạng tham
nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng. Việc triển khai thực hiện nghị quyết, chủ
trương chính sách của Đảng chưa tốt, kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm; một số quan
điểm chủ trương chưa rõ, chưa có nhận thức thông suốt ở các cấp, các ngành
Thực tiễn kinh tế đất nước từ khi chuyển sang mô hình kinh tế thị trường có sự
quản lý của nhà nước định hướng XHCN đã và đang chứng minh tính khách quan
khoa học, tính hiệu quả cao của mô hình kinh tế đó. Chỉ trong một thời gian ngắn,
mô hình kinh tế mới đã đem lại những thành tựu rất quan trọng, góp phần quyết
định đưa nước ta thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội gay gắt và tạo những
tiền đề cho thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh CNH – HĐH đất nước. Đánh
giá tổng quát các mục tiêu chủ yếu trong giai đoạn 1991 – 2000, Đảng đã chỉ rõ
“Nền kinh tế có bước phát triển mới về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và hội
7
nhập kinh tế quốc tế; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ
rệt, văn hoá xã hội không ngừng tiến bộ; thế và lực của đất nước hơn hẳn 10 năm
trước, khả năng độc lập tự chủ được nâng lên, tạo thêm điều kiện đẩy mạnh CNH –
HĐH”. Tuy nhiên, là một mô hình hoàn toàn chưa có trong lịch sử, thời gian đưa
vào thực hiện chưa được bao lâu nên chúng ta chưa thể xem đó là một mô hình đã
được thiết kế xong xuôi, hoàn chỉnh. Cần phải có thời gian và kinh nghiệm thực tiễn
bổ sung, hoàn thiện mô hình đó.
Với những nội dung đã trình bày, chúng ta có thể khẳng định rằng việc xác lập
vai trò chức năng của Nhà nước trong đời sống chính trị và nâng cao hiệu quả quản
lý kinh tế vi mô của Nhà nước là một trong những nhiệm vụ cơ bản của chủ thể
chính trị cầm quyền nói riêng và của xã hội nói chung trong suốt quá trình xây dựng
và phát triển xã hội VN theo định hướng đã lựa chọn.
Từ phương diện mối quan hệ giữa chính trị với kinh tế khi nói tới một Nhà
nước có vai trò tích cực đối với quá trình kinh tế, từ những đặc điểm và đặc trưng
bản chất của nền KT3, để xây dựng và từng bước hoàn thiện nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN ở nước ta, chúng ta phải thực hiện những giải pháp chủ yếu sau
đây :
Thứ nhất, thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần,
nâng cao hiệu quả của kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể để kinh tế nhà nước vươn
lên đóng vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng
vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể kinh tế thuộc tất cả
các thành phần kinh tế phát triển sản xuất hàng hóa, dịch vụ trong mọi ngành kinh tế
quốc dân, sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước và phát triển các hình thức kinh tế
hợp tác kiểu mới.
Thứ hai, tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, tạo lập đồng bộ
các loại thị trường. Phát triển mạnh thị trường hàng hóa, dịch vụ, khắc phục tình
8
trạng kinh doanh trái phép, trốn lậu thuế; tổ chức và quản lý tốt việc thuê mướn và
sử dụng lao động; quản lý chặt chẽ việc sử dụng ruộng đất và thị trường bất động
sản, hoàn thiện thị trường tiền tệ, xây dựng thị trường vốn và thị trường chứng
khoán.
Thứ ba, nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước:
Nhà nước thực hiện tốt chức năng định hướng sự phát triển kinh tế, kiểm kê và kiểm
soát mọi hoạt động kinh tế - xã hội, tạo lập khuôn khổ pháp luật và hệ thống chính
sách nhất quán, trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực thiết yếu, nhất là kết cấu hạ
tầng để tạo ra môi trường ổn định và thuận lợi cho giới kinh doanh làm ăn phát đạt,
hạn chế các hiện tượng tiêu cực.
Tiếp tục cải cách các thủ tục hành chính để nhà nước thực hiện đúng chức năng
quản lý vĩ mô và chức năng chủ sở hữu tài sản công cộng của quốc gia, không can
thiệp vào chức năng quản trị kinh doanh và quyền tự chủ hạch toán của doanh
nghiệp.
Thứ tư, nhà nước thực hiện các biện pháp nhằm đảm bảo tăng trưởng kinh tế đi
đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, như thực hiện thuế thu nhập cá nhân và thuế thu
nhập doanh nghiệp; thực hiện các chương trình xoá đói giảm nghèo, nhất là tín dụng
cho người nghèo và các chính sách xã hội khác.
Trên con đường đi lên CNXH, chúng ta cần phải đấu tranh với những tư tưởng
cho rằng hiện nay chúng ta đang quá độ lên CNTB chứ không phải quá độ lên
CNXH, theo những người này xuất phát từ chổ họ cho kinh tế thị trường là thuộc
tính của CNTB. Đó là một sự nhận thức thiển cận, sai lầm. Như đã phân tích ở trên,
kinh tế thị trường là một thành tựu của nền văn minh nhân loại, không của riêng ai.
Chúng ta thực hiện kinh tế thị trường là để lợi dụng những mặt tích cực nhưng cũng
phải có một hệ thống giải pháp về tư tưởng, kinh tế, hành chính, văn hoá để đẩy lùi
các mặt tiêu cực của kinh tế thị trường như phân cực xã hội, băng hoại đạo đức,…
Đảng ta khẳng định đổi mới không phải từ bỏ mục tiêu XHCN đã lựa chọn mà chỉ
tìm ra phương thức, con đường đúng đắn hơn, hiệu quả hơn để đi tới mục tiêu.
9
Dẫu rằng năng lực lãnh đạo chính trị với kinh tế trong những năm đổi mới vừa
qua là rất to lớn nhưng cũng chỉ là bước đầu. Nhận thức đúng đắn mối quan hệ biện
chứng chính trị với kinh tế để xây dựng và phát triển một nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở nước ta hiện nay còn những gay go phức tạp, nhiều nguy cơ tiềm
ẩn. Nhưng với đường lối kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trên nền tảng
của CN Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng là nhân tố quyết định thành
quả sự nghiệp đổi mới để xây dựng một xã hội vì mục tiêu Dân giàu, nước mạnh, xã
hội- công bằng, dân chủ, văn minh. Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN
là một quá trình tất yếu phù hợp với thời đại và đáp ứng yêu cầu phát triển của đất
nước trong thời đại ngày nay./.
10