Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

Xử lý ô nhiễm môi trường tại các điểm nóng ô nhiễm nặng dioxin ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (790.78 KB, 53 trang )

Văn kiện Dự án

CHÍNH PHỦ NƢỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

CHƢƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN LIÊN HỢP QUỐC

Mô tả vắn tắt
Việt Nam có nhiều điểm nóng ô nhiễm dioxin với mức độ ô nhiễm cao. Các rào cản chính
hạn chế khả năng của Việt Nam trong việc giải quyết các điểm nóng nhiễm dioxin đó là (a)
thiếu một kế hoạch tổng thể để đối phó với các điểm nóng và một cơ chế điều phối liên quan
đến vấn đề ô nhiễm dioxin; (b) sự hạn chế về số liệu các số liệu cần thiết và độ tin cậy bao
gồm thông tin ô nhiễm vùng cũng như các tác động lên môi trường và con người; (c) các khả
năng công nghệ (thiết bị, kiến thức) cho phân tích và xử lý ô nhiễm dioxin; (d) khả năng hợp
tác trong nước và quốc tế, khả năng lập kế hoạch cũng như quản lý việc xử lý ô nhiễm vùng; (e)
các nguồn tài chính cho xử lý ô nhiễm đạt tiêu chuẩn quốc tế; (f) khả năng giáo dục cộng đồng
và qui hoạch sử dụng đất địa phương liên quan đến những khu dân cư sống trong vùng bị ô
nhiễm.
Nếu không có dự án này, dioxin tích lũy tại các điểm nóng sẽ tiếp tục tồn tại về mặt sinh học
và phát tán vào môi trường địa phương và môi trường toàn cầu, do các hạt đất và các vật chất
hữu cơ liên kết với dioxin được trôi theo dòng nước, xâm nhập và tích tụ vào động vật hoang dã
và phát tán trong không khí. Dự án này sẽ khắc phục các rào cản nói trên để xử lý hiệu quả các
chất bị ô nhiễm dion cao ở ba vùng nóng chính và giải quyết các nguyên nhân căn bản về kĩ
thuật, thể chế, tài chính và xã hội để giúp Việt Nam xử lý các vùng bổ sung cần quan tâm.

1


1. Tên dự án: Xử lý ô nhiễm môi trường tại các điểm nóng ô nhiễm nặng dioxin ở Việt Nam
2. Cơ quan chủ quản dự án: Bộ Tài nguyên và Môi trường (MONRE)
3. Chủ dự án: Văn phòng Ban Chỉ đạo 33, MONRE
Địa chỉ: 83 Nguyễn Chí Thanh.


Tel: (84-4) 37736354 Fax: (84-4) 37736356
4. Đơn vị phối hợp: Bộ Quốc phòng, Ủy ban Nhân Dân tỉnh Đà Nẵng, Đồng Nai, Bình Định.
5. Thời gian thực hiện dự án: 4 năm (2010 đến 2014)
6. Ngân sách:
Số tiền đã cam kết tài trợ
Trong đó:
o Từ GEF
o Từ các nguồn khác
Số tiền từ GEF đã chi cho xây dựng dự án

37.312.550 USD
4.977.000 USD
32.335.550 USD
25,000 USD

Số tiền cần huy động trong tương lai

39,000,000 USD

Tổng

76,337,550 USD

7. Địa bàn thực hiện dự án:
Hà Nội, các sân bay Biên Hoà - tỉnh Đồng Nai, sân bay Đà Nẵng - thành phố Đà Nẵng và
sân bay Phù Cát - tỉnh Bình Định.
8. Các vấn đề ƣu tiên của Chính phủ cần giải quyết: (theo Nghị định số 131/2006/ND-CP)
Dự án này phù hợp với hai lĩnh vực ưu tiên số 4 và số 5 của nghị định số 131 (Chương 1,
phần 3), đó là:
- Lĩnh vực ưu tiên số 4: Bảo vệ môi trường và bảo tồn các nguồn tài nguyên thiên nhiên.

- Lĩnh vực ưu tiên số 5: Tăng cường năng lực về thể chế và nguồn nhân lực; chuyển giao
công nghệ; tăng cường năng lực trong nghiên cứu và triển khai.

Chính phủ Việt Nam: ________________________________________________________

Chƣơng trình Phát triển
Liên hợp Quốc UNDP:________________________________________________________
2


Mục lục
Các thuật ngữ viết tắt ............................................................................................................... 4
PHẦN I. SỰ CẦN THIẾT CỦA DỰ ÁN ................................................................................ 6
1.1. Đánh giá tình hình ......................................................................................................... 6
1.1.1. Bối cảnh và ý nghĩa toàn cầu .................................................................................. 6
1.1.2. Phân tích rào cản ..................................................................................................... 9
1.1.3. Phân tích về đơn vị tài trợ tài chính ...................................................................... 10
1.1.4. Phân tích ranh giới ................................................................................................ 10
1.2. Chiến lƣợc/ kế hoạch/ chƣơng trình liên quan của Chính phủ ............................... 11
1.2.1. Điều kiện về thể chế, ngành và chính sách........................................................... 11
1.2.2. Nguồn gốc của dự án và sự phù hợp của chính sách .......................................... 12
1.2.3. Mục tiêu, mục đích và các hoạt động/kết quả của dự án ..................................... 13
1.2.4. Các thông số, rủi ro và giả thiết của dự án ........................................................... 19
1.2.5. Lợi ích của địa phương, quốc gia và toàn cầu...................................................... 21
1.2.6. Quyền sở hữu quốc gia: Tư cách được nhận tài trợ và hướng đi của quốc gia . 21
1.2.7. Tính bền vững ........................................................................................................ 22
1.2.8. Khả năng tái thiết ................................................................................................... 23
1.3. Sắp xếp quản lý ............................................................................................................ 23
1.4. Kế hoạch giám sát, đánh giá và ngân sách ................................................................ 24
1.4.1. Giai đoạn khởi động dự án .................................................................................... 25

1.4.2. Trách nhiệm giám sát và các sự kiện .................................................................... 25
1.4.3. Báo cáo dự án......................................................................................................... 27
1.4.4. Đánh giá độc lập .................................................................................................... 29
1.4.5. Điều khoản kiểm toán ............................................................................................ 29
1.4.6. Chia sẻ kinh nghiệm và kiến thức ......................................................................... 29
1.5. Bối cảnh luật pháp ....................................................................................................... 31
PHẦN II: KHUNG KẾT QUẢ CHIẾN LƢỢC (STRATEGIC RESULTS
FRAMEWORK - SRF) VÀ SỰ TÀI TRỢ CỦA GEF ........................................................ 32
2.1. Phân tích chi phí tài trợ............................................................................................... 32
2.1.1. Khái quát dự án ...................................................................................................... 32
2.1.2. Đánh giá chi phí tài trợ .......................................................................................... 32
2.1.3. Tóm tắt chi phí ........................................................... Error! Bookmark not defined.
2.2. Khung kết quả chiến lƣợc, phân tích SRF ................................................................ 35
PHẦN III: KẾ HOẠCH CÔNG VIỆC VÀ CHI PHÍ ......................................................... 40
PHẦN IV: CÁC THÔNG TIN BỔ SUNG ........................................................................... 41
4.1. Các thỏa thuận khác..................................................................................................... 41
4.2. Cơ cấu tổ chức của dự án ............................................................................................ 41
4.3. Mô tả công việc và các điều khoản tham chiếu cho các cán bộ dự án và các hợp
đồng phụ .............................................................................................................................. 41
4.4. Phụ lục kĩ thuật ............................................................................................................ 52
Phụ lục 1: Ô nhiễm dioxin tại 3 Căn cứ không quân tại miền nam Việt Nam ............... 52
Phụ lục 2: Tổng quan các công nghệ có khả năng xử lý điểm nóng ô nhiễm dioxin ..... 52
Phụ lục 3: Ô nhiễm dioxin tại các vùng bị phun rải và các điểm nóng ở M.Nam VN ... 52
Phụ lục 4: Trạng thái và sự định hướng đối với các kế hoạch sử dụng đất cho các điểm
nóng ô nhiễm chất độc da cam/dioxin (Đà Nẵng, Biên Hòa và Phú Cát) ..... 52
Phụ lục 5: Tăng cường nhận thức và xây dựng năng lực liên quan đến dioxin .............. 52
Phụ lục 6: Các cơ chế tài chính cho việc xử lý các điểm nóng ô nhiễm dioxin ............. 52
3



Các thuật ngữ viết tắt
APR
AWP
Bộ KHĐT
Bộ NG
Bộ QP
Bộ TNMT
CO
Ủy ban 10-80
Ủy ban 33
EIA
FSP
GEF
IR
GoV
IP
I-TEQ
IW
JAC US-VN
MOLISA
NAP
NEX
NIP
NPD
Văn phòng 33
PCBs
PEB
PIF
PIR
PM

PMU
POPs
PPC
ppt
SRF
STA
STAP
TCDD
TEQ

TTR

Báo cáo dự án hàng năm
Kế hoạch công việc hàng năm
Bộ kế hoạch và đầu tư (MPI)
Bộ Ngoại giao (MOFA)
Bộ Quốc phòng (MOD)
Bộ Tài nguyên và Môi trường (MONRE)
Văn phòng quốc gia
Ủy ban quốc gia về khảo sát hậu quả của các hóa chất độc hại được sử
dụng trong chiến tranh ở Việt Nam
Ban chỉ đạo quốc gia về khắc phục hậu quả chất độc hóa học do Mỹ sử
dụng trong chiến tranh ở Việt Nam
Đánh giá tác động môi trường
Dự án toàn phần (Full size project, thuật ngữ GEF)
Quỹ môi trường toàn cầu
Báo cáo giữa kỳ
Chính phủ Việt Nam
Đối tác triển khai thực hiện cấp quốc gia
Nồng độ độc tương đương TEQ tính theo chuẩn quốc tế - 1 g TCDD

tương đương với 1 g I-TEQ
Hội thảo giữa kỳ
Ủy ban tư vấn hỗn hợp Việt – Mỹ (Joint Advisory Committee, USAViet Nam)
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (Ministry of Labour, war
Invalids and Social Affairs)
Kế hoạch hành động quốc gia (liên quan đến các hóa chất được sử dụng
trong chiến tranh)
Sổ tay hướng dẫn điều hành quốc gia (National Execution)
Kế hoạch hành động quốc gia về các hợp chất POP (theo Công ước
Stockholm)
Giám đốc dự án quốc gia
Văn phòng Ban Chỉ đạo 33, Bộ TNMT
Polychlorinated biphenyls
Ủy ban thi hành dự án (Project Executive Board - PEB)
Mẫu nhận dạng dự án (thuật ngữ GEF)
Xem xét lại công việc đã thực hiện của dự án (yêu cầu hàng năm của
GEF)
Quản lý dự án
Ban quản lý dự án (Project Management Unit - PMU)
Các chất ô nhiễm hữu cơ bền vững (Persistent Organic Pollutants)
Ủy ban nhân dân tỉnh (Provincial People’s Committee)
Phần nghìn tỉ (Parts per trillion)
Khung kết quả chiến lược
Cố vấn kỹ thuật có kinh nghiệm
Ban cố vấn khoa học và kỹ thuật (gắn kết với GEF)
2,3,7,8- Tetrachlorodibenzo-dioxin
Nồng độ độc tương đương dioxin tổng số (Total dioxin toxic
equivalence) (tính độc hại tổng thể của một hỗn hợp được tính tương
đương được quy cho TCDD nguyên chất)
Xem xét ba bên giai đoạn cuối dự án

4


UNDP
UNDP-CO
USAID
USD
US-EPA
VAST
VRTC

Chương trình phát triển liên hợp quốc (United Nations Development
Programme)
Văn phòng quốc gia về Chương trình phát triển liên hợp quốc
Cơ quan điều phối viện trợ Mỹ
Tiền đô la Mỹ (United States Dollar)
Cục bảo vệ môi trường Mỹ (US Environmental Protection Agency)
Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Trung tâm Nhiệt đới Việt – Nga (trực thuộc Bộ QP)

5


PHẦN I. SỰ CẦN THIẾT CỦA DỰ ÁN
1.1. Đánh giá tình hình
1.1.1. Bối cảnh và ý nghĩa toàn cầu
a. Tình hình ô nhiễm dioxin và những rủi ro liên quan
Việt Nam là nước có các vùng nhiễm TCDD (tetra-chloro dibenzo-dioxin; aka dioxin) cao
nhất trên thế giới. Các nghiên cứu ở Việt Nam và từ các vùng ô nhiễm cao khác trên thế giới
đã chứng minh những hậu quả nghiêm trọng đến môi trường và nguy hại sức khỏe. Sự ô

nhiễm TCDD ở Việt Nam bắt nguồn từ cuộc chiến tranh trong thời gian 1961-1971, do việc
sử dụng thuốc diệt cỏ làm rụng lá cây, phá huỷ mùa màng để xóa sạch vành đai quân sự đối
phương trong chiến dịch “Bàn tay dài- Ranch Hand” (5/1964 đến 1/1971). Một vài hỗn hợp
thuốc diệt cỏ sử dụng trong chiến dich này có chứa TCDD. Chúng được biết đến như là “chất
độc da cam”.
Nồng độ dioxin trong đất ở các khu vực bị phun đã giảm căn bản. Tuy nhiên, các vùng ở
sân bay – nơi những lượng lớn thuốc diệt cỏ được tích trữ và xử lý – vẫn là những điểm nóng
ô nhiễm cao. Nếu không có hành động gì, thuốc diệt cỏ sẽ tiếp tục lan truyền ra môi trường
rộng hơn và gây nguy hại đến sức khỏe con người, đặc biệt là qua chuỗi thức ăn. Theo các
tiêu chuẩn quốc tế, mức độ ô nhiễm này cần được xử lý. Ba điểm nóng (Đà Nẵng, Biên Hòa
và Phú Cát) là các vùng đích cần xử lý của dự án. Kết quả gần đây cho thấy tổng lượng dioxin
tại ba điểm nóng này là 1.736 g I-TEG, với phần lớn độ độc là do TCDD (xem phụ lục 1).
Đây là một lượng rất lớn khi so sánh với sự phát thải hiện nay trên khắp thế giới; do vậy, việc
làm sạch các khu vực này sẽ đem lại rất nhiều lợi ích cho môi trường toàn cầu. Một số vị trí
nhất định cần được đánh giá dựa trên các số liệu hiện có và các số liệu phân tích bổ sung đối
với cả đất và trầm tích.
Tình hình ô nhiễm dioxin tại ba điểm nóng (xem chi tiết tại phụ lục 1).
Tại Căn cứ không quân Biên Hòa, có ít nhất 3 khu vực ô nhiễm với nồng độ cao. Khu
vực chính, khu nạp rửa (aka “khu vực Z1” – xem phụ lục 1) có nồng độ dioxin trong đất bề
mặt (0-30 cm) cao tới 409.818 ppt I-TEQ với nồng độ trung bình trên 15.864 ppt I-TEQ.
Nồng độ cao của dioxin có thể được tìm thấy đến độ sâu 1,5 m. Hầu hết các khu vực này đang
được Bộ QP xử lý bằng việc xây dựng một bãi chôn lấp an toàn cho đất bị ô nhiễm. Số đất
này sẽ được xử lý triệt để và trong đó có một lô khoảng 3600m2 đang được xử lý bằng
phương pháp tẩy độc sinh học. Khu vực thứ 2 là “khu phía nam đường băng”. Khu vực này có
nồng độ dioxin lớn nhất là 65.500 ppt I-TEQ và nồng độ trung bình ước tính là 5,276 ppt ITEQ. Khu vực thứ 3, “khu vực phía tây nam đường băng”, được sử dụng trong chiến dịch
“Pacer-Ivy”, chiến dịch thu gom các thùng chứa chất da cam ra khỏi Việt Nam, có nồng độ
dioxin lên đến 22.800 ppt I-TEQ và hàm lượng trung bình ước tính khoảng 2.650 ppt I-TEQ.
Có thể có các điểm ô nhiễm khác “sub-sites” nằm trong khu vực Căn cứ không quân. Sự phân
bố ô nhiễm chỉ ra rằng có thể còn có những điểm ô nhiễm chưa được phát hiện ra. Do vậy,
việc lấy mẫu phân tích bổ sung là cần thiết để xác định chính xác phạm vi khu vực nhiễm.

Tại Sân bay và Căn cứ không quân Đà Nẵng, có ba khu vực ô nhiễm với nồng độ cao có
vị trí địa lý gần nhau. Ba khu vực này là “khu vực nạp và trộn” với nồng độ dioxin cao lên đến
365.000 ppt và nồng độ trung bình ước tính là 50.000 ppt I-TEQ; khu vực lưu trữ/chôn gần
đấy với nồng độ dioxin lên đến 134.802 ppt I-TEQ và nồng độ trung bình ước tính là 39.883
ppt I-TEQ. Hệ thống thoát nước mặt cũng gây ô nhiễm kênh thoát nước và hồ Sen, một trong
ba hồ ở đầu bắc của Căn cứ không quân, nơi nồng độ dioxin trong mẫu mỡ Tilapia đạt đến
3.000 ppt I-TEQ, trong trầm tích lên đến 12.393 ppt I-TEQ và trung bình trong lớp trầm tích
phía trên là 3.161 ppt I-TEQ. Việc đánh giá ô nhiễm đang được tiến hành tại một khu vực ở
6


phía nam của sân bay. Ngoài ra, trong thời gian tiến hành tẩy độc, cần lấy mẫu phân tích thêm
để xác định đúng độ sâu và phạm vi ô nhiễm.
Tại Sân bay và Căn cứ không quân Phú Cát, nồng độ dioxin ở khu vực lưu trữ chất độc
da cam cũ rất cao, đạt đến 238.000 ppt I-TEQ với mức độ ô nhiễm trung bình ước tính là
26.248 ppt I-TEQ (TCDD chiếm trên 97%) (xem phụ lục 1). Địa hình của vị trí này cho thấy
dòng nước có thể dẫn tới việc gây ô nhiễm cho 3 hồ bên cạnh. Tuy nhiên kết quả phân tích
các mẫu được lấy tại kênh thoát nước và hồ cho thấy trầm tích có nồng độ tương đối thấp.
Ngoài ra, một khu vực khác được xác định bởi Bộ Quốc phòng Mỹ sau khi được lấy mẫu và
phân tích cũng cho kết quả dioxin với nồng độ rất thấp, nồng độ lớn nhất là 236 ppt I-TEQ
(TCDD chiếm tỷ lệ nhỏ hơn 20%). Mẫu đất cũng đã được lấy bổ sung tại Phú Cát theo yêu
cầu nhằm xác định phạm vi (biên giới) ô nhiễm và độ sâu ô nhiễm để phục vụ cho việc xử lý.
Các Căn cứ không quân Biên Hòa và Đà Nẵng nằm trong những vùng đông dân cư, các
mẫu đất và trầm tích tại các vùng xung quanh các Căn cứ cũng như các mẫu mô tế bào và các
mẫu máu của thủy tạo, gia cầm và một số người dân địa phương đều cho thấy có chứa hàm
lượng cao của dioxin. Các ao tại ba Căn cứ không quân trong một số trường hợp vẫn còn được
các quân nhân và cư dân địa phương sử dụng để đánh bắt cá mặc dù việc ô nhiễm thông qua
chuỗi thức ăn là một yếu tố rủi ro chính gây ô nhiễm cho con người. Phú Cát nằm trong khu
vực nông thôn và cũng có thể được sử dụng bởi các quân nhân và cư dân địa phương cho việc
chăn nuôi gia súc, câu cá, trong khi tuyến giao thông địa phương chạy dọc theo vị trí ô nhiễm

nhất. Khả năng tiếp tục lan rộng ô nhiễm hơn nữa tại ba điểm nóng qua việc di chuyển của
trầm tích bị ô nhiễm và qua chuỗi thức ăn đã bị giới hạn thông qua các biện pháp cơ bản bao
gồm việc lặp hàng rào và dựng các biển cảnh báo. Đối với trường hợp tại Biên Hòa, việc xây
dựng một bãi chôn lấp với hệ thống thoát nước phù hợp tại địa điểm ô nhiễm nhất đã gần như
hoàn thành. Tuy nhiên, khó mà có thể loại bỏ hoàn toàn ô nhiễm nên rủi ro với các động vật
hoang dã và con người, và lan rộng thêm trong thời gian ngắn hạn và dài hạn vẫn có thể xảy
ra.
b. Các nỗ lực trong quá khứ và hiện tại về vấn đề ô nhiễm dioxin và các rủi ro liên quan
Trong các năm qua, chính phủ đã tiến hành nhiều biện pháp chính sách cơ bản tại Đà Nẵng
và đã cam kết cung cấp tài chính đáng kể cho các biện pháp làm sạch tại điểm nóng Biên Hòa,
nơi có một bãi chôn lấp chất lượng cao sẽ là ưu việt. Ngoài ra, nhiều cam kết cũng đã được
thực hiện, mà chủ yếu là từ chính phủ Mỹ và Quỹ tài trợ Ford cho Đà Nẵng. Cơ quan phát
triển Czech đã thông qua việc làm sạch những phần ô nhiêm nhất tại Phú Cát. Quỹ tài trợ Bill
và Melinda Gates và Atlantic Philantropies đã cam kết thiết lập phòng thí nghiệm về POPs
dưới sự quản lý của Bộ TNMT (nằm tại Cục Bảo vệ Môi trường Việt Nam, VEPA); phòng thí
nghệm này liên quan đến các nỗ lực loại bỏ ô nhiễm tại các điểm nóng nói trên vì nó liên quan
đến việc phân tích thêm mẫu và sẽ rất quan trọng trong các công việc liên quan đến các hợp
chất ô nhiễm POPs khác (chi tiết hơn về các cam kết đồng tài trợ được trình bày tại phần III).
Dự án và/hoặc các khía cạnh về kỹ thuật cụ thể của nó đã được thảo luận với toàn bộ các
chuyên gia quan trọng trong lĩnh vực của Việt Nam, Cục Bảo vệ môi trường Hoa Kỳ, Quỹ tài
trợ Ford, các chuyên gia kỹ thuật làm việc cho Cơ quan Phát triển Czech, và các tổ chức khác.
Dự án được xây dựng dựa trên công việc được thực hiện bởi các tổ chức quốc tế hoặc các nhà
tư vấn ký hợp đồng với các tổ chức này cùng với các đối tác trong nước. Toàn bộ sẽ được
điều phối bởi “Văn phòng 33” nằm trong Bộ Tài nguyên và Môi trường. Các đối tác trong
nước và quốc tế sẽ hợp tác cùng nhau trong pha Dự án toàn phần (FSP) trong khi Chính phủ
đang thúc đẩy vai trò của UNDP để hỗ trợ điều phối quốc tế.
Dự án được xây dựng dựa trên bốn kết quả đánh giá ô nhiễm dioxin. (a) Z1 (Căn cứ không
quân Biên Hòa, 1994/1995), Z2 (Căn cứ không quân Đà Nẵng, 1997/1998) và Z3 (Căn cứ
7



không quân Phú Cát, 1999/2002) được thực hiện bởi Bộ QP Việt Nam; (b) Sự cộng tác giữa
US-EPA và VAST trong việc lấy mẫu và phân tích ô nhiễm; (c) Dự án “ Đánh giá ô nhiễm
dioxin trong môi trường và dân cư xung quanh Căn cứ không quân Đà Nẵng, 2006/2007”
được thực hiện bởi Văn phòng 33 và Công ty tư vấn Hatfield (Vancouver, Canada) với nguồn
ngân sách từ Quỹ tài trợ Ford; và (d) các mẫu đất và trầm tích được lấy và phân tích bởi Trung
tâm Nhiệt đới Việt – Nga (VRTC) trực thuộc Bộ QP và các nhà tư vấn Hatfield theo dự án
chuẩn bị của UNDP (tóm tắt số liệu ô nhiễm từ các hoạt động này được trình bày tại phụ lục
1).
Dự án sẽ được kết nối với các dự án về POPs khác ở Việt Nam, đặc biệt là dự án của
UNDP/GEF “Xây dựng năng lực để loại bỏ các kho chứa thuốc trừ sâu POPs”. Ngoài ra còn
có các dự án khác do GEF tài trợ như dự án UNIDO/GEF về “Giới thiệu phương pháp BAT và
BEP để mô phỏng quá trình làm giảm hoặc loại bỏ các chất ô nhiễm hữu cơ bền vững được
sinh ra một cách không chủ định (UPPOPs) từ hoạt động công nghiệp ở Việt Nam”; một dự
án World Bank về quản lý PCB; dự án GTZ “Quản lý triệt để các hóa chất để có một môi
trường lành mạnh hơn tại Việt Nam” và một dự án về giảm thiểu ô nhiễm công nghiệp được
tài trợ bởi CIDA.
c. Dự án chuẩn bị dự án được tài trợ bởi UNDP
Mặc dù mẫu nhận dạng dự án (PIF) đã được thông qua ngày 13 tháng 12 năm 2007 nhưng
Ban cố vấn khoa học và kỹ thuật (STAP) cho rằng cần phải sửa lại một vài kết quả (do quá
chung chung). PIF giải thích rằng đánh giá chi tiết ô nhiễm là cần thiết để ước lượng chính
xác mức độ ô nhiễm dioxin. Điều này lý giải tại sao toàn bộ dự án sẽ tập trung vào việc lên kế
hoạch, xây dựng năng lực, tối ưu các nỗ lực điều phối đối với các nhà tài trợ và các can thiệp
ở qui mô thí điểm (pilot-scale) nhằm trình diễn các kỹ thuật làm sạch khác nhau. Việc đồng sử
dụng nguồn tài chính sẽ được thực hiện cho công việc làm sạch thực và tăng cường việc sử
dụng đất.
UNDP đã tài trợ dự án “Xây dựng năng lực và hoàn thiện kế hoạch tổng thể quốc gia cho
việc làm sạch môi trường đối với các điểm nóng ô nhiễm dioxin tại Việt nam” từ cuối năm
2007 đến đầu năm 2009. Mục đích của dự án là (i) tăng cường năng lực cho việc lên kế hoạch,
đánh giá kỹ thuật, xử lý các điểm nóng ô nhiễm dioxin, quản lý việc phòng tránh phơi nhiễm,

nghiên cứu và quan trắc việc loại bỏ ô nhiễm; (ii) hỗ trợ thiết lập kế hoạch xử lý các điểm
nóng dioxin trên toàn quốc và mô phỏng các kế hoạch hành động cụ thể để có thể được đánh
giá và tài trợ quốc tế một phần cho việc xử lý ba điểm nóng nhất về ô nhiễm dioxin, đồng thời
đảm bảo đất trong vùng ô nhiễm và xung quanh ba điểm nóng được sử dụng an toàn (Đà
Nẵng, Biên Hòa và Phú Cát). Như vậy dự án này đã giúp thiết lập các tài liệu dự án GEF hiện
tại.
Các hoạt động cụ thể bao gồm: (i) các đánh giá về năng lực cần thiết; (ii) xây dựng một kế
hoạch cho việc phát triển năng lực; (iii) một vài hoạt động về phát triển năng lực, bao gồm
tăng cường các nhận thức, đào tạo, điều phối và huy động sự hỗ trợ, kiểm tra lại và phát triển
các khung công việc điều tiết; (iv) lên kế hoạch và thực hiện việc phân tích mẫu bổ sung tại
hai điểm nóng (Biên Hòa, Phú Cát) và vạch rõ phạm vi và những điều thực sự cần cho việc
làm sạch ba điểm nóng; (vi) xây dựng các kế hoạch hành động chi tiết cho việc xử lý dioxin
tại ba điểm nóng, bao gồm việc sử dụng đất và phục hồi môi trường tại các điểm nóng và khu
vực liền kề, và cho việc xây dựng năng lực tổng thể và tăng cường nhận thức; (vii) chuẩn bị
kế hoạch tài chính nhằm hỗ trợ việc thực hiện Kế hoạch tổng thể.
Kế hoạch tổng thể quốc gia (như đã trình bày ở trên) đang được xây dựng. Các kết quả của
các hoạt động khác đang được sử dụng cho quá trình xây dựng này và cũng đã được sử dụng
cho tài liệu dự án GEF này. Các thông tin kỹ thuật đầu vào này được gom lại và tóm tắt một
8


phần trong các phụ lục, bao gồm phụ lục 1 về các số liệu ô nhiễm, phụ lục 2 về các kỹ thuật
xử lý, phụ lục 3 tóm tắt các báo cáo kỹ thuật khác.
1.1.2. Phân tích rào cản
Một vài rào cản làm hạn chế khả năng Việt Nam xử lý các điểm nóng nhiễm dioxin. Các
rào cản chính liên quan đến:
a) Thiếu một kế hoạch toàn diện nhằm giải quyết các điểm nóng và một khung điều phối
tổng thể về vấn đề ô nhiễm dioxin. Việt Nam không có các tiêu chuẩn quốc gia về
nồng độ dioxin cho phép trong thực phẩm và thức ăn gia súc, cũng như trong đất và
trầm tích. Điều này có nghĩa là không có căn cứ để chính quyền các cấp dựa vào để

đánh gía ô nhiễm dioxin trong quá trình điều tra chất lượng thực phẩm, giám sát và
quy hoạch đất.
b) Thiếu số liệu đáng tin cậy về khu vực bị ô nhiễm cũng như những tác động lên môi
trường và con người. Không phải tất cả vị trí ở các điểm nóng đều được biết rõ. Những
vùng bị ô nhiễm nặng nhất thường dễ được nhận ra, ví dụ do cây cối không sống được
ở đó, nhưng những vùng ít bị ô nhiễm hơn thì vẫn có cỏ hoặc các loại cây khác. Thông
tin từ các ghi chép lịch sử không phải luôn luôn đúng hoặc được hiểu đúng và trong
nhiều trường hợp nhiều ghi chép bị thất lạc hoặc không hoàn thiện (đặc biệt các ghi
chép về những vùng máy bay rơi).
c) Thiếu năng lực công nghệ (thiết bị cần thiết, kiến thức) để phân tích tình hình và xử lý
ô nhiễm dioxin. Hiện nay trên thế giới cũng có rất ít kinh nghiệm về xử lý những vùng
bị ô nhiễm nặng hoặc một lượng lớn đất và trầm tích bị nhiễm độc nghiêm trọng như
vậy. Mức độ ô nhiễm cũng như thể tích đất và trầm tích ô nhiễm là thách thức cơ bản
đối với năng lực công nghệ hiện nay để có thể xử lý được chúng.
d) Năng lực thể chế trong phối hợp các đối tác trong nước và quốc tế, trong xây dựng kế
hoạch và quản lý những vùng cần được xử lý. Đã hơn 40 năm trôi qua kể từ khi tình
trạng ô nhiễm bắt đầu xảy ra. Trong thời gian này, dioxin đã lan nhiễm ra một khu vực
rộng lớn, phần lớn qua việc di chuyển của các hạt chất rắn qua hệ thống thoát nước bề
mặt. Ví dụ, tại Biên Hòa, dioxin đã tập trung thành một lượng lớn tại hồ Biên Hùng do
nước thoát ra từ Căn cứ không quân ở gần đó.
e) Thiếu nguồn tài chính để xử lý ô nhiễm theo tiêu chuẩn quốc tế.
f) Năng lực giáo dục cộng đồng và qui hoạch sử dụng đất địa phương để xử lý vấn đề
nhạy cảm liên quan đến c ác vật chất có tính độc cao ở gần các khu đông dân cư. Một
số vùng có mật độ dân số cao sống ngay cạnh các khu vực bị ô nhiễm, vừa dẫn đến có
hại cho sức khỏe do ăn thức ăn bị ô nhiễm, đặc biệt là cá, cua, ốc sên, gà và vịt, vừa
gây trở ngại cho việc xử lý đất và trầm tích vì có dân cư ở đó.
Hầu hết người Việt Nam đều ý thức được sự nguy hiểm của chất độc da cam và cũng như
thực tế là những tồn dư của chất độc này trong môi trường. Tuy nhiên, mức độ hiểu biết của
họ về các cách thức để tránh bị nhiễm độc và tránh các nguy hại đến sức khỏe phần lớn lại rất
thấp, kể cả cộng đồng dân cư sống gần các điểm nóng ô nhiễm. Ví dụ, các cuộc khảo sát tiến

hành trong giai đoạn chuẩn bị của dự án đối với người dân sống xung quanh ba điểm nóng
cho thấy 81% số người phỏng vấn biết về việc ô nhiễm dioxin ở đây, 31% trả lời rằng họ đang
sử dụng đất và hồ ở các khu vực này với nhiều mục đích khác nhau, trong đó 13% xây nhà
trên đó và 4% sử dụng để trồng trọt.
Qui hoạch và sử dụng đất trong những điều kiện đặc biệt hạn chế như đã nêu ở trên tại các
điểm nóng và các vị trí xung quanh điểm nóng yêu cầu phải có các thông báo chi tiết về các
nghiên cứu đến cộng đồng dân cư nói chung cũng như những thay đổi trong ứng xử và giám
sát thực hiện qui hoạch sử dụng đất tại địa phương. Biện pháp rào chắn và làm sạch những
vùng đất bị ô nhiễm cao là đặc biệt quan trọng. Trong khi việc lấy ý kiến của người dân đối
với xây dựng quy hoạch sử dụng đất đã được thực hiện trên cả nước, thì năng lực của các cấp
9


địa phương trong việc tham vấn người dân đối với các vấn đề quan trọng khác như giáo dục
cộng đồng, quy hoạch sử dụng đất và giám sát sử dụng đất lại rất hạn chế.
1.1.3. Phân tích về đơn vị tài trợ tài chính
Đối tượng hưởng lợi chính của dự án là người dân và cộng đồng bị ảnh hưởng do ô nhiễm
dioxin tại c ác vùng xung quanh ba điểm nóng. Những nguy hiểm tới sức khỏe của cư dân địa
phương (chủ yếu là từ thực phẩm như cá và do phơi nhiễm trực tiếp với đất ô độc) sẽ giảm
một khi nguồn gây ô nhiễm được kiểm soát và loại bỏ cùng với việc thực hiện các biện pháp
giảm thiểu phơi nhiễm dioxin. Bên cạnh đó, sẽ xuất hiện một số cơ hội việc làm cho người
dân địa phương khi các hoạt động xử lý ô nhiễm cũng như giám sát và phục hồi môi trường
được tiến tiến hành.
Một khi đã kiểm soát được sự phân tán của dioxin qua chuỗi thức ăn, di chuyển của động
vật hoang dã, phù sa và các vật chất hữu cơ trong nước và không khí thì các rủi ro tới môi
trường ở Việt Nam và trên thế giới cũng sẽ được giảm thiểu.
Các cơ sở kinh doanh địa phương và các sân bay cũng sẽ được hưởng lợi, đặc biệt là từ các
cơ hội tái phát triển sau xử lý ô nhiễm (khi vị trí kinh tế và xã hội của địa phương tăng lên).
Cộng đồng dân cư, doanh nghiệp và nhà chức trách địa phương, kể cả đơn vị quản lý sân
bay sẽ tham gia vào các khâu xem xét và xây dựng qui hoạch sử dụng đất, thiết kế và thực

hiện các biện pháp phục hồi môi trường và một số hoạt động tái thiết.
Các quan chức địa phương (cấp tỉnh và cấp thấp hơn) sẽ đóng vai trò chìa khóa trong các
hoạt động qui hoạch sử dụng đất, xử lý ô nhiễm, tái phát triển tại các điểm nóng và các vùng
lân cận. Họ sẽ được hưởng lợi từ các hoạt động đào tạo liên quan đến kỹ thuật và phương
pháp tiếp cận của dự án. Việc tham gia chặt chẽ vào các hoạt động xử lý ô nhiễm sẽ giúp tăng
cường vị trí liên lạc chủ chốt của các cán bộ môi trường tại địa phương và trên cả nước.
Bộ TNMT và Bộ QP là 2 đơn vị tham gia chính ở cấp Chính quyền trung ương. Cán bộ của
các Bộ này sẽ đóng vai trò quan trọng trong mọi giai đoạn chuẩn bị, quản lý và thực hiện dự
án. Các Bộ khác tham gia quản lý dự án như Ủy ban 33 và các nhóm làm việc, và tham gia
một số hoạt động đào tạo.
1.1.4. Phân tích thông tin nền
Nếu không thực hiện dự án này, các vật chất nhiễm dioxin hàm lượng rất cao sẽ tiếp tục
được thải và phát tán ra môi trường xung quanh, gây nguy hại cho sức khỏe con người và môi
trường. Mặc dù Chính phủ Việt Nam cam kết hạn chế các rủi ro gây ra bởi các vật chất ô
nhiễm POPS, nhưng đến nay vẫn chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế và các chính sách
liên quan đến thể chế và môi trường chưa được xây dựng một cách tối ưu. Hạn chế đầu tiên
trong danh mục các rào cản được liệt kê ở trên (thiếu một kế hoạch toàn diện) đang được khắc
phục thông qua việc chuẩn bị một Kế hoạch hành động quốc gia (NAP) nhằm xử lý hậu quả
hoá chất của chiến tranh, bao gồm những tác hại tới sức khỏe, môi trường và các vấn đề xã
hội với tài trợ chính của UNDP.
Nếu không có sự can thiệp này, dioxin tích lũy tại các điểm nóng sẽ tiếp tục tồn tại và phát
tán ra khắp môi trường trong nước và toàn cầu do sự di chuyển của đất và vật chất hữu cơ
chứa dioxin theo dòng nước, động vật hoãng dã và không khí. Các khu vực ô nhiễm dioxin
mà dự án này nhắm tới sẽ gây nguy hại tới Vùng biển quốc tế vì đã có nghiên cứu chỉ ra rằng
ít nhất một trong số các khu vực này đang làm ô nhiễm một cửa sông gần đó, mà con sông
này lại thông với biển Nam Trung Hoa.
10


1.2. Chiến lƣợc/ kế hoạch/ chƣơng trình liên quan của Chính phủ

Dự án sẽ ngăn chặn và xử lý hiệu quả các vật chất nhiễm dioxin cao tại những điểm nóng
trên cũng như giải quyết những yếu kém chính về mặt kỹ thuật, thể chế, tài chính và xã hội
nhằm tăng cường năng lực cho Việt Nam tiếp tục giải quyết các khu vực ô nhiễm khác.
GEF sẽ tập trung hỗ trợ xây dựng năng lực áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế và khuôn khổ
chính sách và thể chế phù hợp với các hoạt động xử lý dioxin. Đề xuất dự án GEF, hiện được
soạn thảo song song với việc chuẩn bị Chương trình hành động quốc gia NAP (xem mục
“phân tích ranh giới” phía trên), sẽ khởi xướng các hoạt động để chỉ ra các vấn đề ô nhiễm
môi trường trong một kế hoạch tổng thể.
Kết quả là dự án sẽ tập trung khắc phục những hạn chế từ (b) đến (f) trong mục “Phân tích
rào cản” ở trên. Tuy vậy, dẫu cho dự án đặt mục tiêu huy động nhiều nguồn vốn khác để hỗ
trợ các nguồn tài trợ chính được báo cáo trong tài liệu dự án, thì cũng không có gì đảm bảo
chắc chắn rằng hạn chế về tài chính (e) sẽ được giải quyết hoàn toàn trong thời gian thực hiện
dự án. Hạn chế này sẽ tiếp tục được giải quyết trong chiến lược xử lý giai đoạn hai đã được
thoả thuận với các cơ quan có thẩm quyền quốc gia và được đưa vào một vài kết quả của dự
án (xem phần phân tích rủi ro dưới đây cũng như phần phụ lục 1 và 2).
1.2.1. Điều kiện về thể chế, ngành và chính sách
a) Điều kiện chính sách
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001-2010 đặt ra các mục tiêu về bảo vệ
sức khỏe và môi trường như “… để tăng tuổi thọ trung bình lên đến 71 tuổi” – đây là một
trong các mục tiêu hướng tới tăng cường bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Để đạt
được mục tiêu này, cần chú ý đến việc quản lý chất thải độc hại, bao gồm POPs/dioxin.
Chiến lược bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cộng đồng giai đoạn 2001-2010 (Quyết định số
35/2001/QD-CP của Thủ tướng Chính phủ) đặt ra mục tiêu là “Mọi người dân được sống
trong một môi trường an toàn, phát triển tốt cả về thể chất và tinh thần. Giảm tốc độ gia tăng
bệnh tật và tăng cường sức khỏe thể chất, tăng tuổi thọ và phát triển giống nòi”. Chiến lược
này chú trọng tăng cường sản xuất thuốc phòng bệnh và các công việc nâng cao sức khỏe như:
“Tiếp tục thực hiện các mục tiêu của chương trình quốc gia về loại bỏ các căn bệnh xã hội và
các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Thực hiện các chương trình ngăn ngừa và kiểm soát những
bệnh không lây nhiễm như bệnh tim mạch, ung thư, tiểu đường, bệnh di truyền, bệnh bẩm
sinh và nghiện ma tuý… nhằm nâng cao sức khỏe và vóc dáng của người Việt Nam”.

Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam xác định các hoạt động ưu tiên nhằm làm giảm tác
động tiêu cực từ ô nhiễm môi trường đến sức khỏe cộng đồng như: qui hoạch, giám sát, thu
thập và xử lý chất thải độc hại. Việc thi hành các kế hoạch này cần phải được các cơ quan bảo
vệ môi trường giám sát.
Kế hoạch thực thi quốc gia của Việt Nam theo Công ước Stockholm liệt ra một trong 15
công việc được ưu tiên là “Cô lập và xử lý triệt để các điểm nóng nhiễm dioxin và các hóa
chất độc hại mà quân đội Mỹ reo rắc trong chiến tranh Việt Nam”.
b) Điều kiện luật pháp
Luật về bảo vệ môi trường (11/2005) đặc biệt chú ý đến việc quản lý chất thải độc hại. Các
điều khoản trong Luật này qui định các vấn đề như các tiêu chuẩn quản lý, phân loại, thu gom,
vận chuyển và xử lý chất thải độc hại (Điều 70, 71, 72, 73, 74 và 75). Luật cũng quy định
trách nhiệm bảo vệ môi trường của Ủy ban nhân dân (PCs) các cấp và các cơ quan môi
trường. Mục 4 của Nghị định số 80/2006/NĐ-CP về chi tiết và hướng dẫn thực hiện các điều
11


khoản của Luật này quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trong quản lý chất thải
nguy hại (Bộ TNMT và UBND tỉnh).
Nghị định số 68/2005/ND-CP ngày 20/5/2005 và Thông tư Chính Phủ số 12/2006/TTBCN hướng dẫn thực hiện Nghị định đã qui định rằng các hóa chất không an toàn cần phải
được xử lý một cách hợp lý. Nghị định cũng đề cập đến sự cần thiết trong việc xử lý
POPs/Dioxin ở Việt Nam.
Thông cáo số 69/2002 của Bộ Chính trị chỉ đạo Chính phủ phải tăng cường hợp tác quốc
tế nhằm ngăn chặn và giải quyết hậu quả của việc sử dụng hóa chất độc hại trong chiến tranh.
Quyết định số 155/1999/QD-TTg của Thủ tướng Chính phủ về ban hành quy định quản
lý chất thải độc hại. Quyết định này chỉ rõ việc kiểm soát và quản lý chất thải là hai ưu tiên
hàng đầu trong sự nghiệp bảo vệ môi trường cũng như yêu cầu có các hoạt động thu thập
thông tin và giám sát chất thải rắn độc hại, bao gồm cả dioxin, furan và PCB.
Quyết định số 64/2003/QD-TTg của Thủ tướng Chính phủ thông qua kế hoạch xử lý
triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Quyết định này yêu cầu xử lý 439
cơ sở và khu vực gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, trong đó có cả căn cứ không quân

Biên Hòa, Đà Nẵng và Phù Cát. Việc thực thi quyết định đã gặp nhiều khó khăn về tăng
cường nhận thức, xây dựng cơ chế hợp tác, tài chính và xác định công nghệ xử lý.
Quyết định số 67/2004/QD-TTg ngày 27/4/2004 của Thủ tướng Chính phủ thông qua Kế
hoạch hành động giai đoạn 2004-2010 về Giải quyết hậu quả gây ra bởi các hoá chất độc
hại được quân đội Mỹ sử dụng trong Chiến tranh Việt Nam. Quyết định này bao gồm 2 mục
tiêu:
- Đối với người dân (hỗ trợ về tài chính, sức khỏe và chăm sóc các nạn nhân và cộng đồng
bị phơi nhiễm).
- Đối với môi trường (cô lập và xử lý các khu vực ô nhiễm dioxin, đặc biệt là các điểm
nóng).
Quyết định này quy định các hoạt động cụ thể như hỗ trợ nạn nhân; cô lập các vùng ô
nhiễm; phục hồi môi trường; thu thập bằng chứng về hậu quả của hóa chất độc hại. Nó cũng
xác định các vùng bị ảnh hưởng bởi chất độc da cam/dioxin cần được xử lý, bao gồm Căn cứ
không quân Biên Hòa, Đà Nẵng, Phù Cát.
Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 184/2006/QD-TTg (8/2006) thông qua Kế
hoạch thực thi quốc gia (NIP) theo Công ước Stockholm về POPs. NIP đưa ra ưu tiên trong
quản lý hóa chất an toàn, làm giảm và tiêu hủy 12 chất ô nhiếm hữu cơ bền vững (POPs),
trong đó có dioxin (polychlorinated dibenzo-p-dioxins). Quyết định này cũng quy định rõ sự
cần thiết phải xử lý các khu vực nhiễm dioxin nặng từ thời kỳ chiến tranh. Quyết định cũng
nhấn mạnh việc tăng cường năng lực quản lý POPs.
1.2.2. Nguồn gốc của dự án và sự phù hợp của chính sách
Mục đích của GEF trong vấn đề POPs là bảo vệ sức khỏe con người và môi trường bằng
cách giúp đỡ các quốc gia giảm và loại bỏ việc sản xuất, sử dụng và thải POPs; từ đó hỗ trợ
phát triển năng lực quản lý các loại hoá chất một cách hợp lý. Kế hoạch thích hợp với SP3 về
“Thiết lập và phổ biến kiến thức để nhận diện các thách thức trong tương lai trong việc thực
thi Công ước Stockholm”. Chương trình chiến lược này tập trung hỗ trợ các dự án hướng tới
bảo vệ môi trường hay công nghệ ngăn chặn việc sản xuất, sử dụng và thải POPs. Chương
trình này có nhiều dự án hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng quản lý POPs ở một quốc gia (ví dụ
như tăng cường năng lực loại bỏ POPs), và các dự án hướng tới các công nghệ tiên tiến nhất
hay các hoạt động bảo vệ môi trường tốt nhất. Dự án này sẽ đi tiên phong trong việc áp dụng

12


kỹ thuật để xử lý và phục hồi môi trường tại các điểm nóng dioxin. Mặc dù nguồn gốc của các
điểm nóng dioxin ở Việt Nam rất đặc thù nhưng nó cũng không đáng quan ngại, bởi việc áp
dụng công nghệ xử lý không phụ thuộc vào nguồn gốc gây ô nhiễm. Dự án sẽ giúp tiêu hủy
một lượng lớn chất độc POPs và đó chính là trọng tâm mà dự án đặt ra. Ngoài việc vô hiệu
hoá POPs, phần lớn dự án sẽ chú trọng đến mặt giáo dục và các hoạt động giảm thiểu rủi ro
trong cộng đồng dân cư sống quanh các điểm nóng dioxin sau khi đã xử lý được các nguồn
chủ yếu gây ra ô nhiễm.
1.2.3. Mục tiêu, mục đích và các hoạt động/kết quả của dự án
Mục đích của dự án là “giảm thiểu sự tàn phá đối với hệ sinh thái và sức khỏe con người
của chất độc thải ra từ các điểm nóng ô nhiễm TCDD”. Việc này sẽ góp phần thực hiện mục
tiêu lớn hơn là “giải quyết hậu quả từ việc sử dụng hóa chất độc hại trong chiến tranh Việt
Nam”.
Ba kết quả sau sẽ được hướng tới nhằm đạt được mục đích của dự án:
Kết quả 1: Dioxin tại các khu vực điểm nóng trọng tâm được ngăn chặn và xử lý
Dự án sẽ áp dụng công nghệ xử lý mang lại hiệu quả kinh tế ở các khu vực bị nhiễm độc.
Việc lựa chọn và đánh giá toàn diện về khả năng công nghệ sẽ được tiến hành trong giai đoạn
chuẩn bị dự án. Khả năng của công nghệ sẽ được đánh giá dựa trên các kết quả nghiên cứu và
được thảo luận với các đối tác tài trợ trong nước và quốc tế (xem phụ lục 2). Phương pháp
ngăn chặn và tiêu hủy dioxin tại chỗ đã được thống nhất sử dụng sau khi xem xét các điều
kiện đặc thù của từng vùng và đặc biệt là khối lượng đất và trầm tích bị ô nhiễm nặng ở đây.
Hơn nữa, sẽ là không khả thi nếu xử lý dioxin tại gốc (nghĩa là không thực hiện đào xới) vì sẽ
gây nguy hiểm tới cư dân sống gần đó, do độ ẩm hay mực nước ngầm cao tại một vài điểm
trong khu vực, và do nhu cầu sử dụng đất, chẳng hạn như để xây dựng sân bay.
Một vấn đề quan trọng là dự án được dự tính là sẽ chia thành 2 giai đoạn. Giai đoạn 1 là
giai đoạn cô lập hay ngăn chặn đất và trầm tích bị ô nhiễm. Công việc này được thực hiện tại
cả ba điểm nóng, tuy nhiên ở các thời điểm khác nhau và bằng các biện pháp khác nhau. Giai
đoạn 1 cần phải được hoàn thành càng sớm càng tốt, đặc biệt là việc xây dựng một hoặc một

vài bãi chôn lấp tại chỗ tại cả ba điểm nóng dựa trên kinh nghiệm thu được tại Biên Hòa.
Trong giai đoạn 2, dioxin trong đất và trầm tích phải được tiêu hủy bằng nhiều loại công nghệ
khác nhau để đạt tới tiêu chuẩn quy định. Một danh mục các tiêu chí để lựa chọn và thử
nghiệm công nghệ đã được xây dựng, trong đó có yêu cầu đối với “các hệ thống kín” (nghĩa là
toàn bộ các sản phẩm đầu ra phải được giữ lại và không sinh ra các sản phẩm phụ độc hại);
khả năng phá hủy (DE); năng suất xử lý; yêu cầu hệ thống (điện, nước, hóa chất/tác nhân, cơ
sở hạ tầng); chi phí và khả năng chuyển giao công nghệ/xây dựng năng lực cho các đối tác
Việt Nam. Các chuyên gia trong nước và quốc tế đã thống nhất danh sách sơ bộ các công
nghệ phá hủy đã qua thử nghiệm, gồm có (1) Bio-remediation - Xử lý sinh học (nhiều cách
thức, nhưng không phải là xử lý tại gốc – in situ); (2) Nghiền bi - Ball milling (tiêu hủy hóa
chất bằng cơ học-MCD); (3) Phá hủy giải hấp nhiệt trong ống (in-pile Thermal Desorption
Destraction); (4) Giải hấp nhiệt bình kết hợp phá hủy gián tiếp nhờ đồng (in-vessel Thermal
Desorption combined with Copper Mediated Destruction) - CMD) (xem phụ lục 2).
Phụ thuộc vào sự phát triển của công nghệ và những đánh giá sau đó, các loại công nghệ
tiêu huỷ khác sẽ được đưa vào thử nghiệm ở giai đoạn 2. Cũng cần lưu ý rằng thế giới chưa hề
có kinh nghiệm xử lý một khối lượng và mức độ nhiễm độc dioxin trong đất và trầm tích lớn
như các điểm nóng của Việt Nam. Tiêu chí lựa chọn các công nghệ được đưa vào thử nghiệm
sử dụng ngân sách của dự án dựa vào: các thông tin được đưa ra trong giai đoạn chuẩn bị dự
án (tóm tắt tại phụ lục 2); triển vọng xây dựng năng lực cho các kỹ sư và chuyên gia Việt nam
trong quá trình thử nghiệm; các kết quả thử nghiệm liên quan đến tiềm năng phát triển quy mô
13


một cách hiệu quả; cũng như khả năng chuyển giao công nghệ và cấp phép công nghệ của các
đối tác Việt Nam. Việc gia tăng quy mô tiêu huỷ dioxin chủ yếu phụ thuộc vào giá thành, số
lượng và khả năng tài chính.
Những kết quả thu được từ bãi chôn lấp tại Biên Hòa cho phép tiến hành một cuộc thử
nghiệm sử dụng phương pháp xử lý sinh học (phương pháp này hiện nay đang được chuẩn bị),
cũng như các phương pháp tiêu huỷ hoàn toàn dioxin bằng các công nghệ khác (ví dụ những
công nghệ được liệt kê ở trên), vì bãi chôn lấp được xây thành nhiều khoang có cửa mở riêng.

Kinh nghiệm trên cũng có thể được ứng dụng đối với việc xây dựng các bãi chôn lấp khác và
cũng cần áp dụng các công nghệ tiêu huỷ dioxin đối với các khoang khác nhau có mức độ ô
nhiễm khác nhau. Nếu có đủ nguồn tài chính để thực hiện cả hai giai đoạn 1 và 2 thì sẽ thu
được những lợi ích nhất định do dioxin trong một số khu vực đất và trầm tích sẽ được tiêu hủy
trước khi bị chôn lấp; điều này có nghĩa là tiêu chuẩn cho xây dựng bãi chôn lấp (khoang) và
quản lý rủi ro sẽ thấp hơn, do đó chi phí sẽ rẻ hơn.
Công nghệ đã lựa chọn sẽ được ưu tiên áp dụng để xử lý đất và trầm tích ở những vùng ô
nhiễm nặng nhất. Đối với các vùng phụ cận và vùng bị ô nhiễm nhẹ hơn (nhưng vẫn cao hơn
nồng độ tiêu chuẩn 1.000 ppt I-TEQ đối với đất và 150 ppt đối với trầm tích), có thể không
cần áp dụng “giai đoạn 2” trong thời điểm ngắn và trung hạn, nhưng cần có kế hoạch cô lập
và ngăn chặn ô nhiễm tiềm tàng về lâu dài. Công việc ngăn chặn này cũng có thể là sử dụng
các khoang chôn lấp (giai đoạn 1), phân huỷ sinh học sẽ được thực hiện một phần. Trong
trường hợp cần lựa chọn tiếp tục hoặc trì hoãn thực hiện giai đoạn 2 (tiêu hủy hoàn toàn
dioxin) thì cần phải có một bãi chôn lấp tuyêt đối an toàn với chương trình giám sát tại chỗ
thích hợp và lâu dài, và tình huống này chỉ có thể được chấp thuận trong điều kiện thiếu ngân
sách thực hiện (xem phần phân tích rủi ro dưới đây).
Để bảo đảm bảo đạt được Kết quả trên, các tiêu chí dưới đây đã được xác định:
Tiêu chí 1.1: Chỉ ra các đối tượng xử lý ô nhiễm và chiến lược xử lý ô nhiễm cho mỗi điểm
nóng.
Cần xây dựng một chiến lược xử lý chi tiết cho mỗi điểm nóng riêng biệt, dựa trên các kinh
nghiệm từ việc xây dựng bãi chôn lấp ở Biên Hoà (giai đoạn 1) và được thử nghiệm với nhiều
công nghệ khác nhau (giai đoạn 2). Phác thảo chiến lược cho từng khu vực của từng điểm
nóng có trong phụ lục 1 và 2, bao gồm đối tượng xử lý dựa trên các tiêu chí về nồng độ dioxin
và cách thức xử lý, đề xuất về công nghệ, khối lượng và chi phí dự kiến. Các yêu cầu cho việc
xây dựng chiến lược của từng điểm nóng được trình bày dưới đây, dựa trên các phân tích được
tiến hành trong giai đoạn chuẩn bị:
Không một vùng nào trong khu Căn cứ không quân có hàm lượng dioxin trong đất
vượt quá tiêu chuẩn an toàn là 1.000 ppt I-TEQ và trong trầm tích của ao cao hơn tiêu
chuẩn an toàn là 150 ppt I-TEQ.
Giai đoạn 1: Đào và chôn phần đất có hàm lượng vượt quá 1,000 ppt I-TEQ vào bãi

chôn lấp; nạo vét và đào lấy 50 cm trầm tích tại các ao có hàm lượng vượt quá 150 ppt
I-TEQ, để khô ngoài trời và sau đó chôn tại bãi chôn lấp ở Căn cứ không quân.
Giai đoạn 2: Xử lý theo một chu trình khép kín tại Căn cứ không quân hoặc trong bãi
chôn lấp có bể phản ứng sinh học.
Tiêu chí 1.2: Cán bộ được đào tạo về các kỹ thuật xử lý ô nhiễm được lựa chọn
Cán bộ các sở TNMT và Bộ Quôc phòng cũng như nhân viên của các công ty Việt Nam
(các nhà thầu phụ) có trách nhiệm kết hợp với các nhà cung cấp dịch vụ quốc tế giám sát và
trực tiếp ứng dụng những công nghệ được lựa chọn tại ba điểm nóng ô nhiễm. Các cán bộ và
kỹ thuật viên này sẽ được đào tạo về các quy trình kỹ thuật và giám sát để đảm bảo có thể theo
14


dõi sát sao các cuộc thử nghiệm và đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế trong mọi giai đoạn
của quá trình xử lý ô nhiễm.
Tiêu chí 1.3: Xác định ranh giới không gian những khu vực ô nhiễm nặng dựa trên việc
phân tích mẫu bổ sung
Mặc dù từ trước tới nay đã tiến hành phân tích rất nhiều mẫu, kể cả trong giai đoạn chuẩn
bị dự án (xem bản đồ/hình ảnh vệ tinh và tóm tắt phân tích ở Phụ lục 1), nhưng do cần xác
định rõ ràng ranh giới ô nhiễm ở một số phân vùng (về diện tích và độ sâu) của 3 điểm nóng
vẫn cần tiến hành lấy thêm mẫu ở những phân vùng mới. Việc này đặc biệt cần thiết đối với
những phân vùng có hệ thống thoát nước trên bề mặt đất do sẽ làm phát tán dioxin ra xa vùng
ô nhiễm ban đầu.
Trong giai đoạn chuẩn bị cho Dự án tổng thể, Chính phủ Việt Nam đề ra các tiêu chuẩn ô
nhiễm dioxin cao nhất để sử dụng tại 3 điểm nóng dựa trên các đánh giá rủi ro quốc tế và tiêu
chuẩn của một vài nước OECD (xem phụ lục 1 và 2). Sau khi tiến hành đánh giá lại, chính
phủ đồng ý ngưỡng ô nhiễm cần xử lý đối với đất là trên 1.000 ppt I-TEQ và đối với trầm tích
là trên 150 ppt.
Tiêu chí 1.4: Xử lý ô nhiễm thí điểm bằng các công nghệ được lựa chọn tại mỗi vùng
Dự án sẽ hỗ trợ xử lý ô nhiễm thí điểm tại các điểm nóng đồng thời với các kế hoạch xử lý
ở từng vị trí cụ thể (xem Tiêu chí 1.1). Dự án hỗ trợ xây dựng bãi chôn lấp “giai đoạn 1” bao

gồm toàn bộ các phân vùng (bổ sung) và hỗ trợ thực thi tại một vài phân vùng. Dựa trên các
tiêu chí được thảo luận và thông qua, danh sách sơ bộ các công nghệ sử dụng cho “giai đoạn
2” liên quan đến việc loại bỏ ô nhiễm dioxin sẽ được thiết lập. Dự án sẽ áp dụng hình thức bỏ
thầu và danh sách sơ bộ này có thể được mở rộng thêm tại giai đoạn đấu thầu cho việc thực
hiện các xử lý ô nhiễm thí điểm này (xem phần giới thiệu về kết quả 1 ở trên). Hiệu quả của
các công nghệ này trong thời gian thử nghiệm sẽ được giám sát và được dùng làm tư liệu để
thiết kế cho việc xử lý hoàn toàn ô nhiễm ở giai đoạn 2 (Tiêu chí 1.5).
Tiêu chí 1.5: Kế hoạch thực hiện được mô phỏng, tài chính được huy động và quá trình xử
lý diện rộng ở cả 3 điểm nóng được thực hiện ở mức tối đa có thể
Quy mô ngăn chặn ô nhiễm ở “giai đọan 1” và xử lý ô nhiễm dioxin ở “giai đoạn 2” (hoặc
là tiêu hủy dioxin) phụ thuộc vào kết quả đánh giá khối lượng cần xử lý (xem tiêu chí 1.3), kết
quả thử nghiệm công nghệ (xem tiêu chí 1.4) và nguồn tài chính huy động được thêm bên
cạnh các nguồn đã được các nhà tài trợ chính cam kết. Đối với những khu vực không thực
hiện được giai đoạn 2 (tiêu huỷ dioxin) trong thời gian thực hiện dự án do hạn chế về tài
chính, quá trình chôn lấp ở giai đoạn 1 sẽ được ưu tiên, đồng thời kế hoạch tiêu huỷ hoàn toàn
dioxin giai đoạn 2 cũng sẽ được chuẩn bị sẵn.
Chi phí thực hiện dự án sẽ được tính cho từng giai đoạn 1 và 2. Bảng dưới đây trình bày sơ
bộ khối lượng dioxon cần được xử lý trong dự án này.
Tổng lƣợng dioxin, khối lƣợng cần xử lý: tóm tắt cho 3 điểm nóng

Biên Hòa
Đà Nẵng
Phú Cát
Tổng

Tổng lƣợng Tổng khối Tổng khối lƣợng
Tổng khối
dioxin
lƣợng đất ô
trầm tích ô

lƣợng
(m3)
(g I-TEQ) nhiễm (m3)
nhiễm (m3)
616
121.050
20.500
141.550
1.063
60.110
28.000
88.110
57
3.570
1.550
5.120
1.736
184.730
50.050
234.780
15


Dựa vào khối lượng đất/trầm tích cần phải chôn lấp ở giai đoạn 1 và tiêu hủy ở giai đoạn 2,
dự án sẽ áp dụng hình thức bỏ thầu để lựa chọn công nghệ, dựa vào danh sách sơ bộ và các kết
quả thử nghiệm (xem tiêu chí 1.4) cung cấp trong tài liệu này, trong đó chi phí sẽ là một tiêu
chuẩn quan trọng,
Kinh phí cho giai đoạn 1 sẽ được cấp một phần từ ngân sách của Chính phủ và một phần từ
các nhà tài trợ; kinh phí cho việc phá hủy dioxin ở giai đoạn 2 cũng tương tự như vậy. Ngân
sách từ dự án GEF hiện tại và từ các nguồn đồng tài trợ hiện nay chỉ đủ cho giai đoạn 1 và

một phần nhỏ của giai đoạn 2, bao gồm các hoạt động thử nghiệm và một vài quá trình xử lý ở
giai đoạn này (Tiêu chí 1.4 và 1.5). Tuy nhiên, ngân sách chính cho Tiêu chí 1.5 chưa có đủ,
đặc biệt là để đẩy mạnh quy mô xử lý ở giai đoạn 2 (xem phần II, mục 2.1.2 và mục 2.3).
Tiêu chí 1.6: Hệ thống giám sát để đảm bảo đạt được các mục tiêu xử lý ô nhiễm
Dự án sẽ xây dựng và áp dụng hệ thống giám sát chặt chẽ để đảm bảo tất cả các hoạt động
xử lý ô nhiễm được tiến hành theo tiêu chuẩn quốc tế về an toàn và tất cả các vật chất ô nhiễm
được xử lý hiệu quả. Những sản phẩm thứ cấp có khả năng được tạo ra sau xử lý của các hệ
thống kín được thử nghiệm trong giai đoạn 2 sẽ được giám sát.
Kết quả 2: Việc sử dụng đất trên và xung quanh điểm nóng sẽ loại bỏ rủi ro và góp
phần phục hồi môi trƣờng
Xử lý ô nhiễm đầy đủ không chỉ là xử lý đất và trầm tích bị ô nhiễm ở hàm lượng cao (trên
giá trị chuẩn quốc gia 1.000 ppt I-TEQ đối với đất, 150 ppt I-TEQ đối với trầm tích) mà còn
là việc bảo vệ một cách thích đáng các bãi chôn lấp được hình thành ở giai đoạn 1 trước khi
chuyển sang giai đoạn 2, sử dụng đất hợp lý sau chôn lấp ở giai đoạn 2, và việc sử dụng hợp
lý đất và ao bị ô nhiễm ít hơn (không thuộc đối tượng bị chôn lấp ở giai đoạn 1 và tiêu huỷ ở
giai đoạn 2).
Để đạt được kết quả này, các điểm nóng cần được xử lý gồm có căn cứ không quân và sân
bay, nơi có nhiều phân vùng bị nhiễm độc, và toàn bộ các vùng đất, kênh mương và ao hồ bị
nhiễm độc cao ở các vùng phụ cận của căn cứ không quân và sân bay. Các nghiên cứu được
tiến hành trong giai đoạn chuẩn bị của dự án đã chỉ ra các phương án sử dụng đất tối ưu sau
xử lý cho phần lớn các phân vùng thuộc các ăn cứ không quân và sân bay; ngoài ra một số
nghiên cứu khác cũng bổ sung phương án sử dụng đất cho các vùng phụ cận sau xử lý. Trong
giai đoạn 1 toàn bộ các vật chất bị ô nhiễm sẽ được giữ trong các bãi chôn lấp đạt tiêu chuẩn
cao như tại Biên Hòa. Đến giai đoạn 2 chúng sẽ được xử lý bằng cách phân hủy sinh học hoặc
bằng các công nghệ khác; trong một số trường hợp khi đất/trầm tích đã qua xử lý vẫn chứa
các dư chất nhiễm độc có thể sẽ được cô lập vĩnh viễn.
Tiến hành sử dụng hiệu quả đất tại các khu vực đã bị đào xới, các bãi chôn lấp vĩnh viễn và
các vùng vành đai (bị ô nhiễm với hàm lượng dưới ngưỡng tiêu chuẩn xử lý) thông qua xây
dựng cơ sở hạ tầng sân bay (đường băng, đường dành cho taxi, và bãi đỗ xe), các khu giải trí
như là sân thể thao, bãi trồng cỏ, bụi cây hoặc các cây thương mại như cây cao su.

Để đạt được Kết quả này, các tiêu chí dưới đây đã được xác định:
Tiêu chí 2.1: Hoàn thành kế hoạch sử dụng đất toàn diện (gồm cả việc quy thành vùng) và
kế hoạch hành động cho việc phục hồi môi trường tại mỗi khu vực bị ô nhiễm (dựa trên các
khuyến nghị Đánh giá tác động môi trường-EIA)
Trước khi tiến hành bất kỳ hành động nào tại 3 điểm nóng cũng như tại các phân vùng bị ô
nhiễm, cần tiến hành đánh giá tác động môi trường (EIA) theo quy định của Việt Nam và
thông lệ quốc tế. Các đánh giá này bao gồm cả việc công bố những hành động giảm thiểu phù
hợp nhất, các tác động tiêu cực đến môi trường, rủi ro đối với sức khoẻ cộng đồng, vùng đầm
16


lầy và động vật hoang dã trong quá trình thực thi các biện pháp ở giai đoạn 1 và giai đoạn 2.
Sau đó, cần xây dựng kế hoach sử dụng đất và phục hồi môi trường tại mỗi điểm nóng.
Dựa trên các phân tích tiến hành trong giai đoạn chuẩn bị dự án, các kế hoạch sử dụng đất
và phục hồi môi trường sau đây có thể được áp dụng cho các phân vùng cụ thể (xem tóm tắt
các đề xuất cho mỗi phân vùng tại phụ lục 1 và tóm tắt các báo cáo tư vấn tại phụ lục 3 và 4):
Trồng cỏ, cây hoặc xây dựng các khu nhà thấp tầng như nhà kho, bãi đỗ xe và khu thể
thao trên các bãi chôn lấp;
Hệ thống thoát nước và bảo vệ các bãi chôn lấp;
Các ao chứa nước mới nhằm bảo vệ các vùng đầm lầy;
Các kho chứa, khu thể thao, khu đỗ xe trên bãi chôn lấp hoặc tại khu vực gần với các
phân vùng hoặc các bãi chôn lấp đã từng bị ô nhiễm cao (đã bị đào xới);
Trồng các loại cây thương mại như là cao su tại các vị trí gần với các phân vùng hoặc
các bãi chôn lấp đã từng bị ô nhiễm cao (đã bị đào xới);
Mở rộng đường băng và đường cho taxi, trồng cỏ (đặc biệt là ở Đà Nẵng).
Tiêu chí 2.2: Hoạt động tái phát triển vùng bị ô nhiễm
Dự án sẽ hỗ trợ thực hiện thí điểm tái phát triển những vùng bị ô nhiễm sau xử lý và sử
dụng đất hợp lý tại các phân vùng cùng với việc xây dựng chiến lược việc sử dụng đất như đã
trình bày trong Tiêu chí 2.1; trong đó có triển vọng đầu tư tái phát triển các ao/đầm lầy. Kế
hoạc phục hồi môi trường toàn diện sẽ được xây dựng dựa trên các thí điểm thực hiện tại Tiêu

chí 2.2 cùng các kinh nghiệm và các cơ sở dữ liệu khác. Tại những vùng mà việc tái phát triển
và sử dụng đất trong giai đoạn dự án không hoàn thành được thì một kế hoạch hành động thực
hiện nốt các công việc còn lại sẽ xây dựng sẵn. Quy mô của các hoạt động phục hồi môi
trường phụ thuộc vào nguồn tài chính được huy động trong suốt thời gian của dự án cũng như
các kế hoạch đầu tư của Chính phủ (như phát triển cơ sở hạ tầng tại sân bay Đà Nẵng).
Tiêu chí 2.3: Thực hiện các chương trình giáo dục và thông tin nâng cao nhận thức của
cộng đồng tại các vùng xung quanh điểm nóng
Theo kết quả thu được từ các cuộc điều tra được thực hiện trong giai đoạn chuẩn bị dự án,
mặc dù tỷ lệ hiểu biết về dioxin là khá cao trong cộng đồng dân cư sống gần các điểm nóng,
nhưng vẫn tồn tại một khoảng cách lớn trong các cách hiểu của người dân về dioxin, đặc biệt
là con đường dioxin xâm nhập vào cơ thể người (xem phụ lục 5 tóm tắt kết quả điều tra).
Trong khi 97% số người được hỏi biết rằng dioxin là chất độc và rất độc với con người, thì chỉ
có 69% biết được nguồn gây nhiễm dioxin vào trong cơ thể con người, và chỉ 53% biết về
cách thức hấp thụ đó. Điều này có thể lý giải một phần là tại sao người dân địa phương vẫn
tiếp tục bắt cá và thu hoạch các thực phẩm khác từ những hồ và ao nhiễm dioxin.
Gần 51% coi báo, đài và tivi là nguồn thông tin về dioxin và 39% biết từ nhiều nguồn
khác. Dự án sẽ hỗ trợ phát triển các tài liệu giáo dục mới qua báo, đài và tivi, tập trung vào
giải thích các nguồn phơi nhiễm và con đường dioxin hấp thụ vào cơ thể. Ngoài ra còn áp
dụng các phương tiện tuyên truyền khác như dán áp phích hay phát tờ rơi.
Kết quả 3: Các quy định quốc gia và năng lực thể chế đƣợc tăng cƣờng
Cơ chế phối hợp quốc gia để xử lý các điểm nóng bị ô nhiễm đã được thiết lập (như là Ủy
ban 33 và Văn phòng 33) và một Kế hoạch hành động quốc gia cũng đang trên đà hình thành
(Kế hoạch hành động quốc gia-NAP không chỉ liên quan đến vấn đô nhiễm môi trường). Mặc
dù các nguồn tài chính trong nước và quốc tế đã được huy động để làm sạch các điểm nóng,
nhưng vẫn còn cần thêm rất nhiều (xem phần nhận xét phía dưới Kết quả 1 và tiêu chí 1.5).
Để có thể giải quyết được tất cả cá điểm nóng, cần phải nâng cao năng lực và hiệu quả phối
hợp giữa các Bộ, Sở, các địa phượng và các nhà thầu cũng như sự hợp tác giữa các nhà tài trợ
và Chính phủ. Việc huy động đủ tài chính và các kênh tài trợ cũng đặc biệt cần thiết. Trong
17



giai đoạn chuẩn bị dự án việc phân tích chi tiết các nguồn tài chính khác nhau được thực hiện
dựa trên điều kiện của NAP cũng như công việc cần tiến hành trong việc làm sạch các điểm
nóng (xem phụ lục 6). Điều này cho thấy là đối với NAP có thể huy động được một nguồn
ngân sách tin cậy, nhưng làm sạch môi trường lại là một công việc trực tiếp và mang tính kỹ
thuật có thể được thực hiện trong một khoảng thời gian ngắn và các chi phí có thể ước lượng
tương đối chính xác. Do đó việc tài trợ và thực hiện công việc này trong quy mô một dự án là
phù hợp nhất, cùng với các dự án khác được điều phối bởi Văn phòng 33.
Mặc dù dự án tập trung chủ yếu vào 3 điểm nóng ô nhiễm nhất, nhưng vẫn còn các điểm
nóng khác với mức độ ô nhiễm thấp hơn cũng như một số nào đó các điểm nóng (nhỏ) chưa
phát hiện được, đặc biệt là những nơi máy bay rải hóa chất bị rơi. Ngoài ra còn có những khu
vực bị ô nhiễm POPs do sản xuất công nghiệp gây ra. Vì vậy việc xây dựng năng lực phát
hiện thêm và xử lý hiệu quả các điểm nóng của các cơ quan và tổ chức trong nước là vô cùng
cần thiết. Việc xây dựng năng lực này cần phải được thực hiện ở tất cả các cấp (từ các cơ
quan, tổ chức đến các cá nhân). Ví dụ, các tiêu chuẩn quốc tế về đất, trầm tích và vùng sinh
vật bị nhiễm độc được áp dụng chính thức cho các hoạt động tại những điểm nóng chính,
nhưng cũng cần đánh giá và xác định lại các tiêu chuẩn đó để áp dụng cho tất cả các hình thức
ô nhiễm POPs tại Việt Nam như một cơ sở cho những hoạt động sau này. Cần phải tập hợp và
thể chế hoá lại tất cả những kinh nghiệm và bài học thu được từ dự án này để giúp đối phó
hiệu quả các điểm nóng mới được tìm thấy sau này. Hơn nữa trong khi các nghiên cứu được
tiến hành trong giai đoạn chuẩn bị dự án chỉ ra rằng hiểu biết của người dân tại các vùng
nhiễm độc và của các cơ quan chức năng về dioxin là tưong đối cao, nhưng vẫn cần phải tiếp
tục nâng cao cảnh báo, đặc biệt để giảm thiểu các hoạt động gây nguy hại tới sức khỏe như
câu cá tại vùng nước bị ô nhiễm.
Để đạt được Kết quả này, các tiêu chí dưới đây đã được xác định:
Tiêu chí 3.1: Hoàn thiện khung quy định quốc gia về việc loại bỏ dioxin một cách tối đa
trong đất, nước, không khí, thực phẩm/động vật/cá
Mặc dù ở Việt Nam đã có một khung các quy định về hoá chất độc hại, nhưng vẫn còn rất
nhiều khoảng trống. Điển hình là không có các tiêu chuẩn về nồng độ dioxin trong đất, nước
và thực phẩm. Hiện tại những tiêu chuẩn quốc tế về nồng độ dioxin tối đa cho phép trong đất

là 1.000 ppt I-TEQ và trong trầm tích là 150 ppt đã được sử dụng trong việc thực thi dự án
này. Những tiêu chuẩn này phù hợp với tiêu chuẩn của một vài nước công nghiệp có chính
sách cho sử dụng đất với mực đích tương tự và cũng được Việt Nam chấp thuận áp dụng tại
ba điểm nóng ô nhiễm chính. Tuy nhiên, để có thể áp dụng một cách rộng rãi các tiêu chuẩn
này cho mọi tình huống, kể cả các điểm nóng ô nhiễm dioxin khác thì cần có một quá trình tư
vấn và thẩm định. Dự án sẽ thúc đẩy các hoạt động như vậy để đảm bảo các tiêu chuẩn này
được chấp thuận rộng rãi trong 2 năm đầu của dự án.
Tiêu chí 3.2: Tăng cường năng lực điều phối, huy động tài chính và chia sẻ kinh nghiệm ở
các cấp của Văn phòng 33
Như đã trình bày ở trên, dự án sẽ giúp tăng cường năng lực điều phối của Văn phòng 33 để
đảm bảo khả năng phối hợp hiệu quả giữa các đối tác trong nước và quốc tế và tối đa hoá khả
năng huy động vốn cho giai đoạn 2 (tiêu hủy dioxin) cũng như thực thi toàn bộ dự án. Tuy dự
án tập trung chủ yếu vào xử lý và phục hồi môi trường tại 3 điểm nóng ô nhiễm dioxin
nghiêm trọng nhất, nhưng vẫn còn có nhiều điểm nóng đã được phát hiện khác cũng rất cần
được xử lý và chắc chắn còn nhiều điểm nóng khác chưa được biết đến cũng cần được xử lý.
Do vậy cần phải lưu lại và phổ biến các bài học kinh nghiêm từ những hoạt động xử lý ô
nhiễm thuộc dự án để làm nền tảng cho các kế hoạch và hành động sau này. Dự án chắc chắn
sẽ tập hợp và chia sẻ tất cả các bài học đến các bên tham gia thuộc mọi cấp từ trung ương, tỉnh
đến địa phương.
18


Tiêu chí 3.3: Nâng cao năng lực của các cơ quan và cá nhân trong việc tiến hành khảo sát,
phân tích ô nhiễm, quy hoạch sử dụng đất cũng như quy hoạch và quản lý hoạt động tái thiết
với tính hiệu quả về kinh tế
Thông qua các hoạt động điều tra, thử nghiệm, xử lý các điểm nóng và phối hợp hành động
của các đối tác chính, đặc biệt là của Bộ TNMT (các cục, vụ và phòng khác nhau), Bộ QP, cơ
quan quản lý các căn cứ không quân và sân bay và các UBND tỉnh, huyện, dự án sẽ giúp phát
triển năng lực điều tra, phân tích, qui hoạch và quản lý các điểm nóng cũng như các khu vực ô
nhiễm POPs do sản xuất công nghiệp gây ra. Tăng cường năng lực thông qua việc xây dựng

cơ chế điều phối và hợp tác giữa các cơ quan chính phủ và thông qua chương trình đào tạo
nhằm giúp khắc phục những điểm yếu về năng lực của các cá nhân (chương trình này được
xây dựng một phần là từ các kết quả điều tra về hiểu biết của cộng đồng về dioxin được tóm
tắt tại phụ lục 5, tuy nhiên cần tiến hành đánh giá cụ thể về nhu cầu xây dựng năng lực trước
khi xây dựng chương trình tập huấn).
Tiêu chí 3.4: Thực hiện chiến lược truyền thông tới các ngành công nghiệp và người tiêu
dùng trong nước và quốc tế
Tiến hành một chiến lược truyền thông là vô cùng quan trọng vì những lý do sau: trước hết,
hiện nay có nhiều thông tin sai trên bình diện quốc tế về tình trạng nhiễm độc dioxin ở Việt
Nam và gây ra những tác động tiêu cực cho nhiều ngành như du lịch và xuất khẩu nông sản.
Dự án được xem như một nguồn và phương tiện truyền thông quốc tế cung cấp thông tin
chính xác, đặc biệt là những thông tin về việc xử lý thành công các điểm nóng dioxin còn tồn
tại. Thứ hai, dự án được coi là một thí điểm quan trọng về xử lý ô nhiễm dioxin để rút ra các
bài học kinh nghiệm cho các quốc gia khác, đặc biệt là các nước đang phát triển, đang phải
đối phó với những vấn đề tương tự. Do vậy, chiến lược truyền thông sẽ có nhiều biện pháp
tuyên truyền các kinh nghiệm thu được thông qua những mạng lưới quôc tế hiện nay của
UNDP và GEF (ví dụ các báo cáo và thông kê trên các ấn phẩm của GEF). Cuối cùng, với khả
năng còn rất nhiều nguồn ô nhiễm dioxin khác có thể gây ra các vấn đề nghiêm trọng tới môi
trường và sức khoẻ con người, chiến lược truyền thông sẽ tập trung vào việc nâng cao nhận
thức của các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và quảng đại dân chúng về các nguồn gây
nhiễm dioxin tiềm tàng; những tác động tới sức khỏe và môi trường do dioxin nhiễm trong
đất, trầm tích, nước và thực phẩm; và về trách nhiệm của tất cả các bên.
Để biêt thêm chi tiết, xem Khung kết quả chiến lược (SRF) tại phần II. Hiện tại UNDP
đang phối hợp với các đối tác chủ chốt trong nước và quốc tế nhằm nỗ lực chuẩn bị cho công
việc hỗ trợ xử lý các điểm nóng dioxin và phát triển thể chế. Chương trình hiện đang tập trung
tăng cường năng lực xử lý dioxin cấp quốc gia. Trên cơ sở hợp tác với các trung tâm và nhóm
nghiên cứu trong nước và quốc tế, Văn phòng 33 chịu trách nhiệm thu thập thông tin kỹ thuật
phục vụ cho dự án. Chính phủ có trách nhiệm huy động hỗ trợ và tài trợ từ tất cả các nguồn có
thể. Tuy vây, tính nhạy cảm của vấn đề cũng đã hạn chế sự tham gia của nhiều nhà tài trợ và
tổ chức khác. UNDP là tổ chức đa phương đầu tiên hợp tác tích cực với Văn phòng 33 trong

vấn đề này. Điểm mạnh chính của UNDP là hỗ trợ kỹ thuật và xây dựng năng lực, và đặc biệt
là có nhiều kinh nghiệm hoạt động tại Việt Nam. Vì UNDP đứng trung lập và được Chính phủ
tin tưởng nên đã đóng vai trò xúc tác trong việc xây dựng năng lực cũng như khuyến khích
các bên khác tham gia vào phong trào giải quyết dioxin/chất độc da cam.
1.2.4. Các thông số, rủi ro và giả thiết của dự án
Các thông số sau được dùng để đánh giá việc hoàn thành các mục đích và tiêu chí của dự
án. Thông tin cụ thể được trình bày tại bảng SRF trong phần II, mục 2.2.
Mục đích: Giảm thiểu sự tàn phá hệ sinh thái và rủi ro cho sức khỏe con ngƣời do sự
thất thoát TCDD từ các điểm nóng vào môi trƣờng.
19


Thông số và mục tiêu 1: Đảm bảo lượng dioxin tại các vị trí thí điểm làm sạch và làm sạch
tổng thể ở 3 điểm nóng của dự án GEF với các chi phí đã được thông qua sẽ thất thoát không
đáng kể vào môi trường sau khi dự án kết thúc.
Thông số và mục tiêu 2: Khi dự án kết thúc, không nhiều hơn 1/3 số người được phỏng vấn
cho rằng mức tài trợ để họ xây dựng cuộc sống là không thỏa đáng.
Kết quả 1: Các khu vực điểm nóng ô nhiễm dioxin chủ chốt đƣợc kiểm soát và xử lý
Thông số và mục tiêu: Với vai trò là một kết quả của việc thực hiện dự án GEF, toàn bộ đất
ô nhiễm với nồng độ lớn hơn 1.000 ppt và trầm tích hơn 150 ppt sẽ được xử lý thích đáng và
sau đó được chôn một cách an toàn, nhờ đó sẽ tránh được sự phát thải 1.736 g I-TEQ ra môi
trường. Kết quả này sẽ đạt được tại Biên Hòa vào cuối năm 2010, Đà Nẵng cuối năm 2012 và
Phù Cát cuối năm 2011.
Kết quả 2: Việc sử dụng đất trên và xung quanh các điểm nóng sẽ loại trừ các rủi ro
và góp phần phục hồi môi trƣờng
Thông số và mục tiêu: Đến cuối dự án, sử dụng đất hợp lý phải được thực hiện ít nhất trên
10 ha ở Biên Hòa, 8 ha ở Đà Nẵng và 4 ha ở Phù cát.
Kết quả 3: Tăng cƣờng năng lực thể chế và hệ thống các quy định quốc gia
Thông số và mục tiêu 1: Đến cuối dự án, ít nhất 70% cán bộ tham gia dự án thuộc các Bộ
chủ chốt, các cơ quan quản lý căn cứ không quân và cán bộ thuộc chính quyền địa phương

được đào tạo hoặc nâng cao được nhận thức về dioxin và chỉ có dưới 5% số cán bộ không tiếp
xúc được với các thông tin về chính sách và luật liên quan đến dioxin.
Thông số và mục tiêu 2: Đến cuối dự án, chỉ ít hơn 15% người được hỏi không nêu được
tên các tổ chức chịu trách nhiệm về quản lý các khu vực ô nhiễm.
Các rủi ro có thể xảy ra được trình bày dưới đây:
Rủi ro
Diện tích và lượng chính xác Lớn
các vật chất bị ô nhiễm nặng
tại các điểm nóng

Dự toán chi phí phụ thuộc Lớn
nhiều vào sự chính xác của
các số liệu ô nhiễm.
Chi phí cho việc tiêu hủy Lớn
(giai đoạn 2) phụ thuộc vào
các kết quả thử nghiệm và
tính hiệu quả trong đấu thầu.

Khả năng về tăng cường năng Lớn

Biện pháp giảm thiểu rủi ro
Có rất nhiều vấn đề chưa chắc chắn về mặt khoa học
trong phạm vi ô nhiễm đã được giải đáp trong quá trình
chuẩn bị dự án được tài trợ bởi các nguồn khác nguồn
GEF (UNDP-Core). Những nghiên cứu tiếp theo sẽ giúp
đưa ra thông số diện tích, độ sâu và khối lượng một cách
rõ ràng hơn. Tuy nhiên cần tính đến những chi phí thấp
thích hợp cho việc phân tích ô nhiễm.
Như trên
Nhiều vấn đề chưa rõ ràng liên quan đến lựa chọn công

nghệ đã được giải quyết trong giai đoạn chuẩn bị dự án
dưới sự tài trợ từ các nguồn khác nguồn GEF (thuộc
UNDP). Danh sách lựa chọn sơ bộ đã được hình thành
thông qua các nguồn tài chính này. Hơn nữa, các nỗ lực
xử lý ban đầu tại Đà Nẵng, việc tiếp cận chôn lấp ở Biên
Hòa và các thử nghiệm sớm trước đó đối với các công
nghệ được giới thiệu theo đề tài GEF đã cho những bài
học nhất địng nhằm đảm bảo việc xử lý có hiệu quả về
mặt kinh tế. Việc đấu thầu dự kiến thực hiện trong một số
giai đoạn (như thử nghiệm, và nếu thành công sẽ thực
hiện trên quy mô lớn hơn)
Việc tuyên truyền về kiến thức ngăn chặn, xử lý ô nhiễm
20


Rủi ro
lực và chuyển giao kiến thức
về ô nhiễm POPs và công
nghệ xử lý không được đảm
bảo.
Có thể không huy động đủ Trung
chi phí cần thiết cho “giai bình
đoạn 2”, giai đoạn tiêu hủy
hoặc ngăn chặn lâu dài ô
nhiễm dioxin trong thời gian
thực hiện dự án (xem rào cản
e)

Mức độ tổng thể


Biện pháp giảm thiểu rủi ro
POPs tại các cơ quan ở địa phương và quốc gia, dựa trên
một nhóm nhỏ các chuyên gia, là một trong những thách
thức lớn của dự án. Tuy nhiên, thời gian sẽ cho phép đào
tạo dần dần và có hệ thống để đạt được mục tiêu đưa ra.
Ngoài kinh phí sẽ có từ các nguồn đồng tài trợ đã cam
kết, sự án cần có thêm nhiều kinh phí hơn thế; do vậy,
việc ngăn chặn ở “giai đoạn 1” đối với toàn bộ các phân
vùng cũng như việc giảm thiểu nguy hại đối với sức khoẻ
có thể được hoàn thành trong thời gian ngắn và trung hạn.
Trong khi đó việc tiêu hủy dioxin ở “giai đoạn 2” và ít
nhất một vài quy trình xử lý ở phạm vi rộng hơn sẽ được
thực hiện dựa trên các nguồn tài chính đã huy động được.
Rủi ro không huy động được vốn cho giai đoạn 2 đã được
giải quyết trong giai đoạn chuẩn bị dự án bằng cách sử
dụng nhiều nguồn thay thế khác như ODA và ngân sách
quốc gia (xem phụ lục 6). Việc này đã được phản ánh
trong chiến lược xử lý tổng thể dưới sự nhất trí của chính
phủ và các đối tác quốc tế. Dự án sẽ đưa ra những kế
hoạch rõ ràng về chi phí cho việc xử lý tổng thể toàn bộ
các phân vùng đã được xác định tại 3 điểm nóng cũng
như những kế hoạch phục hồi môi trường mà sau này có
thể được áp dụng rộng rãi sau khi dự án đã kết thúc với
các nguồn tài trợ khác từ trong nước và quốc tế.

Lớn

1.2.5. Lợi ích của địa phương, quốc gia và toàn cầu
Như đã trình bày ở trên, nếu không thực hiện dự án này thì các vật chất nhiễm dioxin sẽ
tiếp tục gây ra nhiều tác hại tiêu cực đến môi trường và cộng đồng dân cư sống xung quanh

các điểm nóng. Vì vậy, GEF sẽ tập trung hỗ trợ giới thiệu và xây dựng năng lực để có thể áp
dụng các tiêu chuẩn quốc tế và để đảm bảo khuôn khổ thể chế và chính sách và cơ cấu nội bộ
được xây dựng hợp lý nhằm hỗ trợ các hoạt động xử lý dioxin.
Dự án sẽ mang lại lợi ích to lớn cho môi trường của Việt Nam và toàn cầu. Thực hiện
thành công dự án sẽ ngăn chặn đáng kể sự thất thoát TCDD, với tổng hàm lượng ô nhiễm ước
tính vượt quá 3.000 g I-TEQ tại ba điểm nóng chính.
Thực chất, dự án sẽ mang làm bất hoạt và tiêu hủy một lượng đáng kể các hóa chất POPs.
Nếu không có hoạt động này thì các vật chất nhiễm POPs cao sẽ bị thất thoát và phát tán sâu
rộng vào môi trường xung quanh, từ đó gây nguy hại cho sức khỏe con người và môi trường.
Những rủi ro mà POPs có thể gây ra cho cộng đồng dân cư sống gần các điểm nóng sẽ được
giảm thiểu thông qua hoạt động của dự án.
Giảm rủi ro POPs cho các cộng đồng dân cư địa phương là mục tiêu trọng tâm của dự án.
Ngoài việc bất hoạt nguồn POPs thì một phần quan trọng của dự án là tập trung vào giáo dục
và các hoạt động làm giảm rủi ro cho các cộng đồng sống ở vùng lân cận các điểm nóng
dioxin sau khi nguyên nhân ô nhiễm chính được xác định.
1.2.6. Quyền sở hữu quốc gia: Tư cách được nhận tài trợ và hướng đi của quốc gia
Việt Nam thông qua Công ước Stockholm vào ngày 22/7/2002 và có đủ tư cách để nhận tài
trợ từ UNDP và GEF. Tiêu điểm hoạt động của GEF được xác nhận trong đề án – xem phần
IV, mục 4.1.

21


Chính phủ đã xây dựng một khuôn khổ chính sách chung và coi việc xử lý các điểm nóng ô
nhiễm dioxin là một chương trình đặc biệt trong Kế hoạch hành động quốc gia (NIP) theo
Công ước Stockholm về POPs. Nhiều phân tích ô nhiễm quan trọng đã được thực hiện trong
các năm qua với sự hỗ trợ về tài chính và nhân lực của quốc gia và quốc tế, đặc biệt là những
hỗ trợ cho việc xây dựng kế hoạch và bước đầu xử lý ô nhiễm tại hai điểm nóng (Đà Nẵng và
Phù cát). Ngoài ra, Chính phủ cũng duy trì các nguồn tài chính cho xử lý ô nhiễm (đặc biệt
cho Biên Hòa). Tuy nhiên, để giải quyết ô nhiễm một cách toàn diện theo các tiêu chuẩn quốc

tế nhằm loại bỏ hoàn toàn các rủi ro cho môi trường và sức khỏe con người tại và xung quanh
ba điểm nóng thì cần có sự hỗ trợ về cả tài chính và kỹ thuật lớn hơn nhiều.
Chương trình hỗ trợ Phát triển của Liên Hiệp Quốc cho nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam giai đoạn 2006-2010 bao gồm Kết quả 1 cho rằng " Các chính sách kinh tế của
Chính phủ hỗ trợ tăng trưởng có tính công bằng, toàn diện và bền vững hơn ". Chương trình
Quốc gia của UNDP nêu rõ mục đích là tăng cường năng lực để đảm bảo rằng các hoạt động
về môi trường được gắn liền với việc xóa đói giảm nghèo và tăng trưởng kinh tế, "góp phần
hoàn thành các nghĩa vụ theo các công ước môi trường toàn cầu" bao gồm Công ước
Stockholm.
Chương trình "Một kế hoạch" hợp tác giữa Liên Hợp Quốc và Việt Nam, chương trình kết
hợp giữa UNDAF và Chương trình Quốc gia của UNDP, nêu rõ vai trò của Liên Hợp Quốc
trong việc loại bỏ hoàn toàn các điểm nóng ô nhiễm dioxin. Kết quả 3 của Chương trình Một
Kế hoạch là “Việt Nam có những chính sách và năng lực phù hợp trong việc bảo vệ môi
trường và quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên và di sản văn hóa nhằm xóa đói giảm
nghèo, tăng trưởng kinh tế và cải thiện chất lượng cuộc sống. Và "Kết quả mong đợi" 3.22.2
là "loại bỏ các kho chứa và và việc sản xuất ngoài ý muốn các hợp chất POPs, đặc biệt là
thuốc trừ sâu trong nông nghiệp, dioxin và các hóa chất nguy hại khác".
Chương trình “Một Kế hoạch” xác định những lĩnh vực có khả năng thúc đẩy hợp tác giữa
các tổ chức LHQ tham gia vào cải cách LHQ tại Việt Nam, trong đó có lĩnh vực "loại bỏ các
kho chứa thuốc trừ sâu nông nghiệp và dioxin (bao gồm cả chất độc da cam)". Đứng đầu là
vai trò của UNDP, sau đó đến FAO, UNIDO và UNEP (tuy nhiên, UNEP không nằm trong
chương trình “Một Kế hoạch” do không có trụ sở ở Việt Nam). Việc hợp tác và trao đổi các
bài học giữa UNDP và các tổ chức Liên Hợp Quốc dự kiến sẽ được làm rõ trong giai đoạn
khởi đầu của dự án này.
1.2.7. Tính bền vững
Việc thiết kế 3 Kết quả là đã có tính đến tầm quan trọng của tính bền vững. Việc lựa chọn
các công nghệ phù hợp với các tiêu chí lựa chọn chính là yêu cầu về tính bền vững phù hợp
với điều kiện của Việt Nam xét trên phương diện hiệu quả kinh tế và nhu cầu giải quyết các
điểm nóng sẽ được phát hiện sau này. Những thí điểm về công nghệ xử lý tại ba điểm nóng đã
được định vị cùng với việc cung cấp đào tạo những kiến thức cần thiết cho các cán bộ tham

gia sẽ giúp đảm bảo tính bền vững, do sự nghiệp xử lý ô nhiễm trong tương lai sẽ cần đến
những cán bộ có kinh nghiệm như vậy. Các cán bộ này chủ yếu thuộc Bộ QP và Bộ TNMT.
Tương tự, việc sử dụng đất giai đoạn sau xử lý ô nhiễm, theo Kết quả 2, được thiết kế để
đảm bảo tính bền vững tại các vùng ô nhiễm đã được xử lý, ví dụ bằng cách tránh sử dụng đất
làm ảnh hưởng đến bãi chôn lấp. Tuy nhiên, sự kết hợp tiêu hủy dioxin trong phần lớn đất và
trầm tích thông qua các công nghệ thử nghiệm và chôn lấp vĩnh viễn đất và trầm tích ô nhiễm
ở nồng độ thấp sẽ làm giảm xác suất sử dụng đất không hợp lý trong tương lai, bởi vì đất sau
khi xử lý sẽ không chứa dioxin nữa. “Giai đoạn 1” bao gồm các quá trình chôn lấp sẽ liên tục
được giám sát và mức độ ô nhiễm của đất và trầm tích (tại giai đoạn 2) sẽ được xác định (sau
xử lý) nhằm đảm bảo rằng quá trình loại bỏ ô nhiễm đã được tiến hành thành công.
22


Kết quả 3 sẽ là căn cứ để đảm bảo rằng bất cứ địa điểm nào bị ô nhiễm dioxin, dù là trong
thời gian chiến tranh nhưng mới được phát hiện hay các địa điểm mới ô nhiễm POPs từ các
hoạt động sản xuất công nghiệp, đều có thể được xử lý nhanh chóng và hiệu quả.
Dự án này là một phần của một sáng kiến lớn hơn nhằm xây dựng và thực hiện một Kế
hoạch hành động quốc gia tổng thể (NAP) liên quan đến các hậu quả hóa chất do chiến tranh
để lại. Một cơ chế tài chính đã được vạch ra (xem tóm tắt tại phụ lục 6) vừa để giải quyết
những vấn đề không được xử lý trong dự án này (như vấn đề sức khỏe), vừa để tài trợ cho
hoạt động xử lý các điểm nóng ô nhiễm khác (bao gồm những điểm nóng nhiễm dioxin nồng
độ thấp hơn và các cơ sở ô nhiễm khác, xem Quyết định số 64/2003/QD-TTg – xem phần I,
mục 1.2)
1.2.8. Khả năng tái thiết
Xử lý ô nhiễm thí điểm ở những khu vực bị nhiễm độc nặng nhất và đưa ra một phương án
sử dụng đất hợp lý sẽ là một quá trình trình diễn hiệu quả cho việc loại bỏ ô nhiễm tại các
điểm ô nhiễm POPs khác tại Việt Nam và nhiều quốc gia khác. Bởi vì công nghệ dùng để xử
lý ô nhiễm ở các khu căn cứ không quân nhiễm độc cao hơn bất cứ nơi nào khác nên chắc
chắn sẽ thích hợp để sử dụng cho các vùng khác. Với những hoạt động được vạch ra trong
phần Kết quả 3 thì việc tuyên truyền các kiến thức, kinh nghiệm và thông tin sẽ đạt kết quả

cao. Chiến lược truyền thông bao gồm các hoạt động tuyên truyền về xử lý ô nhiễm và sử
dụng đất sau xử lý trê phạm vi vùng và phạm vi rộng lớn hơn.
1.3. Sắp xếp quản lý
Dự án sẽ được quản lý theo thể thức Phối hợp hành động quốc gia (NEX) giữa Chính phủ
và UNDP. Dự án sẽ được quản lý bởi Bộ TNMT. Cấu trúc hệ thống quản lý sẽ bao gồm một
Ban điều phối dự án (PEU) và một Ban quản lý dự án (PMU). Hình thức quản lý cụ thể được
trình bày dưới đây.
Đối tác triển khai thực hiện
Đóng vai trò là Đối tác triển khai thực hiện cấp quốc gia (NIP) của dự án, Bộ TNMT chịu
trách nhiệm với Chính phủ và UNDP về việc đảm bảo (a) chất lượng của dự án, (b) sử dụng
hiệu quả các nguồn lực của UNDP và của Chính phủ, (c) sự đóng góp trong nước kịp thời
nhằm hỗ trợ thực hiện dự án và (d) điều phối hiệu quả các đơn vị tham gia, đặc biệt là các đơn
vị trong nước.
Bộ phận chịu trách nhiệm
Đóng vai trò là bộ phận triển khai công việc của dự án, Văn phòng 33 chịu trách nhiệm huy
động mọi nguồn lực trong nước và quốc tế nhằm hỗ trợ thực thi dự án, tổ chức các hoạt động
của dự án theo kế hoạch công việc đã được thông qua và báo cáo tới Bộ TNMT và UNDP về
tiến độ cũng như tình hình tài chính của dự án. Văn phòng 33 đóng vai trò là ban thư ký của
Ban chỉ đạo sự án trong việc Khắc phục các hậu quả gây ra bởi các hóa chất độc hại được sử
dụng trong chiến tranh (Ủy ban 33). Thành viên của Ban Chỉ đạo 33 là đại diện lãnh đạo các
bộ ngành như Bộ trưởng và Thứ trưởng Bộ TNMT, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ Y tế, Văn
phòng chính phủ,…Bộ Trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường là Trưởng Ban Chỉ đạo. Văn
phòng 33 trực thuộc Bộ TNMT.
Ban điều phối dự án (PEU)
PEU bao gồm Giám đốc Dự án Quốc gia, đại diện nhà tài trợ UNDP và một đại diện của
Vụ Hợp tác Quốc tế, cơ quan chủ quan Dự án. PEU sẽ đảm bảo việc lập kế haọch năm, kế
hoạch quí, cân đối ngân sách tài trợ cũng như chỉnh sửa ngân sách phù hợp với thực tế và tiến
độ công việc. Trên thực tế, việc lập kế hoạch cũng như chính sửa là những việc phải được ưu
23



tiên hàng đầu; cần phải xâu dựng và trao đổi kỹ lưỡng với nhà tài trợ để việc điều phối tài
chính luôn phù hợp với nội dung công việc. NPD sẽ là chủ tịch của PEU. PEU sẽ tiến hành
họp định kỳ ba tháng một lần, hoặc thường xuyên hơn trong trường hợp cần thiết.
Đại diện của GACA (các đại diện phối hợp hỗ trợ Chính phủ), gồm có Văn phòng Chính
phủ (OOG), Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Bộ KHĐT) và Bộ Ngoại giao (Bộ NG) sẽ được mời
tham dự các cuộc họp của PEU trong trường hợp cần thiết. Đại diện của UNDP-CO, thay mặt
GEF, sẽ tham dự cuộc họp của PSC khi cần thiết trong vai trò nhà tài trợ cho dự án. Đại diện
của Văn phòng chỉ đạo quốc gia về Công ước Stockholm về các hợp chất POP (NSC) sẽ được
mời tham dự khi thích hợp. Bộ TNMT cũng đóng vai trò là chủ tịch của Văn phòng chỉ đạo
quốc gia về Công ước Stockholm về các hợp chất POP.
Giám đốc dự án quốc gia (NPD)
Chánh Văn phòng 33 có thể là Giám đốc Dự án quốc gia (NPD) và do Bộ TNMT chỉ định.
NPD sẽ chịu trách nhiệm với PEU trong việc quản lý và thực hiện tổng thể dự án.
Ban quản lý dự án (PMU)
PMU chịu trách nhiệm điều phối tổng thể, quản lý, thực hiện, giám sát, đánh giá, và báo
cáo toàn bộ các hoạt động của dự án. PMU gồm có các vị trí sau (Điều lệ thực thi của các vị
trí chủ chốt trong phần IV, mục 4.3):
Giám đốc dự án (NPD và Bộ TNMT chỉ định cán bộ cao cấp ở các vị trí giám đốc, làm
bán thời gian, 30% thời gian làm việc)
Tư vấn kỹ thuật cao cấp quốc tế (STA - được tuyển dụng làm toàn thời gian cố định
trong vòng 36 tháng)
Cán bộ quản lý dự án (PM- tuyển dụng, làm toàn thời gian cố định trong vòng 48
tháng)
Phiên dịch viên/trợ lý dự án (PIA- tuyển dụng, làm toàn thời gian cố định trong vòng
48 tháng)
PMU sẽ thường xuyên tham khảo ý kiến và làm việc với Hội đồng Khoa hoặc và Công
nghệ của Văn phòng 33 để nhận tư vấn và hướng dẫn. Hội đồng này được thành lập từ năm
2004 với tư cách là một bộ phận khoa học kỹ thuật của Ủy ban 33. Hội đồng gồm 14 chuyên
gia thuộc nhiều lĩnh vực như: y, môi trường, sinh thái, hóa học và độc chất.

Hoạt động hỗ trợ của Văn phòng quốc gia (UNDP-CO)
UNDP-CO sẽ đảm bảo chất lượng và cũng như công tác giám sát hoạt động của các nhà tư
vấn kỹ thuật cao cấp quốc tế trong công việc hỗ trợ hoạt động của UNDP và Văn phòng 33.
Theo yêu cầu của NPD, UNDP-CO sẽ giúp Văn phòng 33 trong việc huy động các nguồn lực
quốc tế. UNDP-CO cũng cung cấp các dịch vụ cho công việc đấu thầu các gói hoạt động của
dự án, tìm kiếm các nhà thầu phụ, tuyển mộ các nhà tư vấn, thảo hợp đồng khi được NPD yêu
cầu. Các chính sách trang trải chi phí đang được áp dụng của UNDP sẽ được vận dụng vào
các dịch vụ này.
Để công nhận sự đóng góp của GEF và UNDP trong việc cung cấp tài chính và trợ giúp về
mặt kỹ thuật, biểu tượng (logo) của GEF và UNDP sẽ được xuất hiện trên toàn bộ các ấn
phẩm liên quan đến dự án, phần cứng của dự án, các phương tiện chuyên trở được mua bằng
tiền của dự án. Bất kỳ sự trích dẫn nào trên các ấn phẩm cũng sẽ phải có sự nhìn nhận thích
hợp về sự đóng góp của GEF và UNDP.
1.4. Kế hoạch giám sát, đánh giá và ngân sách
Việc giám sát và đánh giá dự án sẽ được tiến hành phù hợp với hướng dẫn do GEF thiết
lập, các quy định của UNDP trong bối cảnh của sáng kiến Một Liên Hợp Quốc tại Việt Nam,
24


Nghị định 131/2006/ND-CP, Thông tư 04/2007/TT-BKH và các hướng dẫn/điều lệ của chính
phủ và sẽ được cung cấp bởi nhóm dự án và Văn phòng quốc gia UNDP (UNDP-CO) cùng
với sự hỗ trợ từ UNDP/GEF. Bảng cơ cấu hợp lý tại phần II cung cấp các thông số thực hiện
và thông số kết quả cho việc thực hiện dự án cùng với biện pháp kiểm tra tương ứng. Điều
này sẽ tạo nền tảng cho việc xây dựng hệ thống giám sát và đánh giá của dự án.
Các mục sau phác thảo những thành phần chính của kế hoạch giám sát và đánh giá và
những ước tính chi phí liên quan đến các hoạt động giám sát và đánh giá. Kế hoạch giám sát
và đánh giá của dự án sẽ được trình bày và tổng kết trong Báo cáo đầu tiên của dự án theo một
sự điều chỉnh tối ưu dựa trên các chỉ tiêu, biện pháp kiểm tra và sự xác định đầy đủ trách
nhiệm của nhân viên dự án tham gia việc giám sát và đánh giá.
1.4.1. Giai đoạn khởi động dự án

Một hội thảo giữa kỳ của dự án sẽ được tiến hành với sự tham gia của toàn bộ Ban quản lý
dự án, các cơ quan Chính phủ liên quan, các đối tác đồng tài trợ, UNDP-CO và đại diện từ Tổ
chức điều phối vùng UNDP-GEF, cũng như UNDP-GEF (HQ) nếu cần thiết.
Một nội dung quan trọng trong Hội thảo giữa kỳ này (Inception Workshop – IW) là giúp
đỡ Ban quan lý dự án hiểu và nắm được các mục tiêu của dự án cũng như hoàn thành bước
chuẩn bị của Kế hoạch công việc năm đầu tiên của dự án dựa trên Bảng cấu trúc của dự án
(logframe matrix). Việc chuẩn bị này bao gồm xem xét lại khung (các thông số, biện pháp
kiểm tra, giả định) qua đó đưa ra các chi tiết bổ sung cần thiết để hoàn thành Kế hoạch công
việc hàng năm (Annual Work Plan - AWP) với các thông số thực hiện có thể đo được và
chính xác, phù hợp với các kết quả đề ra của dự án.
Ngoài ra, các mục đích quan trọng khác của Hội thảo giữa kỳ là: (i) Giới thiệu các thành
viên dự án với nhóm UNDP-GEF mở rộng, thành phần sẽ tài trợ cho dự án trong suốt quá
trình thi hành, được gọi là UNDP-CO và các thành viên tham gia của UNDP-GEF; (ii) Chi tiết
hóa các vai trò, nhiệm vụ hỗ trợ và trách nhiệm bổ sung của các thành viên UNDP-CO và
UNDP-GEF đối với Ban quản lý dự án; (iii) Cung cấp một cái nhìn chi tiết về các yêu cầu báo
cáo, giám sát và đánh giá của UNDP-GEF, nhấn mạnh đặc biệt về việc Xem xét việc thực
hiện dự án hàng năm (Annual Project Implementation Reviews - PIRs) và các tài liệu liên
quan, Báo cáo dự án hàng năm (Annual Project Report - APR), hội nghị phê bình ba bên,
cũng như các đánh giá giữa kỳ và cuối kỳ. Tương tự, hội thảo sẽ là cơ hội để thông báo đến
Ban quản lý dự án về dự án của UNDP liên quan đến qui hoạch ngân sách, xem xét ngân sách
và điều chỉnh ngân sách bắc buộc.
Hội thảo giữa kỳ sẽ là cơ hội cho các tổ chức hiểu rõ vai trò, chức năng và trách nhiệm của
họ trong cấu trúc quyết định của dự án, bao gồm cách thức thông báo, con đường liên lạc và
các cơ chế giải quyết khó khăn phát sinh. Các điều khoản tham chiếu (TORs) cho các nhân
viên dự án và các cấu trúc quyết định của Kế hoạch quản lý dự án sẽ được thảo luận lại nếu
cần thiết để làm rõ trách nhiệm của mỗi tổ chức trong quá trình thi hành dự án.
1.4.2. Trách nhiệm giám sát và các sự kiện
Một bảng liệt kê chi tiết các cuộc họp đánh giá dự án sẽ được thiết lập dựa trên Kế hoạch
quản lý dự án với sự tham khảo của các đối tác thực thi dự án và đại diện của các đơn vị tài
trợ tài chính. Bảng liệt kê này sẽ được gộp trong Báo cáo đầu tiên của dự án. Bảng liệt kê này

sẽ bao gồm (i) khung thời gian tạm thời cho các Cuộc họp của Ban điều hành, cố vấn có liên
quan và/ hoặc các cơ chế phối hợp và (ii) các hoạt động giám sát và đánh giá liên quan đến dự
án.

25


×