Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

tác động của việc gia nhập hiệp hội các quốc gia đông nam á (asean) đến hoạt động xuất nhập khẩu và hoạt động đầu tư của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (251.37 KB, 29 trang )

Nhóm 11 Lớp Kinh tế quốc tế 1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 3
1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HIỆP HỘI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG
NAM Á (ASEAN) VÀ KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO ASEAN
(AFTA) 4
1.1 Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á 4
1. 2. Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) 7
1.2.1. Quá trình thành lập 7
1.2.2. Mục tiêu cơ bản 7
1.2.3. Cơ sở hình thành 7
1.2.4. Chương trình CEPT 8
1.2.5. Quá trình tham gia của Việt Nam 10
2. TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC GIA NHẬP ASEAN ĐẾN HOẠT ĐỘNG
XUẤT NHẬP KHẨU VÀ ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM 11
2.1. Tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu 11
2.1.1. Đối với hoạt động xuất khẩu 11
2.1.2. Đối với hoạt động nhập khẩu 13
2.2. Tác động đến hoạt động đầu tư 16
3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN
THIỆN HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU VÀ ĐẦU TƯ CỦA VIỆT
NAM KHI GIA NHẬP 21
3.1. Đánh giá chung 21
3.1.1. Những cơ hội 22
3.1.2. Những thách thức 23
3.2. Kiến nghị hoàn thiện hoạt động xuất nhập khẩu và hoạt động đầu
tư của Việt Nam sau khi gia nhập ASEAN 24
3.2.1. Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ ngành trong công tác
ASEAN 24
1
Nhóm 11 Lớp Kinh tế quốc tế 1


3.2.2. Công tác đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác ASEAN 25
3.2.3. Công tác thông tin tuyên truyền về ASEAN 25
3.2.4. Các biện pháp ưu tiên phát triển 26
3.2.5. Các biện pháp bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước 27
3.2.6. Một số biện pháp hỗ trợ của Nhà nước đối với các doanh nghiệp
27
KẾT LUẬN 28
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 28
2
Nhóm 11 Lớp Kinh tế quốc tế 1
MỞ ĐẦU
Sau hơn 40 năm ra đời, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đã
ngày một lớn mạnh. Với sự chủ động hội nhập khu vực, Việt Nam đã tận dụng và
phát huy các lợi thế trong quan hệ hợp tác ASEAN, góp phần hỗ trợ quan hệ
song phương với các nước thành viên ASEAN. Đặc biệt, thông qua Khu mậu
dịch tự do ASEAN (AFTA), Việt Nam có những điều kiện thuận lợi tăng cường
kinh tế, thương mại, đâu tư, giao lưu văn hóa và nâng cao vị thế quốc tế của Việt
Nam.
Kể từ khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của ASEAN, kim
ngạch trao đổi thương mại cũng như hoạt động đầu tư giữa Việt Nam và các
nước ASEAN đã tăng lên nhanh chóng, đóng góp đáng kể vào sự phát triển của
nền kinh tế Việt Nam cũng như các nước thành viên của Hiệp hội. Có thể nói
việc gia nhập ASEAN có tác động tương đối mạnh mẽ đến nền kinh tế Việt Nam
nói chung cũng như hoạt động xuất nhập khẩu và hoạt động đầu tư của Việt Nam
nói riêng. Việc gia nhập ASEAN cùng với AFTA đem đến cho Việt Nam nhiều
cơ hội nhưng đồng thời cũng mang lại nhiều thách thức. Để hiểu rõ hơn về những
tác động này, nhằm nhận thấy những cơ hội hay thách thức để từ đó đưa ra
những giải pháp, kiến nghị hoàn thiện hoạt động xuất nhập khẩu và đầu tư của
Việt Nam, nhóm chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài “Tác động của việc gia
nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đến hoạt động xuất nhập

khẩu và hoạt động đầu tư của Việt Nam.”
Trong quá trình nghiên cứu, do thời gian có hạn, trình độ hiểu biết còn
hạn chế nên đề tài của chúng tôi không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định,
rất mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp của thầy cô và các bạn.
3
Nhóm 11 Lớp Kinh tế quốc tế 1
1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HIỆP HỘI CÁC QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á
(ASEAN) VÀ KHU VỰC MẬU DỊCH TỰ DO ASEAN (AFTA)
1.1 Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
1.1.1. Quá trình thành lập
ASEAN được thành lập vào ngày 8/8/1967 bằng sự kiện các Bộ trưởng
Ngoại giao các nước Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, và Thái Lan
ký Tuyên bố ASEAN tại toà nhà Bộ ngoại giao Thái Lan ở Bangkok, thường
được gọi là Tuyên bố Bangkok. Brunei Darussalam trở thành thành viên thứ sáu
sau khi gia nhập vào ngày 8 tháng 1 năm 1984. Ngày 28 tháng 7 năm 1995, Việt
Nam trở thành thành viên thứ bảy. Lào và Myanmar gia nhập hai năm sau ngày
23 tháng 7 năm 1997. Campuchia đã dự định gia nhập cùng Lào và Myanmar,
nhưng bị trị hoãn vì cuộc tranh giành chính trị nội bộ. Nước này sau đó gia nhập
ngày 30 tháng 4 năm 1999, sau khi đã ổn định chính phủ. Cho đến nay, ASEAN
có 10 thành viên gồm các thành viên sáng lập và các nước Brunei, Việt Nam,
Lào, Campuchia và Mianma. Đây là Hiệp hội của tất cả các nước Đông Nam Á
theo đúng ý tưởng ban đầu của những người sáng tạo ra Hiệp hội.
ASEAN ra đời trong bối cảnh nội bộ từ các nước trong khu vực và thế
giới có nhiều biến động. Cuộc chiến tranh ở Việt Nam đang diễn ra ác liệt và các
nước Đông Nam Á tham gia vào cuộc chiến. Đồng thời, các nước Đông Nam Á
phải xử lí nhiều vấn đề về chính trị, kinh tế trong từng nước và cả xung đột trong
quan hệ giữa các nước với nhau. Trước bối cảnh đó, ASEAN ra đời để đối phó
với những khó khăn bên trong và thách thức bên ngoài.
Qua hơn 4 thập kỉ, ASEAN đã có nhiều hoạt động hợp tác trên nhiều lĩnh
vực khác nhau. Các nước thành viên ASEAN đã đạt được nhiều kết quả trong

phát triển kinh tế. Tốc độ tăng trưởng trung bình của các nước ASEAN trong
những năm 1990 vào khoảng 6-7%. Đây được coi là khu vực tăng trưởng cao
nhất thế giới. Những nền kinh tế phát triển nhất trong Hiệp hội là Singapore,
Malaysia, Thái Lan. Hiệp hội các nước ASEAN có vị trí ngày càng quan trọng
trong khu vực châu Á- Thái Bình Dương và nền kinh tế thế giới.
1.1.2. Mục đích thành lập
4
Nhóm 11 Lớp Kinh tế quốc tế 1
 Thúc đẩy hòa bình và ổn định khu vực trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc
luật pháp trong quan hệ giữa các nước trong khu vực và tuân thủ các
nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc.
 Thúc đẩy sự hợp tác tích cực và giúp đỡ lẫn nhau về các vấn đề cùng quan
tâm trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học kĩ thuật, hành
chính.
 Hợp tác trên lĩnh vực đào tạo và cung cấp các phương tiện nghiên cứu
trong lĩnh vực giáo dục, chuyên môn, kĩ thuật và hành chính.
 Phát triển các ngành nông nghiệp, công nghiệp, mở rộng hoạt động
thương mại quốc tế, cải thiện hệ thống thông tin liên lạc, vận tải và nâng
cao mức sống của nhân dân.
 Thúc đẩy việc nghiên cứu về Đông Nam Á.
 Duy trì quan hệ hợp tác chặt chẽ cùng có lợi với các tổ chức quốc tế và
khu vực có tôn chỉ và mục đích tương tự và để đề xuất các biện pháp để
tăng cường hợp tác giữa các tổ chức này.
1.2.3. Cơ cấu tổ chức của ASEAN
Hiện nay cơ cấu tổ chức của ASEAN gồm có các cơ quan :
 Các cơ quan hoạch định chính sách bao gồm Hội nghị cấp cao ASEAN,
Hội nghị Bộ trưởng ASEAN, Hội nghị bộ trưởng kinh tế, các hội nghị Bộ
trưởng các ngành khác, Hội nghị lien bộ trưởng, Tổng thư kí ASEAN,
cuộc họp các quan chức cao cấp khác, cuộc họp tư vấn chung.
 Các ủy ban của ASEAN gồm có ủy ban thường trực ASEAN, các ủy ban

hợp tác chuyên ngành.
 Các ban thư kí ASEAN gồm có Ban thư kí ASEAN quốc tế và Ban thư kí
ASEAN quốc gia.
 Ngoài ra còn có các cơ chế hợp tác với nước thứ ba bao gồm Hội nghị sau
Bộ trưởng, cuộc họp của ASEAN với các bên đối thoại và ủy ban ASEAN
ở các nước thứ ba.
1.2.4. Nguyên tắc hoạt động
Các nguyên tắc làm nền tảng cho quan hệ giữa các Quốc gia thành viên và
với bên ngoài.
Các nguyên tắc chính:
 Cùng tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, toàn vẹn lãnh thổ và bản
sắc dân tộc của tất cả các dân tộc.
 Quyền của mọi quốc gia được lãnh đạo hoạt động của dân tộc mình,
không có sự can thiệp, lật đổ hoặc cưỡng ép của bên ngoài.
5
Nhóm 11 Lớp Kinh tế quốc tế 1
 Không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
 Giải quyết bất đồng hoặc tranh chấp bằng biện pháp hoà bình, thân thiện.
 Không đe doạ hoặc sử dụng vũ lực.
 Hợp tác với nhau một cách có hiệu quả.
Các nguyên tắc điều phối hoạt động của Hiệp hội:
Việc quyết định các chính sách hợp tác quan trọng cũng như trong các
lĩnh vực quan trọng của ASEAN dựa trên nguyên tắc nhất trí (consensus), tức là
một quyết định chỉ được coi là của ASEAN khi được tất cả các nước thành viên
nhất trí thông qua. Nguyên tắc này đòi hỏi phải có quá trình đàm phán lâu dài,
nhưng bảo đảm được việc tính đến lợi ích quốc gia của tất cả các nước thành
viên. Đây là một nguyên tắc bao trùm trong các cuộc họp và hoạt động của
ASEAN .
Một nguyên tắc quan trọng khác chi phối hoạt động của ASEAN là
nguyên tắc bình đẳng. Nguyên tắc này thể hiện trên 2 mặt. Thứ nhất, các nước

ASEAN, không kể lớn hay nhỏ, giàu hay nghèo đều bình đẳng với nhau trong
nghĩa vụ đóng góp cũng như chia xẻ quyền lợi. Thứ hai, hoạt động của tổ chức
ASEAN được duy trì trên cơ sở luân phiên, tức là các chức chủ toạ các cuộc họp
của ASEAN từ cấp chuyên viên đến cấp cao, cũng như địa điểm cho các cuộc
họp đó được phân đều cho các nước thành viên trên cơ sở luân phiên theo vần
A,B,C của tiếng Anh.
Để tạo thuận lợi và đẩy nhanh các chương trình hợp tác kinh tế ASEAN ,
trong Hiệp định khung về tăng cường hợp tác kinh tế ký tại Hội nghị Cấp cao
ASEAN lần thứ 4 ở Xin-ga-po tháng 2/1992, các nước ASEAN đã thoả thuận
nguyên tắc 6-X, theo đó hai hay một số nước thành viên ASEAN có thể xúc tiến
thực hiện trước các dự án ASEAN nếu các nưóc còn lại chưa sẵn sàng tham gia,
không cần phải đợi tất cả mới cùng thực hiện.
Ngoài ra trong quan hệ giữa các nước ASEAN cũng đang dần dần hình
thành một số các nguyên tắc, tuy không thành văn, không chính thức song mọi
người đều hiểu và tôn trọng áp dụng như: nguyên tắc có đi có lại, không đối đầu,
thân thiện, không tuyên truyền tố cáo nhau quan báo chí, giữ gìn đoàn kết
ASEAN và giữ bản sắc chung của Hiệp hội.
1.2.5. Quá trình Việt Nam gia nhập ASEAN
Ngày 28 tháng 7 năm 1995, tại thủ đô Bandar Seri Begawan của đất nước
Brunei Darussalam tươi đẹp, trong tiếng Quốc ca hùng tráng, Quốc Kỳ Việt Nam
đã tung bay phấp phới cùng cờ của 6 thành viên ASEAN khác, mở ra một trang
6
Nhóm 11 Lớp Kinh tế quốc tế 1
sử mới của khu vực: Việt Nam chính thức là thành viên thứ 7 của ASEAN. Sự
kiện này là một dấu son trên con đường hội nhập khu vực và thế giới, đưa nước
ta tiến lên con đường phía trước trên con đường xây dựng nước Việt Nam dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đây cũng là nguyện
vọng của những người sáng lập ra ASEAN và nhân dân trong khu vực về một
hiệp hội bao gồm 10 nước trong khu vực, một ASEAN của Đông Nam Á, do
Đông Nam Á, và vì Đông Nam Á, trong đó các quốc gia thành viên cùng nhau

hợp tác vì hoà bình, ổn định, phát triển, phồn vinh, góp phần vào sự nghiệp hoà
bình và phát triển ở khu vực và trên thế giới
1. 2. Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA)
1.2.1. Quá trình thành lập
Vào đầu những năm 1990 do môi trường chính trị, kinh tế trong khu vực
Đông Nam Á có những chuyển biến đáng kể khi chiến tranh lạnh kết thúc, vị trí của
các nước ASEAN đã được cải thiện, các cam kết quốc tế giữa Mĩ, Trung Quốc và
Nga đã được thay đổi. Để đối phó với những thách thức đó, Khu vực Mậu dịch tự
do ASEAN (AFTA) đã ra đời.
Quyết định thành lập AFTA đã được đưa ra tại Hội nghị Thượng đỉnh
ASEAN lần thứ 4, tổ chức vào tháng 1/1992 tại Singapore. Theo kế hoạch ban đầu,
AFTA được hoàn thành vào năm 2008 với mục đích cơ bản là “tăng cường khả
năng cạnh tranh của ASEAN như một cơ sở quốc tế nhằm cung cấp hàng hóa ra thị
trường thế giới”. Tuy nhiên, trước sự phát triển và cạnh tranh mạnh mẽ của các liên
kết kinh tế toàn cầu khác, cũng như do sự tiến bộ của chính các quốc gia ASEAN,
năm 1994, khối này quyết định đẩy nhanh thời hạn lên năm 2003.
1.2.2. Mục tiêu cơ bản
 Tự do hóa thương mại
 Thu hút đầu tư nước ngoài
 Mở rộng quan hệ thương mại với các nước ngoài khu vực
Cả 3 mục tiêu này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong đó mục tiêu thu
hút đầu tư là mục tiêu quan trọng nhất.
1.2.3. Cơ sở hình thành
 Chương trình cắt giảm thuế quan có hiệu lực chung (CEPT- Common
Effective Preferential Tariffs).
7
Nhóm 11 Lớp Kinh tế quốc tế 1
 Thống nhất và công nhận tiêu chuẩn hàng hóa giữa các nước thành viên.
 Công nhận việc cấp giấy xác nhận xuất xứ hàng hóa.
 Xóa bỏ những quy định hạn chế đối với hoạt động thương mại.

 Tăng cường hoạt động tư vấn kinh tế vĩ mô.
1.2.4. Chương trình CEPT
CEPT (Common Effective Preferentical On Tariffs) là chương trình cắt giảm
thuế quan có hiệu lực chung.
CEPT là một cơ chế thông qua đó thuế quan đánh trên hàng hoá buôn bán
giữa các nước trong khu vực ASEAN, gồm 40% các mặt hàng sẽ được giảm thuế
xuống còn 0 – 5% trước năm 2002 – 2003 (2006 đối với Việt Nam, 2008 đối với
Lào và Myanmar, và 2010 đối với Campuchia). Việc giảm thuế quan được thực
hiện theo các con đường nhanh và thông thường. Thuế quan đối với hàng hoá theo
con đường nhanh được giảm mạnh còn 0 – 5% trước năm 2000. Thuế quan đối với
hàng hoá theo con đường thông thường được giảm xuống mức này trước năm 2002,
hoặc 2003 đối với một số ít sản phẩm. Hiện nay, khoảng 81% danh mục thuế quan
của ASEAN đã được thực hiện theo một trong hai con đường trên.
Các sản phẩm thực hiện giảm thuế nhập khẩu do các nước hội viên ASEAN
tự đề nghị căn cứ vào điều kiện hoàn cảnh kinh tế của mỗi nước.
Khung thời gian thực hiện: Theo quy định của Hiệp định, các nước thành
viên ASEAN sẽ thực hiện lịch trình cắt giảm thuế nhập khẩu hàng hoá của mình
xuống 0-5% trong vòng 15 năm, bắt đầu từ 1/1/1993 và hoàn thành vào 1/1/2008.
Tuy nhiên, trước xu hướng tự do hoá thương mại toàn cầu đang được thúc đẩy
mạnh mẽ, tháng 9/1994 ASEAN đã quyết định đẩy nhanh quá trình tự do hoá
thương mại trong khu vực bằng việc rút ngắn thời hạn hoàn thành AFTA xuống còn
10 năm, tức là vào năm 2003.
Phạm vi áp dụng: Ban đầu, Chương trình CEPT chỉ được áp dụng đối với
các sản phẩm công nghiệp chế biến, tư liệu sản xuất và nông sản đã chế biến, loại
trừ nông sản chưa chế biến là những mặt hàng nhạy cảm của các nước ASEAN và
các sản phẩm mà các nước cho là cần thiết để bảo vệ an ninh quốc gia, bảo vệ đạo
đức xã hội, bảo vệ sức khoẻ và cuộc sống của con người và động thực vật, bảo vệ
các tác phẩm có giá trị nghệ thuật, lịch sử và khảo cổ học.
8
Nhóm 11 Lớp Kinh tế quốc tế 1

Tuy nhiên, Hội nghị các Bộ trưởng Kinh tế ASEAN (AEM) lần thứ 26
(9/1994) đã quyết định đưa nông sản chưa chế biến vào thực hiện Chương trình
CEPT với những quy định đặc biệt riêng về thời hạn bắt đầu và kết thúc cắt giảm
thuế, mức thuế suất bắt đầu và khi hoàn thành cắt giảm
Lộ trình cắt giảm thuế:
Để thực hiện Chương trình CEPT, các nước thành viên phân loại các sản
phẩm trong danh mục biểu thuế thành 4 danh mục:
• Danh mục loại trừ hoàn toàn.
• Danh mục các sản phẩm thực hiện cắt giảm thuế ngay (gọi tắt là
Danh mục cắt giảm)
• Danh mục loại trừ tạm thời
• Danh mục Nông sản chưa chế biến nhạy cảm (gọi tắt là Danh
mục nhạy cảm) và Danh mục nông sản chưa chế biến nhạy cảm
cao (gọi tắt là Danh mục nhạy cảm cao)
Cơ chế trao đổi :
Cơ chế trao đổi của các quốc gia trong Chương trình CEPT dựa trên nguyên
tắc có đi có lại. Để được hưởng các nhượng bộ về thuế quan khi xuất khẩu hàng hóa
trong khu vực, một sản phẩm phải thỏa mãn đồng thời các điều kiện là sản phẩm đó
phải nằm trong danh mục cắt giảm thuế của nước xuất khẩu và nước nhập khẩu và
phải có mức thuế nhập khẩu bằng hoặc cao hơn 20%, sản phẩm đó phải có chương
trình giảm thuế được Hội đồng AFTA thông qua; sản phẩm đó là một sản phẩm của
AFTA tức là phải thỏa mãn yêu cầu hàm lượng xuất xứ từ các nước thành viên
ASEAN (hàm lượng nội địa) ít nhất là 40%. Theo công thức:
{[(Giá đầu vào nhập khẩu của các nước không phải là thành viên ASEAN) + (giá
đầu vào không xác định được xuất xứ)]/ Giá FOB} *100% <=60%
Giá đầu vào nhập khẩu là giá của các nguyên liệu, bộ phận, các sản phẩm
nhập khẩu từ các nước không phải là thành viên của ASEAN. Đây là giá CIF tại
thời điểm nhập khẩu. Giá đầu vào không rõ xuất xứ là giá nguyên vật liệu, bộ phận,
các sản phẩm là đầu vào được xác định ban đầu trước khi đưa vào chế biến trên
lãnh thổ của nước xuất khẩu thành viên của ASEAN.

Hưởng ưu đãi thuế quan:
9
Nhóm 11 Lớp Kinh tế quốc tế 1
Để xác định các sản phẩm có đủ điều kiện hưởng ưu đãi thuế quan theo
chương trình CEPT, mỗi nước thành viên hàng năm xuất bản Tài liệu trao đổi ưu
đãi CEPT (CCEM) của nước mình trong đó cho biết danh mục các sản phẩm thuế
quan theo CEPT và các sản phẩm có đủ điều kiện hưởng ưu đãi thuế quan của các
nước thành viên khác.
Loại bỏ hàng rào phi thuế quan:
Ngay sau khi một sản phẩm được hưởng ưu đãi thuế quan theo như quy định
nói trên, các quy định hạn chế định lượng như hạn ngạch số lượng, hạn ngạch giá trị
nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu có tác dụng hạn chế định lượng, đối với sn phẩm
đó sẽ được loại bỏ hoàn toàn. 5 năm sau khi một sn phẩm được hưởng ưu đãi thuế
quan, các biện pháp phi thuế khác (NTBs) cũng sẽ được loại bỏ. Tuy nhiên, thời
hạn muộn nhất là 2003 (đối với Việt Nam là 2006)
Hợp tác để thống nhất các tiêu chuẩn và sự phù hợp: cũng là một nội dung
quan trọng góp phần thúc đẩy thương mại giữa các nước. Các nước ASEAN tăng
cường minh bạch hoá các tiêu chuẩn và sự phù hợp của các sản phẩm và theo các
tiêu chuẩn quốc tế, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc công nhận lẫn nhau
các tiêu chuẩn và sự phù hợp trên cơ sở song bên hoặc nhiều bên.
1.2.5. Quá trình tham gia của Việt Nam
Ngày 28/7/1995. Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 7 của
ASEAN và cam kết tham gia AFTA. Thời hạn hoàn thành AFTA của Việt Nam là
năm 2006. Việt Nam bắt đầu thực hiện lộ trình giảm thuế quan tham gia AFTA từ
ngày 1/1/1996, khi đưa 875 mặt hàng đầu tiên vào thực hiện CEPT. Tất cả những
mặt hàng này đều nằm ở khung thuế suất 0-5%.
Đầu năm 1998, Việt Nam công bố lịch trình giảm thuế để thực hiện AFTA
vào năm 2006. Trên thực tế thì đến cuối năm 2002, 5.500 mặt hàng (chiếm khoảng
86% tổng số mặt hàng trong biểu thuế nhập khẩu) đã được vào chương trình cắt
giảm. Toàn bộ các mặt hàng này đã ở thuế suất dưới 20% và có lộ trình cắt giảm

trong thời kì 2002-2006. Trong số đó, 65% đã ở mức thuế 0-5%.
10
Nhóm 11 Lớp Kinh tế quốc tế 1
2. TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC GIA NHẬP ASEAN ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT
NHẬP KHẨU VÀ ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM
2.1. Tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu
2.1.1. Đối với hoạt động xuất khẩu
Trước năm 1995, Việt Nam đã thực hiện cải cách kinh tế và có những bước
chuyển đáng kể trong nền kinh tế, tuy nhiên trong lĩnh vực xuất khẩu thành tựu đạt
được vẫn còn hạn chế.
Trước thực trạng này, để đưa đất nước hội nhập với toàn cầu thì Việt Nam đã
gia nhập vào nhiều hiệp hội trên thế giới., trong đó phải kể đến hiệp hội các nước
Đông Nam Á ASEAN. Việc gia nhập ASEAN đánh dấu bước đi quan trọng đầu
tiên trong hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta.
Sau khi gia nhập ASEAN, Việt Nam nỗ lực thực hiện đầy đủ mọi cam kết và
trách nhiệm của một nước thành viên, chủ động đưa ra những sáng kiến nhằm thúc
đẩy hợp tác khu vực, hoàn thành nhiều trọng trách trước Hiệp hội. Việt Nam tiếp
tục mở rộng quan hệ nhiều mặt, trên nhiều tầng nấc trong khuôn khổ đa phương và
song phương, đóng góp thiết thực vào quá trình hợp tác liên kết ASEAN hướng tới
mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015 với ba trụ cột chính trị - an
ninh, kinh tế và văn hóa - xã hội.
Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sau khi gia nhập vào ASEAN
Năm 1995 1996 1997 1998 1999 200
0
200
1
200
2
200
3

200
4
200
5
200
6
2007
KNXK 1,1 1,13
6
1,9 2,3 2,4 2,6 2,5 2,42 2,9 3,87 5,03 6,3 7,79
Đơn vị: tỷ USD
Nguồn: Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI)
Trong những năm qua, Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng vào
việc xây dựng cộng đồng Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Hiến
chương ASEAN, đảm nhiệm thành công vai trò Chủ tịch ASEAN, Chủ tịch Hội
đồng liên nghị viện các nước Đông Nam Á (AIPA).
ASEAN là một trong những đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam.
Năm 2009, xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN đạt 8,9 tỷ USD, tương đương
11
Nhóm 11 Lớp Kinh tế quốc tế 1
15% tổng kim ngạch xuất khẩu. Trị giá xuất nhập khẩu giữa Việt Nam với các
nước ASEAN trong năm 2011 đạt 34,47 tỷ USD, tăng 28,8% so với năm 2010.
Tổng vốn đầu tư trực tiếp đăng ký của ASEAN tại Việt Nam khoảng trên 60 tỷ
USD. Bên cạnh đó Việt Nam còn tham gia với tinh thần trách nhiệm cao vào các
cơ chế hợp tác đa phương của ASEAN với các đối tác bên ngoài như:
ASEAN+1, ASEAN+3, Hợp tác Á-Âu (ASEM), Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á.
Bên cạnh việc phát triển quan hệ với các nước láng giềng và khu vực, Việt
Nam còn năng động cải thiện quan hệ với các nước, nhất là các nước lớn và các
tổ chức quốc tế trong quá trình hội nhập.
Ngoài ra, hiệp hội đã mang lại nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp Việt

Nam trong việc sử dụng giấy chứng nhận mẫu xuất xứ hàng hóa (ROO) về ưu đãi
thuế quan từ việc thực thi các hiệp định thương mại tự do (FTA) đa phương, khu
vực, song phương và đơn phương. Nếu năm 2008, mới chỉ có 13% kim ngạch
xuất khẩu sang ASEAN được sử dụng ROO, đến năm 2010 đã nâng lên mức
25%.
Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang khu vực thị trường các
nước ASEAN trong năm 2011 đạt 13,58 tỷ USD, tăng 31,2% so với năm 2010 và
chiếm 27,1% trị giá hàng hoá Việt Nam xuất khẩu sang châu Á. Gạo và dầu thô
là 2 mặt hàng chính xuất khẩu sang ASEAN với kim ngạch là 2 tỷ USD, tăng
16,9% và 1,44 tỷ USD, giảm 8,6% so với năm 2010.
Bảng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam vào Asean năm 2011
14 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam năm 2011
STT Mặt hàng/ Dịch vụ Kim ngạch
(tỷ USD)
Tăng (giảm) so
với năm 2010
(%)
Tỷ trọng trong
tổng kim ngạch
xuất khẩu
1 Dệt may 14 25,1 14,54
2 Dầu thô 7,2 45,9 7,48
3 Điện thoại 6,9 197,3 7,17
4 Giày, dép 6,5 27,3 6,75
5 Thủy sản 6,1 21,7 6,33
6 Điện tử, máy tính 4,2 16,9 4,36
7 Máy móc thiết bị, dụng cụ phụ
tùng
4,1 34,5 4,26
8 Gỗ và sản phẩm gỗ 3,9 13,7 4,05

9 Gạo 3,6 12,2 3,74
10 Cao su 3,2 35 3,32
12
Nhóm 11 Lớp Kinh tế quốc tế 1
11 Cà phê 2,7 48,1 2,8
12 Đá quý, kim loại quý và sản phẩm 2,7 -5,2 2,8
13 Phương tiện vận tải và phụ tùng 2,4 51,3 2,49
14 Xăng dầu 2,1 53,6 2,18
Tổng cộng (1-14) 69,6 34,2 72,3
Nguồn: Tổng cục thống kê
Bên cạnh những thuận lợi về vị trí địa lý cũng như các yêu cầu của thị
trường, thì cơ hội gia tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước
thành viên trong khối ASEAN còn rất lớn, bởi đến năm 2015, ASEAN sẽ xóa bỏ
hoàn toàn các hàng rào phi thuế quan. Đối với thị trường này, Việt Nam đang có
thế mạnh xuất khẩu 2 mặt hàng là dầu thô và gạo. Tổng giá trị xuất khẩu của 2
nhóm hàng trên sang thị trường ASEAN chiếm khoảng hơn 42% tổng kim ngạch
xuất khẩu của Việt Nam. Riêng đối với mặt hàng gạo, Việt Nam có nhiều cơ hội
xuất sang Philippines, Đông Timor… Ngoài ra, nhóm hàng dệt may, giày dép,
thủy sản cũng là thế mạnh của các doanh nghiệp Việt Nam. Mặc dù nhiều nước
ASEAN có cơ cấu hàng hóa xuất khẩu giống nhau, cùng có lợi thế sản xuất, xuất
khẩu nhưng việc từng bước cạnh tranh để mở rộng xuất khẩu tại thị trường lớn
như: Thái Lan, Malaysia… sẽ mở rộng dần không gian cho hàng xuất khẩu của
nước ta.
Tuy nhiên, mặt trái của việc gia nhập vào các hiệp hội, hội nhập khiến
Việt Nam dễ bị tổn thương hơn trước những cú sốc về giá, suy thoái kinh tế,
khủng hoảng tài chính từ bên ngoài, rủi ro bất ổn kinh tế vĩ mô có thể tăng. Về
dài hạn, Việt Nam vẫn có nguy cơ rơi vào "bẫy chi phí lao động thấp"/ "bẫy tự do
hóa thương mại" do lợi thế tĩnh sẽ cạn dần trong khi lợi thế cạnh tranh động nhờ
quy mô, cạnh tranh và cải thiện công nghệ không được tạo dựng.
ASEAN không chỉ là một trong những thị trường xuất khẩu lớn hàng hóa

của Việt Nam, mà còn là thị trường sớm nhất mở cửa hội nhập. Chính vì vậy
trong khoảng thời gian 5 năm tới, doanh nghiệp Việt Nam có thể tận dụng cơ hội
này để đẩy mạnh hơn nữa hợp tác cả về thương mại, đầu tư, liên doanh sản xuất
nhằm mở rộng thị trường xuất khẩu sang các nước khu vực ASEAN.
2.1.2. Đối với hoạt động nhập khẩu
Nhập khẩu là việc quốc gia này mua hàng hóa và dịch vụ từ quốc gia
khác. Nói cách khác, đây chính là việc nhà sản xuất nước ngoài cung cấp hàng
hóa và dịch vụ cho người cư trú trong nước. Tuy nhiên, theo cách thức biên soạn
13
Nhóm 11 Lớp Kinh tế quốc tế 1
cán cân thanh toán quốc tế của IMF, chỉ có việc mua các hàng hóa hữu hình mới
được coi là nhập khẩu và đưa vào mục cán cân thương mại
Việt Nam nhập từ ASEAN chủ yếu là nguyên vật liệu dùng cho sản xuất
và hàng công nghiệp như nhôm, hóa chất, hàng điện tử… hơn ½ tổng số nhóm
hàng thuế xuất nhập khẩu hiện thấp hơn 5%. Đó là những hàng hóa vật tư phục
vụ sản xuất và hàn tiêu dùng thiết yếu.
Tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ ASEAN khá lớn làm cho
nhập siêu và tỷ lệ nhập siêu của Việt Nam đối với thị trường này khá cao: Trị giá
xuất nhập khẩu giữa Việt Nam với các nước ASEAN trong năm 2011 đạt 34,47
tỷ USD, tăng 28,8% so với năm 2010.
Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang khu vực thị trường này
trong trong năm 2011 đạt 13,58 tỷ USD, tăng 31,2% so với năm 2010 và chiếm
27,1% trị giá hàng hoá Việt Nam xuất khẩu sang châu Á. Gạo và dầu thô là 2 mặt
hàng chính xuất khẩu sang ASEAN với kim ngạch là 2 tỷ USD, tăng 16,9% và
1,44 tỷ USD, giảm 8,6% so với năm 2010.
Hàng hoá có xuất xứ ASEAN được nhập khẩu vào Việt Nam trong năm
nay là 20,91 tỷ USD, tăng 27,4% so với năm 2010. Các mặt hàng chính nhập
khẩu từ thị trường này là: xăng dầu các loại 4,95 tỷ USD, tăng 66,6%; máy vi
tính, sản phẩm điện tử và linh kiện 1,38 tỷ USD, tăng 59,1%; chất dẻo nguyên
liệu 1,08 tỷ USD, tăng 20,5%; máy móc thiết bị dụng cụ và phụ tùng1,04 tỷ

USD, tăng 1,9% so với năm trước…
Thống kê kim ngạch hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu và cán cân thương mại
hàng hóa giữa Việt Nam - ASEAN giai đoạn 2005- 2009
Chỉ tiêu
Năm 2008 Năm 2009
Năm
2010
Năm
2011
Xuất khẩu

Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sang các
nước ASEAN (triệu USD)
10.199 8.592 9.343 13.580
Tốc độ tăng/giảm xuất khẩu sang các
nước ASEAN (%)
-15,8 8.74 31.2
Nhập khẩu

Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa từ các
nước ASEAN
(triệu USD)
19.567 13.813 15.181 20.910
14
Nhóm 11 Lớp Kinh tế quốc tế 1
Tốc độ tăng/giảm nhập khẩu từ các
nước ASEAN (%)
-29,4 9.9 27,4
Cán cân thương mại hàng hóa với các
nước ASEAN

(XK-NK) (triệu USD)
-9.368 -5.221 -5.838 -7.330
Cán cân thương mại hàng hóa với tất cả
các nước trên thế giới (XK-NK) (triệu
USD)
-18.029 -12.853 -15.180 -10.000
Nguồn: Tổng cục Hải quan
Thấy rằng cơ cấu sản xuất và cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam và một số
nước ASEAN không khác nhau nhiều lắm. có rất nhiều mặt hàng cùng sản xuất
có thể cạnh tranh nhau trên thị trường Việt Nam và thị trường ASEAN như các
loại nông sản chưa chế biến,xe máy, xe đạp… hiện tại sản xuất một số hàng của
Việt Nam còn thua kém sức cạnh tranh so với các nước trong khối bởi thua về
chất lượng, chủng loại và cả số lượng. Vì thế các nước này đang cố gắng chiếm
thị phần ở Việt Nam. Việc áp dụng CEPT là hiệp định về chương trình ưu đãi
thuế quan có hiệu lực chung cho Khu vực thương mại tự do AFTA, và là mức
thuế có hiệu lực dành ưu đãi cho ASEAN, được áp dụng cho các loại hàng hoá
có xuất xứ từ các quốc gia thành viên ASEAN (việc đặt thuế suất ưu đãi sẽ
khuyến khích hàng nhập khẩu gia tăng). Các mặt hàng trên đã có thuế suất dưới
5% trước khi thực hiện CEPT. Vì vậy, việc chúng ta tham gia AFTA không có
tác động trực tiếp tới việc gia tăng NK những mặt hàng này. Ngoài ra, một số
hàng NK có kim ngạch đáng kể ở Việt Nam như xăng dầu, xe máy cũng chưa
được đưa vào danh sách giảm thuế ngay nên trước mắt sẽ nằm ngoài phạm vi tác
động của AFTA.
Về lâu dài, Việt Nam chắc chắn phải đưa thêm những mặt hàng từ danh
mục loại trừ tạm thời có thuế suất trên 20% vào diện cắt giảm ngay, và loại trừ
dần các hàng rào phi thuế quan (nhất là những hạn chế về số lượng nhập khẩu).
Khi đó, nhập khẩu, nhất là những mặt hàng tiêu dùng từ các nước ASEAN vào
Việt Nam, sẽ tăng lên nếu những mặt hàng cùng loại sản xuất trong nước không
cạnh tranh lại được.
Việt Nam là thị trường có tiềm năng lớn về dung lượng, lại thuộc loại đòi

hỏi không cao về chất lượng hàng hóa. Tuy nhiên do Việt Nam có trình độ phát
15
Nhóm 11 Lớp Kinh tế quốc tế 1
triển kinh tế thấp hơn các nước ASEAN khác, sức cạnh tranh của hàng hóa yếu
nên đứng trước những thử thách vô cùng lớn khi gia nhập AFTA. Hiện nay, hàng
hóa nhập khẩu đang tràn ngâp thị trường, làm điêu đứng không ít nghành công
nghiệp bản địa như dệt, giày dép, hàng cơ khí, đồ điện dân dụng… thậm chí cả
khi hàng rào thuế quan đang còn được duy trì khá cao. Đặc biệt đáng lo ngại là
hàng hóa có chất lượng chất xám và kỹ thuật cao, bởi vì sự chênh lệch về trình
độ rất rõ rệt. khi hàng rào bảo hộ bị cắt giảm thì sản xuất trong nước chịu sức ép
lớn gấp nhiều lần. thế nhưng điều này cũng có lợi do tham gia AFTA các doanh
nghiệp VN sớm bị đặt trong môi trường cạnh tranh quốc tế nó có ảnh hưởng tích
cực tới sản phẩm công nghiệp mà VN có lợi thế so sánh trước mắt. nhưng kinh
nghiệm một số nước đi trước, nếu bảo hộ kéo dài quá lâu các nghành sản xuất
trong nước sẽ không phát triển lành mạnh và không thể trở thành lợi thế so sánh
để cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Do đó, gia nhập AFTA hay không, Việt
Nam cũng từng bước giảm bớt thuế quan theo một thời khóa biểu định trước. lịch
trình cắt giảm thuế CEPT rất gần với chiến lược công nghiệp hóa hướng vào xuất
khẩu mà trước mắt là các nghành có hàm lượng lao động cao, các nghành chế
biến nông – lâm - thủy sản. nhìn từ góc độ này, ta thấy việc gia nhập AFTA của
Việt Nam sẽ không trở thành phụ đảm mới cho Việt Nam, ngược lại ta có thêm
cơ hội để xâm nhập vào thị trường các nước.
2.2. Tác động đến hoạt động đầu tư
Khi ra nhập ASEAN, Việt Nam đã ký kết và triển khai thực hiện nhiều văn
bản quan trọng về đầu tư với nội dung mở cửa thị trường Việt Nam cho các nhà
đầu tư nước ngoài vào đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam, thực hiện các biện pháp
tự do hoá và thuận lợi hoá đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài và tiến tới dành
cho các nhà đầu tư nước ngoài quy chế đãi ngộ quốc gia. Cụ thể một số văn kiện
cũng như chương trình mà nước ta đã tham gia tích cực trong thời gian qua như:
- Hiệp định Đầu tư Toàn diện ASEAN (ACIA) và 10 Danh mục các biện

pháp hạn chế đầu tư của các nước Thành viên ASEAN.
- Hiệp định khung về tăng cường hợp tác kinh tế ASEAN.
- Hiệp định ASEAN năm 1987 về khuyến khích và bảo hộ đầu tư và Nghị
định thư năm 1996 bổ sung Hiệp định này.
16
Nhóm 11 Lớp Kinh tế quốc tế 1
- Hiệp định thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và việc
thực hiện Chương trình hợp tác công nghiệp ASEAN (AICO).
- Hiệp định đầu tư ASEAN- Trung Quốc.
- Hiệp định đầu tư ASEAN - Hàn Quốc
- Mô hình cắt giảm/xóa bỏ các hạn chế đầu tư trong ASEAN.
- Khu vực Đầu tư ASEAN (sau đây gọi tắt là AIA).
- Tầm nhìn ASEAN xây dựng Khu vực Đầu tư ASEAN có tính cạnh tranh
với môi trường đầu tư thông thoáng và rõ ràng hơn và Tầm nhìn ASEAN năm
2020.
Ngoài ra nước ta còn thực hiện một số cam kết có liên quan tới hoạt động
đầu tư như: cam kết về sở hữu trí tuệ dựa trên Hiệp định TRIPS và các công ước
của WIPO, theo đó ta sẽ phải tôn trọng và thực hiện bảo hộ các quyền về bản
quyền tác giả, bằng phát minh sáng chế, thương hiệu, thiết kế, kểu dáng công
nghiệp, giống vật nuôi cây trồng; cam kết về công khai hoá với nội dung nước ta
phải công khai hoá các chính sách, luật lệ, quy định về chế độ thương mại, thủ
tục hành chính có liên quan và bảo đảm cho mọi người có thể tiếp cận một cách
thuận lợi và dễ dàng các thông tin đó.
Để thực hiện những hiệp định và cam kết này, Việt nam đã tiến hành xây
dựng hành lang pháp lý vững chắc với sự ra đời của nhiều văn bản pháp luật như:
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam năm 1987, luật Đầu tư 2005 cùng nhiều văn
bản hướng dẫn. Những hoạt động này đã đóng góp quan trọng vào những thành
tựu kinh tế xã hội to lớn của đất nước, đặc biệt trong lĩnh vực thu hút đầu tư, và
đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam:
Thứ nhất, đối với hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài:

Theo Khảo sát của Hội đồng tư vấn kinh doanh ASEAN (ABAC), các nhà
đầu tư đã xếp Việt Nam đứng thứ hai về độ hấp dẫn đầu tư, sau Indonesia. Với
quy mô thị trường hấp dẫn cộng với lợi thế về nguồn lao động rẻ và nguồn tài
nguyên phong phú, ngay từ khi ra nhập Việt Nam đã khơi mạnh dòng chảy vốn
từ khu vực ASEAN. Tháng 6-1995, các nước ASEAN đầu tư vào Việt Nam gần
200 dự án với tổng số vốn pháp định trên 2 tỷ USD, chiếm 15% FDI vào Việt
Nam thời điểm đó. Tháng 1/1996 ngay sau khi Việt Nam tham gia Hiệp định
thương mại tự do ASEAN (AFTA), tốc độ thu hút FDI từ khi vực đã tăng nhanh
17
Nhóm 11 Lớp Kinh tế quốc tế 1
chóng, đạt tới trên 7,8 tỷ USD vào thời điểm giữa năm 1997 chiếm khoảng 30%
tổng mức đầu tư của tất cả các quốc gia và vùng lãnh thổ vào Việt Nam. Mặc dù
cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á năm 1997 đã khiến dòng vốn này chững lại và
sụt giảm mạnh nhưng giai đoạn từ cuối năm 2000 đến nay được coi là thời kỳ
phục hồi dòng vốn FDI từ ASEAN vào Việt Nam, cùng với đà phục hồi của các
nền kinh tế thành viên khu vực này. Năm 2004, ASEAN đã đầu tư trên 600 dự án
với tổng số vốn đăng ký trên 10 tỷ USD, chiếm 27% FDI vào Việt Nam, đứng
đầu là Singapore với 8 tỷ USD. Tính đến hết tháng 5/2007, khu vực ASEAN có
1.179 dự án đầu tư được cấp phép tại Việt Nam, với tổng vốn trên 16 tỷ USD.
Tổng kết từ năm 1988 đến tháng 6/2011 có 1.940 dự án, với tổng số vốn đạt trên
51,8 tỷ USD vốn đăng ký, bằng 13,9% tổng số dự án và bằng 23,8% tổng số vốn
đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian tương ứng. Số vốn
bình quân 1 dự án đầu tư trực tiếp của các nước ASEAN cao gấp đôi của các
nước khác (26,7 triệu USD/dự án so với 13,7 triệu USD/dự án).
Hầu hết các thành viên ASEAN đã có đầu tư vào Việt Nam. Theo số liệu
thống kê của Bộ Kế hoạch Đầu tư năm 2007, trong các nước ASEAN, Singapore
đứng đầu về đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam với 474 dự án và 9,07 tỷ
USD vốn đầu tư, đứng thứ 2 trong tổng số 78 nước và vùng lãnh thổ đầu tư tại
Việt Nam. Tiếp theo là Malaysia với 219 dự án và 1,7 tỷ USD tổng vốn đầu tư,
đứng thứ 10 trong 78 nước và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam; Philippines đã

đầu tư 30 dự án với 247 triệu USD tổng vốn đầu tư; Indonesia có 14 dự án với
137 triệu USD tổng vốn đầu tư; Brunei có 37 dự án và 125 triệu USD tổng vốn
đầu tư; Indonesia 13 dự án đầu tư vào Việt Nam với tổng vốn đầu tư 130 triệu
USD; Brunei có 37 dự án với tổng vốn đầu tư 125 triệu USD.
Tuy nhiên lĩnh vực mà nhà đầu tư ASEAN tập trung vốn lại không đồng
đều, chủ yếu là công nghiệp, xây dựng, dịch vụ. Các nhà đầu tư Singapore có mặt
trong hầu hết các ngành kinh tế của Việt Nam, từ thăm dò, khai thác dầu khí, sản
xuất công nghiệp tới chế biến nông, lâm, hải sản nhưng tập trung nhiều nhất
trong lĩnh vực dịch vụ với 207 dự án và tổng vốn đầu tư là 5,5 tỷ USD, chiếm
60,7% tổng vốn đăng ký; tiếp theo là lĩnh vực công nghiệp và xây dựng với 230
dự án và tổng vốn đầu tư là 3,3 tỷ USD, chiếm 36,4% tổng vốn đăng ký; số còn
lại thuộc lĩnh vực nông - lâm - nghiệp chỉ có 37 dự án và 254 triệu USD vốn đầu
18
Nhóm 11 Lớp Kinh tế quốc tế 1
tư. Trong khi đó các dự án của Indonesia tập trung vào lĩnh vực công nghiệp với
11 dự án và 73,8 triệu USD (chiếm 56% tổng vốn đầu tư của Indonesia); 3 dự án
trong lĩnh vực dịch vụ với 63,7 triệu USD; không có dự án trong lĩnh vực nông
nghiệp. Brunei chủ yếu đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp với 31 dự án và 116
triệu USD vốn đầu tư (chiếm 92% tổng vốn đầu tư của Brunei), nông nghiệp và
dịch vụ chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ với 5 dự án và 9,6 triệu USD trong lĩnh vực nông
nghiệp và 1 dự án với 120.000 USD trong lĩnh vực dịch vụ.
Việc các nhà đầu tư tăng cường đầu tư vào Việt Nam góp phần tạo thêm
việc làm và nâng cao năng lực, tay nghề cho người lao động, phù hợp với chiến
lược phát triển của nước ta. Các khu công nghiệp của ASEAN tại Việt Nam được
mở ra thu hút hàng trăm nghìn lao động như: Khu công nghiệp Việt Nam-
Singapore (Bình Dương), Khu công nghiệp Việt Nam-Thái Lan AMATA (Đồng
Nai), Khu công nghiệp Việt Nam-Malaysia (Khu chế xuất Đà Nẵng), Khu công
nghiệp Việt Nam-Malaysia (Nội Bài, Hà Nội). Bên cạnh đó nhiều chương trình
hợp tác, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cũng được triển khai như 12 chương
trình, dự án hoạt động trong khuôn khổ kế hoạch hành động Phát triển Nhân lực

thuộc Sáng kiến hội nhập ASEAN bao gồm một số dự án đáng chú ý như
Chương trình ASEAN – Nhật Bản về Quan hệ lao động, Chương trình Phát triển
nguồn nhân lực cho các quan chức ASEAN, dự án Nghiên cứu AFTA và các tác
động của quá trình gia nhập AFTA đối với vấn đề lao động, việc làm tại các
nước ASEAN, dự án Tăng cường khả năng công nhận tay nghề giữa các nước
ASEAN…Nhưng một thực trạng không thể phủ nhận đang diễn ra đó là lao động
Việt Nam làm việc cho các công ty nước ngoài chủ yếu là lao động phổ thông
không có trình độ và tay nghề, hưởng mức lương thấp và bị bóc lột về lao động.
Thứ hai, đối với hoạt động đầu tư ra nước ngoài:
Mặc dù là nước khuyến khích thu hút các luồng vốn FDI, Việt Nam cũng có
một số dự án FDI tại các nước ASEAN. Tuy quy mô của các dự án này không
lớn, nhưng cũng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và các
thành viên khác trong ASEAN.
Năm 2009, Việt Nam đầu tư tập trung vào Lào, Campuchia,
Singapore Trong số 200 dự án đầu tư ra nước ngoài thì 70 dự án được triển khai
tại Lào với số vốn 461 triệu USD, chiếm 44,7% tổng số vốn, tiếp theo là
19
Nhóm 11 Lớp Kinh tế quốc tế 1
Campuchia. Tuy nhiên, phân bổ đầu tư ra nước ngoài đang có sự chuyển dịch và
thay đổi, trước đây nước bạn Lào là thị trường đầu tư ra nước ngoài lớn nhất của
Việt Nam thì sang năm 2010, Việt Nam đầu tư sang Campuchia nhiều nhất, với
việc doanh nghiệp 2 nước ký thỏa thuận hợp tác với tổng trị giá khoảng 6 tỷ USD
tại Hội nghị xúc tiến đầu tư của Việt Nam vào Campuchia.
Các lĩnh vực đầu tư chủ yếu bao gồm lĩnh vực công nghiệp, xây dựng mà
mạnh nhất là thăm dò và khai thác dầu khí, sản xuất và chế biến hàng gia dụng
Sản xuất vật liệu xây dựng chiếm gần một nửa số dự án và gần 70% số vốn kế
đến là nông nghiệp và dịch vụ. Một số dự án đầu tư quy mô lớn là Dự án đầu tư
quy mô lớn trong năm 2011 là Dự án Nhà máy thủy điện Hạ Sê San II tại
Campuchia (tổng đầu tư 806 triệu USD), Dự án viễn thông của Tập đoàn Viettel
ở Peru (408 triệu USD), Dự án trồng 6.500 ha cao su tại tỉnh StungTreng

Campuchia (53,7 triệu USD), 2 dự án thủy điện mà Công ty cổ phần Đầu tư Sài
Gòn (SGI) đầu tư là Nậm Ngum 4, công suất 200 MW và Nậm Sum (Lào) công
suất 280 MW có tổng đầu tư 800 triệu USD Mỹ; Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai
xây dựng trung tâm thương mại, căn hộ, văn phòng cho thuê; nhà máy chế biến
gỗ, trồng cây cao su; xây thủy điện, dự án mỏ sắt và đồng tại Lào với tổng vốn
đầu tư lên đến 260 triệu USD Mỹ…
Bên cạnh đó, gần đây các doanh nghiệp Việt Nam còn hướng đến các lĩnh
vực như hàng không, ngân hàng, bảo hiểm…Trong đó phải kể đến một số dự án
có số vốn đăng ký lớn như: Hợp đồng liên doanh thành lập Hãng hàng không
quốc gia Campuchia (Cambodia Angkor Air -CAA) vừa được ký kết giữa
Vietnam Airlines (VNA) và các đối tác Campuchia vào cuối tháng 7-2009 tại
Phnom Penh có vốn đầu tư lên đến 100 triệu đô la Mỹ mà Chính phủ Campuchia
góp 51% vốn, VNA góp 49% vốn; Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
(BIDV) đã chính thức công bố sự hiện diện thương mại đầu tư của mình với việc
hình thành các pháp nhân mới tại xứ sở chùa Tháp này.
Thống kê từ báo cáo của Tập đoàn, doanh nghiệp có nhiều dự án đầu tư ra
nước ngoài đứng đầu là Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, với tổng vốn chuyển ra
nước ngoài khoảng 347 triệu USD; Thứ hai là Tập đoàn Viettel (185 triệu USD);
Thứ ba tập đoàn Cao su Việt Nam (134,6 triệu USD); Thứ tư tập đoàn Sông Đà
20
Nhóm 11 Lớp Kinh tế quốc tế 1
(161 triệu USD); Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai là 39 triệu USD và CTCP Đông
Dương xanh là 23,7 triệu USD.
Trong tương lai hoạt động đầu tư ra nước ngoài của Việt Nam được dự báo
là sẽ không ngừng phát triển và không chỉ hạn chế ở các nước đang phát triển mà
còn hướng vào các nước phát triển như Singapo, Thái Lan…
3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN
HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU VÀ ĐẦU TƯ CỦA VIỆT NAM
KHI GIA NHẬP
3.1. Đánh giá chung

Năm 1995, Việt Nam gia nhập Hiệp hội các nước ASEAN, nhằm phá thế
bao vây cấm vận của nhiều nước sau sự kiện Việt Nam giúp nhân dân
Campuchia loại trừ chế độ diệt chủng Polpot. Đây là một quyết định chính trị và
trước hết là vì lợi ích chính trị. Chính lợi ích chính trị này chi phối các lợi ích
khác.
Việc Việt Nam tham gia Hiệp định mậu dịch tự do ASEAN với các hợp
phần: Hiệp định về thương mại hàng hoá (CPT/AFTA), Hiệp định dịch vụ và
hiệp định đầu tư và cùng với các thành viên khác ký hiệp định mậu dịch tự do
với các đối tác khác (ASEAN+ ) là hệ quả tất yếu của việc Việt Nam gia nhập
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á.
Tác động của các hiệp định này đến Viết nam là khá phức tạp. Do tính bổ
sung giữa các nền kinh tế tuy có nhưng không lớn lại khác nhau ở từng đối tác,
trong khi đó tính cạnh tranh lại rất cao nên cùng với cơ hội có được thì thách
thức cũng rất lớn.
Việc tận dụng cơ hội vượt qua thách thức và ở yêu cầu cao hơn là biến
thách thức thành cơ hội đỏi hỏi mỗi quốc gia, đặc biệt là các quốc gia có trình độ
phát triển thấp hơn ( nhóm nước CLMV ) trong đó có Việt Nam phải đẩy mạnh
cải cách, nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm tạo ra năng lực nội sinh mới để tận
dụng được cơ hội, vượt qua thách thức để hội nhập thành công.
Phân tích cơ hội và thách thức
21
Nhóm 11 Lớp Kinh tế quốc tế 1
3.1.1. Những cơ hội
Thúc đẩy xây dựng thể chế kinh tế theo nguyên tắc thị trường, giảm thiểu
hàng rào bảo hộ, tạo bước chuẩn bị quan trọng cho việc đàm phán gia nhập tổ
chức thương mại thế giới.
 Do trình độ phát triển của ASEAN còn thấp và lại rất khác nhau ở mỗi
thành viên nên trong hội nhập ASEAN có hai lĩnh vực sức ép trong
ASEAN không quá lớn, đó là thể chế kinh tế và mở cửa thị trường dịch
vụ.

 Mặc dầu vậy, thể chế kinh tế, đặc biệt là chính sách quản lý thương mại
cũng đã phải cải cách khá mạnh. Đó là, loại bỏ cơ bản các biện pháp hạn
chế thương mại (bãi bỏ các hàng rào phi thuế quan đối với hầu hết các mặt
hàng, trừ một số ít các mặt hàng nông sản nhạy cảm) điều mà trước khi
thực hiện CPT/ATA Việt Nam còn duy trì nhiều biện pháp hạn chế.
 Cắt giảm mạnh thuế quan theo lộ trình. Theo đó đại bộ phận số giòng thuế
được đưa về 0-5% vào năm 2006 và xuống 0% vào năm 2015.
Tạo ra thị trường lớn để thu hút đầu tư nước ngoài không chỉ thu hút đầu
tư từ các nước ASEAN, các đối tác của ASEAN mà còn thu hút đầu tư từ các
nước khác đặc biệt là khu vực Châu Âu và Hoa Kỳ. Kì khi đầu tư vào một thành
viên của ASEAN, các nhà đầu tư có thể bán sản phẩm của mình không chỉ trên
thị trường nội địa của nước đó mà còn bán tại thị trường 500 triệu dân của khu
vực ASEAN và hơn thế là thị trường xấp xỉ 3,5 tỷ, chiếm hơn 50% dân số thế
giới (gồm ASEAN, Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, hàn quốc, ÚC và
Newzealand) với mức thuế ngày càng được giảm thấp.
Đầu tư sẽ thúc đẩy dịch chuyển cơ cấu kinh tế, tạo ra công ăn việc làm và
bảo đảm tăng trưởng. Đây là cơ hội lớn nhất mà Việt Nam cũng như các thành
viên ASEAN có được
Thị trường xuất khẩu được mở rộng sang các nước thành viên của hiệp
định với múc thuế được giảm thấp.
Hội nhập kinh tế, tạo cái cốt vật chất và lợi ích kinh tế để hội nhập trên
các lĩnh vực khác, nhằm tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, hình thành sự
22
Nhóm 11 Lớp Kinh tế quốc tế 1
tập hợp lực lượng mới, tranh thủ được sự ủng hộ để giải quyết những vấn đề
phức tạp với bên ngoài.
Có thể tiếp cận được những thị trường rộng lớn hơn với những ưu đãi
thương mại (giảm thuế quan và phi thuế, quy chế MFN, NT, GSP…) để tiêu thụ
sản phẩm, dịch vụ và cung ứng được nguồn nguyên,nhiên liệu, thiết bị với giá
cạnh tranh;

Cơ hội tiếp thu công nghệ mới, phương thức quản lý tiên tiến để nâng cao
hiệu quả và năng lực cạnh tranh;
Cơ hội cho việc phát triển quan hệ đối tác với nước ngoài:
 Khả năng tiếp cận tốt hơn các nguồn tài chính, tín dụng đa dạng cả ở trong
lẫn ngoài nước để tăng đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh
 Thông qua cọ xát, cạnh tranh, học hỏi và tích luỹ kinh nghiệm, tri thức,
rèn luyện nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ nhân lực;
Nhìn chung các doanh nghiệp được hưởng nhiều lợi ích quan trọng từ quá trình
tự do hoá và cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh theo hướng thuận lợi và
cạnh tranh bình đẳng hơn.
3.1.2. Những thách thức
Việc tận dụng những cơ hội nói trên còn tuỳ thuộc và môi trường đầu tư
và các yếu tố hộ trợ đầu tư từ các nước thành viên (Sự ổn định chính trị xã hội,
môi trường kinh doanh, bao gồm cơ chế chính sách và thủ tục hành chính, chất
lượng nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng, sự phát triển của công nghiệp hộ trợ ). Sau
khi gia nhập ASEAN, hoạt động xuất nhập khẩu và hoạt động đầu tư của Việt
Nam còn gặp phải những thách thức sau:
 Cạnh tranh rất gay gắt. do tính cạnh tranh của hàng hoá trong ASEAN và
giữa ASEAN với Trung Quốc là rất cao,
 Một bộ phân dân cư bị tác động tiêu cực và dễ bị tổn thương do hội nhập,
đặc biệt những người làm trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn, trước
sức ép của hàng nhập khẩu từ Thái Lan, Trung Quốc….
 Sự biến động của thị trường khu vực sẽ tác động rất nhanh, rất mạnh đến
thị trường trong nước, đặc biệt là thị trường tài chính, thị trường dầu mỏ
và giòng vốn đầu tư.
23
Nhóm 11 Lớp Kinh tế quốc tế 1
 Có nguy cơ ô nhiễm môi trường do các nước chuyển công nghệ lạc hậu
gây ô nhiễm môi trường vào nước ta, nếu không được kiểm soát tốt và
nhận đầu tư bất cứ giá nào.

 Nếu môi trường kinh doanh không có tính cạnh tranh cao, thể chế kinh tế
và thủ tục hành chính không tốt, cơ sở hạ tầng và chất lượng nguồn nhân
lực không tốt. Tóm lại các yếu tố nội sinh không tốt, chúng ta sẽ không
tận dụng hết được cơ hội và thách thức sẽ rất lớn.
 Nguy cơ phá sản hoặc chuyển đổi sản xuất kinh doanh do năng lực cạnh
tranh kém. Nhiều doanh nghiệp của ta phải đối mặt với thách thức nghiêm
trọng này, bởi vì phải cạnh tranh trong điều kiện rất khó khăn cả từ phía
bản thân các doanh nghiệp (quy mô nhỏ, thiếu vốn, công nghệ lạc hậu,
quản lý kém, hàng hoá sản phẩm thiếu sức cạnh tranh…) lẫn từ phía nhà
nước (môi trường chính sách vĩ mô, hệ thống luật pháp, việc thực thi và
năng lực của đội ngũ cán bộ còn nhiều bất cập).
 Phải chịu nhiều phí tổn hơn về giao dịch, tư vấn, tiếp thị, quảng cáo, đào
tạo…
 Có nhiều rủi ro khi hoạt động trên thị trường nước ngoài, nhất là trong
điều kiện không hiểu rõ chính sách, luật lệ, thủ tục và cách thức làm ăn tại
thị trường đó và các đối tác nước ngoài (khả năng bị lừa đảo, xử bất lợi
trong các vụ tranh chấp…).
3.2. Kiến nghị hoàn thiện hoạt động xuất nhập khẩu và hoạt động đầu tư của
Việt Nam sau khi gia nhập ASEAN
3.2.1. Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ ngành trong công tác ASEAN
Để công tác ASEAN vận hành tốt đòi hỏi sự tham gia phối hợp chặt chẽ
giữa các Bộ, ngành với nhau, giữa cơ quan quản lý nhà nước và các doanh
nghiệp. Chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện và cải tiến cơ chế điều phối một cách
toàn diện thống nhất. Cần nghiên cứu để có phương án tham gia các hoạt động
ASEAN một cách bình đẳng chủ động, phù hợp với tình hình trong nước và xu
hướng chung của ASEAN.
Về mặt đối ngoại, chúng ta cần đóng góp một cách tích cực vào nỗ lực của
ASEAN trong việc xây dựng, duy trì môi trường hoà bình ổn định, hợp tác và
phát triển khu vực trên thế giới. Trong thời gian tới chúng ta cần tiếp tục quan
24

Nhóm 11 Lớp Kinh tế quốc tế 1
tâm, tìm ra những lợi ích tương đồng để có một chính sách đối ngoại chủ động
cùng với các nước thành viên khác của ASEAN thực hiện tốt hơn nỗ lực này.
Về mặt đối nội, chúng ta cần phát hiện và hệ thống hoá những điểm khác
biệt về cơ cấu, chính sách kinh tế, thủ tục hành chính trong nước so với nhu cầu
thực hiện các chương trình hợp tác của ASEAN, từ đó có cơ sở xem xét, điều
chỉnh bổ sung một cách khoa học nhằm tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy cải
cách hành chính và cải cách kinh tế của nước theo hướng đã chọn
3.2.2. Công tác đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác ASEAN
Để có thể tham gia tích cực vào hoạt động trong ASEAN, đội ngũ cán bộ
trực tiếp làm công tác ASEAN cần làm quen dần với “ phong cách ASEAN “
nắm được quy trình hình thành các văn bản và các chương trình, dự án hợp tác.
Điều quan trọng hơn cả là đội ngũ cán bộ này cần ý thức được tính bình đẳng về
trách nhiệm trong ASEAN. Mỗi cuộc họp bàn về một vấn đề thực sự là một cuộc
đàm phán trong môi trường đa phương để bảo vệ lợi ích của quốc gia mình đồng
thời lại quan hệ mật thiết tới các mối quan hệ song phương.
Cần coi hoạt động ASEAN là môi trường, là điều kiện gấp rút tăng cường
đội ngũ cán bộ vừa am hiểu về chuyên môn, vừa thông thạo tiếng nước ngoài và
có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế đa phương nhưng lại về những
vấn đề hết sức cụ thể và chuyên sâu ở tất cả các cấp, các ngành. Trong xu hướng
tăng cường đối thoại, toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới , ngoại ngữ không chỉ cần
thiết cho cán bộ làm công tác ASEAN mà cho tất cả các cán bộ làm công tác đối
ngoại.
3.2.3. Công tác thông tin tuyên truyền về ASEAN
Công tác thông tin tuyên truyền cũng đóng một vai trò quan trọng trong sự
thành công của các hoạt động tham gia ASEAN. Ngoài việc cần thông tin một
cách đầy đủ, có hệ thống phục vụ, bộ máy làm công tác ASEAN để các tầng lớp
nhân dân có nhận thức đúng đắn về đường lối hội nhập nhưng không hòa tan của
Đảng và Nhà nước ta, nhận thức đúng đắn về những cơ hội và thách thức, về
quyền lợi và trách nhiệm của một nước thành viên. Một trong những mục tiêu

trọng tâm của công tác thông tin tuyên truyền về ASEAN là phải giúp các doanh
nghiệp trong nước có thông tin về tình hình kinh doanh, thị trường khu vực, phân
tích dự báo được những thăng trầm biến động để có biện pháp đề phòng khi tham
25

×