Tải bản đầy đủ (.docx) (105 trang)

Tăng cường quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam chi nhánh huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (577.13 KB, 105 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1- Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Hiện nay hoạt động tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông Thôn (NHNo&PTNT) Việt Nam nói chung và NHNo&PTNT chi nhánh
huyện Phúc Thọ nói riêng vẫn là hoạt động chủ yếu.
Trong những năm qua, hoạt động tín dụng của chi nhánh NHNo&PTNT
huyện Phúc Thọ đã đóng góp không nhỏ vào sự phát triển kinh tế chung của
Huyện, danh mục tín dụng được thay đổi tích cực, tăng tỷ trọng cho vay đối
với hộ nông nghiệp cũng như doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông
nghiệp, quy trình tín dụng từng bước được thực hiện theo chuẩn mực quốc tế.
Tuy nhiên, trong hoạt động tín dụng, Chi nhánh luôn phải đối diện với nhiều
loại rủi ro, nhất là rủi ro tín dụng. Do vậy, để đảm bảo an toàn trong hoạt
động, quản trị rủi ro tín dụng đã được Chi nhánh đặc biệt quan tâm. Mặc dù
vậy, quản trị rủi ro tín dụng tại Chi nhánh vẫn còn bất cập, chưa đáp ứng được
yêu cầu: rủi ro tín dụng vẫn xảy ra và gây ảnh hưởng tiêu cực về kinh tế - xã
hội.
Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt, nhu cầu tăng trưởng tín
dụng lớn, rủi ro tín dụng có nguy cơ gia tăng, Chi nhánh sẽ khó phát triển bền
vững nếu không chú trọng hơn tới quản trị rủi ro tín dụng.
Chính vì tính cấp thiết như trên, tôi chọn đề tài: “Tăng cường quản
trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
Việt Nam - chi nhánh huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội” làm luận
văn tốt nghiệp với mong muốn góp phần đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn.
2- Mục đích nghiên cứu
- Đề xuất giải pháp tăng cường quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - chi nhánh huyện Phúc Thọ,
thành phố Hà Nội. Để đạt được mục tiêu đó, các nhiệm vụ cụ thể cần được
thực hiện:
1



- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về quản trị rủi ro tín dụng của
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - chi nhánh huyện
Phúc Thọ, thành phố Hà Nội.
- Phân tích, đánh giá thực trạng quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - chi nhánh huyện Phúc Thọ, thành
phố Hà Nội.
3- Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu: Quản trị rủi ro tín dụng của Ngân hàng
thương mại.
4- Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu: Quản trị rủi ro tín dụng của Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - chi nhánh huyện Phúc Thọ, thành
phố Hà Nội trong thời gian từ năm 2012 đến 2014.
5- Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn, các phương pháp nghiên cứu được
sử dụng: Phương pháp phân tích tổng hợp; Phương pháp thống kê, so sánh; ...
6- Kết cấu
Luận văn được kết cấu theo 03 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản trị rủi ro tín dụng của Ngân hàng
thương mại
Chương 2: Thực trạng quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn Việt Nam – chi nhánh huyện Phúc Thọ, thành phố Hà
Nội.
Chương 3: Giải pháp tăng cường quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam – chi nhánh huyện Phúc Thọ,
thành phố Hà Nội.


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA

NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Khái quát về Ngân hàng thương mại
* Khái niệm
Thuật ngữ “Ngân hàng” đã có từ rất lâu, hoạt động ngân hàng được
chứng minh là gắn bó cùng với sự hình thành đời sống kinh tế và xã hội loài
người, nhiều tài liệu và di chứng khảo cổ cho thấy hoạt động ngân hàng đã ra
đời từ 3 - 4 ngàn năm trước công nguyên. Tại Hy Lạp các nhà đổi tiền được
gọi là Trapezita - tiếng Hy lạp có nghĩa là cái bàn. Các Trapezita ngồi trước
các bàn đổi tiền để nhận tiền của giai cấp quí tộc, người giầu có, vv... Ở Ý các
hoạt động mua, bán trao đổi vay tiền được tiến hành trên các bàn dài gọi là
Banca, đây cũng là từ xuất phát gốc của từ Banque (Pháp), Bank ( Anh, Mỹ ,
Đức ), Banco (Ý)... có nghĩa là ngân hàng sau này.
Từ thế kỷ XVIII trở về trước, hoạt động ngân hàng chưa thực sự phát
triển và chưa có vai trò quan trọng. Tuy nhiên, từ đó trở lại đây đặc biệt là
trong thời đại ngày nay ngân hàng được xem như là “mạch máu” của nền kinh
tế, hoạt động ngân hàng thể hiện sức mạnh và tiềm lực của nền kinh tế.
Cùng với chiều dài lịch sử phát triển của ngành ngân hàng, trong mỗi
giai đoạn, hoạt động ngân hàng cũng có sự thay đổi, bên cạnh đó với các hoạt
động đa dạng lại luôn biến động với sự thay đổi chung của nền kinh tế. Mặt
khác, do tập quán luật pháp của mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ khác nhau
dẫn đến quan niệm về Ngân hàng thương mại không thống nhất giữa các nước
và khu vực trên thế giới:


Tại Mỹ, nơi có thị trường tài chính phát triển nhất thế giới: "Ngân
hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài
chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và các dịch vụ thanh
toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ

chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”.
Nước Pháp coi “Ngân hàng là những xí nghiệp hay cơ sở hành nghề
thường xuyên, nhận của công chứng dưới hình thức ký thác hay hình thức
khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp vụ chiết khấu, Tín
dụng hay tài chính”.
Đan Mạch thì coi “Ngân hàng là nơi thực hiện các nghiệp vụ thiết
yếu bao gồm: thu nhận tiền ký thác; buôn bán vàng bạc; hành nghề thương
mại và các giá trị địa ốc, các phương tiện Tín dụng và hối phiếu; bảo lãnh
các món nợ; thực hiện các nghiệp vụ chuyển ngân; đứng ra bảo hiểm, bảo
đảm ký quỹ; tham dự vào thiết lập các xí nghiệp”.
Tại Việt Nam, cũng có nhiều quan niệm khác nhau về NHTM, nhưng
tôi đồng ý với quan niệm cho rằng:
- Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng hoạt động vì mục đích
lợi nhuận thông qua việc kinh doanh các khoản vốn ngắn hạn là chủ yếu.
- NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà các hoạt động chủ yếu và
thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử
dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu và làm
phương tiện thanh toán.
* Đặc điểm của Ngân hàng thương mại
Hoạt động ngân hàng thương mại là hình thức kinh doanh kiếm lời,
theo đuổi mục tiêu lợi nhuận là chủ yếu. Ngân hàng thực hiện hai hình thức
hoạt động là kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng. Trong đó, hoạt động
kinh doanh tiền tệ được biểu hiện ở nghiệp vụ huy động vốn dưới các hình
thức khác nhau. Ngân hàng thương mại là người “đi vay để cho vay” nhằm
mục đích kiếm lời. Các hoạt động dịch vụ ngân hàng được biểu hiện thông


qua các nghiệp cụ sẵn có về tiền tệ, thanh toán, ngoại hối, chứng khoán, để
cam kết thực hiện công việc nhất định cho khách hàng trong một thời gian
nhất định nhằm mục đích thu phí dịch vụ hoặc hoa hồng.

Hoạt động ngân hàng thương mại phải tuân thủ theo quy định của pháp
luật, nghĩa là chỉ khi ngân hàng thương mại thoả mãn đầy đủ các điều kiện
khắt khe do pháp luật qui định như điều kiện về vốn, phương án kinh
doanh...thì mới được phép hoạt động trên thị trường.
Là một trung gian tài chính, NHTM thường phải đối diện với nhiều rủi
ro. NHTM hoạt động chủ yếu dựa vào lượng vốn huy động từ các tổ chức
kinh tế và dân cư. Do vậy, khi rủi ro xảy ra, sự đổ vỡ của một NHTM có thể
kéo theo sự đổ vỡ của nhiều ngân hàng khác, thậm chí cả hệ thống. Nhằm
tránh tình trạng đó, hoạt động của NHTM chịu sự quản lý chặt chẽ hơn hoạt
động của bất kỳ một tổ chức kinh tế nào trong nền kinh tế.
* Hoạt động chủ yếu của Ngân hàng thương mại
- Huy động vốn:
Hoạt động huy động vốn là hoạt động cơ bản của NHTM. NHTM huy
động vốn dưới các hình thức khác nhau như: nhận tiền gửi (tiền gửi thanh
toán, tiết kiệm có kỳ hạn, tiết kiệm không kỳ hạn), đi vay, phát hành giấy tờ
có giá, vốn tiếp nhận tài trợ, vốn ủy thác đầu tư. Nguồn vốn huy động dồi dào
sẽ giúp NHTM chủ động trong hoạt động kinh doanh, giảm rủi ro thanh
khoản. Tuy nhiên, NHTM là một tổ chức kinh doanh tiền tệ nên việc huy
động nguồn vốn như thế nào sẽ được các NHTM đưa ra trên cơ sở chiến lược
kinh doanh và diễn biến thị trường trong từng thời kỳ.
- Hoạt động tín dụng:
Hoạt động tín dụng của các NHTM được hình thành từ rất sớm, ngay từ
khi thành lập các ngân hàng. Những người tổ chức ra NHTM, ngay từ đầu đã
luôn tìm kiếm các cơ hội để tiến hành cho vay, coi đó như là một nhu cầu chủ
yếu trong việc duy trì và mở rộng hoạt động của mình. Các NHTM đã góp


phần thúc đẩy phát triển kinh tế, thông qua hoạt động tín dụng vốn đầu tư
đựơc mở rộng và từ đó làm cho sản phẩm xã hội được tăng lên.
Tín dụng ngân hàng cung ứng cho những người cần vốn để mua, chế

biến, tổng hợp và cất trữ sản phẩm, sau đó bán trực tiếp cho người tiêu dùng.
Người nông dân nhờ có vốn vay, có thể mua hạt giống, thức ăn, phân bón và
các nhu cầu cần thiết khác cho việc thu hoạch và trồng trọt. Tín dụng ngân
hàng còn tạo cho họ khả năng để mua sắm vật tư, thiết bị, máy móc và thuê
mướn lao động. Việc dự trữ, vận chuyển hàng hóa của hệ thống thương
nghiệp đến tay người tiêu dùng, không thể không có yếu tố vốn tín dụng được
các NHTM cung ứng. Bên cạnh các hoạt động tài trợ cho nông nghiệp,
thương nghiệp và công nghiệp, NHTM còn tài trợ cho người tiêu dùng thông
qua việc mở rộng tín dụng tiêu dùng với việc mua nhà, phương tiện đi lại và
các trang thiết bị khác.
Cùng với tín dụng ngắn hạn, NHTM còn thực hiện tín dụng đầu tư,
nhằm mở rộng và nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật; hoặc cho Chính phủ vay
trong trường hợp ngân sách thiếu hụt thông qua việc mua các chứng khoán
của Chính phủ.
- Hoạt động trung gian khác:
Ngoài hai hoạt động cơ bản là hoạt động huy động vốn và hoạt động tín
dụng thì Ngân hàng thương mại cũng thực hiện các dịch vụ trung gian cho
khách hàng của mình. Các dịch vụ này được coi là hoạt động trung gian bởi vì
khi thực hiện các hoạt động này ngân hàng không đứng vai trò là con nợ hay
chủ nợ mà đứng ở vị trí trung gian để thoả mãn nhu cầu khách hàng về dịch
vụ mà khách hàng cần.
Ngày nay, các dịch vụ của ngân hàng không ngừng phát triển cả về số
lượng và chất lượng, các dịch vụ ngày càng đa dạng. Hoạt động trung gian
gồm rất nhiều loại dịch vụ khác nhau: như dịch vụ thu hộ chi hộ cho khách
hàng có tài khoản tiền gửi tại ngân hàng, dịch vụ chuyển khoản từ tài khoản
này từ tài khoản này đến tài khoản khác ở cùng một ngân hàng hay ở hai ngân


hàng khác nhau; dịch vụ tư vấn cho khách hàng các vấn đề tài chính, dich vụ
giữ hộ các chứng từ, vật quý giá dịch vụ chi lương cho các doanh nghiệp có

nhu cầu; dịch vụ khấu trừ tự động. Đây là những khoản chi thường xuyên
trong tháng, nếu không có dịch vụ này khách hàng sẽ tốn nhiều thời gian và
phiền toái khi thanh toán các khoản này, cung cấp các phương tiện thanh toán
không dùng tiền mặt.
Nền kinh tế càng phát triển, các dịch vụ ngân hàng theo đó cũng phát
triển theo để đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của công chúng thực hiện
nghiệp vụ trung gian mang tính dịch sẽ đem lại cho ngân hàng những khoản
thu nhập khá quan trọng. Điều cần lưu ý là dịch vụ ngân hàng sẽ giúp ngân
hàng phát triển toàn diện.Tại các nước phát triển, các ngân hàng thương mại
cạnh tranh với nhau bằng con đường “phi giá”, tức là luôn có những dịch vụ
mới cung cấp tiện nghi cho khách hàng, không ngừng tìm tòi những dịch vụ
mới cung cấp tiện nghi cho khách hàng. Dịch vụ ngân hàng càng phát triển,
thể hiện xã hội càng văn minh, nền công nghiệp càng phát triển. Lợi nhuận
các ngân hàng không chỉ ở nghiệp vụ cho vay, mà phân nửa từ các hoạt động
dịch vụ mang lại, nhưng lại là lĩnh vực ít rủi ro.
Ba lĩnh vực hoạt động huy động vốn, hoạt động tín dụng, thực hiện các
hoạt động trung gian là các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại. Ba
hoạt động đó có quan hệ mật thiết, tác động hỗ trợ thúc đẩy nhau phát triển,
tạo uy tín cho ngân hàng. Có huy động vốn thì mới có nghiệp vụ cho vay, cho
vay có hiệu quả phát triển kinh tế thì mới có nguồn vốn để huy động vào,
đồng thời muốn cho vay và huy động vốn tốt thì ngân hàng phải làm tốt vai
trò trung gian, chính sự kết hợp đồng bộ đó tạo thành quy luật trong hoạt động
của ngân hàng và tạo thành xu hướng kinh doanh tổng hợp đa năng của các
Ngân hàng thương mại.
1.1.1.2 Hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại
Tín dụng là thuật ngữ chỉ giao dịch tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa
bên cho vay (ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay, trong


đó, bên cho vay chuyển giao tài sản của mình cho bên đi vay sử dụng trong

một thời hạn nhất định đã được thỏa thuận, bên đi vay sử dụng khoản tiền đó
và sẽ phải hoàn trả vô điều kiện đầy đủ gốc, lãi cho bên cho vay khi đến hạn
thanh toán.
Tín dụng của NHTM là quan hệ tín dụng, trong đó bên cho vay là các
NHTM, bên đi vay là các cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế có nhu cầu sử
dụng vốn và đáp ứng đầy đủ các điều kiện của NHTM để được vay vốn.
Hoạt động tín dụng của NHTM là việc NHTM sử dụng vốn huy động
được để cho vay đối với các cá nhân, tổ chức có nhu cầu sử dụng vốn để phục
vụ tiêu dùng, phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó NHTM thu lợi
nhuận từ lãi cho vay sau khi bù đắp chi phí huy động vốn.
* Phân loại hoạt động tín dụng
Có nhiều tiêu chí để phân loại tín dụng ngân hàng, tuy nhiên có thể
phân loại theo một số tiêu chí thông dụng sau:
- Căn cứ vào thời hạn:
Tín dụng ngắn hạn: là những khoản tín dụng có thời hạn dưới 12 tháng.
Thông thường loại hình tín dụng này sẽ đáp ứng nhu cầu vốn lưu động của tổ
chức và nhu cầu chi tiêu cá nhân.
Tín dụng trung hạn: là những khoản tín dụng có thời hạn trên 12 tháng
đến 60 tháng. Loại hình tín dụng này nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư tài sản cố
định, mở rộng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đầu tư các dự án có quy
mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Thông thường biện pháp bảo đảm cho
các khoản tín dụng này là khách hàng thế chấp chính tài sản hình thành từ vốn
vay.
Tín dụng dài hạn: là những khoản tín dụng có thời hạn trên 60 tháng,
được sử dụng để đáp ứng nhu cầu vốn cho các dự án đầu tư dây chuyền máy
móc thiết bị đồng bộ, giá trị lớn, dự án xây dựng cơ sở hạ tầng. Thông thường
biện pháp bảo đảm cho các khoản tín dụng này là khách hàng thế chấp chính
tài sản hình thành từ vốn vay.



- Căn cứ vào biện pháp bảo đảm, có thể phân chia thành
Tín dụng có bảo đảm đầy đủ bằng tài sản: là các khoản tín dụng mà
theo đó nghĩa vụ trả nợ khách hàng được bảo đảm bằng tài sản cầm cố, thế
chấp của khách hàng vay hoặc bên thứ ba hoặc bảo lãnh của bên thứ ba. Loại
hình tín dụng này giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng, trong trường hợp khách
hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ, ngân hàng có toàn quyền xử lý tài
sản để thu hồi nợ.
Tín dụng không có bảo đảm bằng tài sản: là các khoản tín dụng mà theo
đó nghĩa vụ trả nợ của khách hàng không được bảo đảm bằng tài sản cầm cố
thế chấp hoặc bảo lãnh của bên thứ ba. Ngân hàng cấp tín dụng hoàn toàn dựa
trên đánh giá năng lực và uy tín của khách hàng. Loại hình tín dụng này khá
rủi ro với ngân hàng, do đó chỉ thực hiện đối với những khách hàng mà ngân
hàng đánh giá có uy tín, có đầy đủ năng lực.
* Qui trình tín dụng
Quy trình tín dụng là bảng tổng hợp mô tả công việc của ngân hàng từ
khi tiếp nhận hồ sơ vay vốn của một khách hàng cho đến khi quyết định cho
vay, giải ngân, thu nợ và thanh lý hợp đồng tín dụng...
Một quy trình tín dụng căn bản gồm các
bước: Bước 1: Lập hồ sơ vay vốn
Bước này do cán bộ tín dụng thực hiện ngay sau khi tiếp xúc khách
hàng. Nhìn chung một bộ hồ sơ vay vốn cần phải thu thập các thông tin như:
năng lực pháp lý, năng lực hành vi dân sự của khách hàng; khả năng sử dụng
vốn vay; khả năng hoàn trả nợ vay (vốn vay + lãi)
Bước 2: Phân tích tín dụng
Phân tích tín dụng là xác định khả năng hiện tại và tương lại của khách
hàng trong việc sử dụng vốn vay + hoàn trả nợ vay. Mục tiêu là:


Tìm kiếm những tình huống có thể xảy ra dẫn đến rủi ro cho ngân
hàng, dự đoán khả năng khắc phục những rủi ro đó, dự kiến những biện pháp

giảm thiểu rủi ro và hạn chế tổn thất cho ngân hàng.
Phân tích tính chân thật của những thông tin đã thu thập được từ phía
khách hàng trong bước 1, từ đó nhận xét thái độ, thiện chí của khách hàng
làm cơ sở cho việc ra quyết định cho vay.
Bước 3: Ra quyết định tín dụng
Trong khâu này, ngân hàng sẽ ra quyết định đồng ý hoặc từ chối cho
vay đối với một hồ sơ vay vốn của khách hàng.
Khi ra quyết định, thường mắc 2 sai lầm cơ bản:
Đồng ý cho vay với một khách hàng không tốt
Từ chối cho vay với một khách hàng tôt.
Cả 2 sai lầm đều ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh tín dụng, thậm
chí sai lầm thứ 2 còn ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng.
Bước 4: Giải ngân
Ở bước này, ngân hàng sẽ tiến hành phát tiền cho khách hàng theo hạn
mức tín dụng đã ký kết trong hợp đồng tín dụng.
Nguyên tắc giải ngân: phải gắn liền sự vận động tiền tệ với sự vận động
hàng hóa hoặc dịch vụ có liên quan, nhằm kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay
của khách hàng và đảm bảo khả năng thu nợ. Nhưng đồng thời cũng phải tạo
sự thuận lợi, tránh gây phiền hà cho công việc sản xuất kinh doanh của khách
hàng.
Bước 5: Giám sát tín dụng
Nhân viên tín dụng thường xuyên kiểm tra việc sử dụng vốn vay thực
tế của khách hàng, hiện trạng tài sản đảm bảo, tình hình tài chính của khách
hàng,... để đảm bảo khả năng thu nợ.
Bước 6: Thanh lý hợp đồng tín dụng


Trong hoạt động tín dụng, Ngân hàng thương mại phải đối diện với
nhiều rủi ro, nhất là rủi ro tín dụng.
1.1.2. Rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại

1.1.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại
Có nhiều quan niệm về rủi ro tín dụng (RRTD) có thể đưa ra là :
- Theo quan điểm của A.Saunders và H. Lange định nghĩa : “Rủi ro tín
dụng là khoản lỗ tiềm tàng khi ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng,
nghĩa là khả năng luồng thu nhập dự tính mang lại từ khoản vay của ngân
hàng không thể thực hiện đầy đủ cả về số lượng và thời gian”.
Quan điểm của TimmothyW.Koch : “Rủi ro tín dụng là sự thay đổi
tiềm ẩn của thu nhập thuần và thị giá của vốn xuất phát từ việc vốn vay
không được thanh toán hay thanh toán trễ hạn”.
Theo đinh nghĩa của Uỷ ban Basel thuộc ngân hàng thanh toán quốc tế:
“Rủi ro tín dụng là khả năng là khách hàng vay hoặc bên đối tác không thực
hiện được các nghĩa vụ của mình theo những điều khoản đã thoả thuận”.
Theo quyết định 493/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN Việt Nam tại
khoản
1, điều 2: “Rủi ro tín dụng trong hoạt động của các tổ chức tín dụng là khả
năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng do
khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của
mình theo cam kết”.
Như vậy có thể thấy rằng có nhiều quan niệm về rủi ro tín dụng
(RRTD), song về bản chất RRTD là : Khả năng (xác suất) xảy ra những
thiệt hại về kinh tế mà NHTM phải gánh chịu do khách hàng vay vốn
thanh toán nợ không đúng hạn hoặc không hoàn trả được nợ vay (gồm gốc
và /hoặc lãi)
1.1.2.3. Hậu quả khi xảy ra rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương
mại


Khi rủ i ro tiń
dun


g xảy ra sẽ làm ảnh hưởng xấu đến rất nhiều chủ thể.
Đầu tiên là bản thân các ngân hàng và
khách hàng, sau đó là tác động đến cả nền
kinh tế.
a. Hậu quả đối với Ngân hàng thương
mại
Việc không thu hồi được nợ (gốc,
lãi và các khoản phí) làm cho nguồn vốn
của các NHTM bị thất thoát, trong khi đó,
các ngân hàng này vẫn phải chi trả tiền lãi
cho nguồn vốn hoạt động, làm cho lợi
nhuận bị giảm sút. Nếu lợi nhuận không
đủ thì ngân hàng còn phải dùng chính vốn
tự có của mình để bù đắp thiệt hại. Điều
này có thể làm ảnh hưởng đến quy mô
hoạt động của các NHTM.
Mặt khác, tỷ lệ nợ quá hạn cao làm
cho uy tín, niềm tin vào tiềm lực tài chính
của ngân hàng bị suy giảm, dẫn đến làm
giảm khả năng huy động vốn của ngân
hàng, nghiêm trọng hơn nó có thể dẫn đến
rủi ro thanh khoản, đẩy ngân hàng đến bờ
vực phá sản và đe dọa sự ổn định của toàn
bộ hệ thống ngân hàng.
b. Hậu quả đối với khách hàng
Đối với bản thân chủ thể không có
khả năng hoàn trả vốn (lãi) cho ngân hàng
thì họ gần như không có cơ hội tiếp cận
với nguồn vốn ngân hàng và thậm chí là
cả những nguồn khác trong nền kinh tế do

đã mất đi uy tín.


Cơ hội tiếp
cận vốn
ngân hàng
của các chủ
thể đi vay
khác cũng
bị hạn
c
g buộc các NHTM
h
hoặc thắt cho vay
ế
hay thậm chí
h
ơ
n
k
h
i
r
u
̉
i
r
o
t
i

́
n
d
u
n
phải thu hẹp quy
mô hoạt động.
Các chủ thể
gửi tiền vào ngân
hàng có nguy cơ
không thu hồi

được khoản tiền gửi và lãi nếu như các
ngân hàng lâm vào tình trạng phá sản.
c. Hậu quả đối với nền kinh tế
Hệ thống ngân hàng có mối quan hệ
chặt chẽ với nền kinh tế, là kênh thu hút
và cung cấp tiền cho các tổ chức, doanh
nghiệp và cá nhân trong nền
kinh tế. Do g có ảnh hưởng trực tiếp đến nền
đó, rủ i ro
kinh tế.
tiń dun


Ở mức độ thấp, rủ i ro tiń
g khiến cơ hội tiếp cận vốn mở rộng hoạt
dun
động sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng của các khách hàng bị hạn chế, ảnh
hưởng xấu đến khả năng tăng trưởng của nền kinh tế.

Ở mức độ cao hơn, khi có một ngân hàng lâm vào tình trạng khó khăn
dẫn đến phá sản, thì hiệu ứng dây chuyền rất dễ xảy ra trong toàn bộ hệ thống
ngân hàng, gây nên khủng hoảng đối với toàn bộ nền kinh tế, ảnh hưởng tiêu
cực đến đời sống xã hội và sự phát triển của đất nước.
1.2. QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1. Khái niệm và sự cần thiết quản trị rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương
mại
Quản trị rủi ro tín dụng là quá trình xây dựng và thực thi các chiến
lược, các chính sách quản trị và kinh doanh tín dụng nhằm đạt được các mục
tiêu an toàn, hiệu quả và phát triển bền vững, tăng cường các biện pháp phòng
ngừa, hạn chế nợ quá hạn, nợ xấu trong kinh doanh tín dụng, từ đó tăng doanh
thu, giảm chi phí, nâng cao chất lượng và hiệu quả cho vay cả ngắn, trung và
dài hạn của NHTM.
Theo Uỷ ban Basel thì: “Hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng là một bộ
phận quan trọng trong cách tiếp cận rủi ro tổng thể và được coi là đóng vai
trò cốt tử cho sự thành công của Ngân hàng trong dài hạn”.(Basel
Committee on Banking Supervision, 2000).
Khái niệm quản trị rủi ro tín dụng có thể được đề cập ở nhiều góc độ
khác nhau, nhưng bản chất là giống nhau, và đứng trên góc độ quản trị học,
chúng ta có thể hiểu: quản trị rủi ro tín dụng là quá trình các ngân hàng tiến
hành hoạch định, tổ chức triển khai thực hiện và giám sát kiểm tra toàn bộ
hoạt động cấp tín dụng, nhằm tối đa hóa lợi nhuận của ngân hàng với mức
rủi ro có thể chấp nhận được.
Như vậy, quản trị rủi ro tín dụng gắn liền với quản trị và kinh doanh tín
dụng. Quản trị rủi ro tín dụng phải hướng vào việc đảm bảo hiệu quả của hoạt


động tín dụng ngay cả khi thị trường đầy biến động, nguy cơ rủi ro không
ngừng gia tăng. Nói cụ thể hơn quản trị rủi ro tín dụng phải nhằm vào hạ thấp
rủi ro tín dụng, nâng cao mức độ an toàn trong kinh doanh của mỗi ngân hàng

bằng các chính sách, biện pháp quản trị, giám sát các hoạt động tín dụng một
cách khoa học và hiệu quả.
Hoạt động tín dụng ngân hàng là hoạt động có tính nhạy cảm cao, nó
chịu ảnh hưởng của mọi biến động kinh tế - xã hội và cũng ảnh hưởng mạnh
đến sự ổn định của kinh tế - xã hội. Nếu một ngân hàng nào đó gặp rủi ro tín
dụng, lâm vào tình trạng thiếu khả năng thanh toán, có nguy cơ đi đến phá
sản, sẽ gây tâm lý hoảng loạn khiến mọi người đổ xô đi rút tiền để tránh tổn
thất, điều đó có thể gây đổ vỡ mang tính hệ thống.
Cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 tại châu Á đã làm cho nhiều
ngân hàng mất hàng tỷ đô la Mỹ, bị phá sản, sáp nhập, trong đó nguyên nhân
quan trọng nhất đó là tỷ lệ nợ quá hạn tại các ngân hàng thời điểm đó tăng
cao. Gần đây nhất là cuôc khủng hoảng tài chính kinh tế Mỹ có căn nguyên từ
việc ngân hàng cho vay thế chấp nhà đất rủi ro cao, đã gây nên khủng hoảng
tài chính toàn cầu.
Nếu rủi ro tín dụng xảy ra trong phạm vi nhỏ, thuộc mức kiểm soát của
ngân hàng thì ngân hàng có thể xử lý từ quỹ dự phòng rủi ro tín dụng. Nhưng
nếu rủi ro tín dụng vượt quá khả năng kiểm soát của ngân hàng thì sẽ gây hậu
quả nghiêm trọng, không chỉ dừng ở việc phá sản của ngân hàng đó mà còn
gây tác động tiêu cực đến các tổ chức tín dụng khác, các doanh nghiệp có liên
quan, cao hơn là tới toàn bộ nền kinh tế và gây khủng hoảng tài chính.
Do đó quản trị rủi ro tín dụng là vấn đề sống còn của bất kỳ NHTM
nào.
Mức độ rủi ro tín dụng tại các NHTM ngày càng tăng cao
Ngày càng nhiều những ngân hàng được thành lập đã tạo ra cuộc cạnh
tranh khốc liệt giữa các NHTM để chiếm lĩnh thị phần. Ngoài việc nâng cao
chất lượng sản phẩm thì áp lực tăng trưởng đã buộc các ngân hàng phải mở


rộng quy mô, phát triển đa dạng các loại hình sản phẩm cấp tín dụng hoặc vô
hình chung nới lỏng điều kiện cấp tín dụng; và điều kiện này đồng nghĩa với

việc rủi ro tín dụng ngày một tăng cao.
Do đó, để phát triển một cách bền vững các ngân hàng phải đồng thời
tăng cường công tác quản trị rủi ro tín dụng tương ứng. Quản trị rủi ro tốt nhất
chính là lợi thế cạnh tranh của các ngân hàng và là công cụ để tạo ra giá trị
của ngân hàng.
1.2.2. Nội dung quản trị rủi ro tín dụng
Quản trị rủi ro tín dụng là điều mà tất cả những nhà quản lý ngân hàng
đều rất quan tâm, vì nếu quản trị được thì việc hạn chế và phòng ngừa rủi ro
trở nên dễ dàng hơn.
Quản trị rủi ro tín dụng bao gồm nhiều cấu phần như chính sách tín
dụng, quy trình tín dụng, các công cụ đo lường RRTD, chấm điểm khách
hàng vv... Một cách tổng quát theo thông lệ, quản trị RRTD được phân chia
thành 4 nội dung lớn: nhận dạng RRTD, đo lường RRTD, kiểm soát, ngăn
ngừa RRTD và xử lý tổn thất. Mặc dù có sự phân đoạn trong qui trình quản lý
RRTD song một nguyên tắc có tính xuyên suốt là các khâu được phân ra
trong qui trình phải luôn so sự liên hệ gắn bó với nhau, tạo thành một chu
trình liên tục có vậy mới bảo đảm kiểm soát được rủi ro theo mục tiêu đã
định. RRTD một khi đã xác định thì cần phải được phân tích, đo lường và đưa
ra các biện pháp quản lý theo dõi. Cũng trong quá trình quản lý theo dõi, hệ
thống quản trị RRTD phải có khả năng xác định tìm ra các nguy cơ mới và
công việc quản trị rủi ro được lặp lại.
Quản trị RRTD hiệu quả không có nghĩa là rủi ro không xảy ra mà là
rủi ro có thể xảy ra nhưng xảy ra trong mức độ đoán trước được và Ngân hàng
đã chuẩn bị đủ nguồn lực để bù đắp các rủi ro có thể xảy ra đó.
1.2.2.1 Nhận dạng rủi ro tín dụng
Nhận biết RRTD là việc phát hiện, xác định được các nguy cơ rủi ro
tồn tại trong hoạt động tín dụng. Sự phát triển của công nghệ, thị trường và xu


hướng toàn cầu hóa làm cho số lượng rủi ro ngày càng gia tăng và khả năng

xảy ra rủi ro sẽ thường xuyên hơn. Vì vậy, một hệ thống quản trị rủi ro có
hiệu quả phải là hệ thống có khả năng nhận biết hầu hết các rủi ro của danh
mục tín dụng và trả lời được các câu hỏi sau:
RRTD là do đánh giá tín dụng chưa tốt hay do thoái trào kinh doanh
hay do gian lận hay chất lượng tài sản thế chấp kém.
Ngân hàng có thể thấy RRTD tăng dần trong thời điểm này do cho vay
tập trung không đúng thị trường?
Ngân hàng có thể đạt được mục tiêu dài hạn về RRTD có thể chấp
nhận?
Để đánh giá RRTD tiềm tàng của mỗi khách hàng ngay từ khâu phân
tích hồ sơ xin vay, ngân hàng thường tiến hành nghiên cứu chi tiết sáu khía
cạnh (6 "C", chữ cái đầu của tiếng Anh) của hồ sơ xin vay: tính cách, năng
lực, dòng tiền mặt, tài sản thế chấp, các điều kiện và sự kiểm soát. Tất cả phải
thỏa mãn các yêu cầu đối với một khoản cho vay tốt theo quan điểm của
người cho vay.
Tính cách (Character): cán bộ tín dụng phải có được những bằng chứng
cho thấy rằng khách hàng có mục tiêu rõ ràng khi xin vay và có kế hoạch trả
nợ nghiêm túc.
Năng lực (Capacity): cán bộ tín dụng phải chắc chắn rằng khách hàng
có đủ tư cách pháp lý trong việc ký kết hợp đồng vay vốn.
Dòng tiền mặt (Cash flow): đây là nội dung có ý nghĩa quan trọng đối
với một yêu cầu xin vay và thường tập trung vào câu hỏi: liệu người vay có
khả năng tạo ra một dòng tiền mặt đủ lớn để đáp ứng yêu cầu hoàn trả cho
ngân hàng món vay không?
Tài sản thế chấp (Collateral): trong việc đánh giá tài sản thế chấp cho
khoản vay, cán bộ tín dụng phải đặt câu hỏi: người vay có sở hữu một tài sản
nào với giá trị ròng tương xứng với khoản vay không?


Các điều kiện môi trường (Conditions): cán bộ tín dụng và các chuyên

gia phân tích tín dụng phải nhận biết được những xu hướng tiến triển gần đây
của khách hàng cũng như của ngành mà khách hàng hoạt động, thấy được
mức độ tác động của những thay đổi trong nền kinh tế đối với khoản cho vay.
Sự kiểm soát (Control): nhân tố cuối cùng trong việc đánh giá độ tin
cậy của một khách hàng là sự kiểm soát, nó tập trung vào các câu hỏi như:
liệu những thay đổi khi chính sách đưa ra qui định mới có ảnh hưởng bất lợi
đến người vay không và liệu khách hàng có đáp ứng được tiêu chuẩn chất
lượng tín dụng do các cơ quan quản lý ngân hàng đặt ra?
1.2.2.2. Đo lường rủi ro tín dụng
Đo lường RRTD là bước tiếp theo sau khi phát hiện được nguy cơ rủi
ro. Trên thực tế các bước này khá gần gũi với nhau và thường được gộp
chung lại trong quá trình thực hiện tác nghiệp. Mục đích của các bước này là
giúp cho toàn bộ bộ máy quản trị rủi ro hiểu chính xác và nhất quán nguy cơ
rủi ro đã xác định, phân tích rõ nguyên nhân và quan trọng nhất là lượng hóa
mức độ rủi ro có thể xảy ra đối với ngân hàng để định giá rủi ro có thể chấp
nhận được; trích lập dự phòng rủi ro.
Để duy trì một quá trình quản lý, đo lường và theo dõi tín dụng phù
hợp, theo thông lệ tốt nhất do ủy ban Basel (2000) đề xuất, ngân hàng phải
tuân thủ các nguyên tắc sau:
Nguyên tắc 1: ngân hàng cần có hệ thống quản lý liên tục các danh mục
đầu tư có RRTD.
Nguyên tắc 2: ngân hàng cần có hệ thống theo dõi điều kiện của từng
khoản tín dụng, bao gồm xác định mức độ đủ dự phòng và dự trữ.
Nguyên tắc 3: khuyến khích các ngân hàng phát triển và sử dụng hệ
thống xếp hạng tín dụng nội bộ trong quản lý RRTD. Hệ thống xếp hạng cần
thống nhất với bản chất, quy mô và mức độ phức tạp của các hoạt động của
ngân hàng.


Nguyên tắc 4: ngân hàng cần có hệ thống thông tin và các kỹ thuật

phân tích để cho phép lãnh đạo đo lường được RRTD trong mọi hoạt động
nội bảng và ngoại bảng. Hệ thống thông tin quản lý phải cung cấp đầy đủ
thông tin về cơ cấu của danh mục đầu tư tín dụng, bao gồm xác định sự tập
trung rủi ro.
Nguyên tắc 5: ngân hàng cần có hệ thống theo dõi cơ cấu và chất lượng
của toàn bộ danh mục đầu tư tín dụng.
Nguyên tắc 6: ngân hàng cần tính đến những thay đổi tiềm năng trong
tương lai về các điều kiện kinh tế khi đánh giá từng khoản tín dụng và danh
mục đầu tư và phải phải đánh giá các tài sản có tiềm năng rủi ro tín dụng
trong điều kiện căng thẳng.
1.2.2.3. Kiểm soát ,ngăn ngừa rủi ro tín dụng
Đây là khâu thể hiện rõ nhất tính chiến lược của ngân hàng về RRTD.
Trước hết, ngân hàng cần xây dựng được hệ thống các công cụ hạn chế rủi ro
như chính sách thiết lập giới hạn tín dụng, mức ủy quyền, các tiêu chuẩn cấp
tín dụng, xếp hạng tín dụng.
Chính sách thiết lập giới hạn tín dụng được xây dựng đề cập vào ba
giới hạn cơ bản đó là: giới hạn tín dụng một khách hàng; giới hạn tín dụng
nhóm khách hàng có liên quan; giới hạn tín dụng theo ngành, lĩnh vực hay
khu vực địa lý.
Xây dựng và tuân thủ tiêu chuẩn cấp tín dụng là việc ngân hàng đặt ra
các điều kiện về năng lực khách hàng, tài chính, phương án/dự án..., tuân thủ
quy định của pháp luật và quy định nội bộ của ngân hàng.
1.2.2.4 Xử lý tổn thất khi để xảy ra rủi ro tín dụng
Đây là khâu cuối cùng của quá trình quản trị RRTD. Theo đó, tổn thất
dự kiến được coi là chi phí hoạt động kinh doanh của ngân hàng, nó thường
được tính vào giá của khoản tín dụng và được bù đắp bằng nguồn dự phòng.
Tổn thất ngoài dự kiến nếu quỹ dự phòng không đủ bù đắp thì phải bù đắp
bằng nguồn vốn tự có.



Để đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng và dự phòng đầy đủ cho
các RRTD, thị trường, tác nghiệp, hiệp ước Basel II quy đinh: vốn tự có của
ngân hàng tối thiểu phải đạt 8% tổng tài sản có rủi ro (được xác định bằng
cách nhân số vốn cần thiết cho rủi ro thị trường và tác nghiệp với 12.5, sau đó
cộng với tổng tài sản có RRTD). Trong đó, tổng tài sản có RRTD được tính
toán theo phương pháp tiêu chuẩn hóa hoặc phương pháp tiếp cận dựa trên
xếp hạng nội bộ.
1.2.3. Mô hình quản trị rủi ro tín dụng
Mô hình quản trị rủi ro tín dụng chính là hệ thống các mô hình bao gồm
mô hình tổ chức quản trị rủi ro, mô hình đo lường rủi ro và mô hình kiểm soát
rủi ro được xây dựng và vận hành một cách đầy đủ, toàn diện và liên tục trong
hoạt động quản lý tín dụng của ngân hàng. Mô hình quản trị rủi ro tín dụng
phản ánh một cách hệ thống các vấn đề về cơ chế, chính sách, quy trình
nghiệp vụ nhằm thiết lập các giới hạn hoạt động an toàn và các chốt kiểm soát
rủi ro trong một quy trình thực hiện nghiệp vụ; các công cụ đo lường, phát
hiện rủi ro; các hoạt động giám sát sự tuân thủ và nhận diện kịp thời các loại
rủi ro mới phát sinh và các phương án, biện pháp chủ động phòng ngừa, đối
phó một khi có rủi ro xảy ra.
Những mô hình quản trị RRTD đang được áp dụng hiện nay như sau:
a. Mô hình quản trị rủi ro tín dụng tập trung
Mô hình quản trị RRTD tập trung được hiểu là công tác thẩm định
khách hàng, quản lý rủi ro của ngân hàng được tập trung tại hội sở chính theo
vùng miền. Mô hình này tách biệt độc lập giữa 3 chức năng: chức năng kinh
doanh, chức năng quản lý, chức năng quản lý rủi ro và chức năng tác nghiệp.
Ưu điểm:
Quản trị rủi ro một cách hệ thống trên quy mô toàn ngân hàng, đảm bảo
tính cạnh tranh lâu dài.


Thiết lập duy trì môi trường quản trị rủi ro đồng bộ, phù hợp với quy

trình quản lý gắn với hoạt động của các bộ phận kinh doanh nâng cao năng
lực, đo lường giám sát rủi ro.
Xây dựng chính sách quản trị rủi ro thống nhất cho toàn hệ thống.
Tách biệt độc lập chức năng kinh doanh, tác nghiệp, quản lý.
Nhược điểm:
Xây dựng và triển khai mô hình quản trị rủi ro tín dụng tập trung này
đòi hỏi phải đầu tư nhiều công sức và thời gian.
Phải có phần mềm hỗ trợ cho việc tổng hợp, phân loại số liệu từ chi
nhánh lên hội sở chính và theo các tiêu chí nhất định.
Đội ngũ cán bộ phải có kiến thức chuyên môn sâu.
b. Mô hình quản trị rủi ro tín dụng phân tán
Mô hình này được hiểu là công tác thẩm định khách hàng, quản trị rủi
ro của ngân hàng được thực hiện tại từng chi nhánh riêng biệt. Hội sở chính
chỉ có nhiệm vụ là chỉ đạo định hướng chung và thẩm định những khách hàng
vượt quá khả năng cho phép của chi nhánh. Mô hình này chưa tách biệt độc
lập 3 chức năng: chức năng kinh doanh, quản trị rủi ro và chức năng tác
nghiệp.
Ưu điểm:
Cơ cấu tổ chức đơn giản, gọn nhẹ.
Giải quyết hồ sơ nhanh, tiết kiệm thời gian cho khách hàng.
Xây dựng và triển khai mô hình không mất nhiều thời gian công sức.
Nhược điểm:
Thiếu sự chuyên sâu.
Không tách biệt hoàn toàn, độc lập chức năng kinh doanh, tác nghiệp...
Việc quản lý hoạt động tín dụng theo phương thức từ xa dựa trên số
liệu chi nhánh báo cáo lên hoặc gián tiếp thông chính sách tín dụng dẫn đến
quản lý tín dụng gặp nhiều khó khăn.


1.2.4 Chỉ tiêu đánh giá quản trị rủi ro tín dụng

Có nhiều chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động quản trị RRTD của các
NHTM, thông thường người ta sử dụng các chỉ tiêu sau:
Tỷ lệ nợ quá hạn:
Dư nợ cho vay quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn =

x 100%
Tổng dư nợ cho vay

Tỷ lệ nợ quá hạn là chỉ tiêu phản ánh trực tiếp nhất kết quả hoạt động
quản trị RRTD của ngân hàng. Tỷ lệ nợ quá hạn càng thấp và/hoặc tỷ lệ nợ
quá hạn có xu hướng giảm qua các năm càng phản ánh chất lượng tín dụng
của ngân hàng thương mại đó tốt hay hoạt động quản trị RRTD đạt hiệu quả
cao.
Không một ngân hàng nào không có nợ quá hạn, nhưng ngân hàng phải
thực hiện quản trị rủi ro để duy trì tỷ lệ nợ quá hạn ở một mức độ hợp lý chấp
nhận được theo thông lệ. Để làm được điều đó, các ngân hàng cần có sự nhìn
nhận đúng đắn về nợ quá hạn, cần minh bạch hóa số liệu nợ quá hạn, không
che giấu nợ quá hạn và nguyên nhân phát sinh nợ quá hạn;cần có sự liên kết
thông tin giữa các tổ chức tín dụng để có biện pháp giải quyết đúng đắn.
Tỷ lệ nợ xấu:
Dư nợ xấu
Tỷ lệ nợ xấu =

x 100%
Tổng dư nợ

Nợ xấu là chỉ tiêu quan trọng đánh giá mức độ an toàn tín dụng của các
NHTM. Nợ xấu có phạm vi rộng hơn nợ quá hạn. Nợ xấu có thể đang là nợ
trong hạn nhưng ngân hàng đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh của

khách hàng đã xấu đi nghiêm trọng, ngân hàng có khả năng không thu hồi
được nợ. Nợ xấu còn bao gồm các khoản đã xử lý rủi ro đưa ra hạch toán
ngoại bảng nhưng nghĩa vụ trả nợ của khách hàng và trách nhiệm thu nợ của
ngân hàng vẫn còn nguyên giá trị.


Cũng giống như tỷ lệ nợ quá hạn, một ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu càng
thấp và/hoặc tỷ lệ nợ xấu có xu hướng giảm qua các năm càng phản ánh chất
lượng tín dụng của NHTM đó tốt hay hoạt động quản trị RRTD đạt hiệu quả
cao. Theo ngân hàng thế giới, tỷ lệ này ở mức dưới 5% là có thể chấp nhận
được, tốt ở mức 1 - 3%.
Quy mô dư nợ và tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay
Dư nợ cho vay năm nay
Tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay =

x 100%
Dư nợ cho vay năm trước

Chỉ tiêu này phản ánh mức độ đáp ứng vốn của ngân hàng đối với nền
kinh tế. Khi sử dụng chỉ tiêu này cần phải có sự kết hợp so sánh với tốc độ
tăng trưởng của các ngành nghề khác, so với tốc độ tăng trưởng của các năm
trước, hoặc xác định để đánh giá thị phần cấp tín dụng so với các tổ chức tín
dụng khác trên cùng địa bàn.
Một NHTM có quy mô dư nợ và/hoặc tốc độ tăng trưởng dư nợ năm
sau cao hơn năm trước, trong khi tỷ lệ nợ quá hạn/nợ xấu giảm hoặc duy trì ở
mức cho phép thể hiện hoạt động quản trị RRTD có hiệu quả.
Mức độ tập trung trong cơ cấu tín dụng
Nhìn vào sự thay đổi trong cơ cấu tín dụng của một NHTM sẽ thể hiện
định hướng và kết quả hoạt động quản trị RRTD của ngân hàng đó. Một cơ
cấu tín dụng chuyển dịch theo hướng đa dạng về ngành nghề kinh tế, giảm

thiểu sự tập trung ở những yếu tố rủi ro hoặc có tỷ trọng cho vay có bảo đảm
cao trong cơ cấu tín dụng,... sẽ phản ánh định hướng cấp tín dụng thận trọng
và hoạt động quản trị RRTD bước đầu có hiệu quả.
Tính tuân thủ trong việc thực hiện chính sách, chế độ về cấp tín dụng
Là việc chấp hành các quy định về đảm bảo an toàn trong hoạt động tín
dụng ngân hàng thông qua các chỉ tiêu như hệ số an toàn vốn tối thiểu 9%
(theo Thông tư số 13/2010/TT-NHNN ngày 20/5/2010), giới hạn cho vay đối
với một khách hàng, một nhóm khách hàng... do NHNN quy định (theo Quyết


định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005), quy định về giao dịch bảo
đảm tiền vay (theo Nghị định 163/2006/NĐ-CP). Ngân hàng thương mại thực
hiện tốt hoạt động quản trị RRTD trước hết phải là một ngân hàng tuân thủ,
đáp ứng các quy định về quản trị RRTD của Chính phủ, NHNN.
Vốn tự có
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) =
Tổng tài sản "Có" rủi ro quy đổi
Tổng tài sản có rủi ro quy đổi bao gồm cả tài sản có nội bảng và tài sản
có ngoại bảng, chỉ tiêu này thể hiện mức độ mạo hiểm của ngân hàng không
chỉ trong kinh doanh không chỉ ở các khoản vay của ngân hàng mà còn ở các
tài sản có khác như đầu tư tài chính, các tài sản có khác... Tuy nhiên, trong
hoạt động của các ngân hàng thì tỷ trọng các khoản cho vay chiếm khá lớn,
hơn 50% hệ số an toàn vốn tối thiểu phản ánh một đồng vốn tự có bảo vệ
được bao nhiêu đồng tài sản có rủi ro của NHTM, nên có thể nói rằng hệ số
này càng cao thì càng thể hiện chất lượng tín dụng tốt hơn. Hệ số này quản lý
tài sản có của ngân hàng, theo quy định của NHNN hiện nay thì tỷ lệ này
không được thấp hơn 9%. Trong hoạt động kinh doanh tiền tệ thì lợi nhuận
luôn tỷ lệ thuận với rủi ro. Các NHTM vì tối đa hóa lợi nhuận có thể chấp
nhận mức độ rủi ro cao nhưng khi đó thì giá trị tài sản có rủi ro quy đổi của
họ sẽ cao làm tăng nguy cơ RRTD và hoạt động kinh doanh của các ngân

hàng vì hoạt động cho vay luôn chiếm 70% tổng tài sản của các NHTM nước
ta.
1.3 CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.3.1 Nhóm nhân tố chủ quan
1.3.1.1 Quy trình quản trị rủi ro tín dụng
Quy trình quản trị rủi ro tín dụng của NHTM lỏng lẻo tạo điều kiện cho
khách hàng lợi dụng để vay vốn và sử dụng vốn không đúng mục đích.


Quy trình quản trị rủi ro tín dụng cần được cụ thể hóa việc phân rõ
chức năng, nhiệm vụ của từng đối tượng tham gia trong xuyên suốt quá trình
tìm kiếm khách hàng, thẩm định hồ sơ cấp tín dụng, kiểm soát sau khi cấp tín
dụng. Nếu một ngân hàng thực hiện chuẩn các bước của quy trình quản lý rủi
ro thì chất lượng công tác quản trị rủi ro tín dụng sẽ được nâng cao và ngược
lại.
1.3.1.2 Trình độ cán bộ tín dụng
Con người là yếu tố quyết định đến thành công hay thất bại của một ngân
hàng. Yếu tố con người gồm các mặt: số lượng, trình độ chuyên môn, kinh
nghiệm nghề nghiệp, cơ cấu nhân sự, phẩm chất đạo đức, năng lực quản lý và tác
nghiệp.
Muốn có hoạt động kinh doanh ngân hàng tốt, trước hết phải có đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý giỏi, giàu kinh nghiệm, năng động, phẩm chất đạo đức
tốt. Mặt khác phải có đội ngũ cán bộ tác nghiệp giỏi nghiệp vụ, hiểu biết rộng về
pháp luật, tinh thần trách nhiệm cao với công việc, phẩm chất đạo đức nghề
nghiệp tốt, đặc biệt là phải am hiểu và có kinh nghiệm về lĩnh vực tín dụng mà
mình quản lý. Một CBTD chuyên quản các doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp
hay hộ sản xuất muốn chuyển sang quản lý các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực sản xuất công nghiệp hay dịch vụ đô thị, thì cần phải có thời gian mới có thể
thích nghi và tích lũy kinh nghiệm, điều mà một NHTM muốn chuyển từ cho vay

khu vực nông thôn về đô thị phải lưu ý khi hoạch định quản trị tín dụng.
Đạo đức nghề nghiệp ảnh hưởng đến quản trị tín dụng của NHTM. Thực tế
cho thấy rằng, phần lớn các sai phạm nổi cộm trong hoạt động ngân hàng những
năm qua là do đạo đức nghề nghiệp, những người được giao nhiệm vụ đã đặt
lợi ích cá nhân lên trên lợi ích của ngân hàng.
1.3.1.3 Chất lượng thông tin tín dụng
Hệ thống thông tin tín dụng có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả quản lý
rủi ro tín dụng của ngân hàng. Thông tin phân tích, dự báo xu thế phát triển và
tiềm năng của ngành hàng, chỉ số trung bình ngành, thông tin về thị trường,
lịch sử quan hệ tín dụng của khách hàng tại các tổ chức tín dụng, xếp hạng tín


×