Tải bản đầy đủ (.docx) (114 trang)

Nhu cầu và khả năng cung cấp các loại hình đào tạo liên tục về y học cổ truyền cho nhân viên y tế tuyến huyện tại tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 114 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Đào tạo liên tục là một hình thức bảo đảm duy trì, cập nhật trình độ, kỹ
năng, đạo đức nghề nghiệp của nhân viên y tế trong các cơ sở y tế đáp ứng
nhu cầu cung cấp dịch vụ y tế, bảo đảm chất lượng dịch vụ y tế. Vai trò của
đào tạo liên tục trong việc đảm bảo và nâng cao chất lượng của hệ thống
chăm sóc y tế ngày càng trở nên quan trọng.
Trong thời gian vừa qua Đảng và Chính phủ đã ban hành một số văn
bản quy phạm pháp luật quan trọng để đẩy mạnh công tác đào tạo liên tục
trong lĩnh vực y tế đó là:
Nhằm đa dạng hóa các hình thức đào tạo khác nhau để phát triển nguồn
nhân lực y tế cho tuyến cơ sở, Bộ Y tế ban hành văn bản số 1915/BYT-K2ĐT
ngày 8/4/2013 hướng dẫn các cơ sở đào tạo nhân lực y tế triển khai thực hiện
Thông tư số 55/2012/TT-BGDĐT ngày 25/12/2012 của Bộ giáo dục và đào
tạo quy định liên thông trình độ cao đẳng, đại học.
Trong Luật khám chữa bệnh ngày 23/11/2009 quyền được nâng cao
năng lực chuyên môn của cán bộ y tế được quy định tại điều 33, điều 37 và
điều 83 [1].
Đặc biệt, ngày 9/8/2013, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 22/2013/TTBYT, Hướng dẫn đào tạo liên tục trong lĩnh vực y tế, thay cho Thông tư số
07/2008/TT-BYT ngày 28 tháng 5 năm 2008.
Ngày 8/4/2014 Bộ Y tế đã ký Quyết định về việc ban hành Chiến lược
đào tạo liên tục trong lĩnh vực y tế giai đoạn đến năm 2020 và định hướng đến
năm 2030 [2].
Việt Nam là một trong những nước có truyền thống sử dụng Y học cổ
truyền (YHCT) lâu đời. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, YHCT Việt Nam đã
trở thành một nền y học chính thống của dân tộc, đã đúc kết nhiều kinh


2


nghiệm phòng và chữa bệnh có hiệu quả. Đặc biệt sau khi nước nhà dành độc
lập, Đảng và nhà nước đã có những chủ trương chính sách quan trọng về phát
triển YHCT như chủ trương kết hợp Y học hiện đại (YHHĐ) và YHCT, tổ
chức hệ thống khám và chữa bệnh bằng YHCT từ tuyến trung ương đến các
địa phương. Năm 2003 Thủ tướng Chính phủ chính thức phê duyệt chính sách
quốc gia về Y dược học cổ truyền đã đề ra những mục tiêu, những giải pháp
và chính sách cụ thể mà ngành y tế cần đạt được đến năm 2010. Trong đó có
mục tiêu củng cố và hoàn thiện hệ thống khám chữa bệnh bằng YHCT, đề ra
các chỉ tiêu khám chữa bệnh và sử dụng thuốc YHCT ở các tuyến y tế [3].
Ngày 18/4/2014 Bộ Y tế đã ban hành công văn số 2034/BYT-K2ĐT về
việc tăng cường chất lượng công tác đào tạo liên tục cán bộ y tế.
Cho đến nay, chưa có nhiều đề tài nghiên cứu tổng thể về thực trạng và
nhu cầu đào tạo liên tục cho nhân viên y tế công tác tại các bệnh viện YHCT.
Vì những lý do trên và để góp phần nâng cao chất lượng đào tạo liên tục trong
hệ thống y tế, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Nhu cầu và khả năng
cung cấp các loại hình đào tạo liên tục về y học cổ truyền cho nhân viên y
tế tuyến huyện tại tỉnh Thanh Hóa”.
Với 2 mục tiêu sau:
1.

Mô tả thực trạng và nhu cầu đào tạo liên tục về y học cổ truyền cho
nhân viên y tế bệnh viện tuyến huyện của tỉnh Thanh Hóa năm 2015.

2.

Xác định thực trạng và khả năng cung cấp hoạt động đào tạo liên tục về
y học cổ truyền tại tỉnh Thanh Hóa.


3


Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Hệ thống y học cổ truyền trên thế giới
1.1.1. Hệ thống y học cổ truyền ở các nước trên thế giới
Theo định nghĩa của WHO (2000): YHCT là toàn bộ kiến thức, kỹ năng
và thực hành dựa trên lý luận, lòng tin và kinh nghiệm vốn có của những nền
văn hóa khác nhau, dù đã được giải thích hay chưa, nhưng được sử dụng để
duy trì sức khỏe, cũng như để phòng bệnh, chẩn đoán, cải thiện hoặc điều trị
tình trạng đau ốm về thể xác hoặc tinh thần [4].
Thực trạng các quy định về pháp lý đề cập đến YHCT ở mỗi quốc gia
là khác nhau [5]. Một số nước YHCT được quản lý tốt, trái lại ở một số nước
nó chỉ được đề cập đến như những thực phẩm chức năng và những phương
pháp chữa bệnh truyền miệng mà không được cho phép [6]. Tuy nhiên, ở các
nước đang phát triển tỷ lệ người dân sử dụng YHCT là rất cao với nhiều kinh
nghiệm dân gian quý báu [7].
1.1.1.1. Y học cổ truyền trong chăm sóc sức khỏe ở các nước phát triển
Có 1/3 người Mỹ đã sử dụng thuốc cổ truyền. Năm 1990 doanh số bán
ra của thuốc cổ truyền ước khoảng 1 tỷ USD. Năm 1989, 60% dân số Hà Lan
và Bỉ, 74% dân số Anh hài lòng với phương pháp chữa bệnh theo YHCT [5].
Một trong các quốc gia tiêu biểu sử dụng YHCT trong chăm sóc sức
khỏe phải kể tới Trung Quốc, quốc gia có một nền YHCT lâu đời và có ảnh
hưởng sâu sắc tới nền YHCT của nhiều quốc gia khác nhau: Đại hàn Dân
Quốc, Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam,…[8].
Đây là một quốc gia có nền YHCT phát triển lâu đời vào bậc nhất thế giới.
Năm 1995 Trung Quốc đã có 2.522 bệnh viện YHCT với 353.373 nhân viên y
tế và 236.060 giường bệnh, những bệnh viện này đã điều trị 200 triệu bệnh


4


nhân ngoại trú và 3 triệu bệnh nhân nội trú 1 năm, đồng thời 95% các bệnh
viện ở Trung Quốc có khoa YHCT [8], [9].
Hội nghị phát triển YHCT Trung Quốc năm 2005 đã thống kê: YHCT
Trung Quốc đã được hơn 120 quốc gia và khu vực trên thế giới chấp nhận. Ở
Anh, hơn 3000 bệnh viện thực hành về YHCT Trung Quốc đã được mở. Có
khoảng 2,5 triệu người Anh đã chi tổng số 90 triệu bảng Anh hàng năm để
được điều trị bằng YHCT Trung Quốc. Ở Pháp có 2600 bệnh viện thực hành
về YHCT Trung Quốc có tới 7000 đến 9000 cán bộ châm cứu. Cho đến nay
trên 50 hợp đồng y học được ký giữa Trung Quốc với các nước khác trong đó
có sự hợp tác về YHCT [10].
Nhật Bản: Với lịch sử nền YHCT trên 1400 năm, được xem là nước có
tỷ lệ người khám chữa bệnh bằng YHCT cao nhất thế giới hiện nay. Thầy
thuốc YHCT Nhật Bản là sự kết hợp giữa YHCT Trung Quốc và thuốc dân
gian Nhật Bản gọi chung là Kampo. Kampo được đào tạo như sau: sau khi tốt
nghiệp ởtrường y (6 năm) và thực hành 3 năm tại các cơ sở khám chữa bệnh,
sau đó học thêm 3 năm về YHCT mới trở thành Kampoo. Tính từ năm 1974
đến 1989, sử dụng các loại thuốc YHCT ở Nhật Bản đã tăng 15 lần trong khi
các loại tân dược chỉ tăng 2,6 lần. Ít nhất 65% bác sĩ ở Nhật khẳng định rằng
họ đã sử dụng phối hợp đồng thời thuốc YHCT và thuốc YHHĐ [11]. Lý do
giải thích là Kampoo không gây phản ứng, không gây tác dụng phụ, ngoài ra
y học Kampoo còn đáp ứng các yếu tố tâm linh và tinh thần của người Nhật
[11]. Một bài thuốc Kampoo dự định áp dụng cho bệnh nhân phải qua 2 giai
đoạn: giai đoạn 1 tất cả bệnh nhân được cho sử dụng và những người có đáp
ứng với thuốc được lựa chọn, giai đoạn 2 một thử nghiệm lâm sàng ngẫu
nhiên có nhóm chứng chỉ bao gồm những người bệnh nhân có đáp ứng với
thuốc được tiến hành trên và đánh giá tác dụng của thuốc [12], [13]. Kampoo


5


không nằm trong hệ thống nhà nước nhưng được khuyến khích phát triển và
Nhật Bản là nước có tỷ lệ người dân sử dụng YHCT cao nhất thế giới [14].
Hàn Quốc: ở quốc gia này hầu hết các cơ sở y tế nhà nước và tư nhân
đều hoạt động vì lợi nhuận. Do việc mở rộng các cơ sở y tế tư nhân dẫn đến
sự thiếu hiệu quả của hệ thông y tế công lập, sử dụng quá mức dịch vụ cần
thiết, tập trung các bác sỹ ở các thành phố lớn và dẫn đến sự mất cân bằng
giữa chi phí y tế cao và lợi ích chi phí thấp. Tại Đại Hàn Dân Quốc, YHCT rất
phát triển và có vị thế ngang bằng YHHĐ. Tuy nhiên những năm gần đây
YHCT có khuynh hướng bị thu hẹp lại do chế độ chi trả cho YHHĐ có xu
hướng rộng rãi và ưu đãi hơn [15].
+ Khu vực Đông Nam á: Chiến lược toàn cầu của Tổ chức Y tế thế giới
chú ý vai trò quan trọng của TM/CAM (traditional medicine/complementary
and alternative medicine) trong việc bảo vệ, cải tiến và dự phòng y tế tốt nhất,
phổ biến nhất. WHO khuyến khích tất cả những thành viên Asean ủng hộ
TM/CAM và tiếp tục lượng giá, công thức của chính sách quốc gia với cấu
trúc phù hợp, tiến tới thực hành và sử dụng TM/CAM phù hợp nhất và hợp
với hệ thống chăm sóc sức khỏe đặc biệt có lợi cho sức khỏe, thuận lợi kinh tế
xã hội và thương mại [16], [17], [18], [19], [20]. Các nước Indonesia,
Malaysia, đặc biệt là Thái Lan… cũng là những nước có truyền thống sử dụng
YHCT để bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ [14]. Từ năm 1950 đến
1980 YHCT Thái Lan gần như bị tê liệt hoàn toàn do quá coi trọng YHHĐ.
Điều này có ảnh hưởng đến chất lượng chăm sóc sức khoẻ ban đầu
(CSSKBĐ) ở Thái Lan. Từ năm 1980, chính phủ và ngành y tế Thái Lan đã
khẩn trương thiết lập chính sách phát triển thuốc thảo mộc trên phạm vi cả
nước, tiến hành các cuộc điều tra về cây thuốc, các nghiên cứu dược học, dần
từng bước đưa thuốc YHCT vào hệ thống y tế quốc gia phục vụ công tác
CSSK nhân dân [7]. Brunei Darussalam bắt đầu thành lập TM/CAM – Vụ



6

YHCT – Bộ Y tế vào ngày 26/05/2008 tập trung mũi nhọn lồng ghép
TM/CAM trong dịch vụ chăm sóc sức khỏe [16]. Từ 23/12/2002 đến 4/2/2005
đã có 8 chuyên gia về YHCT của Bệnh viện YHCT Trung ương - Việt Nam
đến trung tâm nghiên cứu YHCT – Bộ Y tế Lào để nghiên cứu lâm sàng về y
học cổ truyền, trong thời gian này các chuyên gia chữa khỏi bệnh cho hơn 5000
bệnh nhân bằng YHCT. Bộ Y tế Lào đã có kế hoạch hợp tác với Bộ Y tế Việt
Nam đào tạo sau đại học và các khóa đào tạo ngắn về phương pháp chữa bệnh
bằng YHCT [12].
+ Hiện nay, hầu như chưa có đề tài nghiên cứu nào trên thế giới đưa ra
được nghiên cứu cụ thể về nguồn nhân lực để phát triển YHCT cũng như nhu
cầu đào tạo liên tục cho các cán bộ làm về công tác YHCT. Chiến lược y học
cổ truyền khu vực Tây Thái Bình Dương (2011 – 2020) đã tính đến các thách
thức và xu hướng của khu vực cũng như bối cảnh chiến lược toàn cầu. Bản
chiến lược đã ghi nhận phương hướng của mỗi quốc gia và vùng lãnh thổ sẽ
tùy thuộc vào nhu cầu, năng lực, ưu tiên, chính sách y tế hiện hành, các quy
định, chiến lược, nguồn lực, văn hóa và lịch sử của quốc gia đó. Mục tiêu của
chiến lược bao gồm [21]:
-

Đưa y học cổ truyền vào hệ thống y tế quốc gia.
Thúc đẩy sử dụng y học cổ truyền an toàn và hiệu quả.
Tăng cường cơ hội sử dụng y học cổ truyền an toàn và hiệu quả.
Thúc đẩy bảo vệ sử dụng bền vững nguồn lực y học cổ truyền.
Tăng cường hợp tác trong việc xây dựng, chia sẻ kiến thức, kỹ năng
thực hành y học cổ truyền.

1.1.2. Y học cổ truyền trong chăm sóc sức khỏe tại các châu lục khác
Các nước châu Phi, châu Mỹ La tinh, đặc biệt là các bộ lạc người dân ở

đây từ lâu đã biết làm các phương thuốc từ cây cỏ sẵn có tại nơi sinh sống để
phòng và chữa các bệnh thông thường ở cộng đồng mình.


7

Theo kết quả của một số nghiên cứu ở Australia, 48,5% dân số sử dụng
ít nhất một loại hình chữa bệnh theo phương pháp YHCT, các bác sỹ thực
hành đã khuyến cáo người dân sử dụng thảo dược - một trong mười liệu pháp
điều trị thay thế (châm cứu, thôi miên, ngồi thiền, tác động cột sống, thể dục
nhịp điệu, Yoga, vi lượng đồng căn, thảo dược, xoa bóp, ngửi hoa) [22].
Chính phủ đã có những chính sách phổ cập biện pháp thay thế này đến toàn
cộng đồng [23], [24].
Trong chiến lược phát triển YHCT năm 2002 – 2005, Tổ chức Y tế Thế
giới tiếp tục khẳng định vai trò và giá trị của YHCT trong chăm sóc sức khỏe
ban đầu cho nhân dân [6]. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã tích cực và nỗ lực
hỗ trợ cho các hoạt động phát triển nguồn lực YHCT ở các nước thông qua các
khoá đào tạo cho lương y ở Lào, Mông Cổ, Philippin và các quốc đảo Tây Thái
Bình Dương. Mục tiêu là sử dụng những lương y đã được đào tạo để giáo dục
sức khoẻ hoặc cung cấp dịch vụ CSSKBĐ bằng YHCT [9], [15]. Nâng cao
năng lực nghiên cứu về YHCT cho các nước thông qua tổ chức các hội thảo
khu vực, các khoá đào tạo và những học bổng đào tạo chuyên gia [15].
1.2. Hệ thống Y học cổ truyền trong chăm sóc sức khỏe ở Việt Nam
1.2.1. Khái quát lịch sử YHCT Việt Nam
YHCT Việt Nam ra đời từ rất sớm, gắn liền với lịch sử phát triển của
truyền thống văn hoá dân tộc. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, YHCT Việt
Nam đã đúc rút được nhiều kinh nghiệm phòng và chữa bệnh có hiệu quả.
Nền YHCT Việt Nam còn được phát triển trong sự giao lưu với Trung Quốc
và các nước trong khu vực. Bằng sự xuất hiện nhiều danh y lớn như Tuệ Tĩnh,
Hải Thượng Lãn Ông, Chu Doãn Văn, Hoàng Đôn Hòa, Nguyễn Đạo An…

YHCT Việt Nam không chỉ là một nền y học kinh nghiệm đơn thuần mà còn
phát triển về mặt lý luận. Các tác phẩm YHCT Việt Nam có giá trị to lớn
trong nền y học và văn hóa dân tộc [25].


8

Từ thời Vua Hùng dựng nước, nhân dân Việt Nam đã biết dùng thuốc
có nguồn gốc thiên nhiên, khoáng vật, thực vật, động vật. Tục ăn trầu cho ấm
cơ thể, phòng sốt rét, ngã nước, nhuộm răng làm chặt chân răng; ăn kèm gừng
tỏi với thịt, cá cho dễ tiêu trở thành gia vị trong bữa ăn hàng ngày. Dân miền
núi có tập quán ăn hạt ngải, uống nước riềng, chấm muối xả… để phòng khí
thấp, chống sốt rét rừng; dân miền Trung du biết uống chè vối; miền xuôi
uống chè xanh, ăn diếp cá, riềng giúp tiêu hóa tốt… sản phụ uống chè vằng
cho “thông máu”, ăn ngon hơn và tiêu cơm [26]. Các kinh nghiệm ban đầu ấy
được tích luỹ nhiều thêm và được đúc kết thành kinh nghiệm riêng của mỗi
dân tộc trên đất nước Việt Nam trong việc phòng chữa bệnh [27].
Các thời nhà Ngô, Đinh và Tiền Lê, tuy không còn văn tự về nền
YHCT nhưng qua truyền thuyết ta cũng có thể hình dung được là dân tộc ta
lúc đó đã biết sử dụng dược thảo để bảo vệ sức khỏe cho mình. Đến thời nhà
Lý, chính quyền phong kiến đã tập hợp các vị lương y tổ chức thành Ty Thái
y và bổ nhiệm Ngự y để lo sức khỏe cho triều đình. Thời kỳ này đã xuất hiện
nhiều lương y hoạt động mang tính chuyên nghiệp. Sang thời Trần YHCT
phát triển mạnh mẽ hẳn lên. Vì thế thời kỳ này có nhiều thầy thuốc giỏi, vượt
lên tất cả là Thiền sư Tuệ Tĩnh (thế kỷ XIV), Ông đã đã được nhân dân suy
tôn là vị “Thánh thuốc nam”, người có công đầu trong việc sưu tầm, tập hợp
và sử dụng thuốc nam “Nam dược trị Nam nhân”. Đây là một quan điểm vừa
mang tính khoa học, tính nhân văn vừa thể hiện được ý trí độc lập, tự chủ, tự
tôn dân tộc. Để cho dân dễ hiểu, dễ nhớ các phương pháp chữa bệnh bằng
thuốc nam. Tuệ Tĩnh đã soạn bằng thơ phú để truyền bá YHCT. Bài thơ phú

thuốc nam có 630 vị bằng Quốc âm, phần đầu cuốn “Nam dược thần hiệu” có
400 vị thuốc ghi bằng chữ Hán, 82 vị có tên Việt Nam… nhằm phổ biến kinh
nghiệm sử dụng thuốc nam trong việc phòng và chữa bệnh cho nhân dân [28].


9

Triều đình nhà Hồ tuy tồn tại chẳng được bao lâu, nhưng ngoài những
cải cách về mặt nhà nước, Hồ Qúy Ly còn chú trọng đến việc chăm lo sức
khỏe cho nhân dân, lập Quảng Tế Thự và các cơ sở chữa bệnh bằng châm
cứu. Tiếp đến nhà Hậu Lê rất chú trọng đến việc chữa bệnh cho dân, tạo điều
kiện cho các thầy thuốc hành nghề. Vì vậy thời kỳ này có nhiều thầy thuốc
giỏi như Nguyễn Trực, Chu Doãn Văn, Hoàng Đôn Hòa, Nguyễn Đạo An…
nổi tiếng nhất là đại danh y Lê Hữu Trác (1720-1791), ngoài việc chữa bệnh
tận tụy, tài giỏi, Ông còn soạn “Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh” 28 tập 66
quyển. Bộ sách được coi là bộ Bách khoa toàn thư về YHCT Việt Nam [29].
Về dược học, phát huy truyền thống của Tuệ Tĩnh, Ông thừa kế “Nam dược
thần hiệu” 496 vị, bổ sung 300 vị trong tập Lĩnh nam bản thảo, gần 2.000
phương thuốc gia truyền, kinh nghiệm vào tập Bách gia trân tàng, Hành giả
trận nhu. Ông đã đúc kết được nhiều quy tắc chẩn đoán, biện chứng, luận trị,
cách dùng thuốc chữa bệnh và đạo đức người thầy thuốc: 9 điều y huấn cách
ngôn [30].
Dưới các triều đại phong kiến, YHCT ở nước ta tồn tại dưới 2 hình
thức: YHCT chính thống và YHCT dân gian. Trong đó YHCT chính thống
chịu ảnh hưởng nhiều của YHCT Trung Quốc, được sử dụng phục vụ cho vua,
quan và các gia đình hoàng tộc. Còn YHCT dân gian, chủ yếu là thuốc nam
được sử dụng rộng rãi tại cộng đồng phục vụ cho người dân nghèo.
Dưới thời Pháp thuộc (1884-1945): do ảnh hưởng của phong trào “Tây
hóa” ở các nước phương Đông nói chung, Việt Nam nói riêng, chế độ thực
dân thuộc địa, bán thuộc địa đã kìm hãm ngành YHCT, nhưng chủ yếu chỉ

xảy ra tại các đô thị, còn tuyệt đại đa số nhân dân lao động nghèo (nhất là ở
nông thôn và miền núi) vẫn tin dùng thuốc YHCT để chữa bệnh. Nhờ đó việc
sử dụng thuốc YHCT Việt Nam vẫn được bảo tồn, duy trì và phát triển [31].
Cách mạng tháng tám thành công, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, Đảng
và Chính phủ ta luôn quan tâm đến phát triển YHCT.


10

1.2.2. Hệ thống tổ chức y học cổ truyền Việt Nam hiện nay
- Năm 1946, Hội Đông y được thành lập để phát triển y học cổ truyền
phục vụ chế độ mới [32], [33].
- Nam bộ kháng chiến: Ban nghiên cứu Đông y Nam bộ được thành lập
phục vụ nhân dân và bộ đội. Ngoài việc xây dựng mạng lưới YHCT, Ban nghiên
cứu Đông y đã xây dựng và biên soạn "Toa căn bản" trị bệnh thông thường. Tập
"Tủ thuốc nhân dân" được soạn để phổ biến và sử dụng thuốc YHCT.
- Ngày 27/02/1955 Bác Hồ đã gửi thư cho ngành y tế. Trong thư Bác
viết: “Y học phải dựa trên nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng. Ông cha
ta đã có nhiều kinh nghiệm quí báu chữa bệnh bằng thuốc ta, thuốc bắc. Để
mở rộng phạm vi y học, các cô, các chú cũng nên chú trọng nghiên cứu phối
hợp thuốc Đông và thuốc Tây” [28], [34].
- Năm 1957 Vụ Đông y và Viện Đông y được thành lập với mục đích là
đoàn kết giới lương y, những người hành nghề y học cổ truyền (YHCT) và
YHHĐ, đồng thời phát huy hoạt động của các cơ sở nghiên cứu và điều trị
bằng thuốc YHCT [34], [35] .
- Đến năm 1978: 33/34 tỉnh thành có bệnh viện YHCT. Phong trào trồng
và sử dụng thuốc nam chữa bệnh phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết [32].
- Đến năm 2010 sau khi có chính sách quốc gia về YDCT ban hành năm
2003 đến nay có 56/63 tỉnh thành phố có bệnh viện YDCT [36].
1.2.3. Mạng lưới bệnh viện y dược cổ truyền tỉnh, thành phố

-

Tổng số bệnh viện y dược cổ truyền: 59
Tuyến Trung ương: 3 bệnh viện
Tuyến tỉnh: 53 bệnh viện
Bệnh viện YDCT ngành: 2 bệnh viện (Bệnh viện YDCT Bộ Công an;

bệnh viện YDCT Quân đội)


11

Bệnh viện y dược cổ truyền trong học viện: 1 bệnh viện (bệnh viện Tuệ
Tĩnh thuộc Học viện YDCT Việt Nam)
Xếp loại bệnh viện:
+ Xếp hạng I: 4
+ Xếp hạng II: 15
+ Xếp hạng III: 40
Trong đó, 12 tỉnh chưa có bệnh viện YDCT tỉnh, thành phố bao gồm: An
-

-

Giang, Bà rịa - Vũng tàu, Bạc Liêu, Bắc Cạn, Quảng Trị, Quảng Ngãi, Kon
Tum, Khánh Hòa, Sóc Trăng, Hậu Giang, Bạc Liêu, Cà Mau [37], [38].
Hệ thống khám chữa bệnh bằng y dược cổ truyền ở nước ta được chia
thành 4 cấp độ chuyên môn từ thấp đến cao trong bậc thang điều trị, phân tuyến
về chuyên môn kỹ thuật để đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khoẻ bằng y dược cổ
truyền; hệ thống bệnh viện YDCT hiện nay gồm: bệnh viện YHCT tuyến Trung
ương, bệnh viện YDCT tuyến tỉnh và bệnh viện YHDT của bộ, ngành.

*) Bệnh viện tuyến Trung ương [12], [39], [40], [41], [42].
Bệnh viện Y học cổ truyền tuyến Trung ương, bệnh viện Châm cứu
Trung ương, Viện Y dược dân tộc học Thành phố Hồ Chí Minh là bệnh viện
đầu ngành về y học cổ truyền, là tuyến cuối cùng trong bậc thang chuyên môn
điều trị, tiếp nhận người bệnh từ tuyến dưới chuyển lên [43], với chức năng
nhiệm vụ:
-

Kế thừa, nghiên cứu ứng dụng những bài thuốc, những phương pháp

-

chữa bệnh bằng YHCT.
Nghiên cứu, đánh giá các phương pháp chữa bệnh bằng YHCT, kết
hợpYHCT với YHHĐ và triển khai các phương pháp này cho các cơ sở

-

khám chữa bệnh bằng YHCT trong cả nước.
Nghiên cứu, ứng dụng các phương pháp chữa bệnh của các nước có nền

-

YHCT phát triển ứng dụng vào Việt Nam.
Nghiên cứu và xây dựng công tác hiện đại hóa YHCT, kết hợp YHCT

-

với YHHĐ. Tổ chức đào tạo và hợp tác quốc tế về YHCT.
Tổ chức chỉ đạo và chuyển giao các kỹ thuật về YDCT cho tuyến dưới.



12

*) Bệnh viện y dược cổ truyền tuyến tỉnh [42]:
Bệnh viện y dược cổ truyền tuyến tỉnh với chức năng là tuyến điều trị
cao nhất về chuyên ngành y dược cổ truyền tại tỉnh, tiếp nhận người bệnh từ
tuyến huyện chuyến đến do vượt khả năng chuyên môn của các bệnh viện
tuyến huyện và thực hiện nhiệm vụ:
-

Đáp ứng hầu hết các kỹ thuật chuyên môn thuộc chuyên ngành, thực

-

hiện các kỹ thuật chuyên môn chuyên sâu
Kết hợp y dược cổ truyền với y dược hiện đại.
Bệnh viện YDCT là đơn vị chuyên môn cao nhất; là cơ sở thực hành

-

phục vụ công tác đào tạo của các trường y, dược;
Nhiệm vụ chỉ đạo tuyến dưới về chuyên ngành y dược cổ truyền trong tỉnh.
Nghiên cứu kế thừa, phát huy phát triển, bảo tồn những kinh nghiệm
chữa bệnh bằng y dược cổ truyền cũng như phát triển các phương pháp
chữa bệnh kết hợp y dược cổ truyền với y dược hiện đại.

1.3. Khái niệm về nguồn nhân lực y tế
1.3.1. Khái niệm
Có khá nhiều những định nghĩa khác nhau về “nguồn nhân lực”.

Nguồn nhân lực là nguồn lực con người của những tổ chức (với quy
mô, loại hình, chức năng khác nhau) có khả năng và tiềm năng tham gia vào
quá trình phát triển của tổ chức cùng với sự phát triển kinh tế xã hội của quốc
gia, khu vực, thế giới. Cách hiểu này về nguồn nhân lực xuất phát từ quan
niệm coi nguồn nhân lực là nguồn lực với các yếu tố vật chất, tinh thần tạo
nên năng lực, sức mạnh phục vụ cho sự phát triển nói chung của các tổ chức
[44], [45].
Nguồn nhân lực là tổng thể các yếu tố bên trong và bên ngoài của mỗi
cá nhân bảo đảm nguồn sáng tạo cùng các nội dung khác cho sự thành công,
đạt được mục tiêu của tổ chức [44], [46].


13

Năm 2006, WHO đã đưa ra định nghĩa: “Nhân lực y tế bao gồm tất cả
những người tham gia chủ yếu vào các hoạt động nhằm nâng cao sức khoẻ”.
Theo đó, nhân lực y tế bao gồm những người cung cấp dịch vụ y tế, người
làm công tác quản lý và cả nhân viên giúp việc mà không trực tiếp cung cấp
các dịch vụ y tế. Nó bao gồm CBYT chính thức và cán bộ không chính thức
(như tình nguyện viên xã hội, những người CSSK gia đình, lương y...); kể cả
những người làm việc trong ngành y tế và trong những ngành khác (như quân
đội, trường học hay các doanh nghiệp) [47].
Theo định nghĩa nhân lực y tế của WHO, ở Việt Nam các nhóm đối
tượng được coi là “Nhân lực y tế” sẽ bao gồm các cán bộ, nhân viên y tế
thuộc biên chế và hợp đồng đang làm trong hệ thống y tế công lập (bao gồm
cả quân y), các cơ sở đào tạo và nghiên cứu khoa học y/dược và tất cả những
người khác đang tham gia vào các hoạt động quản lý và cung ứng dịch vụ
CSSK nhân dân (nhân lực y tế tư nhân, các cộng tác viên y tế, lang y và bà
đỡ/mụ vườn) [47]. Có hai khái niệm thường được sử dụng khi bàn luận về
nguồn nhân lực y tế:

- Khái niệm Phát triển nguồn nhân lực liên quan đến cơ chế nhằm phát
triển kỹ năng, kiến thức và năng lực chuyên môn của cá nhân và về mặt tổ
chức công việc.
- Khái niệm quản lý nguồn nhân lực: Theo WPRO (Tổ chức Y tế Thế
giới Tây Thái Bình Dương), “Quản lý nguồn nhân lực là một quá trình tạo ra
môi trường tổ chức thuận lợi và đảm bảo rằng nhân lực hoàn thành tốt công
việc của mình bằng việc sử dụng các chiến lược nhằm xác định và đạt được
sự tối ưu về số lượng, cơ cấu và sự phân bố nguồn nhân lực với chi phí hiệu
quả nhất. Mục đích chung là để có số nhân lực cần thiết, làm việc tại từng vị


14

trí phù hợp, đúng thời điểm, thực hiện đúng công việc, và được hỗ trợ chuyên
môn phù hợp với mức chi phí hợp lý” [17].
1.3.2. Mối liên quan giữa nguồn nhân lực và các thành phần khác của hệ
thống y tế
Theo WHO, hệ thống y tế có 6 thành phần cơ bản [48]:
- Nguồn nhân lực y tế được coi là một trong những thành phần cơ bản và
quan trọng nhất của hệ thống. Nguồn nhân lực có mối liên hệ rất chặt chẽ và
không thể thiếu đối với các thành phần khác của hệ thống y tế.
- Phát triển nguồn nhân lực không chỉ thông qua đào tạo, mà còn phải sử
dụng, quản lý một cách phù hợp để cung cấp hiệu quả các dịch vụ y tế đến
người dân.
- Cần có một mô hình tổ chức và chức năng của các thành phần của hệ
thống cung ứng dịch vụ để biết được nhu cầu về quy mô và cơ cấu nhân lực y
tế như thế nào, ngược lại, hệ thống cung ứng dịch vụ y tế phụ thuộc mật thiết
vào mô hình tổ chức và cơ cấu nhân lực y tế.
- Hệ thống thông tin y tế cũng phải cung cấp đầy đủ các thông tin cần
thiết, tin cậy cho việc lập kế hoạch và sử dụng nhân lực đáp ứng nhu cầu

CSSK của nhân dân, đồng thời giúp phát hiện những vấn đề của nguồn nhân
lực như phân bổ không hợp lý, năng lực không phù hợp để đáp ứng yêu cầu
CSSK từ phía người dân và cộng đồng, hoặc phát hiện và phân tích tần suất
sai sót chuyên môn để khắc phục.
- Cấp tài chính cho nhân lực y tế cũng phải đảm bảo cho công tác đào tạo
mới và đào tạo liên tục CBYT, đủ để trả lương và chính sách khuyến khích ở
mức đảm bảo được cuộc sống cho CBYT, tạo ra động lực khuyến khích
CBYT làm việc có chất lượng và sẵn sàng làm việc ở các miền núi, vùng sâu,
vùng xa, hoặc trong các môi trường, chuyên ngành độc hại, nguy hiểm.


15

- Các sản phẩm y tế, vaccin, dược phẩm.
1.3.3. Thực trạng nhân lực y tế và phát triển nguồn nhân lực y tế
Theo báo cáo của JAHR 2013, số lượng nhân lực y tế tiếp tục được cải
thiện. Số y sỹ, bác sỹ trên 1 vạn dân tiếp tục tăng lên và đạt 13,4 vào năm
2011, riêng số bác sĩ trên 1 vạn dân tăng từ 7,33 năm 2011 lên 7,46 năm 2012.
Số dược sĩ đại học trên 1 vặn dân năm 2011 đạt 1,92; số lượng điều dưỡng
trên 1 vạn dân cũng tăng đạt 10,02 năm 2011 [49].
Số lượng nhân lực y tế các loại tăng qua các năm, bao gồm cả số lượng
bác sĩ, dược sĩ đại học và điều dưỡng. Năm 2013 đã đạt 7,5 bác sĩ/vạn dân và
2,01 dược sĩ đại học/vạn dân [50]. Đối chiếu với chỉ tiêu 8 bác sĩ/vạn dân và
1,8 dược sĩ đại học/vạn dân trong Kế hoạch 5 năm 2011 – 2015 của ngành y
tế thì chỉ tiêu về dược sĩ đại học đã đạt được. Tỷ số bác sĩ trên vạn dân vẫn
còn một khoảng cách khá lớn so với chỉ tiêu đặt ra [51].
Nguồn bổ sung cho đội ngũ nhân lực y tế khá dồi dào. Số lượng cơ sở
đào tạo và quy mô đào tạo của các trường tiếp tục tăng, tuy không còn tăng
nhiều như trước đây. Số lượng sinh viên đại học ra trường tiếp tục tăng nhanh,
năm 2014 có trên 7000 bác sĩ ra trường, tăng hơn 1000 so với năm 2013. Ước

tính trong 3 năm tiếp theo con số này sẽ tiếp tục tăng với tốc độ như vậy. Số
lượng dược sĩ đại học tốt nghiệp tăng từ 1000 năm 2009 lên hơn 2000 năm
2012 và vào khoảng 3000 năm 2013. Nguồn nhân lực điều dưỡng bao gồm
bậc đại học, cao đẳng, trung cấp rất lớn. Với chỉ tiêu tuyển sinh trung cấp điều
dưỡng từ khoảng trên 10.000 năm 2006 và tăng dần đến trên 20.000 vào
2014, chỉ tiêu tuyển sinh cao đẳng tăng nhanh từ hơn 1000 năm 2006 lên gần
15.000 năm 2013, chỉ tiêu tuyển sinh điều dưỡng đại học cũng tăng đều đặn
từ hơn 1500 năm 2006 lên gần 5000 năm 2013, nguồn cung của đối tượng này
đang vượt quá nhiều so với nhu cầu của hệ thống y tế. Tình trạng cung nhiều


16

hơn cầu cũng xảy ra với y sĩ, dược trung cấp và tương lai không xa là dược
cao đẳng [52].
Bên cạnh các chính sách phát triển số lượng nhân lực y tế, ngành y tế
cũng triển khai các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng nhân lực y tế. Việc
cấp chứng chỉ hành nghề được áp dụng với tất cả những người khám chữa
bệnh (bác sĩ, y sĩ, điều dưỡng, hộ sinh, kỹ thuật viên y, lương y và người có
bài thuốc gia truyền) trong và ngoài công lập nhằm từng bước hội nhập với y
tế các nước trên thế giới và trong khu vực.
Phân bổ nhân lực y tế vẫn chưa đồng đều, nhân lực y tế có trình độ đại
học trở lên tập trung chủ yếu ở các thành phố và khu vực kinh tế phát triển.
Năm 2010, số lượng dược sĩ đại học ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh
chiếm hơn 48% tổng số dược sĩ của cả nước. Chủ yếu (92%) các dược sĩ này
làm việc trong khu vực tư nhân, chiếm hơn một nửa số dược sĩ thuộc khối tư
nhân của cả nước [53].
Bộ Y tế tiếp tục triển khai các giải pháp cải thiện chất lượng nhân lực,
tăng cường năng lực cho tuyến thông qua một số đề án. Đề án 1816 tiếp tục
được thực hiện nhưng chuyển từ chỗ hỗ trợ nhân lực cho tuyến dưới sang đào

tạo, chuyển giao gói kỹ thuật. Đề án Bệnh viện vệ tinh giai đoạn 2013 – 2020
bắt đầu được triển khai. Giai đoạn 1 từ 2013 đến 2015, 14 bệnh viện hạt nhân
được giao nhiệm vụ xây dựng và phát triển cho 45 bệnh viện vệ tinh ở 32 tỉnh
[54]. Các hoạt động chủ yếu của đề án là các bệnh viện hạt nhân đào tạo nhân
lực y tế, chuyển giao kỹ thuật, cung cấp trang thiết bị y tế, tư vấn khám chữa
bệnh từ xa qua mạng internet cho các bệnh viện vệ tinh. Đề án xây dựng và
phát triển mô hình phòng khám bác sĩ gia đình giai đoạn 2013 – 2020 được
Bộ trưởng Bộ y tế phê duyệt tại quyết định 935/QĐ-BYT ngày 22/3/2013, với
mục tiêu xây dựng và phát triển mô hình phòng khám bác sĩ gia đình trong hệ
thống y tế của cả nước nhằm cung cấp dịch vụ CSSK cơ bản, toàn diện, liên


17

tục cho cá nhân, gia đình và cộng đồng, góp phần giảm quá tải bệnh viện.
Trong cả nước, thành phố Hồ Chí Minh là địa phương đi đầu trong triển khai
mô hình phòng khám bác sĩ gia đình. Đến cuối năm 2013, thành phố có
khoảng 200 bác sĩ được đào tạo chuyên về y học gia đình. Mô hình này được
đánh giá là góp phần giảm tải bệnh viện tuyến trên và từng bước tăng cường
chất lượng y tế cơ sở [55]. Ngành y tế cũng có các chương trình, dự án và
hoạt động hỗ trợ kỹ thuật mà đa số tập trung ở tuyến tỉnh (chiếm hơn 50%),
sau đó là tuyến huyện (36 – 38%) [56].
Nhà nước tiếp tục cải thiện chất lượng đào tạo tại các cơ sở đào tạo
nhân lực y tế:
- Ngày 4/11/2013, Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương khóa
XI đã ban hành Nghị quyết 29NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
và đào tạo trong đó đưa ra quan điểm chỉ đạo về sự cần thiết phải đổi mới cả
về sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của nhà nước, các hoạt động quản trị của
các cơ sở giáo dục đào tạo, và sự tham gia của xã hội, cộng đồng, bản thân
người học, đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học. Bộ y tế hiện đang xây

dựng kế hoạch hành động để triển khai Nghị quyết này.
- Hệ thống văn bản pháp quy, hướng dẫn về đào tạo nhân lực y tế đang
được xây dựng, hoàn thiện nhằm mục tiêu nâng cao chất lượng đào tạo. Các
thông tư hướng dẫn đào tạo chuyên khoa I, chuyên khoa II, bác sĩ nội trú đang
được xây dựng mới để thay thế các Thông tư hiện tại không còn phù hợp.
Hiện nay các bản thảo đang được lấy ý kiến các đơn vị liên quan như cơ sở
đào tạo, cơ sở sử dụng nhân lực y tế. Để giải quyết tình trạng chất lượng đào
tạo thấp ở các khóa đào tạo liên thông khối ngành khoa học sức khỏe, đặc biệt
là đào tạo bác sĩ liên thông, Bộ y tế triển khai xây dựng Thông tư hướng dẫn
đào tạo liên thông trình độ cao đẳng, đại học khối ngành khoa học sức khỏe.
Thông tư này sẽ thay thế Thông tư 06/2008/TT-BYT trước đây về hướng dẫn


18

tuyển sinh liên thông trình độ cao đẳng, đại học y dược và công văn số
1915/BYT-K2ĐT ngày 8/4/2013. Đồng thời, Bộ y tế cũng đã có một số văn
bản gửi Bộ Giáo dục và Đào tạo đề nghị kiểm soát chỉ tiêu tuyển sinh một số
ngành đang đào tạo quá nhiều, kiểm soát việc đào tạo liên thông, đào tạo theo
địa chỉ, quy định chặt chẽ về mở mã ngành đào tạo mới. Bộ Y tế cũng bắt đầu
tổ chức triển khai xây dựng văn bản quy phạm luật về kết hợp viện – trường
trong đào tạo thực hành để thay thế Thông tư 09/2008/TT-BYT ngày 1/8/2008
về hướng dẫn việc kết hợp giữa các cơ sở đào tạo cán bộ y tế với các bệnh
viện thực hành trong công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học và CSSK nhân
dân đã không còn phù hợp trong tình hình các bệnh viện thực hiện cơ chế tự
chủ tài chính và sinh viên có rất ít cơ hội được thực hành [55].
1.3.4. Thực trạng nguồn nhân lực y dược cổ truyền Việt Nam
Trước yêu cầu phát triển mới của đất nước và hoà nhập với cộng đồng
thế giới đòi hỏi YHCT phải không ngừng được đổi mới về tổ chức, nâng cao
năng lực trình độ chuyên môn kỹ thuật, cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại và

một nguồn nhân lực đủ về số lượng và mạnh về chất lượng đáp ứng được yêu
cầu phát triển ngày càng cao của phòng bệnh, chữa bệnh, nghiên cứu khoa
học và sản xuất thuốc Đông Dược phù hợp với sự phát triển của thế giới và
của thời đại.
Thập kỷ 90, YHCT đã có một đội ngũ cán bộ gồm: 9 Giáo sư, 13 Phó
giáo sư, 20 Tiến sỹ, 48 Bác sỹ chuyên khoa II, 331 Bác sỹ chuyên khoa I,
1384 Bác sỹ YHCT, 1687 Y sỹ YHCT, có 2 Trường Trung học, 9 Bộ môn
YHCT ở các Trường đại học Y và một số Bộ môn YHCT trong các trường
Cao đẳng hoặc trung học Y tế [57]. Ngoài ra còn có khoảng 27.800 hội viện
Hội Châm cứu [58], 50.700 hội viện Hội Đông y [33].
Tính đến cuối năm học 2005-2006, riêng khoa YHCT trường Đại học Y
Hà Nội đã đào tạo được: 11.400 Bác sỹ đa khoa và chuyên khoa YHCT; 23
Bác sỹ nội trú đã tốt nghiệp; 95 BS CK 2.825 BS CK1 và cao học; 33 Nghiên


19

cứu sinh đã bảo vệ thành công luận án Tiến sỹ y học; Ngoài ra đã bổ túc cho
trên 10.000 BS về thuốc nam và châm cứu [57]. Năm 2010 cả nước có 362
sinh viên đại học tốt nghiệp bác sỹ y học cổ truyền, trong đó ở Học viện
YDHCT Việt Nam có 185 người tốt nghiệp, Đại học y khoa Thái Bình có 36
người tốt nghiệp, Đại học Y dược Hồ Chí Minh có 112 người tốt nghiệp, Đại
học Y khoa Hà Nội có 29 người tốt nghiệp [59].
Tuy nhiên cho đến nay theo báo cáo Chính sách Quốc gia về YDCT
mới có 01 Sở Y tế có phòng quản lý YDCT, 66,7% Sở Y tế có chuyên viên
chuyên trách YDCT, 31,7% Sở Y tế chỉ có chuyên viên bán chuyên trách về
YDCT, một số bệnh viện YDCT tỉnh, thành phố số giường bệnh còn thấp như:
Ninh Bình, Long An, Đồng Nai, Lào Cai, Hoà Bình, Quảng Bình... Đội ngũ
chuyên sâu YHCT còn rất mỏng, nhiều nơi chưa có cán bộ chuyên môn về
YHCT, trang thiết bị phục vụ cho công tác khám chữa bệnh bằng YHCT còn

nghèo nàn, nhiều tỉnh số cán bộ YHCT có trình độ đại học chỉ đếm trên đầu
ngón tay như Quảng Trị, Quảng Bình, Đắc Nông, Kon Tum... Số cán bộ có
trình độ cao đa số tập trung tại các Viện, Bệnh viện TW đầu ngành để có điều
kiện vừa tham gia điều trị, nghiên cứu khoa học và đào tạo. Từ thực trạng
nguồn nhân lực YDCT ở tất cả các tuyến còn thiếu rất nhiều do đó tỷ lệ bệnh
nhân được khám chữa bệnh bằng YHCT ở các tuyến đều còn thấp so với chỉ
tiêu mà Chính sách Quốc gia về YDCT đã đề ra. Cụ thể là: theo số liệu báo
của các Sở Y tế tỷ lệ bệnh nhân khám và điều trị bằng YHCT tại tuyến tỉnh
(so với số lần khám và điều trị chung), số lần khám bằng YHCT đạt 8,8%, chỉ
tiêu mà Chính sách quốc gia là 20%. Tỷ lệ khám và điều trị bằng YHCT ở
tuyến huyện (so với số lần khám và điều trị chung của tuyến), số lần khám
bằng YHCT đạt 9,1%, chỉ tiêu chính sách quốc gia về YDCT là 25%. Tỷ lệ
khám chữa bệnh bằng YHCT tại tuyến xã phường là 24,6 %. Tỷ lệ này trong
chính sách quốc gia về YDCT là 40% [36], [60], [61], [62].
1.4. Đào tạo liên tục


20

1.4.1. Quan niệm về đào tạo liên tục
Hiện nay, Bộ y tế ban hành Thông tư 22/2013/TT-BYT ngày
09/08/2013 của Bộ trưởng Bộ y tế về hướng dẫn công tác đào tạo liên tục đối
với cán bộ y tế, trong đó nêu rõ: Đào tạo liên tục là các khóa đào tạo ngắn
hạn, bao gồm: đào tạo bồi dưỡng để cập nhật kiến thức, kỹ năng, thái độ
thuộc lĩnh vực chuyên môn đang đảm nhận; đào tạo lại, đào tạo theo nhiệm vụ
chỉ đạo tuyến, đào tạo chuyển giao kỹ thuật và các khóa đào tạo chuyên môn
nghiệp vụ khác của ngành y tế mà không thuộc hệ thống văn bằng giáo dục
quốc dân [63].
1.4.2. Các hình thức đào tạo liên tục và nguyên tắc quy đổi
-


Tập huấn, đào tạo, chuyển giao kỹ thuật, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ
ngắn hạn trong và ngoài nước theo hình thức tập trung hoặc trực tuyến (Elearning) được cấp chứng chỉ, chứng nhận, xác nhận: thời gian tham gia
đào tạo liên tục được tính theo thực tế chương trình đào tạo.

-

Hội thảo, hội nghị, tọa đàm khoa học trong và ngoài nước về lĩnh vực chuyên
môn y tế có xác nhận của đơn vị chủ trì tổ chức căn cứ vào chương trình của
hội thảo, hội nghị, tọa đàm: thời gian tham gia đào tạo được tính cho người
chủ trì hoặc có bài trình bày tối đa 8 tiết học và người tham dự tối đa 4 tiết
học cho mỗi hội thảo/hội nghị/tọa đàm.

-

Thực hiện nghiên cứu khoa học; hướng dẫn luận án, luận văn; viết bài báo
khoa học đã được công bố theo qui định: được tính tối đa 12 tiết học cho
người hướng dẫn luận án, chủ trì/thư ký đề tài cấp Nhà nước hoặc cấp Bộ; 8
tiết học cho hướng dẫn luận văn hoặc chủ trì/thư ký đề tài cấp cơ sở (tính tại
thời điểm luận văn được bảo vệ thành công hoặc đề tài được nghiệm thu đạt).

-

Biên soạn giáo trình chuyên môn được tính tối đa không quá 8 tiết đối với 1
tài liệu do người đứng đầu đơn vị xem xét (tính vào thời điểm xuất bản); cán


21

bộ y tế không phải là giảng viên của cơ sở giáo dục tham gia giảng dạy liên

quan đến chuyên môn nghiệp vụ được tính theo thời gian thực tế.
-

Hình thức đào tạo liên tục qui định tại Khoản 1 Điều này phải có chương trình
và tài liệu đào tạo được cấp có thẩm quyền thẩm định, phê duyệt.
Các bác sĩ tìm thấy hoạt động đào tạo liên tục bằng nhiều cách khác
nhau: bài giảng, hội thảo, các lớp học, cuộc họp, video, internet. Các bác sĩ
cũng có thể tham gia đào tạo liên tục dựa trên đọc tạp chí khoa học (như
JAMA) hoặc sách [64].
1.4.3. Thời gian đào tạo liên tục

-

Cán bộ y tế đã được cấp chứng chỉ hành nghề và đang hành nghề khám bệnh,
chữa bệnh có nghĩa vụ tham gia đào tạo liên tục tối thiểu 48 tiết học trong 2

-

năm liên tiếp.
Cán bộ y tế không thuộc trường hợp qui định tại Khoản 1 Điều này có nghĩa
vụ tham gia đào tạo liên tục tối thiểu 120 tiết học trong 5 năm liên tiếp, trong

-

đó mỗi năm tối thiểu 12 tiết học.
Cán bộ y tế tham gia các hình thức đào tạo liên tục khác nhau được cộng dồn
để tính thời gian đào tạo liên tục.
1.4.4. Tiêu chuẩn về đảm bảo chất lượng đào tạo y khoa liên tục
Nâng cao sức khỏe cho mọi người là mục tiêu cơ bản của giáo dục y
học. Năm 1998, Liên đoàn giáo dục y học thế giới (WFME) với sự phối hợp

của WHO đã khởi xướng xây dựng các tiêu chuẩn quốc tế trong giáo dục y
học. Bộ tiêu chuẩn quốc tế của WHO và WFME gồm có ba tập:
-

Giáo dục y học cơ bản
Giáo dục y học sau đại học
Đào tạo liên tục/phát triển nghề nghiệp liên tục

Tiêu chuẩn quốc tế về đào tạo liên tục (CME/CPD) gồm 9 tiêu chuẩn với
36 tiêu chí:
Tiêu chuẩn 1. Nhiệm vụ và kết quả đầu ra, có 4 tiêu chí


22

Tiêu chuẩn 2. Các phương pháp học tập, có 6 tiêu chí
Tiêu chuẩn 3. Lập kế hoạch và dẫn chứng bằng tư liệu, có 2 tiêu chí
Tiêu chuẩn 4. Cá nhân người bác sĩ, có 4 tiêu chí
Tiêu chuẩn 5. Những người cung cấp CME/CPD, có 4 tiêu chí
Tiêu chuẩn 6. Ngữ cảnh học tập và nguồn lực, có 7 tiêu chí
Tiêu chuẩn 7. Đánh giá các phương pháp và năng lực, có 4 tiêu chí
Tiêu chuẩn 8. Tổ chức, có 4 tiêu chí
Tiêu chuẩn 9. Đổi mới liên tục, có 1 tiêu chí [65].
1.4.5. Hệ thống tổ chức cơ sở đào tạo liên tục cán bộ y tế
BỘ Y TẾ (KHCN&ĐT)
CÁC TRƯỜNG ĐH, CAO ĐẲNG, TRUNG CẤP Y TẾ (MÃ A)
BỆNH VIỆN, VIỆN NC TW (MÃ B)
SỞ Y TẾ (MÃ C) Y TẾ CÁC BỘ, NGÀNH
Các bệnh viện ĐK, chuyên khoa tuyến tỉnh
TT Y tế dự phòng tỉnh

TT kiểm nghiệm Dược phẩm
Chi cục Dân số và KHHGĐ tỉnh
Đơn vị Y tế khác, …

Sơ đồ hệ thống tổ chức cơ sở đào tạo liên tục cán bộ y tế [65].


23

1.5. Đào tạo trong bệnh viện
1.5.1. Các loại hình đào tạo trong bệnh viện
-

Hướng dẫn thực hành cho học sinh, sinh viên các trường nghề, trung cấp, cao
đẳng, đại học.

-

Hướng dẫn thực hành sau tốt nghiệp và xác nhận quá trình thực hành.

-

Đào tạo liên tục/ đào tạo phát triển nghề nghiệp/ cập nhật kiến thức y khoa
liên tục.
1.5.2. Các văn bản hiện hành liên quan đến đào tạo trong bệnh viện

-

Đề án các bệnh viện vệ tinh.
Thông tư 22/2013/TT-BYT ngày 9/8/2013 về Hướng dẫn việc đào tạo liên tục


-

cho cán bộ y tế.
Công văn số 2034/BYT-5K2ĐT năm 2014 tăng cường chất lượng công tác
đào tạo liên tục cán bộ y tế do Bộ y tế ban hành.
1.6. Xây dựng kế hoạch đào tạo liên tục
Công tác đào tạo liên tục tuy đã triển khai trong ngành khá lâu, tuy
nhiên khó khăn chủ yếu nhất là cách tổ chức đào tạo và đặc biệt là vấn đề
kinh phí cho đào tạo liên tục, do vậy Thông tư số 22/2013/TT-BYT cũng đã
chỉ ra để có thể triển khai tốt công tác này thì cần phải xây dựng kế hoạch.


24

Trên cơ sở đó mới có nguồn lực bao gồm nhân lực, vật lực và tài lực cho công
tác đào tạo liên tục.
*Quy trình xây dựng kế hoạch đào tạo liên tục
a)

Kế hoạch đào tạo liên tục 5 năm đối với bệnh viện trực thuộc Sở Y tế
Đào tạo liên tục thường là thời gian ngắn (dưới 1 năm) nên kế hoạch

đào tạo liên tục của các bệnh viện có nhiệm vụ chỉ đạo tuyến thường là kế
hoạch 5 năm và cần trình Sở Y tế phê duyệt, vì vậy quy trình xây dựng và phê
duyệt đòi hỏi có đủ thời gian để xem xét và báo cáo các cơ quan có thẩm
quyền Nhà nước đưa vào kế hoạch kinh phí cho năm sau. Sau đó Sở y tế sẽ
tập hợp báo cáo tỉnh để đưa vào kế hoạch chung của tỉnh/thành phố.
b)


Kế hoạch đào tạo liên tục hàng năm
Kế hoạch đào tạo liên tục hàng năm của bệnh viện được xây dựng

dựa trên kế hoạch 5 năm đã được phê duyệt. Kế hoạch đào tạo liên tục của
bệnh viện là bộ phận của kế hoạch chung hàng năm. Kế hoạch chung của
bệnh viện trình cấp thẩm quyền phê duyệt cần có dòng kinh phí dành cho
đào tạo liên tục.
Quy trình cũng tương tự như xây dựng kế hoạch 5 năm, đầu mối xây
dựng kế hoạch đào tạo là đơn vị phụ trách đào tạo liên tục, phòng kế hoạch
tổng hợp sẽ tổng hợp trong kế hoạch chung.
1.7. Quản lý chương trình và tài liệu đào tạo liên tục
1.7.1. Chương trình đào tạo liên tục
Xây dựng chương trình đào tạo là công đoạn quan trọng nhất của quy
trình dạy học. Chương trình đào tạo tốt thì sản phẩm đào tạo sẽ tốt và ngược
lại. Một chương trình đào tạo tốt sẽ giúp người học tiếp nhận được các nội
dung cần thiết nhất phục vụ cho nghề nghiệp của họ. Chương trình không tốt
sẽ làm lãng phí thời gian của người học và lãng phí các nguồn lực phục vụ
cho công tác đào tạo.


25

Chương trình đào tạo liên tục cán bộ y tế cần lưu ý các nội dung sau:
-

Đào tạo cập nhật các năng lực cần thiết trong hoạt động chuyên môn và thực
hành nghề nghiệp thường xuyên của người học.

-


Chương trình hướng về cộng đồng để góp phần giải quyết các vấn đề sức
khỏe trong cộng đồng.

-

Dạy – học lấy việc học, lấy người học là trung tâm. Đào tạo theo nhóm nhỏ,
cá thể hóa trong đào tạo.
Yêu cầu của chương trình đào tạo liên tục:

-

Thể hiện các mục tiêu đào tạo mong muốn
Quy định được chuẩn đầu ra về kiến thức, kỹ năng, thái độ
Cấu trúc nội dung đào tạo phù hợp với mục tiêu
Lựa chọn phương pháp, hình thức hực hiện chương trình thích hợp
Cách đánh giá kết quả rõ ràng, khách quan
Chương trình đào tạo liên tục phải được cập nhật liên tục để bảo đảm tính
khoa học, phù hợp với nhu cầu thực tiễn, trong thời gian tối đa 5 năm phải

-

được xem xét, chỉnh sửa và bổ sung.
 Các nội dung của việc quản lý chương trình đào tạo liên tục
a) Tổ chức thực hiện chương trình đào tạo liên tục
Tập huấn triển khai thực hiện chương trình đào tạo liên tục nhằm làm cho cả
người dạy, người học và nhà quản lý hiểu đúng, đầy đủ nội dung chương trình

-

mới xây dựng và thống nhất thực hiện

Chuẩn bị đủ điều kiện để triển khai đại trà chương trình đào tạo mới
Giám sát, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện chương trình đào tạo
Đánh giá chương trình đào tạo sau một thời gian thực hiện
b) Quản lý chương trình đảm bảo chất lượng
Quản lý mục tiêu đào tạo: một chương trình đào tạo khi thực hiện chúng ta
phải kiểm soát chất lượng bằng cách xem chương trình đó có đạt mục tiêu đưa

-

ra ban đầu hay không.
Quản lý nội dung chương trình đào tạo: xem tất cả các nội dung trong chương
trình có được giảng dạy và học tập đầy đủ hay không, cả lý thuyết và thực


×