Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

Luận văn phát triển hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng NHTMCP quân đội (MB)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (441.71 KB, 101 trang )

LỜI MỞ ĐẦU

Trong những năm vừa qua cùng với việc thực hiện nền kinh tế thị
trường, phát triển kinh tế bền vững theo xu hướng hội nhập quốc tế, kinh tế
Việt Nam được đánh giá là một trong những nền kinh tế triển vọng, có tốc
độ tằng trưởng hàng đầu thế giới.
Góp mình vào sự phát triển mạnh mẽ đó của nền kinh tế khơng thể
khơng kể đến vai trị tích cực của các thành phần kinh tế khác nhau, trong
đó có một bộ phận khơng nhỏ là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Là một lực
lượng lớn của nền kinh tế, có nhiều tiềm năng phát triển. Kinh nghiệm của
các nước trên thế giới cho thấy đây là khu vực phát triển năng động nhất,
tạo ra nhiều việc làm nhất và có những đóng góp to lớn cho sự phát triển
kinh tế của một quốc gia. Ở nước ta mỗi năm có hàng nghìn doanh nghiệp
được thành lập mới, trong đó đại bộ phận là doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Theo số liệu thống kê năm 2007 tổng số doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện có ở
nước ta là 210.000 doanh nghiệp chiếm khoảng 97% tổng doanh nghiệp
trong cả nước, đóng góp 26% GDP, 31% giá trị tổng sản lượng công
nghiệp và chiếm 26% lực lượng lao động trong cả nước. Nhu cầu vốn của
doanh nghiệp là rất lớn, nhưng khả năng huy động của doanh nghiệp lại
gặp nhiều khó khăn mà nguyên nhân chủ yếu là do doanh nghiệp có qui mơ
vốn mơ nhỏ, cịn nhiều yếu kém trong quản lí và hoạt động, chưa xây dựng
được uy tín trên thị trường…
Cùng với sự chuyển mình nhanh chóng của nền kinh tế, trong bối
cảnh Việt Nam đã là một thành viên của tổ chức WTO, các doanh nghiệp
nói chung và doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng đang đứng trước cơ hội và
thách thức rất lớn. Để có được nguồn vốn đáp ứng việc đẩy mở rộng sản


xuất, đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, xây dựng thương
hiệu…trong nền kinh tế có sự cạnh tranh găy gắt là nhu cầu tất yếu của hầu
hết các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Lý luận thực


tiễn cho thấy nguồn vốn tín dụng ngân hàng có vai trị quan trọng khơng
thể thiếu trong sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Xuất phát từ những lý do đó cùng với việc nghiên cứu thực trạng các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, trực trạng tín dụng ngân hàng, em chọn nghiên
cứu đề tài: “Phát triển hoạt động tín dụng đối với Doanh nghiệp vừa và
nhỏ tại NHTM cổ phần Quân Đội” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp, hy
vọng sẽ góp phần giải quyết các yêu cầu của vấn đề đặt ra.
Kết cấu của chuyên đề, ngoài phần lời mở đầu và kết luận được chia ra làm
ba phần:

Chương 1 : Tổng quan hoạt động tín dụng của NHTM đối với Doanh
nghiệp vừa và nhỏ.
Chương 2 : Thực trạng hoạt động tín dụng của NHTM cổ phần Quân
đội.
Chương 3 : Thực trạng hoạt động tín dụng của NHTM cổ phần Quân
đội.


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NHTM
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1.1. DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TRONG NỀN KINH TẾ.

1.1.1. Khái quát về doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.1.1.1. Khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Việc đưa ra khái niệm thế nào một doanh nghiệp gọi là vừa và nhỏ?
phụ thuộc vào sự phát triển về quy mô nền kinh tế của một quốc gia. Các
quốc gia khác nhau, tiêu thức để xếp loại doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng
khác nhau. Một doanh nghiệp đặt trong mơi trường kinh tế của nước mình
được coi là doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhưng ở nước khác nó lại được coi là

doanh nghiệp lớn hoặc cực nhỏ
Đối với Việt Nam, theo quy định của Thủ Tướng Chính Phủ tại công
văn số 681/CP-KTN ban hành ngày 20/06/1998 xác định tiêu thức doanh
nghiệp vừa và nhỏ tạm thời quy định là những doanh nghiệp có vốn điều lệ
dưới 5 tỷ đồng và có số lượng lao động trung bình hàng năm dưới 200
người. Khái niệm đưa ra căn cứ theo hai tiêu thức: tổng số vốn sản xuất
kinh doanh và số lượng lao động của doanh nghiệp.
Cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế cả nước, số lượng
doanh nghiệp ngày một tăng, khơng ít số doanh nghiệp có số vốn vượt quá
5 tỷ đồng nhưng chưa đủ mạnh để được coi là một doanh nghiệp lớn. Bởi
vậy, sau một thời gian khảo sát và kiểm tra các doanh nghiệp, căn cứ vào
hồn cảnh cụ thể ở Việt Nam, có tính đến xu hướng phát triển của thời gian
tới, kết hợp với nghiên cứu kinh nghiệm thực tế của các nước, ngày


23/11/2001, Chính Phủ đã ban hành Nghị Định 90/NĐ-CP quy định lại tiêu
chí để xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ.
“Doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã
đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký khơng vượt
q 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300
người.”
1.1.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Tại các nước có nền kinh tế phát triển trên thế giới, bên cạnh những
doanh nghiệp có quy mơ lớn đang chi phối nền kinh tế; các doanh nghiệp
vừa và nhỏ chiếm một tỷ lệ rất lớn trong tổng số doanh nghiệp cả nước. Ở
Việt Nam hiện nay, số doanh nghiệp vừa và nhỏ ước tính chiếm 97%.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có mặt ở hầu hết các lĩnh vực của nền
kinh tế. Đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta hiện nay hoạt động
trong lĩnh vực thương mại - dịch vụ (chiếm trên 50%) do đây là ngành có
vịng quay vốn nhanh, khơng cần số vốn đầu tư lớn, khơng cần lao động có

trình độ cao, ra nhập và rút lui dễ dàng. Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ
làm vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn, thực hiện gia công, lắp ráp… phụ
thuộc vào các doanh nghiệp lớn. Các doanh nghiệp thương mại chủ yếu tập
trung ở thành phố lớn, có kết cấu hạ tầng phát triển, điều kiện giao thông
thuận lợi, người tiêu dùng có thu nhập cao, sức cầu lớn. Do tập trung quá
nhiều doanh nghiệp trên cùng một địa bàn nên tính cạnh tranh thường rất
gay gắt.
* Phát triển nhanh chóng - Lợi thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Việc phát triển nhanh chóng của doanh nghiệp vừa và nhỏ là do
nhiều ngun nhân:
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ có tính nhạy cảm cao đối với hoạt động
sản xuất kinh doanh, linh hoạt và ứng phó nhanh với biến động của thị


trường.
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng chấp nhận rủi ro, mạo hiểm
xảy ra trong kinh doanh nên có thể mạnh dạn đầu tư vào những ngành mới
lúc đầu có ít lợi nhuận, và những ngành sản xuất ra sản phẩm đáp ứng nhu
cầu cá biệt.
- Tổ chức bộ máy gọn nhẹ, đơn giản, không quá cồng kềnh nhưng
hiệu quả. So với các doanh nghiệp lớn thì mối liên kết giữa chủ doanh
nghiệp với các nhân viên và giữa các nhân viên với nhau chặt chẽ hơn.
Nhiều doanh nghiệp khơng có sự phân chia phịng ban, bộ phận rõ ràng,
thậm chí một người có thể đảm nhiệm nhiều vị trí, nhiệm vụ.
- Doanh ngiệp vừa và nhỏ dễ dàng đổi mới thiết bị, công nghệ, do
lượng vốn phải bổ sung khơng q lớn; và có khả năng giảm thiệt hại khi
có sự cạnh tranh phải chuyển sang kinh doanh ngành khác.
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể ứng dụng nhanh kỹ thuật tiên tiến,
có thể kết hợp tự động hóa với lao động thủ cơng, có thể sản xuất ra sản
phẩm có chất lượng cao trong điều kiện cơ sở hạ tầng hạn chế.

* Những mặt hạn chế của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Quy mô hoạt động nhỏ bé - Khó khăn về vốn.
Do quy mơ nhỏ dẫn tới nguồn vốn cũng hạn hẹp, kéo theo những
khó khăn về mặt sản xuất kinh doanh, trình độ công nghệ và năng lực quản
lý hạn chế, thiếu thông tin gây nhiều yếu kém trong sản xuất, trong đó thiếu
vốn là đặc điểm nổi bật.
Hiện nay, khơng ít doanh ngiệp vừa và nhỏ lâm vào tình trạng chiếm
dụng vốn lẫn nhau – sản xuất kinh doanh dựa trên một phần là vốn của
người khác. Nguy cơ thiếu khả năng thanh tốn, vỡ nợ có thể xảy đến.
Để huy động vốn doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp rất nhiều khó khăn.
Kênh huy động vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu là vay vốn của


NHTM.
- Sức cạnh tranh thấp - Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có mức độ rủi
ro cao.
Tình trạng thiếu vốn ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã làm cho việc
sản xuất kinh doanh bị động lúng túng. Khi cần mua tư liệu sản xuất thì
khơng có tiền để mua – đến khi có điều kiện để bán được hàng thì lại
khơng có hàng để bán.
Những doanh nghiệp phá sản thường là những doanh nghiệp vốn ít,
kỹ thuật lạc hậu, chất lượng lao động và trình độ quản lý yếu kém, thiếu
hiểu biết về thị trường.
Trong kinh doanh, vốn là yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh, nhưng
các doanh ngiệp vừa và nhỏ lại rất bất lợi về vốn khi tham gia thị trường.
Thiếu vốn nên không thể đẩy mạnh sản xuất, nâng cao chất lượng sản
phẩm. Thiếu vốn nên không thể mở rộng thị trường tiêu thụ, xây dựng thêm
các kênh phân phối hàng hóa. Thiếu vốn nên khơng thể xây dựng được
thương hiệu, quảng bá hình ảnh doanh nghiệp, điều này sẽ gây bất lợi rất
lớn trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập Tổ chức thương mại thế

giới(WTO).
- Hạn chế trong quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh - Khó khăn
trong việc ứng dụng cơng nghệ kỹ thuật mới.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ được thành lập chủ yếu là từ nguồn
vốn của cá nhân. Người làm chủ doanh nghiệp thường có thế mạnh về vốn
hơn là về năng lực quản lý. Người quản lý có trình độ kém khơng thế giúp
doanh nghiệp đứng vững và phát triển trong nền kinh tế thị trường cạnh
tranh khốc liệt.
Trong một doanh nghiệp vưa và nhỏ số lao động có trình độ là rất
hạn chế. Doanh nghiệp khơng thu hút được nhiều cán bộ kỹ thuật giỏi và


những cơng nhân có tay nghề cao. Từ đó dẫn tới năng suất lao động thấp,
hiệu quả sử dụng vốn kém, ảnh hưởng tới khả năng hoàn trả vốn vay và
bảo tồn vốn thấp, cho nên khả năng tiếp cận với vốn ngân hàng bị hạn chế.
Thiếu vốn, thiếu lao động có trình độ dẫn đến khó khăn trong việc
ứng dụng kỹ thuật và công nghệ mới ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong
nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp nào sản xuất ra hàng hóa có chất
lượng cao, giá thành thấp thì doanh nghiệp đó sẽ giành được thắng lợi trong
cạnh tranh. Để thực hiện được điều đó thì phải đổi mới cơng nghệ, tăng
năng suất lao động, nâng cao số lượng chất lượng và giảm chi phí sản xuất.
Thiếu máy móc hiện đại, năng suất lao động thấp, thường chỉ bằng
30 -

50% so với doanh nghiệp lớn cùng ngành. Nên tiền lương của người

lao động cũng chỉ bằng 30 – 50% so với doanh nghiệp lớn cùng ngành. Vì
lẽ đó doanh nghiệp vừa và nhỏ khơng những khơng thu hút được người lao
động có trình độ, tay nghề cao mà cịn có thể bị mất lao động lành nghề ở
trong doanh nghiệp của mình.

- Mơi trường kinh doanh bên ngồi ảnh hưởng khơng nhỏ tới các
doanh nghiệp vừa và nhỏ - Khó khăn trong việc thâm nhập vào thị trường
thế giới.
Những tác động từ bên ngoài tới doanh nghiệp cũng gây khơng ít
khó khăn, sự tác động quản lý của Nhà Nước về hoàn thiện luật doanh
nghiệp, các chính sách thuế, chính sách tín dụng, thương mại, chính sách
khoa học và cơng nghệ, chính sách giáo dục đào tạo, lao động và việc
làm…còn nhiều bất cập. Tác động quản lý Nhà Nước đối với doanh nghiệp
vừa và nhỏ trong khâu tổ chức còn nhiều bức xúc. Sự thiếu hụt, rối loạn
của thị trường như: thị trường vốn, thị trường thông tin, thị trường dịch vụ
và nạn hàng giả, hàng lậu tràn lan gây nhiều khó khăn cho hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp vừa và nhỏ.


Các doanh nghiệp vừa và nhỏ bị tác động bởi nhiều yếu tố như sự
mất giá đồng tiền, công nhân đấu tranh đòi tăng lương, cải thiện đời sống
lao động, sự tranh chấp giữa chủ và thợ ngày càng gay gắt; cùng với đó là
giá cả đất đai ngày càng tăng, đất đai ngày càng khan hiếm…làm cho các
doanh nghiệp vừa và nhỏ mất dần lợi thế.
Trong bối cảnh Việt Nam tham gia hội nhập kinh tế toàn cầu, thị
trường thế giới hiện nay có sự cạnh tranh gay gắt, các doanh nghiệp vừa và
nhỏ vốn ít, kỹ thuật lạc hậu, năng suất lao động thấp, chất lượng mẫu mã
hàng hóa kém, giá thanh cao hơn so với các doanh nghiệp, các tập đồn
kinh tế có quy mơ sản xuất lớn, kỹ thuật và công nghệ hiện đại, nên gặp rất
nhiều khó khăn trong việc tìm cho mình một chỗ đứng lợi thế để tiêu thụ
hàng hóa trên thị trường thế giới.
1.1.2. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế.
Nói đến sự phát triển kinh tế ở một quốc gia, người ta thường nhắc
đến các doanh nghiệp lớn, các tập đồn khổng lồ. Trong khi đó các doanh
nghiệp vừa và nhỏ chiếm số lượng lớn, đang ngay càng đóng góp vài trị

quan trọng của mình đối với nền kinh tế lại không được chú trọng. Việc hỗ
trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ về vốn nhằm huy động tối đa nguồn lực
phát triển là vài trò quan trọng của các NHTM.
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo việc làm và thu nhập cho người lao động.
Có thể thấy rằng, tác động kinh tế lớn nhất của các doanh nghiệp vừa
và nhỏ là tạo việc làm cho một số lượng lớn lao động, giải quyết tình trạng
thất nghiệp. Do có sự phân bố rộng khắp và khá đa dạng trong ngành nghề
kinh doanh, hơn nữa là không địi hỏi trình độ q cao, doanh nghiệp vừa
và nhỏ đã và đang thu hút được rất nhiều lao động ở thành thị và nơng thơn
từ đó góp phần nâng cao thu nhập cho người lao động, cải thiện đời sống,
đồng thời hạn chế các tệ nạn xã hội.


Như vậy, giải quyết việc làm là một thế mạnh của các doanh nghiệp
vừa và nhỏ và là nguyên nhân chủ yếu khiến chúng ta phải quan tâm đặc
biệt đến đối tượng này.
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò to lớn trong việc thu hút
nguồn vốn trong dân cư
Tiềm lực tài chính trong dân cư cịn khá lớn, tuy nhiên lại không tập
trung thành những khoản lớn đủ đáp ứng cho các doanh nghiệp quy mô lớn
mà chỉ là những khoản nhỏ lẻ nằm rải rác.
Với tính chất nhỏ bé, dễ phân tán đi sâu vào các ngõ ngách bản làng
và số lượng vốn yêu cầu ban đầu khơng nhiều, các doanh nghiệp vừa và
nhỏ có vai trị và tác dụng rất lớn trong việc thu hút các nguồn vốn đó vào
sản xuất kinh doanh.
Mặc dù số vốn thu hút vào mỗi một doanh nghiệp không nhiều
nhưng do số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ rất đông nên tổng số vốn được
các doanh nghiệp này đưa vào sản xuất kinh doanh là khá lớn và không
ngừng gia tăng cùng với sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Với vai trò này doanh nghiệp vừa và nhỏ đã giúp nền kinh tế sử dụng

hiệu quả các nguồn tài chính trong dân cư, hạn chế tiền nhàn rỗi không sinh
lời trong nền kinh tế.
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng góp to lớn vào tăng trưởng kinh tế
Bằng việc khai thác và đưa vào sử dụng các nguồn lực kinh tế tiềm
ẩn trong dân cư, các doanh nghiệp vừa và nhỏ thực sự đã góp phần khơng
nhỏ vào tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế.
Theo số liệu thống kê của Bộ Kế hoạch và đầu tư mỗi năm các doanh
nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam tạo ra khoảng 25 - 26% GDP của cả nước,
31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, 64% tổng khối lượng luân chuyển
hàng hóa.


Bên cạnh đó, doanh nghiệp vừa và nhỏ cịn giữ một vai trị quan
trọng trong việc giữ gìn các làng nghề truyền thống, phát huy các giá trị
văn hóa dân tộc trong tăng trưởng kinh tế, tạo ra một thế mạnh cho đất
nước chúng ta trong quá trình hội nhập khu vực và thế giới.
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trị tích cực đối với sụ phát triển
kinh tế địa phương, khai thác tiềm năng, thế mạnh của từng vùng.
Do quy mô vừa và nhỏ nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể đặt
văn phịng làm việc, nhà xưởng kho tàng ở khắp nơi trên lãnh thổ, ở cả
những nơi cơ sở hạ tầng chưa phát triển như: ở vùng núi cao,hải đảo, ở
vùng nông thôn rộng lớn nhằm khai thác tiềm năng và thế mạnh của từng
vùng. Nhất là các loại tài nguyên trên mặt nước thuộc các ngành nơng, lâm,
hải sản.
Để khai thác có hiệu quả lao động, tài nguyên và ngành nghề đang
còn rất lớn ở từng địa phương, từng vùng lãnh thổ cần tập trung đẩy nhánh
sự phát triển một số ngành mà nước ta có nhiều tiềm năng như: nơng
nghiệp, lâm nghiệp, hải sản và công nghiệp chế biến nông, lâm, hải sản…
Trong những năm tới đây, chúng ta còn gặp nhiều khó khăn về vốn
và kỹ thuật nên việc đầu tư khai thác các nguồn lực của đất nước được

Đảng ta chủ trương: “ Chú trọng qui mô nhỏ và vừa, vốn đầu tư ít, thu hồi
nhanh’’ theo phương châm “ lấy ngắn nuôi dài .”
Doanh nghiệp vừa và nhỏ do vốn ít, cơ sở vật chất kỹ thuật yếu kém
nên tỷ lệ lao động sử dụng trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường lớn
rất thích hợp vói những ngành cần nhiều lao động thủ công như chế biến
thủy sản đông lạnh, may mặc, da giày, công nghiệp chế biến.
Như vậy, ngành công nghiệp chế biến là ngành công nghiệp phát
triển nhất của Việt Nam nhằm khai thác các khả năng về tai nguyên, về sức
lao động của từng địa phương, về từng vùng kinh tế, ngành công nghiệp


này chủ yếu thích hợp với những doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trị đáp ứng tích cực nhu cầu tiêu
dùng của xã hội ngày càng phong phú, đa dạng mà các doanh nghiệp lớn
không thể làm được.
Ngày nay trong thực tế tiêu dùng xã hội, có những mặt hàng mà
người tiêu dùng chỉ có nhu cầu ít và cá biệt song chất lượng, chủng loại,
mẫu mã, kiểu cách không ngừng thay đổi. Trong trường hợp này các doanh
nghiệp lớn không thể đáp ứng được trái lại các doanh nghiệp vừa và nhỏ do
có quy mơ sản xuất nhỏ, có khả năng điều chỉnh hoạt động nên có thể đáp
ứng những nhu cầu nói trên của người tiêu dùng một cách nhanh chóng,
thuận tiện.
Đặc biệt có những hàng hóa người tiêu dùng có nhu cầu khơng thể
sản xuất ở các doanh nghiệp có quy mơ lớn, kỹ thuật hiện đại mà chỉ có thể
sản xuất bằng lao động thủ công, phân tán đến từng cơ sở sản xuất nhỏ và
hộ gia đình.
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh
nghiệp lớn thông qua việc cung cấp nguyên vật liệu.
Thật vậy, doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo lập các kênh phân phối sản
phẩm, thực hiện các hợp đồng phụ. Nói một cách khác các doanh nghiệp

vừa và nhỏ là người bán đồng thời là người mua quan trọng của các doanh
nghiệp lớn.
Một doanh nghiệp lớn để đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình thường phải có mạng lưới các nhà cung cấp và phân phối
sản phẩm. Những đối tượng này khơng ai khác chính là các doanh nghiệp
vừa và nhỏ. Điều này giúp cho các doanh nghiệp lớn làm giảm sự ảnh
hưởng do biến động thị trường gây ra cả về mặt cung và cầu, giảm chi phí
sửa chữa bảo hành, chi phí quản lý vận chuyển và lưu trữ hàng hoá tạo điều


kiện thuận lợi cho việc giảm giá thành sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh
của sản phẩm trên thị trường.
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần tạo ra sự năng động và hiệu
quả cho nền kinh tế trong cơ chế thị trường, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Với ưu thế về tính linh hoạt và lượng vốn yêu cầu tương đối nhỏ,
Doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng nhanh chóng chuyển đổi mặt hàng,
chuyển hướng sản xuất, đổi mới công nghệ... cho phù hợp với sự biến động
của môi trương kinh doanh. Do vậy, các doanh nghiệp vừa và nhỏ làm cho
nền kinh tế trở nên năng động hơn.
Thực tế cho thấy, tốc độ gia tăng các doanh nghiệp vừa và nhỏ lớn
hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp lớn. Sự gia tăng số lượng các doanh
nghiệp vừa và nhỏ làm tăng tính cạnh tranh cho nền kinh tế. Như đã phân
tích ở trên doanh nghiệp vừa và nhỏ cùng đồng nghĩa với việc có nhiều hơn
các nguồn lực xã hội được huy động vào mục tiêu phát triển kinh tế.
Có thể nói các doanh nghiệp vừa và nhỏ với những lợi thế là chi phí
đầu tư thấp, dễ thích ứng với sự thay đổi của thị trường, tỏ ra rất phù hợp
với trình độ quản lý của phần lớn các chủ doanh nghiệp ở nước ta hiện nay.
Chính vì vậy, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là một nội dung quan
trọng trong đường lối xây dựng và phát triển kinh tế của Đảng và Nhà

Nước ta. Với vai trò quan trọng của doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với sự
nghiệp CNH-HĐH đất nước, Nghị Quyết TW khoá X đã khẳng định
“DNV&N là loại hình doanh nghiệp rất phù hợp để phát huy mọi tiềm
năng cho việc phát triển kinh tế và bước đầu thực hiện CNH-HĐH. Vì vậy,
phải quan tâm tới mọi thuận lợi cho DNV&N.”
1.1.3. Nhu cầu vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thậm chí là cực nhỏ, nên muốn tồn


tại và cạnh tranh, họ rất cần vốn để nâng cao chất lượng sản phẩm, đổi mới
trang thiết bị, đẩy mạnh sản xuất. Thiếu vốn đang là rào cản lớn nhất cho
sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi có nhu cầu phát triển, họ
thường huy động vốn từ bạn bè người thân, thậm chí cả vốn vay nặng lãi
bên ngồi, việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng là rất khó khăn. Khả năng huy
động vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất thấp khiến cho các doanh
nghiệp vừa và nhỏ lại rơi vào vòng luẩn quẩn: thiếu vốn để trang bị cộng
nghệ, kỹ thuật hiện đại thay đổi công nghệ lạc hậu, khơng có khả năng đào
tạo, nâng cao chất lượng sản phẩm, chất lượng lao động. Vậy tại sao các
NHTM lại ngại không cho đối tượng là doanh nghiệp vừa và nhỏ vay vốn?
Theo các chuyên gia ngân hàng, do môi trường kinh doanh ở phần
lớn các doanh nghiệp loại này cịn nhiều rủi ro, tính khả thi của phương án
và dự án của doanh nghiệp vừa và nhỏ là chưa thuyết phục. Các tổ chức
quản lý và điều hành chưa chuyên nghiệp; các báo cáo tài chính không đầy
đủ và thiếu minh bạch nên các ngân hàng rất ngại cho vay khi chưa năm rõ
hoạt động của doanh nghiệp.
Mối quan tâm hàng đầu của ngân hàng là cho vay dựa trên tính hiệu
quả của dự án kinh doanh. Hiện nay đã có nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ
áp dụng phương pháp quản lý – kinh doanh hiện đại, có chiến lược phát
triển lâu dài. Khơng ít các nhà đầu tư nước ngồi đã tìm đến liên kết liên

doanh, hợp tác đầu tư với các doanh nghiệp vừa và nhỏ để phát triển mặt
hàng hoặc mở rộng thị phần. Đó là đối tượng mà các NHTM hướng đến để
cho vay vốn.
Điều tra mới đây về thực trạng doanh nghiệp vừa và nhỏ của Cục
phát triển doanh nghiệp (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho thấy chỉ có 32,38%
doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng tiếp cận được các nguồn của các


ngân hàng; 35,24% khó tiếp cận và 32,38% khơng tiếp cận được. Khó khăn
chính của doanh nghiệp vừa và nhỏ là khơng có tài sản đảm bảo, chiếm tới
77%, thứ đến là không đưa ra được thông tin đáng tin cậy về dự án.
Nguồn tín dụng là rất cần thiết cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nó
góp phần thúc đẩy quá trình tập trung vốn mở rộng sản xuất, kinh doanh,
góp phần tích cực vào q trình vận động liên tục của nguồn vốn trong
doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp hiện đại trang thiết bị, ứng dụng
nhanh các thành tựu khoa học kỹ thuật, tổ chức quản lý kinh doanh có hiệu
quả. Hiện nay, với một thị trường chứng khốn thực sự chưa có nhiều đất
cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cũng như sự thiếu đa dạng và hiệu quả
của các định chế trung gian tài chính phi ngân hàng khác thì nguồn vốn tín
dụng từ ngân hàng vẫn được các doanh nghiệp vừa và nhỏ tìm đến như một
cứu cánh.
Theo chiến lược phát triển đến năm 2010 thì cả nước dự kiến sẽ có
500.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đây là đối tượng khách hàng có nhiều
tiềm năng và có vai trị rất lớn mà các ngân hàng trong nước phải quan tâm
phục vụ. Cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ là mảng hoạt
động đầy triển vọng, giúp ngân hàng tăng trưởng quy mơ tín dụng, đa dạng
dịch vụ và phân tán rủi ro.


1.2. PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA

VÀ NHỎ CỦA NHTM.

1.2.1. Phát triển tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của NHTM.
1.2.1.1. Khái niệm về tín dụng - Phát triển tín dụng đối với doanh nghiệp
vừa và nhỏ.


Khái niệm về tín dụng.

Tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc hoàn trả kèm
theo lợi tức. Tín dụng ngân hàng cũng là một hình thức của tín dụng, là
hoạt động tài trợ của ngân hàng cho khách hàng. Tín dụng của ngân hàng
có thể bao gồm cả cho vay, cho thuê, bảo lãnh, cả ngắn, trung và dài hạn.
Tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng được thực hiện thơng
qua vai trị trung tán trong nền kinh tế, rồi bằng nguồn vốn đó và vốn tự
có tiến hành gian của ngân hàng. Đó là việc ngân hàng đứng ra huy
động mọi nguồn vốn nhàn rỗi và phân cho các tổ chức kinh tế, tổ chức
xã hội và cá nhân vay để phát triển sản xuất, cải thiện đời sống, nhằm
mục tiêu thương mại.
Hoạt động cho vay luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các loại tài sản
ở ngân hàng thương mại, phản ánh hoạt động đặc trưng của NHTM. Ngân
hàng thương mại luôn sử dụng mọi lỗ lực để tăng qui mô tín dụng như mở
rộng mạng lưới, đa dạng hố các loại hình tín dụng, phát triển cơng nghệ
mới nhằm là gia tăng tiện ích cho khách hàng, giảm lãi suất hoặc cung cấp
các điều kiện ưu đãi…


Phát triển tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Thực chất NHTM cũng là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ.

Nâng cao hiệu quả hoạt động là mục tiêu quan trọng nhất của NHTM. Như
trình bày ở trên thì hoạt động cho vay chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các


loại tài sản ở NHTM, vì vậy phát triển hoạt động tín dụng của NHTM đối
với doanh nghiệp vừa và nhỏ là hết sức quan trọng.
Phát triển tín dụng được xem là quá trình biến đổi cả về lượng và
chất, nó là sự kết hợp chặt chẽ q trình hồn thiện dịch vụ tín dụng của
NHTM và q trình sử dụng hiệu quả vốn vay của doanh nghiệp vừa và
nhỏ để phát triển bền vững. Phát triển tín dụng nghĩa là việc các NHTM
giữ được các khách hàng cũ, nâng cao hiệu quả về chất lượng tín dụng đối
với khách hàng lâu năm; và tìm thêm được các đối tác mới; cùng xây dựng
các dự án chiến lược phát triển với đối tác ở đây là các doanh nghiệp vừa
và nhỏ. Bời vì, tại các nền kinh tế phát triển thì điểm xuất phát của nhiều
cơng ty lớn, các tập đồn xun quốc gia ban đầu chính là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ.
Phát triển tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ là hoạt động
mang lại lợi ích cho cả hai bên, và cho cả nền kinh tế. Đối với doanh
nghiệp thì giải quyết được nhu cầu cấp bách về vốn để có thể đẩy mạnh sản
xuất, nâng cao sức cạnh tranh, và phát triển bền vững. Đối với NHTM,
trước tiên là thực hiện được vài trò chủ chốt của mình trong nền kinh tế là
luân chuyển vốn; sau là có thể phát huy tối đa hiệu quả hoạt động. Với 97%
là các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế, đóng góp khoảng 39%
vào GDP, 32% vốn đầu tư cho nền kinh tế, tạo ra khoảng 49% việc làm phi
nông nghiệp và chiếm 25% số lao động cả nước, thì việc phát triển tín dụng
đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ thật sự là một mảnh đất màu mỡ mà
các NHTM hiện nay chưa tận dụng hết.
1.2.1.2. Những tiêu chí thể hiện phát triển tín dụng của NHTM.
Từ khái niệm về phát triển tín dụng được nêu ở trên, có thể nhận
định tiêu chí thể hiện phát triển tín dụng của NHTM được thể hiện ở hai

phương diện sau:




Quy mơ, và hiệu quả tín dụng của NHTM đối với doanh

nghiệp vừa và nhỏ.
Về quy mô, thể hiện ở khối lượng tài sản tín dụng của NHTM trên
tổng tài sản, đáp ứng cho nhu cầu vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đánh
giá trên cơ sở so sánh mức tăng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
qua các thời kì với mức tăng tổng tài sản tương ứng của ngân hàng. Xem
xét các mục tiêu đã hướng đến trong quá khứ có thực hiện hiệu quả, đúng
kế hoạch hay không và đặt ra mục tiêu tăng trưởng cho tương lai.
Hiệu quả hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ được
hiểu là sự đáp ứng nhu cầu vay hợp lý của các doanh nghiệp và nhu cầu đó
phải phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế, xã hội và phải đảm bảo sự
tồn tại, phát triển cuả ngân hàng.
- Chỉ tiêu tỷ trọng dư nợ cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ..
Tỷ trọng dư nợ
cho vay DNV&N

=

Dư nợ cho vay DNV&N
Tổng dư nợ cho vay

Chỉ tiêu này phản ánh quy mô đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ
trong hoạt động của ngân hàng đồng thời phản ánh mức độ ảnh hưởng của
hiệu quả hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ đến hiệu quả

tín dụng ngân hàng nói riêng và hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân
hàng nói chung.
- Chỉ tiêu tăng trưởng dư nợ cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Tăng trưởng dư nợ cho = Dư nợ cho vay DNV&N năm sau
vay DNV&N
Dư nợ cho vay DNV&N năm trước
Chỉ tiêu này dùng để phản ánh tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay đối
với doanh nghiệp vừa và nhỏ qua các năm. Cùng với chính sách tín dụng
của ngân hàng trong từng thời kỳ và chỉ tiêu thứ nhất chúng ta sẽ đánh giá
được xem hoạt động cho vay của ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và


nhỏ có theo đúng quy định và chủ trương của ngân hàng hay không.
- Chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Tỷ lệ nợ quá hạn =
cho vay DNV&N

Dư nợ quá hạn cho vay
DNV&N
Tổng dư nợ cho vay DNV&N

Đây



chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá hiệu quả hoạt động cho vay đối với
doanh nghiệp vừa và nhỏ và là một trong những chỉ tiêu để đánh giá uy tín
trong quan hệ tín dụng với ngân hàng. Chỉ tiêu này cho biết trong tổng dư
nợ cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng thì bao nhiêu phần trăm
nợ quá hạn.

Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp vừa và nhỏ không chỉ
đóng vai trị quan trọng mà cịn chiếm một tỷ trọng lớn. Nhiều doanh
nghiệp vừa và nhỏ đã đạt được hiệu quả kinh doanh cao, khẳng định được
vị thế, vai trị trong nền kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn tồn tại một số
lượng không nhỏ các doanh nghiệp vừa và nhỏ kém hiệu quả, hoạt động
dựa vào sự trợ giúp của Nhà Nước, từ các nguồn vốn vay ngân hàng. Chính
vì vậy mà hoạt động cho vay đối với những doanh nghiệp này chứa đựng
nhiều rủi ro, đặc biệt là trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt như hiện nay.
Để tránh được những rủi ro từ phía khách hàng, ngân hàng phải chủ động
lựa chọn đầu tư vào những doanh nghiệp vừa và nhỏ làm ăn có hiệu quả, ít
rủi ro, có như vậy mới đảm bảo khả năng thu hồi vốn vay đúng thời hạn.
- Chỉ tiêu tỷ lệ dư nợ cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ có tài sản
đảm bảo.
Tỷ lệ dư nợ cho vay = Dư nợ cho vay DNV&N có TSĐB
DNV&N có TSĐB
Dư nợ cho vay DNV&N
Hiệu quả tín dụng ngân hàng nói chung, hiệu quả hoạt động cho vay


doanh nghiệp vừa nhỏ nói riêng khơng chỉ phụ thuộc vào khả năng đảm
bảo bằng tài sản mà chủ yếu dựa vào hiệu quả kinh doanh của dự án. Tuy
nhiên, tỷ lệ dư nợ cho vay có tài sản đảm bảo là rất cần thiết để đánh giá
hiệu quả hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Do xuất phát
từ thực tế về hoạt động kinh doanh và cơ cấu của doanh nghiệp vừa và nhỏ
trong nền kinh tế mà tỷ lệ này được coi là cần thiết để đánh giá hiệu quả
hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Vịng quay vốn tín dụng = Doanh số thu nợ cho vay DNV&N
đối với DNV&N
Dư nợ cho vay DNV&N bình qn

Vịng quay vốn tín dụng thể hiện nguồn vốn ngân hàng lưu chuyển
vốn nhanh hay chậm để tham gia vào các chu kỳ sản xuất kinh doanh. Với
cùng một lượng vốn cung cấp cho nền kinh tế nhưng nếu tốc độ vịng quay
vốn tín dụng nhanh thì ngân hàng có thể đáp ứng nhiều hơn nhu cầu vốn
cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Chỉ tiêu cơ cấu dư nợ cho vay ngắn, trung, dài hạn đối với doanh
nghiệp vừa và nhỏ.
Chỉ tiêu này cho biết cả số tương đối và tuyệt đối về dư nợ cho vay
ngắn, trung và dài hạn của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong tổng dư nợ là
bao nhiêu. Qua đó, so sánh với tình hình huy động vốn tại ngân hàng, xem
hoạt động cho vay đó có hiệu quả khơng, có đúng với quy luật thị trường
hay không…
- Chỉ tiêu tỷ lệ lợi nhuận, thu dịch vụ đối với doanh nghiệp vừa và
nhỏ.
Hoạt động của ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ không
chỉ dừng lại ở việc cho vay mà nó cịn bao gồm cả những hoạt động khác
của ngân hàng với doanh nghiệp như bảo lãnh, uỷ quyền…Do vậy, để đánh


giá toàn diện hiệu quả hoạt động cho vay của ngân hàng thì ta phải đánh
giá cả khoản lợi nhuận từ hoạt động dịch vụ mà doanh nghiệp vừa và nhỏ
mang lại cho ngân hàng.
- Chỉ tiêu thu hồi nợ cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Hiệu quả hoạt động cho vay không chỉ thể hiện ở việc khoản cho vay
đó đem lại bao nhiêu lợi nhuận, nó có được bảo đảm khơng hay tỷ lệ nợ
q hạn của nó ra sao…Mà hiệu quả cho vay còn được dánh giá qua công
tác thu hồi nợ, thực chất đây cũng là một trong những cách thức để đánh
giá tỷ lệ nợ quá hạn, nhưng tỷ lệ nợ quá hạn chỉ cho biết về tỷ lệ chung, còn
chỉ tiêu này dùng để đánh giá cụ thể từng doanh nghiệp vừa và nhỏ một,
xem ngân hàng thu được bao nhiêu. Công tác thu hồi nợ không chỉ phản

ánh những khoản vay trong năm mà cịn là những khoản thu nợ q hạn, nợ
khó địi mà ngân hàng có thể thu được từ những doanh nghiệp vừa và nhỏ
tưởng chừng như không thể trả nổi khoản vay. Vì vậy, đây cũng là một chỉ
tiêu cần xem xét khi đánh giá hiệu quả hoạt động cho vay ngân hàng đối
với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Mỗi một chỉ tiêu trên phản ánh một khía cạnh, một góc độ riêng đối
với hoạt động cho vay của ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Vốn dĩ hoạt động kinh doanh thơng thường đã khó xác định chính xác hiệu
quả, trong khi đó ở đây hoạt động cho vay là hoạt động kinh doanh tiền tệ
thì càng khó xác định hơn. Bản thân tiền tệ, quy trình vận hành của nó đã
khó xác định nên chúng ta phải sử dụng các chỉ tiêu khác nhau để đánh giá
hiệu quả thực tế mà nó đem lại. Do đó, ta không thể bỏ qua bất cứ chỉ tiêu
nào trong các chỉ tiêu trên, các chỉ tiêu này ln có quan hệ qua lại với
nhau, giúp cho việc đánh giá hiệu quả hoạt động cho vay được chính xác
nhất. Có thể với những doanh nghiệp vừa và nhỏ cụ thể khác nhau cịn có
thêm những chỉ tiêu khác, tuỳ thuộc vào ngành nghề mà họ kinh doanh,


nhưng nhìn chung nếu đánh giá hoạt động cho vay của ngân hàng với
doanh nghiệp vừa và nhỏ ta sử dụng những chỉ tiêu trên.
Xét với giác độ toàn nền kinh tế, hiệu quả hoạt động cho vay của
ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ được xem xét thơng qua những
lợi ích mà vừa và nhỏ đó mang lại cho tồn nền kinh tế.
1.2.1.3.Tiêu chí thể hiện doanh nghiệp vừa và nhỏ sử dụng vốn tín dụng
hiệu quả.
- Mục tiêu chính của một doanh nghiệp là tối lợi nhuận, kinh doanh
thì phải có lãi để quay vịng vốn, tái sản xuất, chuyển sang một chu kỳ phát
triển mới với mục tiêu lớn hơn. Vì vậy tiêu chí để xác định doanh nghiệp
hoạt động có hiệu quả hay khơng ta phải dựa vào báo cáo kết quả kinh
doanh, so sanh nó với kế hoạch mà doanh nghiệp đề xuất với ngân hàng để

vay vốn. Đối với NHTM thì việc doanh nghiệp hoàn trả được các khoản nợ
vào đúng thời hạn là yếu tố được đăt lên hàng đầu. Một doanh nghiệp phát
triển bền vững ln ln phải duy trì được khả năng thanh tốn.
- Phát triển là nói về cả hai yếu tố chất và lượng, cả về bề rộng lẫn
chiều sâu. Trong nền kinh tế thị trường hội nhập quốc tế có sự cạnh tranh
gay gắt, việc doanh nghiệp không ngừng phát triển, làm mới sản phẩm chất
lượng hơn, nhiều chủng loại và thuận tiện cho người tiêu dùng hơn…để tạo
dựng chỗ đứng vững chắc trên thị trường là thách thức rất lớn đối với các
doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam còn non trẻ và thiếu kinh nghiệm trong
kinh doanh, thương mại quốc tế. Điều này cần nguồn vốn rất lớn, đòi hỏi sự
hợp tác lầu dài hai bên cùng có lợi giữa ngân hàng và doanh nghiệp vừa và
nhỏ, để tạo ra sức bật cho cả nền kinh tế Việt Nam.
- Phát triển bền vững không chỉ tính đến vấn đề duy nhất về lợi
nhuận, của cải vật chất tạo ra cho xã hội - thể hiện qua các chỉ tiêu về kinh
tế. Doanh nghiệp vừa và nhỏ sử dụng vốn tín dụng hiệu quả, trước tiên


được thể hiện cụ thể bằng chính sự đóng góp vào vai trị của mình đối với
nền kinh tê quốc dân. Ngày nay, một doanh nghiệp phát triển bền vững cịn
thể hiện qua các chỉ tiêu về bảo vệ mơi trường và an sinh xã hội. Các chỉ
tiêu về môi trường như: có bản báo cáo về mơi trường, các chỉ tiêu riêng
của ngành nghề… Các chỉ tiêu về xã hội: hoạt động từ thiện, việc phát
triển vốn con người, các chỉ tiêu riêng của ngành nghề…
1.3. HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NHTM ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA
VÀ NHỎ.

1.3.1. Sự cần thiết phát triển hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp
vừa và nhỏ.
1.3.1.1. Sự cần thiết phát triển hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp
vừa và nhỏ.

Cùng với sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa, tín dụng
ngân hàng ngày càng có vai trị quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói
riêng.
- Tín dụng ngân hàng là cơng cụ tich tụ và tập trung vốn để hỗ trợ
cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tái sản xuất mở rộng theo bề rộng và
chiều sâu.
- Tín dụng ngân hàng là một cơng cụ để Nhà nước điều tiết kinh tế
vĩ mơ, góp phần chống lạm phát , ổn định tiền tệ và giá cả, tạo môi trường
kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Tín dụng ngân hàng hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong
việc tự do di chuyển vốn từ ngành này sang ngành khac.
- Lãi suất tín dụng ngân hàng là địn bẩy mạnh mẽ đối với việc huy
động vốn và cho vay vốn của ngân hàng.


1.3.1.2. Các hình thức tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của
NHTM.
* Phân loại theo thời hạn tín dụng.
Tỷ trọng tín dụng ngắn hạn tại các ngân hàng thương mại thường cao
hơn tỷ trọng tín dụng trung và dài hạn do các ngân hàng chủ yếu tài trợ cho
tài sản lưu động của khách hàng. Tín dụng trung và dài hạn có tỷ trọng thấp
hơn do rủi ro cao hơn, nguồn vốn đắt và khan hiếm hơn. Ở nước ta hiện
nay, tỷ trọng tín dụng ngắn hạn của doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng thường
cao hơn so các doanh nghiệp lớn.
- Tín dụng ngắn hạn: Từ 12 tháng trở xuống tài trợ cho tài sản lưu
động, hoặc nhu cầu vốn ngắn hạn của doanh nghiệp.
- Tín dụng trung hạn: Từ trên 1 năm đến 5 năm tài trợ cho các tài sản
cố định như phương tiện vận tải, trang thiết bị chóng hao mịn.
- Tín dụng trung hạn: Trên 5 năm chủ yếu tài trợ cho các công trình

xây dựng như nhà ở, cầu, đường , máy móc thiết bị có giá trị lớn, có thời
gian sử dụng lâu.
Việc xác định thời hạn như trên cũng chỉ có tính chất tương đối vì
nhiều khoản cho vay khơng xác định trước được chính xác thời hạn. Phân
chia tín dụng theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời
gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tài sản.
* Phân loại theo phương thức cho vay.
Trên cơ sơ nhu cầu sử dụng của từng khoản vay của khách hàng và
khả năng kiểm tra, giám sát của ngân hàng mà ngân hàng thoả thuận với
khách hàng vay về việc lựa chọn các phương thức cho vay phù hợp. So với
doanh nghiệp lớn các phương thức vay vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở
nước ta đơn điệu hơn. Phương thức cho vay chủ yếu là cho vay từng lần,
cho vay theo hạn mức và cho vay theo dự án. Các ngân hàng đang thực


hiện cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ theo các phương thức sau:
- Chiết khấu thương phiếu
Thương phiếu được hình thành chủ yếu từ quá trình mua bán chịu
hàng hoá và dịch vụ giữa khách hàng với nhau. Người bán (hoặc người thụ
hưởng) có thể giữ thương phiếu đến hạn để đòi tiền người mua (hoặc người
phải trả) hoặc mang đến ngân hàng để xin chiết khấu trước hạn. Số tiền
ngân hàng ứng trước phụ thuộc vào lãi suất chiết khấu, thời hạn chiết khấu
và tỉ lệ phí chiết khấu.
Nghiệp vụ chiết khấu được dựa trên sự tín nhiệm giữa ngân hàng và
những người ký tên trên thương phiếu. Do tối thiểu có hai người cam kết
cho ngân hàng nên độ an toàn của thương phiếu tương đối cao (trừ trường
hợp ngân hàng ký miễn truy đòi đối với khách hàng). Hơn nữa, ngân hàng
thương mại có thể tái chiết khấu thương phiếu tại Ngân hàng Nhà nước để
đáp ứng nhu cầu thanh khoản với chi phí thấp (vì vậy thương phiếu cịn
được coi là loại tài sản có khả năng chuyển nhượng - có tính thanh khoản

cao).
- Cho vay thấu chi
Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay
được chi trội trên số dư tiền gửi thanh tốn của mình đến một giới hạn
nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn
mức thấu chi.
Để được thấu chi, khách hàng làm đơn xin ngân hàng hạn mức thấu
chi và thời gian thấu chi. Trong quá trình hoạt động, khách hàng có thể ký
séc, lập uỷ nhiệm chi, mua thẻ,... vượt quá số dư tiền gửi để chi trả (song
trong hạn mức thấu chi). Các khoản chi quá hạn mức thấu chi sẽ chịu lãi
suất phạt và bị đình chỉ sử dụng hình thức này. Khi khách hàng có tiền
nhập về tài khoản tiền gửi, ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi. Số lãi mà khách


hàng phải trả:
Số lãi
phải
trả

=

Lãi
suất
thấu
chi

x

Thời
gian

thấu chi

Số tiền
x thấu
chi

Hình thức cho vay thấu chi dựa trên cơ sở các khoản thu chi của
doanh nghiệp không phù hợp về thời gian và qui mơ. Thời gian và số lượng
thiếu có thể dự đốn dựa vào ngân quĩ song khơng chính xác. Do vậy hình
thức cho vay này tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong q trình
thanh tốn: chủ động, nhanh, kịp thời. Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn
hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn là khơng có đảm bảo, có thể cấp
cho doanh nghiệp vài ngày hoặc vài tháng trong năm dùng để trả lương, chi
các khoản phải nộp, mua hàng... Hình thức này nhìn chung chỉ sử dụng đối
với các khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập
ngắn.
- Cho vay trực tiếp từng lần
Cho vay trực tiếp từng lần là hình thức cho vay phổ biến của ngân
hàng áp dụng cho các khách hàng khơng có nhu cầu vay thường xun,
khơng có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử
dụng vốn chủ sở hữu và tín dụng thương mại là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu
thời vụ, hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay ngân hàng.
Để được cấp tín dụng, khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng
phương án sử dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và ký hợp
đồng cho vay, xác định qui mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ,
lãi suất và yêu cầu đảm bảo nếu cần. Mỗi món vay được tách biệt nhau
thành các hồ sơ (khế ước nhận nợ) khác nhau.
Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản. Ngân hàng có thể
kiểm sốt từng món vay tách biệt. Nếu thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng,



×