Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Tìm hiểu quá trình xung đột và tranh chấp biển đông giữa các quốc gia đông nam á với nhau, giữa đông nam á với trung quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.83 KB, 25 trang )

MỤC LỤC
I. MỞ ĐẦU.......................................................2
1. Vai trò địa chiến lược và tiềm năng kinh tế của Biển Đông..................................................3
1.1. Tiềm năng kinh tế của Biển Đông..................................................................................3
1.2. Tầm quan trọng địa chiến lược của Biển Đông..............................................................4
2. Biên niên vấn đề tranh chấp Biển Đông (1816 - 2009).........................................................7
3. Triển vọng về giải quyết vấn đề tranh chấp Biển Đông......................................................17

III. KẾT LUẬN..............................................23
Tài liệu tham khảo..........................................25
1. Nhiều tác giả, Trường Sa, Hoàng Sa là của Việt Nam, Nxb Trẻ, Hà Nội, 2008.................25
2. PGS. Ralf Emmers, Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore, Triển vọng cho việc giải
quyết và quản lý xung đột ở Biển Đông..................................................................................25
3. Thông cáo báo chí: Hội thảo quốc gia về Biển Đơng lần 2, Hà Nội, 4/2011......................25
4. Đặng Đình Q (Cb), Biển Đơng: Hợp tác vì An ninh và Phát triển trong khu vực, Nxb
Thế giới, Hà Nội, 2010............................................................................................................25
5. Thơng cáo báo chí: Hội thảo quốc gia “Tranh chấp chủ quyền ở Biển Đơng: Lịch sử, địa
chính trị và luật pháp quốc tế”, Hà Nội, 3/2009......................................................................25
6. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế: “Biển Đơng: Tăng cường hợp tác vì an ninh phát triển ở khu
vực”, Hà Nội, 11/2009.............................................................................................................25

1


I. MỞ ĐẦU
Biển Đơng cịn gọi là biển Nam Trung Hoa tên tiếng Anh The South China
Sea, là một biển rìa Tây Thái Bình Dương. Theo quy định của Uỷ ban Quốc tế về
biển, tên của các biển rìa thường dựa vào địa danh của lục địa lớn gần nhất hoặc
mang tên của một nhà khoa học phát hiện ra chúng. Biển Đơng nằm ở phía Nam đại
lục Trung Hoa nên có tên gọi là biển Nam Trung Hoa. Tuy nhiên, địa danh biển
khơng có ý nghĩa về mặt chủ quyền như một số người ngộ nhận. Vấn đề chủ quyền,


quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia trên biển được xác định và giải quyết
theo luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên hợp quốc về luật biển 1982.
Biển Đông được nhân dân Việt Nam gọi theo thói quen như một danh từ riêng. Biển
Đơng là một biển nửa kín, có diện tích khoảng 3,5 triệu km vuông, trải rộng từ vĩ độ
3o lên đến vĩ độ 26o Bắc và từ kinh độ 100o đến 121o Đơng. Ngồi Việt Nam, Biển
Đơng được bao bọc bởi tám nước khác là Trung Quốc, Philippin, Indonesia, Bruney,
Malaysia, Singapore, Thái Lan và Campuchia. Theo ước tính, Biển Đơng có ảnh
hưởng trực tiếp tới cuộc sống của khoảng 300 triệu người dân của các nước này.
Biển Đông không chỉ là địa bàn chiến lược quan trọng đối với các nước trong khu
vực mà còn cả của châu Á - Thái Bình Dương và Mỹ.
Cuộc tranh chấp biển Đơng đang là một “nguy cơ” gây bất ổn trong khu vực.
Tranh chấp biển Đông đã trở thành một trong những cuộc tranh chấp phức tạp bậc
nhất trên thế giới. Sự phức tạp của tranh chấp biển Đông đến từ các yêu sách phức
tạp về chủ quyền của nhiều quốc gia đối với các khu vực chồng lấn, vả lại, nó khơng
chỉ đơn thuần là tranh chấp về mặt luật pháp quốc tế về biên giới biển, lãnh thổ trên
biển mà hơn thế nữa nó cịn được đan xen với những lợi ích về địa – chính trị, về
kiểm sốt con đường vận tải biển chiến lược, và về khai thác các nguồn tài nguyên
biển, đặc biệt là dầu mỏ. Bài tập này góp phần tìm hiểu q trình xung đột và tranh
chấp Biển Đông giữa các quốc gia Đông Nam Á với nhau, giữa Đông Nam Á với
Trung Quốc, thông qua việc biên niên các sự kiện tiêu biểu, từ đó tìm ra hướng giải
quyết tranh chấp đang ngày càng căng thẳng và phức tạp trong khu vực hiện nay.
2


II. NỘI DUNG
1. Vai trò địa chiến lược và tiềm năng kinh tế của Biển Đông.
1.1. Tiềm năng kinh tế của Biển Đơng
Biển Đơng cịn là nơi chứa đựng nguồn tài nguyên thiên nhiên biển quan
trọng cho đời sống và sự phát triển kinh tế của các nước xung quanh, đặc biệt là
nguồn tài nguyên sinh vật (thuỷ sản), khoáng sản (dầu khí), du lịch và là khu vực

đang chịu sức ép lớn về bảo vệ môi trường sinh thái biển.
Trong khu vực, có các nước đánh bắt và ni trồng hải sản đứng hàng đầu thế
giới như Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam, Indonesia và Philippin, trong đó Trung
Quốc là nước đánh bắt cá lớn nhất thế giới (khoảng 4,38 triệu tấn/năm), Thái Lan
đứng thứ 10 thế giới (với khoảng 1,5 - 2 triệu tấn/năm), cả khu vực đánh bắt khoảng
7 - 8% tổng sản lượng đánh bắt cá trên tồn thế giới.
Biển Đơng được coi là một trong năm bồn trũng chứa dầu khí lớn nhất thế
giới. Các khu vực thềm lục địa có tiềm năng dầu khí cao là các bồn trũng Bruney Saba, Sarawak, Malay, Pattani Thái, Nam Côn Sơn, Mê Công, Sông Hồng, cửa sông
Châu Giang. Hiện nay, hầu hết các nước trong khu vực đều là những nước khai thác
và sản xuất dầu khí từ biển như Trung Quốc, Việt Nam, Malaysia, Brunei, Indonesia,
Thái Lan … trong đó Indonesia là thành viên của OPEC.
Tại vùng biển và thềm lục địa Việt Nam đã xác định nhiều bể trầm tích có
triển vọng dầu khí, trong đó các bể trầm tích Cửu Long và Nam Cơn Sơn được đánh
giá có triển vọng dầu khí lớn nhất, điều kiện khai thác tương đối thuận lợi. Tổng trữ
lượng dự báo địa chất về dầu khí của tồn thềm lục địa Việt Nam đạt xấp xỉ 10 tỷ tấn
dầu qui đổi, trữ lượng khai thác khoảng 2 tỷ tấn và trữ lượng dự báo của khí khoảng
1.000 tỷ mét khối.
Theo đánh giá, lượng dự trữ dầu ở Biển Đông là 7 tỉ thùng với khả năng sản
xuất 2,5 triệu thùng/ngày. Các khu vực có tiềm năng dầu khí cịn lại chưa khai thác
là khu vực thềm lục địa ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ và bờ biển miền Trung, khu vực
3


thềm lục địa Tư Chính. Trữ lượng và sản lượng dầu khí của Việt Nam đứng vào
hạng trung bình trong khu vực, tương đương Thái Lan và Malaysia.
Ngoài ra, theo các chun gia thì khu vực vùng biển Hồng Sa và Trường Sa
cịn chứa đựng tài ngun khí đốt đóng băng, trữ lượng loại tài nguyên này trên thế
giới ngang bằng với trữ lượng dầu khí và đang được coi là nguồn năng lượng thay
thế dầu khí trong tương lai gần. Chính tiềm năng dầu khí chưa được khai thác được
coi là một nhân tố quan trọng làm tăng thêm các yêu sách chủ quyền đối với hai

quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển quanh hai quần đảo.

1.2. Tầm quan trọng địa chiến lược của Biển Đông
Biển Đông nằm trên tuyến đường giao thông biển huyết mạch nối liền Thái
Bình Dương - Ấn Độ Dương, Châu Âu - Châu Á, Trung Đông - Châu Á. Năm trong
số mười tuyến đường biển thông thương lớn nhất trên thế giới liên quan đến Biển
Đông gồm: tuyến Tây Âu, Bắc Mỹ qua Địa Trung Hải, kênh đào Xuy-ê, Trung Đông
đến Ấn Độ, Đông Á, Úc, Niu Di Lân; tuyến Đông Á đi qua kênh đào Panama đến bờ
Đông Bắc Mỹ và Caribe; tuyến Đông Á đi Úc và Niu Di Lân, Nam Thái Bình
Dương; tuyến Tây Bắc Mỹ đến Đơng Á và Đông Nam Á. Đây được coi là tuyến
đường vận tải quốc tế nhộn nhịp thứ hai của thế giới. Mỗi ngày có khoảng từ 150 200 tàu các loại qua lại Biển Đơng, trong đó có khoảng 50% là tàu có trọng tải trên
5.000 tấn, hơn 10% là tàu có trọng tải từ 30.000 tấn trở lên. Trong khu vực Đơng
Nam Á có khoảng 536 cảng biển, trong đó có hai cảng vào loại lớn và hiện đại nhất
thế giới là cảng Singapore và Hồng Công. Thương mại và công nghiệp hàng hải
ngày càng gia tăng ở khu vực.
Nhiều nước ở khu vực Đơng Á có nền kinh tế phụ thuộc sống còn vào con
đường biển này như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore và cả Trung Quốc.
Đây là mạch đường thiết yếu vận chuyển dầu và các nguồn tài nguyên thương mại từ
Trung cận Đông và Đông Nam Á tới Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc. Hơn 90%
lượng vận tải thương mại của thế giới thực hiện bằng đường biển và 45% trong số đó
phải đi qua vùng Biển Đông.
4


Lượng dầu lửa và khí hố lỏng được vận chuyển qua vùng biển này lớn gấp
15 lần lượng chuyên chở qua kênh đào Panama. Khu vực Biển Đơng có những eo
biển quan trọng đối với nhiều nước, với 4 trong 16 con đường chiến lược của thế
giới nằm trong khu vực Đông Nam Á (Malacca, Lombok, Sunda, Ombai - Wetar).
Đặc biệt eo biển Malacca là eo biển nhộn nhịp thứ hai trên thế giới (sau eo biển
Hormuz).

Nạn cướp biển và khủng bố trên Biển Đông ở mức cao, đặc biệt sau vụ tấn
công khủng bố tự sát vào tàu chở dầu của Pháp tháng 10 năm 2002. Do đó, vùng
biển này hết sức quan trọng đối với tất cả các nước trong khu vực về địa - chiến
lược, an ninh, giao thông hàng hải và kinh tế, nhất là đối với Mỹ và Nhật Bản. Biển
Đơng cịn có liên hệ và ảnh hưởng đến khu vực khác, nhất là Trung Đơng. Vì vậy,
việc Biển Đơng bị một nước hoặc một nhóm nước liên minh nào khống chế sẽ ảnh
hưởng nghiêm trọng đến lợi ích an ninh, chính trị, kinh tế của các nước khu vực.
Hàng năm có khoảng 70% khối lượng dầu mỏ nhập khẩu và khoảng 45% khối
lượng hàng hoá xuất khẩu của Nhật Bản được vận chuyển qua Biển Đơng. Trung
Quốc có 29/39 tuyến đường hàng hải và khoảng 60% lượng hàng hóa xuất nhập
khẩu, 70% lượng dầu mỏ nhập khẩu được vận chuyển bằng đường biển qua Biển
Đông.
Tầm quan trọng chiến lược của các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở
Biển Đông
Các đảo và quần đảo trong Biển Đơng có ý nghĩa phịng thủ chiến lược quan
trọng đối với nhiều nước. Nằm ở trung tâm Biển Đơng, hai quần đảo Hồng Sa và
Trường Sa là một trong những khu vực có nhiều tuyến đường biển nhất trên thế
giới.
Trên các tuyến đường biển đóng vai trị chiến lược của Châu Á có hai điểm
trọng yếu: Thứ nhất là eo biển Malacca (nằm giữa đảo Sumatra của lndonesia và
Malaysia). Vị trí này vơ cùng quan trọng vì tất cả hàng hố của các nước Đơng Nam
Á và Bắc Á phải đi qua. Ba eo biển thuộc chủ quyền của lndonesia là Sunda,
5


Blombok và Makascha đóng vai trị dự phịng trong tình huống eo biển Malacca
ngừng hoạt động vì lý do gì đó. Tuy nhiên, nếu phải vận chuyển qua các eo biển này
thì hàng hố giữa Ấn Độ Dương sang ASEAN và Bắc Á sẽ chịu cước phí cao hơn vì
qng đường dài hơn. Điểm trọng yếu thứ hai là vùng Biển Đơng, nơi có nhiều tuyến
đường hàng hải đi qua, đặc biệt là khu vực xung quanh hai quần đảo Hồng Sa và

Trường Sa.
Các tuyến đường biển chiến lược nói trên là yết hầu cho giao lưu hàng hoá
của nhiều nước Châu Á. Xuất khẩu hàng hoá của Nhật Bản phải đi qua khu vực này
chiếm 42%, các nước Đông Nam Á 55%, các nước công nghiệp mới 26%, Australia
40% và Trung Quốc 22% (trị giá khoảng 31 tỷ đô la). Nếu khủng hoảng nổ ra ở vùng
biển này, các loại tàu biển phải chạy theo đường mới hoặc vòng qua Nam Australia
thì cước phí vận tải thậm chí sẽ tăng gấp năm lần và khơng cịn đủ sức cạnh tranh
trên thị trường thế giới.
Ngoài ra, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có vị trí chiến lược, có thể
dùng để kiểm soát các tuyến hàng hải qua lại Biển Đơng và dùng cho mục đích qn
sự như đặt trạm ra đa, các trạm thông tin, xây dựng các trạm dừng chân và tiếp nhiên
liệu cho tàu bè... Các nhà chiến lược phương Tây cho rằng quốc gia nào kiểm soát
được quần đảo Trường Sa sẽ khống chế được cả Biển Đông.

6


2. Biên niên vấn đề tranh chấp Biển Đông (1816 - 2009).
Thời gian

Sự kiện

…..

….

1816

Hoàng đế Gia Long Triều Nguyễn tuyên bố chủ quyền với Hoàng
Sa năm 1816 sau khi triều đại này thành lập năm 1802. Năm

1816, Hoàng đế đã thân chinh tới đây long trọng cắm cờ chiếm
hữu các đảo đá này.

1835

Vua Minh Mạng phái một đoàn thám hiểm tới Hoàng Sa để đánh
dấu chủ quyền.

1936

Vua Minh Mạng ra chiếu chỉ lệnh cho thủy quân và đội Hoàng Sa
tới các đảo Hồng Sa để ghi lại lộ trình.

1867

Năm Tự Đức thứ 20, nhà vua tôn vinh các thủy binh đã tử vong
trong quá trình ra các đảo.

1884

Nhà Nguyễn ký với Pháp Hiệp ước chính thức biến Việt Nam
thành thuộc địa của Pháp.

3/1909

Chính quyền Quảng Đơng Trung Quốc đã cử một đội khảo sát và
tháng 6/1909 đã cử Đô Đốc Lý Chuẩn tới Hoàng Sa.

1930


Pháp tuyên bố chủ quyền đối với Hoàng Sa của An Nam, và chủ
quyền đối với Trường Sa cho Pháp.

1933

Pháp tuyên bố chính thức về việc chiếm cứ một số đảo thuộc
quần đảo Trường Sa, trong đó bao gồm đảo Trường Sa, Ba Bình,
Thị Tứ và Loại Ta.

1938

Pháp thiết lập sự hiện diện thường xuyên ở Hoàng Sa. Một phân
đội cảnh sát người Việt đã được gửi đến đồn trú thường xuyên ở
đây.

1939

Sau khi chiếm hầu hết các tỉnh ven biển Trung Quốc và đảo Hải
Nam, Nhật Bản đã đổ bộ lên Trường Sa. Nhật Bản tun bố chủ
quyền chính thức ở quần đảo Hồng Sa và coi đây là một vùng
của đế chế Nhật Bản.

1940

Nhật đã xây dựng các căn cứ tàu ngầm trên đảo Ba Bình và
Trường Sa, và một đường bay trên Ba Bình (thuộc quần đảo
Trường Sa).

1945


Chiến tranh thế giới thứ II kết thúc, Nhật đã rút khỏi hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa và đặt các đảo vào tình trạng “khơng có
7


người ở” một lần nữa.
1946

Pháp gửi đoàn thám sát lại Hoàng Sa và Trường Sa, trong khi
nhắc lại yêu sách của của An Nam (Việt Nam) đối với Hoàng Sa
và của Pháp đối với Trường Sa, nhưng không lưu lại quân đồn
trú. Cùng thời gian này, Trung Hoa Dân Quốc của Tưởng Giới
Thạch cũng gửi các đoàn khảo sát đến hai quần đảo, và đã đánh
dấu chủ quyền và thành lập sự hiện diện trên đảo Phú Lâm ( ở
phía Đơng của quần đảo Hồng Sa) và Ba Bình (Trường Sa).

07/1/1947

Bộ Ngoại Giao Trung Hoa Dân Quốc tuyên bố chính phủ Trung
Quốc đã lấy lại các đảo Hoàng Sa và khơi phục lại chủ quyền của
họ trên các đảo này.

1948

Chính quyền Trung Hoa Dân Quốc ban bố bản đồ với “Đường
Lưỡi Bị” bao gần hết Biển Đơng.

1949

Phe Cộng sản thắng ở Trung Quốc lục địa, thành lập nước Cộng

Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Chính quyền Trung Hoa Dân Quốc
chạy sang Đài Loan, tàn quân bị rượt đuổi từ Hải Nam, nên buộc
phải rút quân ở Phú Lâm (Hoàng Sa) vào tháng 4 năm 1950 và
Ba Bình (Trường Sa) vào tháng 5 năm 1950.

15/8/1951

Trung Quốc nêu lập trường về vấn đề hải đảo của mình thơng qua
‘Tun bố về Dự thảo Hiệp ước Hịa Bình với Nhật Bản và Hội
nghị San Francisco của Mỹ và Anh’ của Thủ tướng Chu Ân Lai:
‘Quần đảo Tây Sa và Nam Sa, giống như Đông Sa và Trung Sa,
luôn thuộc lãnh thổ Trung Quốc.’

6/9/1951

Đại diện của Việt Nam Quốc gia dự hội nghị San Fransisco.
Trong phát biểu tại Hội nghị, đoàn Việt Nam khẳng định chủ
quyền tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

1951

Nhật Bản ký kết Hiệp ước Hịa bình với Đồng minh, theo đó Nhật
chính thức đồng ý từ bỏ các quyền, danh nghĩa và yêu sách đối
với một số vùng lãnh thổ, trong đó bao gồm cả Hồng Sa và
Trường Sa, tuy nhiên hiệp ước không nêu ai sẽ được nhượng lại
các quần đảo này.

1952

Hiệp ước Hịa bình Trung-Nhật đã được ký kết tại Đài Loan giữa

Đài Loan và Nhật Bản trong đó có nội dung Nhật Bản từ bỏ mọi
quyền, danh nghĩa và yêu sách đối với các đảo Hoàng Sa và
Trường Sa.

3/1956

Một người Philippin là Thomas Cloma cùng những người đồng
hành đổ bộ lên một số đảo của Trường Sa và đã yêu sách chiếm
hữu 33 đảo và bãi trong một vùng biển rộng 65000 hải lý vuông,
8


và đặt tên vùng này là Kalayaan (tiếng Anh là Freedomland).
1956

Khi Pháp rút khỏi Đơng Dương Chính quyền Việt Nam Cộng
Hịa của Ngơ Đình Diệm đưa qn ra thay thế qn Pháp trên
các đảo thuộc nhóm phía Tây của quần đảo Hồng Sa và đổ bộ
lên đảo chính của quần đảo Trường Sa đặt các cột mốc và kéo cờ
của Việt Nam Cộng Hịa.

14/9/1958

Cơng hàm của Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn
Đồng về tuyên bố của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ấn định
chiều rộng lãnh hải Trung Quốc 12 hải lý.

1971

Đài Loan quay lại Trường Sa và thiết lập sự có mặt liên tục trên

đảo Ba Bình. Philippine tiến hành chiếm đóng một số đảo thuộc
quần đảo Trường Sa.

1971

Sau khi Đài Loan bắn vào một tàu đánh cá của Philippines,
Philippines đòi Đài Loan rút khỏi đảo Ba Bình và cho qn chiếm
đóng các đảo Vĩnh Viễn, Song Tử Đông, Loại Tá và Thị Tứ.

1971

Philippines ra tun bố chính thức u sách 53 đảo, theo đó,
Philippines coi những đảo này là vơ chủ, và họ có thể tự do chiếm
hữu theo các hình thức thụ đắc lãnh thổ phù hợp với các quy định
của luật pháp quốc tế là chiếm đóng và quản lý hiệu quả.

1973

Việt Nam Cộng Hòa sát nhập quần đảo Trường Sa vào xã Phước
Hải, quận Đất Đỏ, tỉnh Phước Tuy.

15-20/1/1974 Trung Quốc dùng khơng qn và hải qn đánh chiếm nhóm phía
Tây của quần đảo Hồng Sa do Việt Nam Cộng hịa chiếm đóng.
Kể từ đây, Trung Quốc chiếm trọn Hồng Sa.
1974

Tại hội nghị Luật biển lần thứ 3, kỳ 2 tại Caracas, đại biểu của
chính phủ Việt Nam Cộng hịa tố cáo Trung Quốc chiếm đóng
quần đảo Hồng Sa bằng vũ lực, và khẳng định Hoàng Sa và
Trường Sa là lãnh thổ của Việt Nam


14/3/1975

Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa đã sách trắng về hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa, lên án mạnh mẽ Trung Quốc dùng vũ
lực cướp đoạt quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam và tỏ rõ quyết
tâm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ trên hai quần đảo.

1975

Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam tiếp quản
Trường Sa, khẳng định chủ quyền của Việt Nam với hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa và tun bố giành cho mình quyền bảo
vệ chủ quyền đó.

11/11/1975

Bộ Ngoại giao Việt Nam DCCH gửi công hàm cho Bộ Ngoại
9


giao Trung Quốc khẳng định chủ quyền Việt Nam trên hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
02/7/1976

Nước CHXHCN Việt Nam chính thức ra đời và đã kế thừa yêu
sách chủ quyền của chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam
Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, và thực
tế đã tiếp tục kiểm soát Trường Sa.


1976

Việt Nam công bố bản đồ của nước Việt Nam thống nhất, bao
gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

12/ 5/ 1977

Việt Nam ra Tuyên bố thứ nhất về đường cơ sở để xác lập vùng
lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm
lục địa.

1978

Philippines ban hành Nghị định 1599 của Tổng thống trong đó có
sử dụng tên bằng tiếng Philippines Kalayaan để gọi quần đảo
Trường Sa và khẳng định quần đảo Trường Sa về mặt pháp lý
không thuộc bất kỳ quốc gia nào, nhưng do yếu tố kế cận, tầm
quan trọng sống còn về an ninh, nhu cầu thiết yếu, sự chiếm đóng
và kiểm soát hữu hiệu nên nay Philippines đã thiết lập chủ quyền
hợp pháp với quần đảo này.

17/2/1979

Bắt đầu chiến tranh biên giới Trung-Việt

3/1979

Bộ Ngoại giao Việt Nam đã công bố Bị vong lục về vấn đề biên
giới Việt – Trung, trong đó có điểm 9 tố cáo Trung Quốc đánh
chiếm trái phép quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam vào ngày 19 và

20 tháng 1 năm 1974.

30/7/1979

Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã công bố sách trắng xuyên tạc một
số tài liệu có liên quan đến hai quần đảo Hồng Sa và Trường Sa
để chứng minh rằng Việt Nam đã thừa nhận chủ quyền của Trung
Quốc với hai quần đảo này.

28/9/1979

Bộ Ngoại giao Việt Nam công bố Sách trắng về chủ quyền của
Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, giới
thiệu thêm 19 tư liệu liên quan đến chủ quyền của Việt Nam với
hai quần đảo.

1979

Malaysia xuất bản bản đồ vùng thềm lục địa, trong đó bao gồm 3
đảo của quần đảo Trường Sa.
Anh thay mặt cho Bruney ra tuyên bố phản đối việc Malaysia đưa
đảo Louisa vào bản đồ thềm lục địa.

1980

Trung Quốc công bố sách trắng lần thứ hai tuyên bố chủ quyền
với quần đảo Tây Sa và Nam Sa, trong đó và thay đổi lập luận
10



cho cho rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam
chỉ là những đảo ven bờ của Việt Nam, không phải là Tây Sa và
Nam Sa của Trung Quốc.
7/1980

Tại kỳ họp lần thứ 26 Hội Địa chất quốc tế ở Paris đoàn đại biểu
Trung Quốc báo cáo và cho lưu hành tài liệu địa chất về các bể
dầu khí trong đó có đoạn nói quần đảo Hồng Sa và Trường Sa là
phần kéo dài của lục địa Trung Quốc.

12/11/1982

Việt Nam ra Tuyên bố về đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh
hải.

1982

Tổng tham mưu trưởng Quân giải phóng Trung quốc Dương Đắc
Chí thị sát Hồng Sa và Trường Sa.

12/1982

Việt Nam ban hành quyết định thành lập Trường Sa và Hoàng Sa
là hai huyện đảo riêng biệt trực thuộc tỉnh Phú Khánh và Quảng
Nam – Đà Nẵng.

1982

Đài Loan cơng khai quyết định đặt quần đảo Hồng Sa và Trường
Sa thuộc quyền tài phán của mình. Đồng thời, Chính quyền thành

phố Cao Hùng thông qua kế hoạch 3 năm xây dựng các cảng và
định cư tại đảo Ba Bình.

1982

Ký kết Công ước của LHQ về luật biển, đã được ký kết được coi
là một bản Hiến pháp quốc tế về biển, có bởi nội dung đồ sộ và
tồn diện, bao gồm phản ánh qua 320 điều, 17 phần và 9 phụ lục
và chính thức có hiệu lực vào ngày 16/11/1994

1/1983

Tại hội nghị lần thứ hai về Hàng không khu vực châu Á- Thái
Bình Dương, Trung Quốc đưa ra hai tấm bản đồ vẽ đường biên
giới trên biển bao quanh gần hết Biển Đông.

4/1983

Ủy ban địa danh của Trung Quốc đã đặt tên cho các đảo, bãi, đá
trong Biển Đông và đưa ra yêu sách đổi tên tiếng Anh của hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thành Tây Sa và Nam Sa.

1983

Malaysia chiếm đóng và chính thức tun bố chủ quyền đối với
đảo Hoa Lau của quần đảo Trường Sa. Tuyên bố này nói rằng đảo
Hoa Lau từ lâu đã là một bộ phận của lãnh thổ Malaysia.

6/1984


Hội nghị lần thứ 2 của Quốc vụ viện Trung Quốc khóa 6 đã phê
chuẩn việc thành lập khu hành chính Hải Nam bao gồm cả hai
quần đảo Tây Sa và Nam Sa (tức là quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa) của Việt Nam) đều thuộc tỉnh Quảng Đông của Trung
11


Quốc.
4/1985

Đại tướng Văn Tiến Dũng, Bộ trưởng Bộ quốc phòng Việt Nam
đã thăm quần đảo Trường Sa.

1987

Tổng bí thư Đảng cộng sản Trung Quốc Hồ Diệu Bang tiếp tục có
chuyến thị sát Hoàng Sa

1987

Bruney xuất bản một bản đồ để xác định ranh giới của vùng đánh
cá và thềm lục địa trong đó có đảo Louisa thuộc quần đảo Trường
Sa.

12/1987

Malaysia chiếm đóng thêm hai đảo là Kỳ Vân và Kiệu Ngựa
thuộc quần đảo Trường Sa.

1988


Thứ trưởng Bộ ngoại giao Malaysia ra tuyên bố rằng các đảo Hoa
Lau, Kỳ Vân, Kiệu Ngựa và Louisa nằm trên thềm lục địa của
Malaysia nên thuộc Malaysia.

14/3/1988

Trung Quốc đã đánh chìm 2 tàu lớn của hải quân Việt Nam, bắn
hỏng một tàu khác, làm chết và bị thương 20 người, mất tích 74
người. Chiến dịch này kéo dài đến ngày 6/4/1988 đã kết thúc với
việc Trung quốc chiếm 6 nhóm đảo và đá ngầm gồm Đá Chữ
Thập, Đá Châu Viên, Đá Ga Ven, Đá Tư Nghĩa, Đá Gạc Ma, Đá
Xubi.

3/4/1988

Tỉnh Phú Khánh và Bộ Tư Lệnh Hải Quân thay mặt cả nước đã
làm lễ truy điệu các chiến sĩ hải quân đã hy sinh trong sự kiện
ngày 14/3/1988.

3/1/1989

Trung Quốc đặt bia chủ quyền trên các đảo và bãi đá đã chiếm
được của Việt Nam tại quần đảo Trường Sa.

28/4/1989

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc tuyên bố lên án Việt
Nam xâm phạm trái phép một số “bãi Vạn An và bãi Nhã thuộc
quần đảo Nam Sa” ( cụm KT – KH – DV Vũng Tàu – Côn Đảo

của Việt Nam.)

1990

Tại Hội nghị Thành Đô, lãnh đạo hai nước Việt-Trung đã quyết
định bình thường hố quan hệ hai nước sau hơn 10 năm biến cố.

1990

Phát biểu trong chuyến thăm Xin-ga-po và Phi-líp-pin, Thủ tướng
Trung Quốc Lý Bằng lần đầu tiên chính thức đề xuất chủ trương
“gác tranh chấp, cùng khai thác phát triển quần đảo Nam Sa
(Trường Sa), thông qua hiệp thương hữu nghị giải quyết vấn đề
đảo Nam Sa vào lúc thích hợp”

25/2/1992

Quốc vụ viện Trung Quốc thông qua “Luật Lãnh hải và vùng tiếp
12


giáp” quy định lãnh hải rộng 12 hải lý, áp dụng cho cả bốn quần
đảo ở Biển Đơng trong đó có quần đảo Tây Sa (Hồng Sa) và
Nam Sa (Trường Sa).
8/5/1992

Trung Quốc ký hợp đồng khai thác dầu khí với công ty năng
lượng Crestone của Mỹ, cho phép công ty này thăm dị khai thác
dầu khí một lơ 225.255 km2 trong khu vực Trung Quốc gọi là
Vạn An Bắc 21(Vanguard Bank) nằm trên-được coi là thềm lục

địa của Việt Nam, nằm ở phía Tây Nam của quần đảo Trường Sa,
cách đảo Hải nam Trung Quốc hơn 600 dặm về phía nam.

16/5/1992

Bộ Ngoại giao Việt Nam đã gửi công hàm cho Trung Quốc phản
đối việc ký kết trên vì khu vực này nằm trong thềm lục địa của
Việt Nam (bãi Tư Chính), u cầu buộc cơng ty Crestone này
phải ngừng lại ngay các hoạt động thăm dò tại đây.

22/7/1992

ASEAN ra Tuyên bố ASEAN về Biển Đông, kêu gọi các bên giải
quyết bất đồng về chủ quyền và tài phán thông qua các biện pháp
hịa bình

7/1992

Việt Nam tham gia vào Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ASEAN
(TAC)

9/1992

Trung Quốc khoan thăm dò tìm dầu ở vùng biển Vịnh Bắc Bộ
thuộc phía Việt Nam.

1993

Brunei ra Tuyên bố về ranh giới thềm lục địa có một phần liên
quan đến vùng biển của quần đảo Trường Sa nhưng không yêu

sách chủ quyền đối với bất kỳ một đảo, đá, bãi nào của quần đảo.

5/1993

Tàu Trung Quốc cùng cơng ty BP tiến hành thăm dị khai thác ở
vùng biển thuộc Việt Nam.

12/1993

Việt Nam yêu cầu công ty Mỹ Crestone huỷ bỏ việc thăm dò khai
thác dầu ở vùng biển thuộc Việt Nam

4/1994

Việt Nam ký hợp đồng với cơng ty dầu khí Mobil oil của Mỹ
thăm dị khai thác dầu khí ở khu vực Thanh Long

12/5/1994

Bộ Ngoại giao Trung Quốc phản đối Việt Nam cho phép công ty
dầu khí Mobil-oil thăm dị khai thác ở khu vực Thanh Long là
vùng biển phụ cận của quần đảo Nam Sa (Trường Sa) của Trung
Quốc.

8/1994

Công ty Crestone cùng với công ty Trung Quốc khai thác bãi Vạn
An Bắc 21 (lô 133, 134, 135). Trung Quốc đề nghị chia phần cho
phía Việt Nam, cho rằng chủ quyền thuộc về Trung Quốc. Tàu
thuyền có trang bị súng của Việt Nam buộc tàu khai thác Trung

13


Quốc rời khỏi giếng dầu khỏi địa phận Việt Nam.
1995

Trung Quốc xây dựng cơng trình trên dải ngầm Vành Khăn, căng
thẳng Trung-Phi

7/1995

Việt Nam gia nhập ASEAN

8/1995

Trung Quốc và Philippin ký kết bộ quy tắc ứng xử [code of
conduct] gồm 8 nguyên tắc với mục đích tránh những sự vụ tiếp
theo trên Biển Đông và tăng cường hợp tác trên biển.

19/10/1995

Trung Quốc phản đối Việt Nam thăm dò địa chấn trong Vịnh Bắc
Bộ.

15/12/1995

Trung Quốc đưa dàn khoan Nam Hải-02 vào Vịnh Bắc Bộ, cách
đường trung tuyến 5-6 hải lý về phía Việt nam.

10/3/1996


Trung Quốc đưa dàn khoan Nam Hải-06 hoạt động ở Vịnh Bắc
Bộ, vào sâu trong vùng biển của Việt nam 3 hải lý.

10/4/1996

PetroVietnam và công ty Conoco (Mỹ) ký hợp đồng th khai
thác, địi cơng ty đã ký hợp đồng khai thác với công ty Trung
Quốc ngừng hoạt động.

15/5/1996

Uỷ ban thường vụ quốc hội Trung Quốc khoá VIII phê chuẩn
cơng ước luật biển 1982. Cùng ngày, chính phủ Trung Quốc
tuyên bố một phần đường cơ sở của Trung quốc lục địa và đường
cơ sở thẳng của quần đảo Hoàng Sa.

1996

Đụng độ giữa tàu chiến Trung Quốc và tàu của hải quân Phi-líppin ở Trường Sa và gần bãi cạn Scarborough (Hoàng Nham), hải
quân Philippin đã bắt giữ tàu cá và tàu nghiên cứu hải dương của
Trung Quốc, bắt giữ ngư dân và “nhà nghiên cứu” Trung Quốc,
bắn súng cảnh cáo và bắn hạ các cột mốc lãnh thổ do Trung Quốc
dựng lên.

12/1997

Việt Nam phản đối tàu khai thác số 8 và hai tàu hộ vệ 615 và 616
của Trung Quốc thăm dị khảo sát dầu khí cách phía Tây bãi Phúc
Tần 15 hải lý thuộc khu vực DK-1, bãi Tư Chính của Việt Nam.

Tàu hải quân Việt Nam phải áp tải buộc các tàu này ra ngoài.

6/4/1998

Tàu Hải dương 4 của Trung Quốc tiến hành thăm dị ở phía Nam
Hoàng Sa cách đường cơ sở của Việt Nam 155 hải lý.

4/1998

Hai tàu chiến của Trung Quốc số 772 và 697 đi sâu vào vùng biển
của Việt nam ở Vịnh Bắc Bộ cản trở hoạt động của tàu khảo sát
địa chấn GECOECHO của Việt Nam.

9/1998

Việt Nam phản đối sau khi Trung Quốc tuyên bố công ty
14


Crestone và Trung Quốc tiếp tục thăm dò ở các đảo Trường Sa.
10/1998

Căng thẳng Trung - Phi tái diễn liên quan đến việc Trung Quốc
củng cố cơng trình trên dải Vành Khăn

1998

Philippin và Mỹ ký Hiệp định về thăm viếng quân sự (Visiting
Forces Agreement).


1998

Cả Trung Quốc và Đài Loan đều công bố Luật về vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa. Theo đó, một lần nữa chính thức thể hiện
quan điểm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đều có vùng
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng mà họ thường gọi là
“vùng nước phụ cận”.

Từ năm 1999 Trung Quốc hàng năm đơn phương ra lệnh cấm đánh bắt cá trong
phạm vi từ vĩ tuyến 12 độ Bắc trở lên trong thời gian 03 tháng.
đến nay
12/1999

Ký kết Hiệp định phân định biên giới trên bộ giữa Việt Nam và
Trung Quốc.

12/2000

Việt Nam và Trung Quốc ra “Tuyên bố chung về hợp tác toàn
diện trong thế kỷ mới giữa hai nước” và ký Hiệp định phân định
Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá trong Vịnh Bắc Bộ

4/11/2002

ASEAN và Trung Quốc ký Tuyên bố về ứng xử của các bên ở
Biển Đông (DOC) trong khuôn khổ của cuộc họp cấp cao
ASEAN 8 tại Phnompenh (Căm-pu-chia)

5/11/2002


Ký kết Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện giữa Trung
Quốc và ASEAN, tại Phnom Penh.

2003

Trung Quốc tham gia Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác (TAC)

5/2003

Tranh chấp giữa Ma-lai-xi-a và Bru-nêi ở ngoài khơi Bắc Borneo.

9/2004

Trung Quốc thuyết phục Philíppin để hai cơng ty dầu lửa quốc
gia CNOOC và PNOC ký Thỏa thuận thăm dò địa chấn Trường
Sa trong chuyến thăm Trung Quốc của Tổng thống Philíppin.
Việt Nam phản đối Thỏa thuận này.

14/3/2005

Ký kết “Thoả thuận ba bên về tiến hành thăm dò địa chấn biển
chung trong khu vực xác định tại Biển Đông” giữa ba Công ty
dầu khí quốc gia (CNOOC của Trung Quốc, PetroVietnam và
PNOC của Philíppin). Thời hạn của Thoả thuận là ba năm.

20/10/2007

Cơng ty ARCO của Mỹ và cơng ty dầu khí ngồi khơi của Trung
Quốc (CNOOC) ký hợp đồng khai thác dầu khí tại khu vực Tây
Nam đảo Hải Nam 100 km, trong đó có một phần diện tích lấn

15


sang vùng biển của Việt Nam thuộc lô 111 và 113.
Cuối
2007

năm Quốc Vụ Viện Trung Quốc phê chuẩn việc thành lập thành phố
hành chính cấp huyện Tam Sa thuộc tỉnh Hải Nam trực tiếp quản
lý 03 quần đảo trong đó có hai quần đảo Hồng Sa và Trường Sa.
Hành động này dẫn đến các cuộc biểu tình phản đối Trung Quốc
ở Việt Nam.
Bộ Ngoại giao Việt Nam chính thức phản đối việc làm của Trung
quốc thông qua người phát ngôn.

2/2/2008

Tổng thống Đài Loan Trần Thủy Biển đã bay đi thăm đảo Ba
Bình thuộc quần đảo Trường Sa. Việt Nam và Philippin phản đối

20/7/2008

Báo South China Morning Post (Hồng Kông) đưa tin giới ngoại
giao Trung Quốc tại Mỹ đã liên tiếp phản đối ban lãnh đạo của
công ty ExxonMobil, đồng thời đe dọa rằng công việc kinh doanh
của công ty này tại Trung Quốc Đại Lục có thể gặp trở ngại trong
tương lai nếu ExxonMobil hợp tác với PetroVietnam trong việc
thăm dị và khai thác dầu khí ở khu vực ngồi khơi miền Trung
và miền Nam Việt Nam.


8/2008

Phó Thủ tướng Malaysia Najib Tun Razak ra đảo Hoa Lau để thị
sát tình hình và tái khẳng định chủ quyền của Malaysia đối với
đảo này và 4 đảo khác.

2008

Những bức ảnh trên vệ tinh thương mại khẳng định rằng Trung
Quốc đang xây dựng một căn cứ tàu ngầm lớn ở Tam Á, thuộc
đảo Hải Nam.

24/11/2008

Theo hãng tin Bloomberg, Tập đoàn dầu khí Trung Quốc
CNOOC Ltd công bố dự án gần 30 tỷ đôla để khoan tìm dầu khí
trong các khu vực nước sâu tại Biển Đông.

20/3/2009

Công ty British Petroleum (BP) của Anh tuyên bố rút khỏi dự án
dầu khí ở lơ số 05.2 và 05.3 thuộc bồn trũng Cơn Sơn ngồi khơi
Việt Nam.

5/3/09

Thủ tướng Malaysia Abdullah Ahmad Badawi đi thăm và kiểm
tra đảo Hoa Lau mà Malaysia gọi là đảo Layang Layang thuộc
quần đảo Trường Sa


3/2009

Va chạm giữa giữa tàu tuần tra USNS Impeccable của Mỹ và năm
tàu treo cờ Trung Quốc cách đảo Hải Nam 75 dặm.

16


10/3/2009

Tổng thống Phi-líp-pin Arroyo đã ký ban hành Luật Cộng hòa số
9522 về đường cơ sở mới (đường cơ sở cũ năm 1968), qua đó
quản lý quần đảo Trường Sa và bãi cạn Hoàng Nham theo “quy
chế đảo”. Trung quốc, Đài loan, Việt nam phản đối.

6/5/2009

Malaysia và Việt Nam nộp bản báo cáo chung đăng ký thềm lục
địa mở rộng khu vực phía nam Biển Đơng lên Ủy ban ranh giới
thềm lục địa Liên hợp quốc (CLCS).
Trung Quốc gửi công hàm lên Tổng thư ký Liên hợp quốc phản
đối, trong đó đính kèm bản đồ “đường lưỡi bị”. Việt Nam phản
đối công hàm của Trung Quốc.

7/5/2009

Việt Nam nộp báo cáo đăng ký thềm lục địa mở rộng khu vực
phía bắc nộp lên Ủy ban ranh giới thềm lục địa Liên hợp quốc
(CLCS).
Trung Quốc gửi công hàm lên Tổng thư ký Liên hợp quốc phản

đối, trong đó đính kèm bản đồ “đường lưỡi bị”. Việt nam phản
đối cơng hàm của Trung Quốc.

4/8/2009

Philippin chính thức gửi cơng hàm lên Tổng thư ký Liên hợp
quốc phản đối báo cáo về thềm lục địa mở rộng của Việt nam khu
vực phía bắc và báo cáo chung Việt Nam, Malaysia khu vực phía
nam.
Việt Nam và Malaysia phản đối công hàm của Philippin.

14/8/2009

Đại sứ Trung Quốc tại Philippines, Lưu Kiến Siêu đã tuyên bố
rằng, Trung Quốc phản đối những kế hoạch khai thác dầu khí của
Philippines ở Bãi Cỏ Rong trên Biển Đông và cho rằng hành
động này là vi phạm chủ quyền của Trung Quốc. Bãi Cỏ Rong,
thuộc quần đảo Trường Sa, nằm cách đảo Palawan khoảng 60
dặm (100 km) về phía tây.

10/2009

Dưới sức ép của Trung Quốc, tranh chấp Biển Đông không được
thảo luận tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN-Trung Quốc lần thứ
12 tại Cha-am, Thái Lan.

…..

….


3. Triển vọng về giải quyết vấn đề tranh chấp Biển Đông.

17


Nhìn chung các tranh chấp Biển Đơng thường phản ánh bầu khơng khí quan
hệ khu vực. Sự ấm lên của các mối quan hệ Trung Quốc – Đông Nam Á vào đầu
những năm 2000 đã tạo được tiến bộ trong vấn đề quản lý xung đột. Việc ký kết
Tuyên bố về Cách ứng xử của các bên ở Biển Đông đã cho thấy mong muốn của các
bên liên quan là theo đuổi u sách của mình bằng biện pháp hịa bình. Tun bố đã
cơng khai lên án việc sử dụng vũ lực ở Biển Đơng và đã góp phần làm giảm căng
thẳng giữa các quốc gia yêu sách. Tuyên bố cũng được xem như một tín hiệu rằng
Trung Quốc sẵn sàng tôn trọng các nguyên tắc và chuẩn mực của ASEAN trong
Hiệp định Hợp tác Thân thiện (TAC) và cùng tồn tại hịa bình với các quốc gia láng
giềng Đơng Nam Á. Quan điểm hòa giải này được thể hiện rõ hơn khi Trung Quốc là
quốc gia không phải thành viên ASEAN đầu tiên ký TAC vào năm 2003. Cuối cùng,
tuyên bố 2002 được công nhận là một “diễn tiến quan trọng” bởi vì nó ràng buộc
các bên ký kết thực hiện các hoạt động hợp tác và làm tăng khả năng đạt được các
thỏa thuận về kế hoạch thăm dị và khai thác dầu khí chung. Ví dụ, tổng thống Philip-pin Gloria Arroyo tuyên bố rằng thỏa thuận do các tập đồn dầu khí nhà nước của
Trung Quốc, Việt Nam, Phi-lip-pin ký năm 2005 để tiến hành các cuộc thăm dò khảo
sát ở Trường Sa là sự thi hành đầu tiên những điều khoản trong tuyên bố 2002.
Tuy nhiên, tuyên bố chỉ là một bước nhỏ trong mục tiêu ban đầu để tiến tới
một bộ quy tắc ứng xử chi tiết và mang tính ràng buộc cho Biển Đơng. Vẫn cịn
nhiều hồi nghi về khả năng tun bố có thể tạo ra một khuôn khổ cho việc quản lý
xung đột, nhất là xét việc thiếu các cơ chế ngăn chặn và giải quyết những nguyên
nhân có thể gây xung đột của tuyên bố này. Là một tuyên bố chính trị hơn là một
hiệp định và chỉ dựa vào sự đồng thuận và mẫu thức chung thấp nhất, thỏa thuận này
vừa không chặt chẽ về mặt pháp lý vừa không mang tính ràng buộc. Hơn nữa tuyên
bố tránh giải quyết vấn đề chủ quyền, vì tất cả các bên tranh chấp đều khư khư
những yêu sách lãnh thổ của mình. Việc thơng qua văn kiện cũng địi hỏi những sự

nhượng bộ lớn và giảm bớt nội dung của tuyên bố bao gồm việc không đề cập đến
phạm vi địa lý cụ thể của tuyên bố.
18


Chưa có tiến bộ đáng kể nào hướng đến quản lý xung đột được tiến hành kể từ
năm 2002. Thất bại trong thực hiện tuyên bố và tiến tới phát triển thành một bộ quy
tắc ứng xử là hệ quả của một vài nhân tố. Bắc Kinh dường như chỉ chuẩn bị ủng hộ
một bộ quy tắc ứng đa phương khơng mang tính ràng buộc mà chỉ giới hạn liên quan
đến Quần đảo Trường Sa và tập trung vào đối thoại và duy trì sự ổn định khu vực
hơn là vấn đề quyền tài phán. Các quốc gia yêu sách Đông Nam Á đều không muốn
nhượng bộ những yêu sách lãnh thổ của họ. Sự thiếu đồng thuận giữa các quốc gia
ASEAN trong vấn đề Biển Đơng cũng có liên quan. Các thành viên có những mối
quan hệ khác nhau với Trung Quốc và quan điểm trái ngược nhau về mối đe dọa
tiềm tàng Trung Quốc. Thêm vào đó, một số thành viên có các yêu sách xung đột
ở Trường Sa, trong khi các thành viên khác không liên quan đến vấn đề chủ quyền.
Những nguyên nhân gây chia rẽ này đã khiến cho việc đạt đến một quan điểm tập thể
trở lên phức tạp và làm ASEAN yếu đi trong đàm phán với Bắc Kinh.
Sự không cân đối về sức mạnh ngày càng tăng ở Biển Đông do sức mạnh hải
quân ngày một phát triển của Trung Quốc đã gây thêm nghi ngờ về khả năng quản lý
tranh chấp của ASEAN. Ngày càng có nhiều tranh luận về việc liệu cách tiếp cận của
ASEAN đối với quản lý xung đột ở Biển Đơng có thể giảm bớt sự phân bổ sức mạnh
không đều này hay không. Sự phân bố sức mạnh đang thay đổi chưa được theo kịp
bằng tiến triển hơn nữa trong việc thực hiện các cơ chế quản lý xung đột. Thay vào
đó, từ năm 2006 tình hình ở đây đã leo thang cao hơn và Trung Quốc đã cương quyết
hơn trong việc đẩy mạnh những yêu sách lãnh thổ. Cần phải nhấn mạnh rằng không
chỉ Bắc Kinh chịu trách nhiệm trong việc gia tăng căng thẳng ở Biển Đông. Những
hành động của các bên yêu sách khác cũng đã gây bất lợi cho việc quản lý tình hình.
Vấn đề lãnh thổ đã leo thang nhiều hơn do các đệ trình yêu sách của Phi-lippin, Ma-lai-xi-a và Việt Nam lên Uỷ ban Ranh giới Thềm lục địa của Liên Hợp
Quốc (United Nations Commission on the Limits of the Continential Shelf). Các

quốc gia tham gia Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển (UNCLOS) trước năm
1999 đã phải đệ trình trước ngày 13 tháng 5 năm 2009 yêu sách bổ xung của mình về
19


những quyền kinh tế khi thềm lục địa của họ kéo dài hơn 200 hải lý tính từ đường cơ
sở. Trung Quốc đã phản ứng giận giữ và gọi đệ trình này là những yêu sách mới vi
phạm quyền tài phán và quyền chủ quyền của nước này ở Biển Đơng. Trong khi
phản ứng của Trung Quốc là có thể đốn trước vì những u sách mới chồng lấn với
u sách của quốc gia này, cần phải nhấn mạnh rằng Bắc Kinh đã đưa bản đồ đường
đứt đoạn chữ U vào trong công hàm phản đối của nước này, do đó khơi lại những
mối ngờ vực trước đây tại Hà Nội, Kua la Lumpur và Manila. Bắc Kinh cũng mới
lập ra Vụ Các vấn đề Biên giới và Đại dương và tăng cường các khả năng tuần tra để
cố gắng khẳng định chủ quyền của quốc gia này ở Biển Đông.
Cuối cùng, cạnh tranh Trung - Mỹ gia tăng trên biển đã làm phức tạp thêm
việc quản lý một cách hịa bình những tranh chấp ở Biển Đơng. Vụ việc hải quân
Trung Quốc và các tàu tuần tra dân sự ở phía nam đảo Hải Nam sách nhiễu tàu do
thám Mỹ USNS Impecable, vào tháng 3 năm 2009 đã gây thêm lo ngại cho một số
quốc gia Đông Nam Á. Trong khi Bắc Kinh tuyên bố rằng tàu Impecable đã liên
quan đến các “hoạt động trái phép” trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia này,
vụ việc cũng đã được xem như một ví dụ về sự cương quyết của Trung Quốc ở Biển
Đông. Ngoại trưởng Mỹ, Hillary Clinton, đã phản đối Trung Quốc về vấn đề Biển
Đông và tun bố vùng biển này có lợi ích quốc gia của Mỹ tại cuộc họp ARF vào
tháng 7 tại Hà Nội,, động thái được xem là nguyên nhân khiến Bắc Kinh quan ngại.
Ở Đông Nam Á, người ta lo ngại rằng cạnh tranh Trung – Mỹ ngày càng tăng có thể
dẫn đến chính sách ngoại giao và hoạt động hải qn cứng rắn của Trung Quốc ở
Biển Đơng. Do đó không không ngạc nhiên khi các lãnh đạo ASEAN đã yêu cầu
không đưa vấn đề Biển Đông vào thông cáo cuối cùng trong buổi bế mạc hội nghị
cấp cao (ASEAN - Mỹ) lần thứ hai với tổng thống Mỹ Barrack Obama vào tháng 9
năm 2010.

Căn cứ vào sự phức tạp của những yêu sách, các đề xuất dự định để giải quyết
tranh chấp Biển Đông chủ yếu tập trung vào thăm dò và khai thác chung kết hợp với
gác lại vấn đề chủ quyền. Cách tiếp cận này thường được xem là lựa chọn khả thi
20


nhất để tăng cường hợp tác và ổn định khu vực. Hiệp ước Timor Gap giữa Úc và Inđo-nê-xi-a, Hiệp định Vịnh Bắc Bộ (Tonkin Gap Treaty) giữa Trung Quốc và Việt
Nam và các hiệp định song phương đang tồn tại trong phân định ranh giới biển được
xem như những hình mẫu để đưa ra một kế hoạch cùng thăm dị và khai thác cho
Biển Đơng.
Các tập đồn dầu khí nhà nước của Trung Quốc, Việt Nam, Phi-líp-pin đã
ký Thỏa thuận thăm dò địa chấn chung (JMSU) như một hiệp định thương mại để
tiến hành một số cuộc khảo sát trước khi thăm dò trong một số vùng ở Trường
Sa. Ban đầu, thỏa thuận chỉ bao gồm Trung Quốc và Phi-lip-pin trước khi Việt Nam
quyết định tham gia vào năm 2005. Việc ký kết thỏa thuận đảm bảo cho Ma-ni-la và
Hà Nội ít nhất có mặt trong q trình thăm dị tại khu vực mà họ có những u sách
chủ quyền chồng lấn với Bắc Kinh. Thỏa thuận được ký giữa các tập đồn dầu khí
hơn là giữa các chính phủ, điều này đã làm đơn giản hóa quy trình. Tuy nhiên sau
khi nó được ký kết năm 2005, các phe đối lập ở Phi-lip-pin đã chỉ trích cam kết như
một dấu hiệu rằng chính phủ muốn giảm đi những yêu sách của quốc gia này trong
các vùng lãnh thổ tranh chấp. JMSU (Thỏa thuận thăm dò địa chấn chung) cuối cùng
hết hiệu lực vào ngày 30 tháng 8 năm 2008. Việc gia hạn thỏa thuận đã bị chỉ trích
nhiều hơn do những cáo buộc tham nhũng liên quan đến các khoản cho vay của
Trung Quốc để ký kết hiệp định ban đầu. Thậm chí nếu một kế hoạch thăm dị và
khai thác chung cho Biển Đơng được đàm phán thành công, sự chênh lệch quá rõ về
sức mạnh và việc thiếu một thỏa thuận tổng thể về các vấn đề chủ quyền của các
quốc gia ven bờ có thể vẫn đẩy các bên yếu hơn vào tình trạng bấp bênh trong
trường hợp những điều kiện kinh tế thay đổi hay phát sinh những tình huống chiến
lược. Kết quả là một kế hoạch phát triển chung như vây chỉ có thể thành công nếu
được đặt trong và bổ sung cho một cơ chế quản lý hợp tác rộng hơn. Trong điều kiện

chưa chuẩn bị kỹ lưỡng, sự chênh lệch quá mức về sức mạnh này có thể vẫn đặt các
bên yếu hơn trong tình trạng bấp bênh. Nếu khơng có một cấu trúc pháp lý và những
cơ chế rộng hơn thì kế hoạch khai thác chung sẽ chỉ tái khẳng định những yêu sách
21


lãnh thổ của Trung Quốc do sự phân bố sức mạnh không đều ở Biển Đông. Các bên
yêu sách Đông Nam Á chỉ có mặt trong q trình thăm dị ở những khu vực mà họ
có những yêu sách lãnh thổ chồng lấn với Bắc Kinh. Trong phạm vi JMSU, Valencia
khẳng định rằng việc khảo sát chung có hại cho Phi-lip-pin, vì nó bao gồm khu vực
thềm lục địa hợp pháp của Phi-lip-pin mà Trung Quốc và Việt Nam không yêu sách.
Hơn nữa thỏa thuận đã tạo ra tính chính danh để Trung Quốc yêu sách một cách
không hợp pháp khu vực đó ở Biển Đơng.”
Tóm lại, việc ký kết một kế hoạch thăm dò và khai thác chung sẽ cần phải
được tiến hành trước bằng việc đàm phán một khuôn khổ để gác lại những yêu sách
lãnh thổ hiện tại, thiết lập một quy tắc ứng xử chặt chẽ, điều chỉnh quan hệ giữa các
quốc gia khu vực và quản lý các tranh chấp hiện tại và tiềm tàng. Việc thiết lập một
khn khổ như vậy có vẻ khơng giống với một hiệp định thông thường. Thật vậy, sự
bế tắc của những yêu sách lãnh thổ đan xen với chính trị dân tộc chủ nghĩa vẫn là
một chướng ngại lớn trong việc quản lý và giải quyết xung đột ở Biển Đông.
Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia và Việt Nam không bao giờ được quên
rằng, đoàn kết sẽ đứng vững, bất đồng sẽ sụp đổ.

22


III. KẾT LUẬN
Các quốc gia Đông Nam Á đã phô bày những điểm đồng thuận và bất đồng
trong lập trường của họ về tranh chấp Biển Đông. Trong một vài trường hợp, họ đã
đoàn kết và đưa ra một tiếng nói chung. Phản ứng đối với nhiều điểm trong quy chế

thẩm quyền biển và động thái trên Đá Vành Khăn của Trung Quốc vào năm 1995 là
những trường hợp điển hình. Vào những thời điểm khác, tinh thần đồn kết giữa các
quốc gia thuộc ASEAN lại bị vỡ vụn. Philippines đã bị cô lập vào năm 1998 khi
Trung Quốc củng cố sự hiện diện của mình trên Đá Vành Khăn trong khi động thái
của Malaysia vào năm 1999 tại Bãi Thám Hiểm và Đá En ca lại ít nhận được sự
phản ứng từ các quốc gia ASEAN trừ Philippines. Một vài quốc gia đã đặt câu hỏi
liệu Thỏa thuận khảo sát địa chấn được ba bên Trung Quốc, Philippines và Việt Nam
ký kết vào năm 2005 có tạo nên một sự chia rẽ trong ASEAN và ngầm công nhận
những yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông hay không. Sự phát triển Bộ luật/ Bản
tuyên bố về quy tắc ứng xử đã nêu bật sự thống nhất cũng như chia rẽ giữa các thành
viên ASEAN trên cùng một vấn đề. Điều này có ý nghĩa nhấn mạnh rằng những
quan điểm trên khơng loại trừ lẫn nhau mà có thể cùng tồn tại. Mặc dù quá trình đàm
phán Bộ luật - Bản tuyên bố về cách ứng xử đã giúp tạo niềm tin giữa các bên đưa ra
yêu sách, nó cũng góp phần phơi bày những lỗ hổng trong mối quan hệ giữa các
thành viên ASEAN và giữa ASEAN với Trung Quốc.
Các diễn biến gần đây ở khu vực Biển Đông, cho thấy rằng ở khu vực Biển
Đông gần đây đã có thay đổi trên một số bình diện. Trước hết, vấn đề Biển Đông từ
chỗ chỉ là tranh chấp giữa các nước trong khu vực đã trở thành một trong những vấn
đề quốc tế, được đem ra bàn thảo ở những diễn đàn đa phương quốc tế như
ARF… Thứ hai là thay đổi từ ASEAN. Hiện nay vấn đề Biển Đông đã trở thành vấn
đề khá nổi bật trong chương trình nghị sự của ASEAN, thể hiện rõ quyết tâm chuyển
từ Tuyên bố về Cách ứng xử của các bên trên Biển Đông (DOC) sang Bộ Quy tắc
Ứng xử trên Biển Đông (COC). Thứ ba là lập trường của Trung Quốc cũng đã có
23


nhiều thay đổi. Hiện nay dường như Trung Quốc có xu hướng sử dụng Công ước về
Luật biển nhiều hơn, có thay đổi trong hành vi ngoại giao, cũng như có một số điểm
mới trên thực địa. Thứ tư, quá trình đàm phán về vấn đề Biển Đơng cũng bắt đầu có
nhiều chuyển biến, các nước bắt đầu đàm phán trực tiếp về COC. Phải thấy rằng

Biển Đông không chỉ là vấn đề xung đột, tranh chấp, đối đầu mà còn là cơ hội để các
nước tăng cường hợp tác.
Trong thời gian tới, có thể có 4 kịch bản xảy ra: Một là, tình hình khu
vực sẽ tốt hơn hiện nay nếu như các bên, đặc biệt là Trung Quốc, hành xử đúng theo
những gì mình đã nói, đó là “tạo dựngBiển Đơng thành một vùng biển hịa bình và
hợp tác”. Hai là, tình hình sẽ cơ bản như hiện nay, quá trình hợp tác và đấu tranh
tiếp tục và đan xen lẫn nhau. Ba là, tình hình xấu hơn hiện nay tức mặt xung đột,
tranh chấp nhiều hơn hợp tác nhưng chưa có xung đột quy mơ lớn. Bốn là, xảy ra
xung đột lớn. Về việc xây dựng một bộ quy tắc ứng xử (COC) ở Biển Đông, COC
chưa phải là phương tiện để giải quyết các tranh chấp mà sẽ là một cơng cụ để xây
dựng lịng tin nhằm tạo mơi trường hịa bình, ổn định, tin cậy lẫn nhau và khuyến
khích hợp tác sử dụng và quản lý Biển Đơng một cách hịa bình. Do vậy, COC
khơng nên dừng lại ở cam kết của các bên thực hiện các nguyên tắc khung mà cần
phải xác định rõ những hành vi khơng được phép tiến hành. Ngồi ra COC cũng cần
quy định những điều kiện và cơ chế thích hợp cho phép các bên tăng cường đối
thoại, giảm thiểu căng thẳng. Trước mắt, các bên cần thúc đẩy thực thi đầy đủ DOC
ký giữa Trung Quốc và ASEAN năm 2002. Tranh chấp Biển Đơng có thể lại dậy
sóng là một viễn cảnh hồn tồn có khả năng xảy ra. Cảnh giác vẫn luôn là một khẩu
hiệu.

24


Tài liệu tham khảo
1. Nhiều tác giả, Trường Sa, Hoàng Sa là của Việt Nam, Nxb Trẻ, Hà Nội,
2008.
2. PGS. Ralf Emmers, Đại học Công nghệ Nanyang, Singapore, Triển vọng
cho việc giải quyết và quản lý xung đột ở Biển Đơng.
3. Thơng cáo báo chí: Hội thảo quốc gia về Biển Đơng lần 2, Hà Nội,
4/2011.

4. Đặng Đình Q (Cb), Biển Đơng: Hợp tác vì An ninh và Phát triển trong
khu vực, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2010.
5. Thông cáo báo chí: Hội thảo quốc gia “Tranh chấp chủ quyền ở Biển
Đơng: Lịch sử, địa chính trị và luật pháp quốc tế”, Hà Nội, 3/2009.
6. Kỷ yếu Hội thảo quốc tế: “Biển Đơng: Tăng cường hợp tác vì an ninh phát
triển ở khu vực”, Hà Nội, 11/2009.

25


×