Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

Tích hợp liên môn người lính trong thơ hiện đại 2015 2016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.58 MB, 52 trang )

Bài dự thi dạy theo chủ đề tích hợp liên môn

Năm học: 2014-2015

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH OAI
TRƯỜNG THCS THANH THÙY

HỒ SƠ DỰ THI DẠY HỌC THEO
CHỦ ĐỀ TÍCH HỢP LIÊN MÔN
TÊN CHỦ ĐỀ: “HÌNH TƯỢNG NGƯỜI LÍNH
TRONG THƠ HIỆN ĐẠI”
- MÔN HỌC CHÍNH CỦA CHỦ ĐỀ: NGỮ VĂN 9
- CÁC MÔN ĐƯỢC TÍCH HỢP: TIN HỌC,
LỊCH SỬ, GIÁO DỤC CÔNG DÂN, SINH HỌC,
MĨ THUẬT

Năm học: 2014 - 2015
Phiếu mô tả dự án dự thi của giáo viên

Giáo viên: Phan Thị Thúy Vân

1

Trường THCS Thanh Thùy


Bài dự thi dạy theo chủ đề tích hợp liên môn

Năm học: 2014-2015

1.Tên dự án dạy học: Truyền thống yêu nước của con người Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp và


chống Mĩ
2.
3.

Mục tiêu: Đảm bảo các yêu cầu về:
a) Kiến thức trong chủ đề:

- Học sinh hiểu được thế nào là truyền thống yêu nước
- Nắm được những nét khái quát về lịch sử, văn hóa, xã hội Việt Nam giai đoạn 1945-1975.
- Thấy được sự phát triển, đặc điểm của văn học giai đoạn 1945-1975
- Nắm được nội dung chủ yếu của truyền thống yêu nước của con người Việt Nam trong văn học thời kháng
chiến chống Pháp và chống Mĩ.
1.
2.

b) Học sinh vận dụng kiến thức liên môn Ngữ văn, Lịch sử, Công dân để giải quyết các vấn đề nêu trên
một cách nhuần nhuyễn.
Đối tượng dạy học của dự án

- Đối tượng dạy học của dự án: học sinh.
- Số lượng: 30 em.
- Số tiết: 3
- Số lớp thực hiện: 1
- Khối lớp: 9
4.

Ý nghĩa của dự án

Qua thực tế quá trình dạy học chúng tôi thấy rằng việc kết hợp kiến thức liên môn vào để giải quyết một vấn đề
nào đó trong một môn học là việc làm hết sức cần thiết. Điều đó đòi hỏi người giáo viên bộ môn không chỉ nắm

chắc môn mình dạy mà còn phải không ngừng trau dồi kiến thức các môn học khác để tổ chức, hướng dẫn các
em giải quyết các tình huống, các vấn đề đặt ra trong môn học một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất.
Là giáo viên, nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa của hoạt động này nên chúng tôi trình bày và thực hiện
thử nghiệm một dự án nhỏ đối với đối tượng học sinh lớp 9.
Việc kết hợp các kiến thức liên môn như Lịch sử, GDCD vào môn Ngữ văn rất quan trọng, giúp cho việc dạy theo
chủ đề đảm bảo được sự khái quát, đầy đủ, toàn diện hơn. Từ đó học sinh có cái nhìn tổng hợp hơn về một vấn
đề đặt ra trên bình diện rộng.
Cụ thể với chủ đề này, học sinh sẽ có được cái nhìn tổng quát cả về một thời đại, một giai đoạn văn học. Và quan
trọng hơn, với đề tài này cái đích đến cuối cùng là truyền thống yêu nước của dân tộc, các em sẽ có nhận thức
đúng đắn hơn về vai trò, trách nhiệm cũng như sự định hướng cho lí tưởng sống của mình. Điều này sẽ khó có
được khi chỉ học đơn thuần những đơn vị kiến thức và bài học nhỏ lẻ.
Như vậy, kiến thức liên môn tạo điều kiện cho học sinh chủ động, tích cực, sáng tạo; giáo dục thêm những hiểu
biết về truyền thống văn hóa của dân tộc từ đó bồi dưỡng lòng tự hào và yêu quê hương đất nước mình hơn
đồng thời giúp học sinh ý thức hơn việc học phải đi đôi với hành; rèn luyện các kĩ năng giải quyết tình huống
trong cuộc sống và ứng dụng vào thực tế đời sống.

Giáo viên: Phan Thị Thúy Vân

2

Trường THCS Thanh Thùy


Bài dự thi dạy theo chủ đề tích hợp liên môn
5.

Năm học: 2014-2015

Thiết bị dạy học, học liêêu :


- Cần kết hợp các tri thức ở các môn học: Ngữ Văn, công dân, Lịch sử
+ Truyền thống yêu nước (Công dân)
+ doxycycline dosage ureaplasma doxycycline monohydrate allergic reaction doxycycline reviewsLịch sử Việt
Nam giai đoạn 1945-1975 (Lịch sử)
+ Văn học thời kháng chiến chống Pháp và chống MĨ (Ngữ văn)
- Sử dụng máy chiếu:
+ Các hình ảnh nổi bật về các cuộc khởi nghĩa, các cuộc họp quyết định những vấn đề quan trọng..
+ Một số nội dung quan trọng của các hội nghị liên quan đến lịch sử từng giai đoạn.
+ Liệt kê hệ thống các tác phẩm văn học trong giai đoạn này.
- Ngoài ra: học sinh chuẩn bị các tư liệu cần thiết, giấy trong, bút dạ…
6 . Hoạt đôêng dạy học và tiến trình dạy học:
1.
2.

Mục tiêu bài học:
Kiến thức: Học sinh vận dụng kiến thức liên môn Ngữ văn, Lịch sử, Công dân để giải quyết các vấn đề:

- Học sinh hiểu được thế nào là truyền thống yêu nước
- Nắm được những nét khái quát về lịch sử, văn hóa, xã hội Việt Nam giai đoạn 1945-1975.
- Thấy được sự phát triển, đặc điểm của văn học giai đoạn 1945-1975
- Nắm được nội dung chủ yếu của truyền thống yêu nước của con người Việt Nam trong văn học thời kháng
chiến chống Pháp và chống Mĩ.
1.

Kĩ năng:

- Rèn kĩ năng khái quát, tổng hợp
- Kĩ năng so sánh, đối chiếu.
1.


Thái độ

- Giáo dục ý thức trân trọng những giá trị truyền thống vững bền của dân tộc
- Giáo dục lòng yêu quê hương đất nước.
1.
2.

Phương pháp: kết hợp các phương pháp: vấn đáp, thuyết trình, thảo luận, hoạt động nhóm…
Tiến trình lên lớp:

* Ổn định tổ chức: Giáo viên kiểm tra sĩ số

Giáo viên: Phan Thị Thúy Vân

3

Trường THCS Thanh Thùy


Bài dự thi dạy theo chủ đề tích hợp liên môn

Năm học: 2014-2015

* Kiểm tra: Giáo viên kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh: tư liệu, giấy trong, bút dạ…
* Nội dung bài dạy:
Giáo viên giới thiệu bài mới:
Dân tộc ta có một truyền thống đấu tranh chống xâm lược; đã bao thế hệ cha ông nối tiếp nhau đứng lên chống
ngoại xâm để bảo vệ Tổ quốc và viết nên những trang sử oai hùng. Hồ Chủ tịch đã khẳng định: “Dân ta có một
lòng nồng nàn yêu nước”. Thật vậy, lòng yêu nước đã trở thành truyền thống, phẩm chất của con người Việt Nam
từ thế hệ này qua thế hệ khác, đặc biệt rong giai đoạn chống Pháp và chống Mĩ gay go ác liệt. Tình cảm này có

khi được thực hiện bằng những hành động cụ thể, nhiều lúc thể hiện qua thơ ca. Đã có biết bao chiến sĩ, nhà thơ
đã mượn lời thơ để giãi bày tấm lòng yêu quê hương của mình. Hôm nay cô sẽ cùng các em khám phá truyền
thống yêu nước của con người Việt Nam.
1.
2.

Truyền thống yêu nước:
Khái niệm

? Truyền thống là gì?
- Truyền thống là những yếu tố về sinh hoạt xã hội: phong tục, tập quán, lối sống, đạo đức tốt đẹp của dân tộc
được lưu truyền từ xưa đến nay.
? Thế nào là truyền thống yêu nước?
- Truyền thống yêu nước của dân tộc là nét nổi bật trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt, là di sản quý
báu của dân tộc được hình thành từ rất sớm, được củng cố và phát huy qua hàng ngàn năm lịch sử.
? Thế nào là lòng yêu nước?
- Khi hình thành quốc gia dân tộc Việt những tình cảm mang tính địa phương phát triển thành tình cảm rộng lớn:
lòng yêu nước.
2.

Biểu hiện của truyền thống yêu nước:

? Truyền thống yêu nước được biểu hiện như thế nào?
- Tình yêu quê hương, yêu thiên nhiên đất nước.
- Lòng căm thù giặc, tinh thần quyết chiến, quyết thắng kẻ thù, ý thức sâu sắc về vai trò, trách nhiệm và sứ mệnh
cao cả của người chiến sĩ
- Sự cống hiến, hi sinh thầm lặng cho tổ quốc, quê hương
- Tự hào trước chiến công thời đại, trước những truyền thống lịch sử
- Lòng biết ơn, ca ngợi và tự hào trước những chiến công của cha anh, những người đã hi sinh vì đất nước.
1.


Bối cảnh lịch sử, văn hóa, xã hội:

Trong giai đoạn 30 năm, dân tộc ta đã trải qua hai cuộc kháng chiến: kháng chiến chống Pháp và kháng chiến
chống Mĩ.

Giáo viên: Phan Thị Thúy Vân

4

Trường THCS Thanh Thùy


Bài dự thi dạy theo chủ đề tích hợp liên môn

Năm học: 2014-2015

Giáo viên chia lớp thành hai nhóm, thảo luận về hai vấn đề:
- Nhóm 1. Trình bày những nét chính về tình hình lich sử, văn hóa, xã hội nước ta giai đoạn 1945-1954?
- Nhóm 2. Trình bày những nét chính về tình hình lich sử, văn hóa, xã hội nước ta giai đoạn 1954-1975?
Thời gian cho thảo luận: 5 phút. Sau khi kết thúc thời gian thảo luận, giáo viên gọi đại diện các nhóm trình bày,
nhóm khác nhận xét, bổ sung. Giáo viên chốt lại những nét chính:
1.
2.

Giai đoạn 1945-1954 (kháng chiến chống Pháp)
a) Tình hình lịch sử:

- Cách mạng tháng Tám (1945) thành công, mở ra một kỷ nguyên mới cho đất nước – kỷ nguyên độc lập, tự chủ.
Ngày 2-9-1945, Hồ Chủ Tịch đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

- Nhưng chính quyền cách mạng non trẻ, ngay lúc đó, đã phải đương đầu với muôn vàn khó khăn trên tất cả các
phương diện của đời sống: nạn đói, nạn đốt, nạn ngoại xâm. Vượt qua mọi khó khăn, chính quyền dân chủ nhân
dân không những được giữ vững mà còn ngày càng củng cố, mạnh mẽ hơn.
- Ðáp lời kêu gọi ngày 19-12-1946 của Hồ Chủ Tịch, cả đất nước đã đứng lên, vừa đánh giặc vừa củng cố lực
lượng, huy động sức mạnh dân tộc không chỉ ở hiện tại mà cả từ truyền thống quật khởi bốn nghìn năm.
- Từ năm 1947, liên tiếp những chiến thắng quan trọng đã làm thay đổi cục diện, tương quan lực lượng giữa ta
và địch: chiến thắng Việt Bắc thu đông (1947) chặn; chiến thắng Biên giới (1950; chiến thắng Hòa Bình (1952,…
Cuối cùng, chiến thắng Ðiện Biên Phủ (7-5-1954) làm lịm tắt ý đồ xâm lược của thực dân Pháp, buộc chúng phải
chấp nhận thương lượng và ký kết hiệp định Giơnevơ về Ðông Dương (20-7-1954).
- Cuộc kháng chiến chín năm đã kết thúc thắng lợi. Một nửa nước được giải phóng. Chính quyền kiểu mới ở các
cấp từng bước được củng cố. Tổ chức Ðảng vững mạnh hơn nhiều.
1.

b) Văn hóa, giáo dục: Trong hoàn cảnh chiến tranh hết sức khó khăn, văn hóa giáo dục vẫn không
ngừng được nâng cao:

- Nạn mù chữ cơ bản được thanh toán (phổ cập cấp 1 trong toàn dân).
- Tiếng Việt trở thành ngôn ngữ chính thức giảng dạy trong tất cả các cấp học.
- Một số trường Ðại học được mở ra để đào tạo nhân tài cho đất nước (y khoa, sư phạm)…
2.
3.

Giai đoạn 1954-1975 (kháng chiến chống Mĩ)
a) Tình hình lịch sử:

- Đất nước tạm thời bị chia cắt làm hai miền. Đảng đề ra nhiệm vụ của từng miền với hai chiến lược cách mạng:
xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam thống thất đất nước. Cách mạng xã
hội chủ nghĩa ở miền Bắc có vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển của cách mạng cả nước. Cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam có vai trò quyết định trực
tiếp.Cách mạng hai miền có mối quan hệ mật thiết gắn bó và tác động lẫn nhau nhằm hoàn thành cuộc cách

mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện hòa bình, thống nhất đất nước”
- Ở miền Nam, tiến hành cuộc đấu tranh chính trị phát triển lên khởi nghĩa(1959-1960) rồi chiến tranh giải phóng
(từ giữa năm 1961), kết hợp khởi nghĩa với chiến tranh trải qua năm giai đoạn, lần lượt đánh bại 4 chiến lược
thống trị vfa xâm lược thực dân mới của Mĩ: 1954-1960, đánh bại chiến lược “ chiến tranh đơn phương của Ai-

Giáo viên: Phan Thị Thúy Vân

5

Trường THCS Thanh Thùy


Bài dự thi dạy theo chủ đề tích hợp liên môn

Năm học: 2014-2015

xen-hao, 1961-1965, đánh bại chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Ken-nơ-đy và Giôn-xơn, 1965-1968, đánh bị
chiến lược Chiến tranh cục bộ của Giôn-xơn, 1969-1973, đánh bại về cơ bản chiến lược Việt Nam hóa chiến
tranh của Ních-xơn “đánh cho Mĩ cút”, 1973-1975 đánh bại hoàn toàn chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh và
“đánh cho Ngụy nhào” với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
- Ở miền Bắc, thực hiện những nhiệm vụ của cách mạng trong thời kì quá độ lên CNXH là sản xuất, lao động xây
dựng và khi Mĩ mở rộng chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân thì miền Bắc kết hợp chiến đấu với
sản xuất. Miền Bắc còn làm nhiệm vụ của hậu phương chi viện cho tiền tuyến miền Nam và thực hiện nghĩa vụ
quốc tế đối với Lào, Cam-pu-chia. Miền Bắc đã giành thắng lợi trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại
của đế quốc Mĩ, đưa đất nước phát triển trên con đường CNXH
1.

b) Văn hóa, giáo dục: được đẩy mạnh

- Hệ thống giáo dục phổ thông theo chương trình 10 năm đã được khẳng định

- Một số trường đại học được thành lập.
- Hơn 1 triệu người được xóa nạn mù chữ.
- Các văn nghệ sĩ thực sự trở thành những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa tư tưởng, khích lệ tinh thần chiến đấu
của chiến sĩ đồng bào như: Tiếng hát át tiếng bom, hát cho đồng bào tôi nghe.
Tất cả những phương diện của tình hình lịch sử – xã hội nêu trên đã có ảnh hưởng trực tiếp, tạo nên những
thuận lợi và khó khăn riêng cho sự phát triển, quyết định diện mạo của văn học giai đoạn này.
III. Truyền thống yêu nước của con người Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ qua các tác
phẩm văn học:
1.

Đặc điểm của truyền thống yêu nước trong văn học 1945-1975

? Truyền thống yêu nước trong giai đoạn này có đặc điểm gì?
- Do hoàn cảnh lịch sử, đất nước rơi vào tay thực dân Pháp, nhiều cuộc khởi nghĩa quật khởi nhưng đều bị đàn
áp đẫm máu.
-> Nội dung chủ nghĩa yêu nước trong văn học 45 – 75 trở đi mang cảm hứng bi tráng
- Do hoàn cảnh lịch sử, đất nước tiếp xúc với phương Tây mà ý thức hệ phong kiến có những biểu hiện rạn nứt.
Tư tưởng yêu nước theo ý thức hệ phong kiến bộc lộ những bảo thủ, hạn chế. Một số trí thức phong kiến, mặc
dù xuất thân từ Nho giáo nhưng do tiếp xúc với phương Tây nên họ mang tinh thần dân chủ.
-> Nội dung chủ nghĩa yêu nước giai đoạn văn học 45 – 75 mang tinh thần dân chủ
- Trong 30 năm, dân tộc Việt Nam anh hùng đã đánh đuổi được hai kẻ thù thực dân, đế quốc sừng sỏ.
- > Chủ nghĩa yêu nước giai đoạn này mang âm hưởng ngợi ca cuộc kháng chiến
2.

Các tác phẩm trong giai đoạn 1945-1975 thể hiện truyền thống yêu nước:

Hoạt động nhóm: Liệt kê các tác phẩm thể hiện lòng yêu nước của con người Việt Nam thời kì kháng chiến
chống Pháp và chống Mĩ (đã học ở các lớp 6,7,8,9) theo mẫu.

Giáo viên: Phan Thị Thúy Vân


6

Trường THCS Thanh Thùy


Bài dự thi dạy theo chủ đề tích hợp liên môn

Năm học: 2014-2015

– Nhóm 1. Liệt kê các tác phẩm thể hiện lòng yêu nước của con người Việt Nam thời kì kháng chiến chống
Pháp và chống Mĩ (Lớp 6,7)
– Nhóm 2. Liệt kê các tác phẩm thể hiện lòng yêu nước của con người Việt Nam thời kì kháng chiến chống
Pháp và chống Mĩ (Lớp 8, 9)
Thời gian thảo luận: 5 phút. Sau khi kết thúc thời gian thảo luận, giáo viên gọi đại diện các nhóm trình bày, nhóm
khác nhận xét, bổ sung.
Giáo viên tổng hợp: Bao gồm các tác phẩm sau:

TT

Tên tác phẩm

Tác giả

Thể loại

1

Đêm nay Bác không ngủ


Minh Huệ

Thơ 5 chữ

2

Lượm

Tố Hữu

Thơ 4 chữ

3

Cảnh khuya

Hồ Chí Minh

Thơ tứ tuyệt

4

Rằm tháng giêng

Hồ Chí Minh

Thơ lục bát

5


Làng

Kim Lân

Truyện

6

Đồng chí

Chính Hữu

Thơ tự do

7

Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Phạm Tiến Duật

Thơ tự do

8

Lặng lẽ Sa Pa

Nguyễn Thành Long

Truyện ngắn


9

Những ngôi sao xa xôi

Lê Minh Khuê

Truyện ngắn

10

Chiếc lược ngà

Nguyễn Quang Sáng

Truyện ngắn

11

Tiếng gà trưa

Xuân Quỳnh

Thơ 5 chữ

3.

Biểu hiện của truyền thống yêu nước qua các tác phẩm:

? Truyền thống yêu nước được biểu hiện như thế nào qua các tác phẩm đã học?
- Tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương, làng xóm..

- Lòng căm thù giặc, tinh thần quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược, ý thức sâu sắc về vai trò, trách nhiệm
và sứ mệnh cao cả của người chiến sĩ
- Sự cống hiến, hi sinh thầm lặng cho tổ quốc, quê hương
- Lòng biết ơn, ca ngợi và tự hào trước những chiến công của cha anh, những người đã hi sinh vì đất nước
(những anh bộ đội, những người lính, chú bé đưa thư,…)
Vậy những biểu hiện về truyền thống yêu nước đó đã thể hiện như thế nào qua các bài văn, bài thơ đã học?
* Mỗi nhóm học sinh bốc thăm chọn các vấn đề. Sẽ hình thành 4 nhóm tương ứng với 4 biểu hiện của lòng yêu
nước:
Nhóm 1. Tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương, làng xóm..
Nhóm 2. Lòng căm thù giặc, tinh thần quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược, ý thức sâu sắc về vai trò, trách
nhiệm và sứ mệnh cao cả của người chiến sĩ

Giáo viên: Phan Thị Thúy Vân

7

Trường THCS Thanh Thùy


Bài dự thi dạy theo chủ đề tích hợp liên môn

Năm học: 2014-2015

Nhóm 3. Sự cống hiến, hi sinh thầm lặng cho tổ quốc, quê hương
Nhóm 4. Lòng biết ơn, ca ngợi và tự hào trước những chiến công của cha anh, những người đã hi sinh vì đất
nước (những anh bộ đội, những người lính, chú bé đưa thư,…)
Sau đó giáo viên cho học sinh hình thành dàn ý của bài văn nghị luận dực trên cơ sở các biểu hiện nêu trên.
Thời gian xây dựng dàn ý: 10 phút
Sau đó, giáo viên yêu cầu trình bày miệng các vấn đề đã chọn. Giáo viên khái quát những vấn đề chính.
Dân tộc ta có một truyền thống đấu tranh chống xâm lược; đã bao thế hệ cha ông nối tiếp nhau đứng lên chống

ngoại xâm để bảo vệ Tổ quốc và viết nên những trang sử oai hùng. Trong giai đoạn chống Pháp và chống Mĩ gay
go ác liệt, để động viên cổ vũ lòng yêu nước của toàn dân, tại Đại hội Đảng năm 1954, trong bài viết “Tinh thần
yêu nước của nhân dân ta”, Hồ Chủ tịch đã khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước”
Thật vậy, lòng yêu nước đã trở thành truyền thống, phẩm chất của con người Việt Nam từ thế hệ này qua thế hệ
khác. Tình cảm này có khi được thực hiện bằng những hành động cụ thể, nhiều lúc thể hiện qua thơ ca. Đã có
biết bao chiến sĩ, nhà thơ đã mượn lời thơ để giãi bày tấm lòng yêu quê hương của mình.
Nhìn ngược lại về những thời kì lịch sử xa xưa, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy những sáng tác văn học đầu
tiên dù là văn học viết hay là văn học truyền miệng đều là tiếng nói của lòng yêu nước. Những sáng tác bất hủ
của nền văn học trung đại hầu như không viết về bất kì một vấn đề nào khác mà chủ yếu thể hiện tình yêu quê
hương đất nước. Từ bài thơ Thần của Lí Thường Kiệt, “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn, “Cáo bình ngô” của
Nguyễn Trãi, cho đến sau này, với những vần thơ yêu nước của cụ Đồ Chiểu, những câu thơ dậy sóng của Phan
Bội Châu, thơ ca cách mạng đã kế thừa truyền thống ấy tạo nên một nội dung chủ đạo xuyên suốt thơ ca cách
mạng truyền thống nói chung và kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ nói riêng.
2.1. Tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương, làng xóm
Truyền thống yêu nước của con người Việt Nam được bắt nguồn từ những tình cảm bình dị, đơn sơ của mỗi
người dân. Tình cảm đó, mới đầu, chỉ là sự quan tâm đến những người thân yêu ruột. thịt, rồi đến xóm làng, sau
đó phát triển cao thành tình yêu Tổ quốc. Tình yêu đất nước không phải là tình cảm bẩm sinh, mà là sản phẩm
của sự phát triển lịch sử, gắn liền với một đất nước nhất định.
1.

a) Tình yêu thiên nhiên:

Tình yêu quê hương trong thơ ca thời kì kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ đã trở thành chủ đề chính, chủ đề
lớn nhất. Tuy nhiên, chủ đề này ở mỗi tác giả lại thể hiện tình yêu quê hương theo một phong cách riêng. Trong
bài thơ “Cảnh khuya” thiên nhiên hiện lên sống động, bình dị mà lung linh, huyền ảo biết bao. Bằng nghệ thuật so
sánh sắc sảo và tài tình, tác giả đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên đầy ấn tượng hiện lên ngay trong những câu thơ
đầu của bài thơ:
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa”.
“Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”.
Cảnh vật dưới mặt đất thật nên thơ, trên bầu trời ánh trăng rọi xuống mặt đất khiến cảnh vật dưới mặt đất càng

thêm huyền ảo. Nhà thơ như giãi bày tâm sự của mình với cảnh thiên nhiên, cảnh thiên nhiên cũng như hiểu
được tâm sự của một thi sĩ ceftin blood brain barrier purchase ceftinkhông ngủ được. Trong bức tranh đêm hiền
hòa, dịu êm như thế xuất hiện hình ảnh con người “chưa ngủ”. “Chưa ngủ” vì “lo nỗi nước nhà” và cũng vì thế bất
chợt bắt gặp và chia sẻ với vẻ đẹp tinh tế của thiên nhiên. Nếu như trong “Cảnh khuya”, thiên nhiên hiện lên là

Giáo viên: Phan Thị Thúy Vân

8

Trường THCS Thanh Thùy


Bài dự thi dạy theo chủ đề tích hợp liên môn

Năm học: 2014-2015

cảnh rừng Việt Bắc chập chờn hai gam màu cơ bản trắng – đen thì trong “Rằm tháng giêng” thiên nhiên hiện lên
lại là vẻ đẹp lồng lộng, bát ngát trăng vàng giữa dòng sông xuân mênh mang:
“Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên,
Xuân giang xuân thủy tiếp xuân thiên
Yên ba thâm xứ đàm quân sự
Dạ bán quy lại nguyệt mãn thuyền”.
Với bút pháp tả cảnh tài tình của nhà thơ, người đọc được chiêm ngưỡng cảnh trăng rằm vô cùng đẹp. Vầng
trăng mùa xuân vừa đúng độ tròn, xinh tươi, soi sáng khắp bầu trời cao rộng, trong trẻo, thoáng đãng. Bầu trời và
vầng trăng tưởng như không có giới hạn, dòng sông mùa xuân, màu nước mùa xuân nối liền với bầu trời xuân
gợi cảm giác trong trẻo, rộng lớn, thảnh thơi, thanh bình, thú vị làm sao!
Dù tả cảnh nhưng lại thể hiện tâm trạng của con người, thái độ lạc quan yêu đòi của nhà cách mạng ấy thật đáng
khâm phục, nơi sâu thẳm mịt mù khói sóng rất đỗi thiêng liêng, bí mật mà đẹp như trong huyền thoại, nơi bàn
chuyện hệ trọng sống còn của đất nước, vậy mà Người vẫn đắm say tận hưởng một vầng trăng đẹp, một vầng
trăng viên mãn. Ở đó, cái thực và cái ảo đan xen, hài hòa. Đó chính là chất lãng mạn, chất trữ tình trong thơ Bác:

con thuyền, con người hòa quyện với thiên nhiên, thấm đẫm, tràn trề lai láng ánh trăng.
Hai bài thơ này được Bác viết trong những năm đầu kháng Pháp vô cùng khó khăn gian khổ. Nhưng ở trong thơ,
ta vẫn gặp một chủ thể trữ tình rất yêu thiên nhiên, vẫn ung dung làm việc, vẫn chan hòa cùng ánh trăng
thơ mộng của núi rừng. Người lo lắng cho đất nước nhưng trong tâm hồn, Bác vẫn dành cho thiên nhiên những
niềm ưu ái, không vì việc quân bận rộn mà Người đành hờ hững, từ chối vẻ đẹp thiên nhiên. Điều này nói lên
phẩm chất lạc quan và phong thái ung dung của Bác.
1.

b) Tình yêu quê hương, làng xóm:

Không chỉ dừng lại ở tình yêu thiên nhiên, văn học thời kì này còn bộc lộ tình yêu tha thiết đối với làng quê – nơi
chôn rau cắt rốn của mình. Nhân vật ông Hai – một người nông dân trong truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân
yêu làng chân thành, bộc trực thủy chung. Nét tính cách đầu tiên và dễ nhận thấy nhất ở ông Hai là tình yêu tha
thiết đối với làng ông. Đối với người nông dân, làng không chỉ là một đơn vị hành chính, địa lí. Ở đó chứa đựng
cuộc sống của họ, tất cả những gì gần gũi và thân thuộc với họ. Làng chính là quê hương, là cuộc đời họ. Ông
Hai cũng vậy, ông có tính hay khoe làng với tất cả niềm hãnh diện. “Ông nói về cái làng ấy một cách say mê và
náo nức lạ thường. Hai mắt ông sáng hẳn lên, khuôn mặt biến chuyển hoạt động.” Tình yêu làng đã biến ông Hai
thành một con người hoàn toàn khác so với một ông Hai bị gò bó, tù túng trong căn bếp tản cư. Ông muốn về
làng, lại muốn được cùng anh em đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá.” Những ký ức về làng xưa, xóm cũ trở
thành niềm an ủi, động viên ông Hai mỗi khi chán nản. Thế nhưng đó cũng chỉ là hồi ức, một hồi ức tươi vui và
đầy tự hào đến nỗi mỗi khi nhớ lại, trong ông lại trào dâng một nỗi nhớ khôn nguôi: “Ông Hai nhớ cái làng, nhớ
cái làng quá.” Với ông, ngôi làng của ông vốn đã là một điều gì đó vô cùng thiêng viagra online canada pharmacy
viagra no prescription insurance. correct viagra liêng và đẹp đẽ. Tâm sự của ông Hai là tâm sự của một người
gắn bó với làng tha thiết, yêu làng bằng một niềm tự hào chân chính.
Tình yêu làng của ông Hai được thể hiện nổi bật và đậm nét nhất khi ông nghe tin làng ông theo Tây. Như xét
đánh ngang tai, ông từ chối tin vào điều đó. Những tiếng ấy như thốt lên từ trái tim bị tổn thương, từ niềm tự hào
bị chà đạp của ông. Mà ông Hai đâu chỉ đau cho mình, đau cho làng, mà ông còn đau cho những người đồng
hương, đồng cảnh ngộ. Lúc này đây, làng không chỉ là nơi chôn rau cắt rốn nữa, mà là một cái gì đó lớn lao hơn,
là lòng tự trọng, là danh dự.
Không chỉ thế, tình yêu làng còn trở thành một nỗi ám ảnh day dứt trong ông, buộc ông phải lựa chọn giữa làng


Giáo viên: Phan Thị Thúy Vân

9

Trường THCS Thanh Thùy


Bài dự thi dạy theo chủ đề tích hợp liên môn

Năm học: 2014-2015

và nước. Dù đã dứt khoát đi theo kháng chiến, ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm sâu đậm với làng quê, và vì
thế mà ông càng đau xót, tủi hổ hơn.
Bên cạnh tình yêu làng, nhân vật ông Hai còn ghi dấu trong mắt người đọc bằng lòng yêu nước và tinh thần
kháng chiến. Tình yêu làng giờ đây đã trở thành tình yêu có ý thức, hòa nhập và lòng yêu nước. Lòng yêu nước
của ông thật giản dị nhưng vô cùng chân thành, sâu sắc và cảm động. Chính điều ấy đã giúp ông chịu đựng
được tin đồn quái ác về làng mình, vì ông có niềm tin vào cách mạng, vào kháng chiến. Từ đây, ông Hai nói riêng
hay người nông dân nói chung, đã nhìn rộng hơn, xa hơn lũy tre làng. Không chỉ yêu làng, trong ông còn có một
tình yêu lớn gấp nhiều lần – lòng yêu nước.
Tình yêu tha thiết với làng quê còn được bộc lộ rõ trong thơ Chính Hữu. Đó là tình cảm cheapest prices
pharmacy. dapoxetine online india . cheapest rates, buy generic dapoxetine online. dào dạt, tha thiết của người
lính với quê hương khi dứt áo ra đi vì nghĩa lớn:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính
(Chính Hữu – Đồng chí)
Họ là những người lính gác tình riêng ra đi vì nghĩa lớn, để lại sau lưng mảnh trời quê hương với những băn
khoăn, trăn trở. Lên đường đi chiến đấu, người lính chấp nhận sự hi sinh, tạm gạt sang một bên những tính toán
riêng tư. Song dù dứt khoát, mạnh mẽ ra đi nhưng những người lính nông dân hiền lành chân thật ấy vẫn nặng

lòng với quê hương. Chính thái độ gồng mình lên ấy lại cho ta hiểu rằng những người lính càng cố gắng kiềm
chế tình cảm bao nhiêu thì tình cảm ấy càng trở nên bỏng cháy bấy nhiêu. Nếu không đã chẳng thể cảm nhận
được tính nhớ nhung của hậu phương: “giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”. Hình ảnh thơ hoán dụ mang tính
nhân hoá này càng tô đậm sự gắn bó yêu thương của người lính đối với quê nhà, nó giúp người lính diễn tả một
cách hồn nhiên và tinh tế tâm hồn mình. Giếng nước gốc đa kia nhớ người ra lính hay chính tấm lòng người ra
lính không nguôi nhớ quê hương và đã tạo cho giếng nước gốc đa một tâm hồn?
Quả thực giữa người chiến sĩ và quê hương anh đã có một mối giao cảm vô cùng sâu sắc đậm đà. Tác giả đã
gợi nên hai tâm tình như đang soi rọi vào nhau đến tận cùng. Ba câu thơ với hình ảnh: ruộng nương, gian nhà,
giếng nước, gốc đa, hình ảnh nào cũng thân thương, cũng ăm ắp một tình quê, một nỗi nhớ thương vơi đầy.
Nhắc tới nỗi nhớ da diết này, Chính Hữu đã nói đến sự hi sinh không mấy dễ dàng của người lính. Tâm tư ấy, nỗi
nhớ nhung ấy của “anh” và cũng là của “tôi”, là đồng chí họ thấu hiểu và chia sẻ cùng nhau. Tình đồng chí đã
được tiếp thêm sức mạnh bởi tình yêu quê hương đất nước ấy.
2.2. Lòng căm thù giặc, tinh thần quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược, ý thức sâu sắc về vai trò,
trách nhiệm và sứ mệnh cao cả của người chiến sĩ
Truyền thống yêu nước không chỉ gắn liền với quá trình xây dựng đất nước, nó còn được thể hiện rõ hơn trong
quá trình bảo vệ đất nước. Không có một dân tộc nào trên thế giới lại phải chịu nhiều cuộc chiến tranh như vậy
và với những kẻ thù mạnh hơn rất nhiều. Chính tinh thần yêu nước nồng nàn đã giúp dân tộc ta vượt qua mọi
khó khăn, chiến thắng mọi thế lực xâm lược. Qua những cuộc chiến đấu trường kỳ đầy gian khổ đó, truyền thống
yêu nước đã trở thành dòng chủ lưu của đời sống Việt Nam, trở thành một triết lý xã hội và nhân sinh trong tâm
hồn Việt Nam.
Chính vì vậy mà tinh thần yêu nước đã ngầm sâu vào tình cảm, vào tư tưởng của mỗi người dân Việt Nam qua
tất cả các thời đại, làm nên một sức mạnh kỳ diệu, giúp cho dân tộc ta đánh thắng hết kẻ thù này đến kẻ thù khác
cho dù chúng có hùng mạnh đến đây. Điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh tổng kết: “Dân ta có một lòng nồng

Giáo viên: Phan Thị Thúy Vân

10

Trường THCS Thanh Thùy



Bài dự thi dạy theo chủ đề tích hợp liên môn

Năm học: 2014-2015

nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khỉ Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần
ấy lại sôi nổi. nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó
nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”
Trong những cuộc chiến tranh tàn khốc đó, nếu không có tinh thần yêu nước, lòng tự hào tự tôn dân tộc, làm sao
một dân tộc nhỏ yếu như chúng ta có thể làm nên những chiến trắng vang dội, đánh thắng được những kẻ thù
mạnh nhất thế giới. Lòng yêu nước ở mỗi người dân Việt nam đã được thể hiện ở tinh thần dám xả thân vì nước,
sẵn sàng đặt lợi ích cúa quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích riêng tư của bản thân mình, đấu tranh không biết mệt
mỏi cho sự nghiệp giải phóng đất nước, giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc.
Các thế hệ nhà thơ chống Pháp, chống Mỹ trước hết là những người lính. Tiếng nói của nhà thơ cũng chính là
tiếng nói của người trong cuộc. Thơ ra đời từ những cánh rừng, chiến hào, mặt trận, trên những chặng đường
hành quân… Chính vì thế, tiếng nói của nhà thơ là tiếng nói của cá nhân nhưng đủ sức đại diện cho cả thế hệ.
Những trải nghiệm khắc nghiệt của chiến tranh, suy nghĩ về đất nước, nhân dân, về sự hy sinh, lòng yêu nước,
trách nhiệm lịch sử… được thể hiện một cách khái quát, chân thực nhất và ghi đậm dấu ấn mỗi thế hệ vào đời
sống tinh thần dân tộc trong những “tháng năm không thể nào quên”.
Khi đất nước bị xâm lăng, biểu hiện đầu tiên của những người lính đó là ý thức trách nhiệm cao cả của họ trước
lịch sử, đất nước, nhân dân. Và ở mọi thế hệ, khi nhận lĩnh trách nhiệm lịch sử, đều có những tuyên ngôn và tự
họa chân dung riêng của thế hệ mình. Thế hệ chống Pháp nói về ý chí, quyết tâm lên đường, sẵn sàng bỏ lại
cuộc sống bình yên bằng những hình ảnh cụ thể, đầy sức gợi, nhuốm không khí rất đặc trưng của những ngày
đầu cách mạng:
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nộ
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy
(Nguyễn Đình Thi – Đất nước).
Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng là cách nói của Chính Hữu về họ – các chàng trai Hà Thành. Họ đã rời

bỏ sách vở và cuộc sống chốn thị thành với phố xá êm đềm lưu luyến sau lưng để lên đường đi kháng
Pháp. Người ra đi đầu không ngoảnh lại, cách nói đậm dáng dấp anh hùng, mang hơi hướng khí chất Kinh Kha,
mộng mơ và lãng mạn nhưng đã thể hiện mạnh mẽ hơn bao giờ hết ý chí, sự dấn thân. Thái độ dứt khoát khi lên
đường đi chiến đấu bảo vệ độc lập của dân tộc còn được thể hiện trong cách nói chất phác, giản dị nhưng không
kém phần quyết liệt của những người lính nông dân ra đi từ các làng quê:
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
(Chính Hữu – Đồng chí).
Cũng như những người lính chống Pháp, thế hệ chống Mỹ đã khẳng định sự xuất hiện kịp thời với một thái độ
lựa chọn quyết liệt và ý thức sâu sắc về sự lựa chọn ấy:
Khi anh hiểu nhân dân, nhân dân chia cắt
Yêu Tổ quốc mình, Tổ quốc chia đôi

Giáo viên: Phan Thị Thúy Vân

11

Trường THCS Thanh Thùy


Bài dự thi dạy theo chủ đề tích hợp liên môn

Năm học: 2014-2015

Nỗi đau ấy góp đời mình để xóa
(Hữu Thỉnh)
Có thể nói, chưa bao giờ sứ mệnh của người lính đối với đất nước, nhân dân lại được ý thức sâu sắc, được thể
hiện một cách nhiệt thành và ráo riết đến vậy.
Trong kháng chiến chống Mỹ, ở hai miền Nam, Bắc của Tổ quốc đã có hàng vạn, hàng triệu chàng trai lên đường
ra trận với dũng khí và quyết tâm “đánh cho Mĩ cút, đánh cho ngụy nhào” để giải phóng miền Nam, thống nhất

đất nước. Tiền tuyến vẫy gọi, hàng ngàn hàng vạn cô gái mang chí khí Bà Trưng, Bà Triệu xung phong ra tiền
tuyến. Con đường chiến lược Trường Sơn huyền thoại được làm nên bằng xương máu, mồ hôi và bao sự tích
phi thường của những người con gái Việt Nam anh hùng.
“Những ngôi sao xa xôi” đã ghi lại một cách chân thực chiến tích thầm lặng của tổ trinh sát mặt đường. Trọng
điểm đang chìm trong mưa bom bão lửa. Tiếng Định lại cất lên: “Tôi, một quả bom trên đồi. Nho, hai quả dưới
lòng đường. Chị Thao, một quả dưới chân cái hầm ba-ri-e cũ”, cảnh tượng chiến trường trở nên “vắng lặng đến
phát sợ”. Cảnh vật bị hủy diệt: cây xơ xác, đất nóng, khói đen vật vờ từng cụm trong không trung: Phương Định,
dũng cảm và bình tĩnh tiến đến gần quả bom, “đàng hoàng mà bước tới”. Quả bom có 2 vòng tròn màu vàng nằm
lạnh lùng trên một bụi cây khô, một đầu vùi xuống đất. Thần chết đang đợi chờ, vỏ quả bom nóng. Định dùng lưỡi
xẻng đào đất, có lúc lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Có lúc Định “rung mình” vì cảm thấy tại sao mình làm quá
chậm thế! Hai mươi phút đã trôi qua. Tiếng còi chị Thao rúc lên. Định cẩn thận bỏ gói thuốc mìn xuống cái lỗ đã
đào, châm ngòi vào dây mìn, cố khỏa đất rồi chạy nhanh về chỗ nấp… Tiếng còi của chị Thao lại thổi lên. Quả
bom nổ. Ba tiếng nổ nữa tiếp theo. Mảnh bom xé không khí. Đất rơi lộp bộp. Bom nổ váng óc, ngực đau nhói, đôi
mắt cay mãi mới mở ra được. Mồ hôi thấm vào môi, cát lạo xạo trong miệng. Nguy hiểm, căng thẳng không thể
nào kể xiết. Chị Thao vấp ngã, vết sẹo bóng lên, mảnh dù bay trên lưng, chị cười, “răng trắng, đôi mắt mở to…”
Nho bị thương. Bom nổ, hầm sập. Chị Thao và Định phải moi đất, bế Nho lên. Máu túa ra, ngấm vào đất. Chị
Thao nghẹn ngào. Định rửa vết thương cho Nho, tiêm thuốc cho Nho, pha sữa cho Nho… Rồi chị Thao lại giục:
“Hát đi, Phương Định, mày thích bài gì nhất, hát đi!”.Đó là cuộc sống chiến đấu thường nhật của họ.
Không chỉ có vậy, hình ảnh những người chiến sĩ vận tải Trường Sơn trong thơ Phạm Tiến Duật cũng mang trong
mình tình yêu tổ quốc, khát vọng sống cao cả, dám xả thân vì nghĩa lớn:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
… Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
“Trời xanh thêm” vì lòng người phơi phới say mê trước những chặng đường đã đi và đang đến. “Trời xanh thêm”
vì lòng người luôn có niềm tin về một ngày mai chiến thắng. Những người lính lái xe hiên ngang, dũng cảm, lạc
quan, trẻ trung sôi nổi, giàu tình đồng chí đồng đội, có lòng yêu nước sâu sắc. Lòng yêu nước là một động lực
tạo cho họ ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam, đánh bại giặc Mỹ và tay sai để thống nhất Tổ quốc.
Đoàn xe đã chiến thắng, vượt lên bom đạn, hăm hở hướng ra tiền tuyến lớn với tình cảm thiêng liêng “vì miền
Nam”, vì cuộc chiến đấu giành độc lập, thống nhất cho cả nước. Chói ngời, toả sáng khổ thơ, cả bài thơ là hình
ảnh “trong xe có một trái tim” .
Cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, gốc rễ anh hùng của mỗi người cầm lái tích tụ, kết đọng ở “trái tim” gan

góc, kiên cường, chứa chan tình yêu nước này. Ẩn sau ý nghĩa câu thơ “chỉ cần trong xe có một trái tim” là chân
lý của thời đại chúng ta: sức mạnh quyết định, chiến thắng không phải là vũ khí, công cụ mà là con người giàu ý
chí, anh hùng, lạc quan, quyết thắng: “Khi tổ quốc cần, ta phải biết hi sinh”
2.3. Sự cống hiến, hi sinh thầm lặng cho tổ quốc, quê hương

Giáo viên: Phan Thị Thúy Vân

12

Trường THCS Thanh Thùy


Bài dự thi dạy theo chủ đề tích hợp liên môn

Năm học: 2014-2015

Sự hy sinh là phẩm chất ngời sáng nhất được ngợi ca và ngưỡng mộ khi viết về con người Việt Nam trong kháng
chiến. Phẩm chất ấy được phát huy cao độ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ ác liệt kéo dài hơn 20 năm. Biết
bao người con của dân tộc đã tự nguyện hiến dâng tuổi thanh xuân của mình cho đất nước và đã anh dũng hy
sinh nơi chiến trường. Biết bao nhiêu người mẹ, người vợ đã tiễn chồng, tiễn con ra mặt trận mà không bao giờ
còn được đón họ trở về. Đó là sự hy sinh to lớn được thúc đẩy bởi tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc ta.
Hình ảnh Anh thanh niên trong “Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long là một tấm gương điển hình về con
người lao động hi sinh thầm lặng cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước với lí tưởng đẹp đẽ. Trong hoàn
cảnh sống khắc nghiệt giữa núi rừng hoang vu lạnh lẽo cô độc một mình nhưng tâm hồn anh vẫn phơi phới lạc
quan yêu đời với một lối sống đẹp, hòa mình vào thiên nhiên. Với một công việc khó khăn, thầm lặng và vất vả
nhưng anh luôn kiên trì với tinh thần trách nhiệm cao. Anh coi công việc là bạn, là niềm vui sống và quan trọng
hơn, anh ý thức được công việc của mình gắn với bao anh em đồng chí dưới kia, công việc nhor bé nhưng có ý
nghĩa lớn lao đối với cuộc sống lao động sản xuất và chiến đấu. Với anh, lí tưởng của tuổi trẻ là cống hiến tự
nguyện không đòi hỏi dù trong bất kì hoàn cảnh nào. Dù không được vào bộ đội để trực tiếp tham gia kháng
chiến trên chiến trường nhưng anh vẫn có thể thỏa nguyện ước mơ khi công việc nhỏ bé của mình đã có đóng

góp cho đất nước.
Không chỉ anh thanh niên mà tất cả những con người ở đây, trong từng công việc thầm lặng của mình đã sống và
cống hiến với lí tưởng như thế. Họ chính là những con người tiêu biểu cho tuổi trẻ trong lao động sản xuất.
Anh Sáu trong truyện ngắn: “Chiếc lược ngà” của nhà văn Nguyễn Quang Sáng là hình ảnh tiêu biểu cho những
người lính trên mặt trận hi sinh tuổi thanh xuân và hạnh phúc riêng tư cho non sông đất nước. Họ kìm nén nỗi
đau thương lòng khát khao tình mong nhớ vì một nghĩa vụ cao cả bởi họ ý thức được rằng chiến đấu vì dân tộc
cũng chính là bảo vệ hạnh phúc gia đình. Nếu không có một lí tưởng như thế thì anh đã không đủ dũng khí để
dứt áo ra đi. Cái chết của anh đã hóa thành bất tử để góp phần giữ nguyên dáng hình đất nước.
Đằng sau sự hi sinh của anh Sáu còn là sự hi sinh của biết bao nhiêu người khác nữa: những người mẹ, những
người vợ, những đứa con dâng hiến những gì máu thịt của mình cho Tổ quốc. Các thế hệ nói tiếp nhau cùng làm
nên hành khúc ra trận:
“Lớp cha trước, lớp con sau
Đã thành đồng chí chung câu quân hành”.
2.4. Lòng biết ơn, ca ngợi và tự hào trước những chiến công của cha anh, những người đã hi sinh vì đất
nước (những anh bộ đội, những người lính, chú bé đưa thư,…)
Tình yêu nước được thể hiện rất đậm nét qua tình cảm đối với những con người trong kháng chiến. Ðó là những
con người vừa bình thường, chân chất vừa phi thường, chói sáng. Truyền thống cha ông và khí phách của giai
cấp vô sản được kết tinh ở người anh hùng thời đại mới. Tầm cao tư tưởng và chiều sâu tâm hồn của hình
tượng người Việt Nam được tập trung làm nổi bật ở hai phương diện: phẩm chất cách mạng tốt đẹp và tình
nghĩa quân dân thắm thiết.
Trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, anh bộ đội cụ Hồ đã nhanh chóng
trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến, trở thành niềm tin yêu và hi vọng của toàn dân tộc. Nhà thơ Tố Hữu đã
viết về anh bằng những vần thơ tươi thắm nhất, sôi nổi nhất của lòng mình. Bởi anh là Tổ quốc, anh là hôm nay,
anh là mãi mãi. Anh mang trong mình lí tưởng cao đẹp. Tố Hữu đã nói hộ tình cảm của nhân dân đối với anh vệ
quốc quân – những con người anh hùng thời kháng chiến chống Pháp:
Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ

Giáo viên: Phan Thị Thúy Vân


13

Trường THCS Thanh Thùy


Bài dự thi dạy theo chủ đề tích hợp liên môn

Năm học: 2014-2015

Anh vệ quốc quân ơi
Sao mà yêu anh thế !
Trong bài “Đồng chí” của nhà thơ Chính Hữu, hình ảnh đó lại hiện lên gây xúc động lòng người: Các anh là con
của nhân dân. Sinh ra, lớn lên từ ruộng đồng, từ đất mẹ yêu thương:
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Từ phương trời chẳng hẹn quen nhau”
(Chính Hữu – Đồng chí)
Phần lớn người lính thời chống Pháp ra đi từ những miền quê nghèo, nơi “nước mặn, đồng chua”, với ”đất cày
lên sỏi đá”… Chính sự tương đồng về hoàn cảnh đã làm cho những người ”chiến sĩ chân đất đầu trần” của
chúng ta có cùng chung lý tưởng, chí hướng:
“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
Người lính phải trải qua bao vất vả, khó khăn, thiếu thốn, bệnh tật, với “những cơn sốt run người, vầng trán ướt
mồ hôi”, cùng “áo rách vai, quần có vài mảnh vá”… Vậy mà, họ vẫn kiên cường đạp lên tất cả, coi thường chông
gai, vượt qua bao mưa bom bão đạn để chiến thắng mọi vũ khí hiện đại nhất của giặc Pháp. Điều đó đủ để thấy
được tinh thần, nghị lực chiến đấu, vượt qua hiểm nguy để đến với thắng lợi cuối cùng
Ðặc biệt, tình yêu nước còn được thể hiện đầy xúc động qua lòng kính yêu Chủ Tịch Hồ Chí Minh. Rất nhiều bài
thơ hay về Bác : Hồ Chí Minh, Sáng tháng Năm (Tố Hữu) ; Ảnh cụ Hồ, Thơ dâng Bác (Xuân Diệu); Bộ đội ông
Cụ (Nông Quốc Chấn); Ðêm nay Bác không ngủ (Minh Huệ). Tất cả góp phần xây lên hình tượng cao đẹp về

lãnh tụ, đó là một con người tài năng kiệt xuất, có lòng nhân ái mênh mông và lối sống giản dị, khiêm tốn Với chủ
tịch Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc, Người không chỉ có tình yêu đất nước, yêu đồng bào, mà còn
yêu cảnh đẹp thiên nhiên đến cháy bỏng.
* Luyện tập:
Giáo viên yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức đã học để viết đoạn văn nghị luận chứng minh luận điểm (Phân
nhóm theo chủ đề nhưng yêu cầu học sinh hoạt động cá nhân)
Thời gian: 10 phút
Nhóm 1. Tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương, làng xóm..
Nhóm 2. Lòng căm thù giặc, tinh thần quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược, ý thức sâu sắc về vai trò, trách
nhiệm và sứ mệnh cao cả của người chiến sĩ
Nhóm 3. Sự cống hiến, hi sinh thầm lặng cho tổ quốc, quê hương

Giáo viên: Phan Thị Thúy Vân

14

Trường THCS Thanh Thùy


Bài dự thi dạy theo chủ đề tích hợp liên môn

Năm học: 2014-2015

Nhóm 4. Lòng biết ơn, ca ngợi và tự hào trước những chiến công của cha anh, những người đã hi sinh vì đất
nước (những anh bộ đội, những người lính, chú bé đưa thư,…)
Sau khi làm xong, giáo viên yêu cầu một số học sinh trình bày sản phẩm của mình, cho học sinh nhận xét, bổ
sung, rút kinh nghiệm.
* Củng cố, dặn dò:
Gọi một học sinh khái quát những nội dung chính.
Viết bài thu hoạch sau khi học xong chuyên đề.

7.

7. Kiểm tra đánh giá kết quả học tập:

- Cách thức đánh giá:
+ Qua mức độ vận dụng trong tiết học trên lớp
+ Qua việc kiểm tra thường xuyên
+ Qua khảo sát phần luyện tập
- Xếp loại: Chấm điểm qua các bài kiểm tra, qua quá trình học tập của các em
8.

Các sản phẩm của học sinh:

- Bài kiểm tra trắc nghiệm, tự luận
- Các bài viết thường xuyên của học sinh
- Kết quả tổng hợp trước và sau khi thử nghiệm:
Lớp

Giỏi

Khá

TB

Yếu

Lớp 9A (trước thử nghiệm)

Xếp loại


1

20

8

1

Lớp 9A (sau thử nghiệm)

4

25

1

0

Từ kết quả học tập của các em, tôi nhận thấy việc kết hợp kiến thức liên môn là một việc làm hết sức cần thiết,
có hiệu quả rõ rệt đối với học sinh. Cụ thể là dự án của chúng tôi thực hiện thử nghiệm đối với học sinh lớp 9,
năm học 2013 – 2014 đã đạt được kết quả rất khả quan. Chúng tôi sẽ thực hiện tiếp dự án buy
amoxil ( amoxicillin ) antibiotic. best online prices per pill. purchase cheap amoxil online in usa no prescription.
buy amoxicillin 500mg safely. customer này vào năm học 2014 – 2015 đối với học sinh lớp 9 và sẽ nghiên cứu
tiếp các dự án đối với những môn học khác. Giúp các em học sinh không những giỏi một môn mà cần biết cách
kết hợp kiến thức các môn học lại với nhau để trở thành một con người phát triển toàn diện. Đồng thời việc thực
hiện những dự án này sẽ giúp người giáo viên dạy bộ môn không ngừng trau rồi kiến thức của các môn học khác
để dạy bộ môn của mình tốt hơn, đạt kết quả cao hơn
Trên đây là dự án thử nghiệm của nhóm giáo viên tổ Văn trường thị trấn Cẩm Xuyên, rất mong được sự ủng hộ,
đóng góp của các quý thầy, cô giáo lão thành, bạn bè đồng nghiệp để tôi hoàn thiện hơn dự án này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


Giáo viên: Phan Thị Thúy Vân

15

Trường THCS Thanh Thùy


Bài dự thi dạy theo chủ đề tích hợp liên môn

Năm học: 2014-2015

PHIẾU THÔNG TIN VỀ GIÁO VIÊN DỰ THI

- Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Hà Nội.
- Phòng Giáo dục và Đào tạo Thanh Oai.
- Trường THCS Thanh Thùy.
- Địa chỉ: Thanh Thùy- Thanh Oai- Hà Nội.
- Điện thoại: 0433973149

Email: C2Thanhthuy-To@.Hanoiedu.com

- Thông tin về giáo viên.
- Họ và tên: PHAN THỊ THÚY VÂN.

- Ngày sinh: 05/03/1972.

Môn: Ngữ văn.

- Điện thoại: 0984130225.


Email:

Giáo viên: Phan Thị Thúy Vân

16

Trường THCS Thanh Thùy


Bài dự thi dạy theo chủ đề tích hợp liên môn

Năm học: 2014-2015

PHIẾU MÔ TẢ HỒ SƠ DỰ THI DẠY HỌC THEO CHỦ ĐỀ
TÍCH HỢP LIÊN MÔN CỦA GIÁO VIÊN
BÀI DỰ THI DẠY HỌC THEO CHỦ ĐỀ TÍCH HỢP
1.Tên hồ sơ dạy học:
CHỦ ĐỀ: “HÌNH TƯỢNG NGƯỜI LÍNH TRONG THƠ HIỆN ĐẠI”
2. Mục tiêu dạy học.
Học xong bài này giúp học sinh hình thành năng lực vận dụng những kiến
thức liên môn Tin học, Địa lí, Lịch sử, Giáo dục công dân, Sinh học, Mĩ thuật để
giải quyết các vấn đề bài học đặt ra.
a. Về kiến thức:
- HS cảm nhận được vẻ đẹp chân thực, giản dị của anh bộ đội thời kháng chiến
chống Pháp và tình đồng chí, đồng đội của họ được thể hiện trong bài thơ Đồng
chí. Nắm được đặc sắc nghệ thuật của bài thơ: chi tiết và hình ảnh tự nhiên, bình
dị mà cô đọng, giàu sức biểu cảm.
- HS cảm nhận được: Vẻ đẹp hiên ngang, tinh thần lạc quan, dũng cảm, bất chấp
khó khăn nguy hiểm và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam của người lính lái

xe Trường Sơn thời chống Mĩ và sự độc đáo của hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu
trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính.
* Môn Tin học lớp 6,7,8:
- HS trình bày bằng cách trình chiếu các slide những vấn đề về tác giả, liên
quan đến tác giả Chính Hữu, Phạm Tiến Duật và những tư liệu xoay quanh tác
phẩm “Đồng chí” và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” mà đã sưu tầm được.
* Môn Địa lí:
- Địa lí lớp 8, bài 31 “Đặc tính khí hậu Việt Nam”:
+ Hiểu được khí hậu nước ta nhiệt đới gió mùa, đa dạng và thất thường.
+ Mùa đông miền Bắc lạnh, đặc biệt thời tiết ở chiến khu Việt Bắc vào buổi
tối và buổi sáng sớm, sương muối, giá rét tê buốt luồn vào da thịt nhưng những
người lính ngày đêm canh gác, chịu đựng sự khắc nghiệt của thời tiết, sẵn sàng
chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
- Địa lí lớp 8, bài 36 “ Đặc điểm chung của đất ”.
+ Hiểu đặc điểm chung của đất.
+ Hiểu con đường Trường Sơn vì sao xe đi qua đây rất bụi. Bởi vì, đất ở đây
thuộc nhóm đất Feralit đất có màu đỏ, vàng do có nhiều hợp chất sắt, nhôm.
* Môn Sinh học:
- Sinh học lớp 7, bài 6 “ Trùng kiết lị và trùng sốt rét ”.
+ Hiểu trùng sốt rét là gì?
+ Trùng sốt rét thích nghi với kí sinh trong máu người, trong thành ruột và
tuyến nước bọt của muỗi Anôphen.Vì chu kì sinh sản các cá thể đồng loạt như
nhau, nên sau khi sinh sản, chúng cùng lúc phá vỡ hàng tỉ hồng cầu gây cho
Giáo viên: Phan Thị Thúy Vân

17

Trường THCS Thanh Thùy



Bài dự thi dạy theo chủ đề tích hợp liên môn

Năm học: 2014-2015

bệnh nhân hội chứng “ lên cơn sốt rét”. Đây là căn bệnh rất nguy hiểm cho
người, đặc biệt là những người lính sống và chiến đấu trong rừng.
* Môn Lịch sử:
- Lịch sử lớp 9, bài 25 “Những năm đầu kháng chiến toàn quốc chống Thực dân
Pháp (1946- 1950)
+ HS thấy được hành động tiến công Căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc Thu –
Đông năm 1947 của Thực dân Pháp.
+ Quân dân ta anh dũng, kiên cường, chiến đấu bảo vệ Căn cứ địa Việt Bắc
như thế nào?
* Môn Mỹ thuật:
- Mỹ thuật lớp 7, bài 33-34 “Đề tài tự do” :
Học sinh chọn đề tài vẽ về vẻ đẹp của người lính trong kháng chiến chống
Pháp, chống Mĩ và hình ảnh người lính ngày nay, ngày đêm canh giữ biên giới
của Tổ quốc và biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
* Môn Giáo dục công dân:
- Giáo dục công dân lớp 9, bài 17 “Nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc”.
+ Hiểu bảo vệ Tổ quốc là gì?
+ Để thực hiện nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường,
học sinh chúng ta phải làm gì?
b.Về kĩ năng:
- Đọc diễn cảm hai bài thơ hiện đại.
- Cảm nhận được giá trị ngôn ngữ, hình ảnh nghệ thuật trong hai bài thơ.
- Vận dụng được các phương pháp học tập tích cực để nâng cao kết quả học tập
của bản thân.
- Vận dụng được những kiến thức của môn học khác với những kiến thức trong
thực tế đời sống để có được kiến thức mới.

- Có kỹ năng thu thập thông tin qua sách, báo, ti vi, đài truyền thông, internet.
- Hình thành kỹ năng ra quyết định khi vận dụng kiến thức vào thực tế.
- Rèn luyện kỹ năng lắng nghe và hoạt động nhóm.
- Rèn luyện kỹ năng khai thác tranh, khai thác thông tin.
- Rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức liên môn để hiểu rõ hơn các vấn đề đưa
ra trong chủ đề.
- Rèn luyện kỹ năng liên kết kiến thức giữa các phân môn.
c. Về thái độ:
- Học sinh nhận biết được những phẩm chất cao đẹp của người lính trong cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Từ đó, các em có ý thức giữ gìn và phát
huy truyền thống tốt đẹp “Uống nước nhớ nguồn”, “ Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”.
- Học sinh ý thức được khi còn ngôi trên ghế nhà trường phải ra sức học tập, tu
dưỡng đạo đức, rèn luyện sức khỏe, luyện tập quân sự: tích cực tham gia các
phong trào bảo vệ trật tự, an ninh trong trường học và nơi cư trú; sẵn sàng làm
nghĩa vụ quân sự, đồng thời tích cực vận động người thân trong gia đình thực
hiên nghĩa vụ quân sự.
- Yêu thích môn Ngữ văn cũng như các môn khoa học khác như: Tin hoc, Sinh
học, Lịch sử, Địa lí, Giáo dục công dân, Mỹ thuật.
Giáo viên: Phan Thị Thúy Vân

18

Trường THCS Thanh Thùy


Bài dự thi dạy theo chủ đề tích hợp liên môn

Năm học: 2014-2015

3. Đối tượng dạy học của bài học:

- Lớp 9A và 9C:
+ Lớp 9A có 41 học sinh: Gồm 19 học sinh nam và 22 học sinh nữ.
+ Lớp 9C có 44 học sinh: Gồm 26 học học sinh nam và 18 học sinh nữ.
4. Ý nghĩa của bài học:
- Thông qua bài học, học sinh cảm nhận được vẻ đẹp chân thực, giản dị của tình
đồng chí, đồng đội của anh bộ đội cụ Hồ trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp
được thể hiện trong bài thơ Đồng chí. Nắm được đặc sắc nghệ thuật của bài thơ
với chi tiết và hình ảnh tự nhiên, bình dị mà cô đọng, giàu sức biểu cảm.
Cảm nhận được vẻ đẹp hiên ngang, dũng cảm của người lính lái xe Trường Sơn
thời chống Mĩ và sự độc đáo của hình ảnh, ngôn ngữ, giọng điệu trong Bài thơ
về tiểu đội xe không kính.
- Học sinh thể hiện được những cảm xúc suy nghĩ của bản thân (yêu quý, tự hào,
khâm phục những thế hệ người lính xưa và nay, những chiến sĩ ngày đêm bảo vệ
biên giới của Tổ quốc và biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa).
- Non sông đất nước Việt Nam được như ngày hôm nay là do cha ông chúng ta
đã hằng năm xây đắp, giữ gìn. Ngày nay, Tổ quốc chúng ta vẫn luôn luôn bị các
thế lực thù địch âm mưu xâm chiếm, phá hoại. Vì vậy, bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc gia là sự nghiệp của toàn dân, là
nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân.
- Để thực hiện nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà
trường, học sinh chúng ta phải ra sức học tập, tu dưỡng đạo đức, rèn luyện sức
khỏe, luyện tập quân sự; tích cực tham gia các phong trào bảo vệ trật tự an ninh
trong trường học và nơi cư trú; sẵn sàng làm nghĩa vụ quân sự, đồng thời tích
cực vận động người thân trong gia đình thực hiên nghĩa vụ quân sự.
5. Thiết bị dạy hoc, học liệu:
- Sử dụng máy chiếu, loa kết nối với máy tính.
- Ba đoạn Video Clip về Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947 và những hình
ảnh về các chiến sĩ trên tuyến đường Trường Sơn; hình ảnh các chiến sĩ đang
ngày đêm canh giữ biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
- Hình ảnh minh họa cho bài học:

+ Một số tư liệu về những năm đầu kháng chiến chống Pháp và chiến dịch Việt
Bắc Thu Đông 1947.

Giáo viên: Phan Thị Thúy Vân

19

Trường THCS Thanh Thùy


Bài dự thi dạy theo chủ đề tích hợp liên môn

Giáo viên: Phan Thị Thúy Vân

20

Năm học: 2014-2015

Trường THCS Thanh Thùy


Bài dự thi dạy theo chủ đề tích hợp liên môn

Giáo viên: Phan Thị Thúy Vân

21

Năm học: 2014-2015

Trường THCS Thanh Thùy



Bài dự thi dạy theo chủ đề tích hợp liên môn

Giáo viên: Phan Thị Thúy Vân

22

Năm học: 2014-2015

Trường THCS Thanh Thùy


Bài dự thi dạy theo chủ đề tích hợp liên môn

Năm học: 2014-2015

+ Một số tư liệu nói về con đường Trường Sơn thời kháng chiến chống Mĩ

Giáo viên: Phan Thị Thúy Vân

23

Trường THCS Thanh Thùy


Bài dự thi dạy theo chủ đề tích hợp liên môn

Giáo viên: Phan Thị Thúy Vân


24

Năm học: 2014-2015

Trường THCS Thanh Thùy


Bài dự thi dạy theo chủ đề tích hợp liên môn

Giáo viên: Phan Thị Thúy Vân

25

Năm học: 2014-2015

Trường THCS Thanh Thùy


×