Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

Tăng cường huy động vốn tại ngân hàng thương mại cổ phần sài gòn thương tín chi nhánh hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (474.11 KB, 57 trang )

MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG BIỂU


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá là một trong nhữn mục tiêu quan trọng
trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội Việt Nam mà đảng và nhà nước ta
đã đặt ra. Để thực hiện mục tiêu này, Nhà Nước ta đã có những chính sách,
chiến lược nhằm khuyến khích các tổ chức, các đơn vị, dân cư hạt động đóng
góp vào nền kinh tế có hiệu quả hơn.
Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam nói chung và Ngân hàng Thương Mại
cổ phần Sài Gòn Thương tín nói riêng là những doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực Tài Chính - Tiền Tệ và dịch vụ ngân hàng, làm sao để đạt hiệu quả kinh
doanh tạo ra lợi nhuận là một vấn đề lớn được đặt ra hàng đầu. Ngay từ những
ngày đầu thành lập, Sacombank đã phát huy tốt vai trò của mình góp phần thúc
đẩy luân chuyển vốn trong nền kinh tế, đáp ứng ngày càng nhiều nhu cầu vốn
cũng như cung cấp ngày càng nhiều các dịch vụ tiện ích cho người sử dụng và
trở thành Ngân Hàng đô thị đa năng hàng đầu Việt Nam. Với nhứng lý do trên
em đã nộp đơn xin thực tập tai Ngân hàng Sacombank chi nhánh Hà Nội
2.Mục tiêu nghiên cứu
- Hệ thống hóa các vấn đề cơ bản về nguồn vốn, hoạt động huy động
vốn, tăng cường huy động vốn.
- Phân tích thực trạng huy động vốn tại Sacombank chi nhánh Hà Nội,
chỉ ra những thành tích cũng như những hạn chế từ hoạt động huy động vốn
của chi nhánh.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn tại
Sacombank chi nhánh Hà Nội trong thời gian tới.
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động huy động vốn của Sacombank chi
nhánh Hà Nội.

3


- Phạm vi nghiên cứu:
+ Không gian nghiên cứu: Sacombank chi nhánh Hà Nội
+ Thời gian nghiên cứu: Số liệu trong chuyên đề được nghiên cứu trong
3 năm từ 2013 – 2015.
4. Phương pháp nghiên cứu
Chuyên đề sử dụng tổng hợp tất cả các phương pháp nghiên cứu khoa
học: Phương pháp phân tích tổng hợp, logic, thống kê, phương pháp luận duy
vật biên chứng.
Sau 3 tuần thức tập tại Chi nhánh Sacombank Hà Nội, 65 Ngô Thì
Nhậm, Q.Hai Bà Trưng, Hà Nội, em đã nhận được sự hướng dẫn tận tình của
PGS.Tiến sĩ Trần Đăng Khâm cùng với sự giúp đỡ tận tình của các cán bộ,
nhân viên Sacombank chi nhánh Hà Nội
Em xin chân thành cảm ơn PGS. Tiến sĩ Trần Đăng Khâm cũng như các
cán bộ, nhân viên Chi nhánh Hà Nội đã tận tình hướng dẫn để em hoàn thành
bản đề án “Tăng cường huy động vốn tại ngân hàng thương mại cổ phần
Sài Gòn Thương Tín chi nhánh Hà Nội”
Đề án gồm 3 chương:
I. Chương 1. Các vấn đề cơ bản về hoạt động huy động vốn của
ngân hàng thương mại
II. Chương 2. Thực trạng hoạt động huy động vốn của NHTMCP
Sacombank chi nhánh Hà Nội
III. Chương 3. Giải pháp tăng cường huy động vốn của NHTMCP
Sacombank chi nhánh Hà Nội


4


CHƯƠNG 1. CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại
Quá trình hình thành và hoàn thiện hệ thống Ngân hàng đã tạo ra các Ngân
hàng thương mại, được biết đến với chức năng kinh doanh tiền tệ. Hơn bất cứ tổ
chức tài chính nào khác, NHTM luôn được coi là bách hoá tài chính, cung ứng rất
nhiều các sản phẩm, dịch vụ về tài chính. “Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính
cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng,
tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và cũng thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất
so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế” để xây dựng khái niệm
NHTM, có thể dựa vào tính chất và mục đích hoạt động của nó trên thị trường tài
chính, hoặc kết hợp tính chất, mục đích và đối tượng hoạt động
Theo Nghị định số 59/2009/NĐ-CP của Chính phủ về tổ chức và hoạt động
của NHTM: NHTM là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và
các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận theo quy định của
Luật Các tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật
NHTM là một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ, trong đó có hai
mặt cơ bản: Nhận ký thác của các doanh nghiệp, cá nhân và các tổ chức, cơ quan
nhà nước và sử dụng các khoản ký thác đó để cho vay và chiết khấu.
Ngân hàng thương mại ra đời như một đứa con ưu tú nhất của nền kinh tế
hàng hoá và chính Ngân hàng thương mại đến lượt mình đã góp phần quan trọng
vào sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá.
Ngân hàng thương mại đầu tiên được thành lập vào năm 1782 và đã có rất
nhiều Ngân hàng được thành lập từ những năm 1800 đến nay vẫn đang hoạt động
chứng rỏ sức sống bền bỉ và sự tồn tại khách quan của các NHTM. Trong các định

chế tài chính thì NHTM là định chế quan trọng nhất vì nó giữ phần lớn của xã hội.

5


1.1.1.2. Đặc điểm của ngân hàng thương mại
Với tư cách là trung gian tài chính, các Ngân hàng thương mại giữ vai trò chủ
chốt và là thước đo sự phát triển của nền kinh tế, chiếm vai trò chủ đạo về quy mô
vốn, tài sản và nội dung các nghiệp vụ
Các NHTM khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng, một mặt huy động và
tập trung mọi nguồn vốn nhàn rỗi tạm thời từ trong dân cư, từ các thành phần kinh
tế trong xã hội tạo nên nguồn vốn, mặt khác trên cơ sở nguồn vốn huy động đã hình
thành, các NHTM cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế,cá nhân- những người có
nhu cầu về vốn để sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng-vay lại. Như vậy,với chức
năng này,NHTM vừa là người đi vay, vừa là người cho vay. “Vay để cho vay”
chính là một trong những phương thức kinh doanh của NHTM nhằm làm cầu nối
giữa những đối tượng có tiền nhàn rỗi tạm thời chưa dùng đến nhưng vẫn muốn
đồng tiền sinh lời với những đối tượng cần vốn để đầu tư sản xuất kinh doanh hay
tiêu dùng mua sắm. Có thể thấy rằng thực chất hoạt động kinh doanh của NHTM
được tiến hành trên cơ sở tiền của người khác, vốn của các NHTM chỉ chiếm một
phần nhỏ trong hoạt động kinh doanh này.Do vậy, chỉ khi hoạt động thực sự có hiệu
quả thì các NHTM mới có khả năng hoàn trả cả gốc và lãi các khoản tiền tạm thời
nhàn rỗi đã huy động
Hoạt động kinh doanh ngân hàng là hoạt động có tính rủi ro cao, như rủi ro tín
dụng khi cung cấp các dịch vụ tín dụng cho khách hàng, ngân hàng hoàn toàn có
khả năng mất vốn khi khách hàng làm ăn không hiệu quả, không trả được nợ, hoặc
khi bị khách hàng lừa đảo, thực hiện chức năng trung gian tín dụng ngân hàng sẽ
gặp rủi ro về lãi suất khi thị trường có sự biến động về lãi suất. Trong quá trình huy
động, bao giờ các ngân hàng cũng có khe hở về kì hạn, các khoản huy động và các
khoản cho vay đều có độ lệch nhất định về kì hạn. Ngoài ra, ngân hàng có thể gặp

rủi ro về thanh khoản khi không cân đối được luồng tiền, có thể dẫn tới mất khả
năng chi trả trong một thời điểm nhất định. Rủi ro về tỉ giá khi cung cấp các dịch vụ
ngoại hối, rủi ro về chính sách của nhà nước khi có sự thay đổi chính sách liên quan
đến bất kì một lĩnh vực nào cũng ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh ngân
hàng,và hàng loạt các rủi ro khác mà ngân hàng có thể gặp phải trong quá trình hoạt

6


động kinh doanh của mình. Tất cả các rủi ro mà ngân hàng gặp phải đều có thể làm
cho ngân hàng mất vốn hoặc giảm hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình.
Bên cạnh đó hoạt động kinh doanh ngân hàng có tính hệ thống cao, vì khi thực
hiện chức năng thanh toán, các NHTM không chỉ dừng lại ở việc cung ứng các dịch
vụ trung gian thanh toán, mà còn ở việc quản lí các phương tiện thanh toán.Khi tiến
hành dịch vụ trung gian thanh toán, bằng các nghiệp vụ của mình, các NHTM đã
tạo ra các công cụ lưu thông như thương phiếu, séc, thẻ thanh toán,..và độc quyền
quản lí các công cụ này, thông qua đó tiết kiệm cho xã hội một lượng chi phí lưu
thông đáng kể và góp phần đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển tiền tệ, lưu chuyển vốn,sản
xuất và lưu thông hàng hóa. Như vậy, hoạt động của mỗi ngân hàng có liên quan
chặt chẽ đến hoạt động của các ngân hàng khác. Vì vậy, chỉ một ngân hàng gặp khó
khăn trong hoạt động kinh doanh sẽ làm ảnh hưởng rất lớn đến cả hệ thống ngân
hàng.Sự đổ vỡ của một ngân hàng cũng có thể kéo theo sự đổ vỡ của cả hệ thống.
Hoạt động kinh doanh ngân hàng có tác động trực tiếp và mạnh mẽ tới toàn bộ
nền kinh tế bởi vì ngoài chức năng trung gian tín dụng, trung gian thanh toán, các
NHTM còn cung cấp các dịch vụ tài chính và các dịch vụ khác.Các dịch vụ tài
chính mà ngân hàng cung cấp như tư vấn tài chính, tư vấn đầu tư, dịch vụ bảo hiểm,
dịch vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán, môi giới mua bán và lưu kí chứng khoán,
quản lí danh mục đầu tư,..và các nghiệp vụ phái sinh cho nền kinh tế…Hơn thế nữa,
cùng với sự phát triển của nền kinh tế và nhu cầu ngày càng đa dạng của khách
hàng, các NHTM không ngừng cung cấp thêm các dịch vụ mới như dịch vụ thẻ,

dịch vụ chuyển tiền, dịch vụ quản lí mua bán nợ, dịch vụ quản lí tài sản, dịch vụ
kinh doanh địa ốc, các dịch vụ ngân hàng hiện đại như Mobile Banking,
Internetbanking,..Chính vì vậy, chất lượng của các dịch vụ ngân hàng ảnh hưởng rất
lớn và mang tính chất quyết định đến hoạt động của nền kinh tế.
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Hoạt động huy động vốn
Đây là nghiệp vụ cơ bản, quan trọng nhất , ảnh hưởng tới chất lượng hoạt
động của ngân hàng .Vốn được ngân hàng huy động dưới nhiều hình thức khác
nhau như huy động dưới hình thức tiền gửi , đi vay , phát hành giấy tờ có giá . Mặt

7


khác trên cơ sở nguồn vốn huy động được, ngân hàng tiến hành cho vay phục vụ
cho nhu cầu phát triển sản xuất, cho các mục tiêu phát triển kinh tế của địa phương
và cả nước. Nghiệp vụ huy động vốn của ngân hàng ngày càng mở rộng, tạo uy tín
của ngân hàng ngày càng cao, các ngân hàng chủ động trong hoạt động kinh doanh,
mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế và các tổ chức dân cư, mang
lại lợi nhuận cho ngân hàng. Do đó các ngân hàng thương mại phải căn cứ vào
chiến lược, mục tiêu phát triển kinh tế của đất nước, của địa phương. Từ đó đưa ra
các loại hình huy động vốn phù hợp nhất là các nguồn vốn trung, dài hạn nhằm đáp
ứng nhu cầu vốn cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
1.1.2.2. Nghiệp vụ sử dụng vốn (Cho vay và đầu tư)
Đây là nghiệp vụ trực tiếp mang lại lợi nhuận cho ngân hàng, nghiệp vụ sử
dụng vốn của ngân hàng có hiệu quả sẽ nâng cao uy tín của ngân hàng, quyết định
năng lực cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường. Do vậy ngân hàng cần phải
nghiên cứu và đưa ra chiến lược sử dụng vốn của mình sao cho hợp lý nhất.
Một là, ngân hàng tiến hành cho vay
Cho vay là hoạt động quan trọng nhất của các NHTM. Theo thống kê, khoảng
60%-75% thu nhập của ngân hàng là từ các hoạt động cho vay. Thành công hay thất

bại của một ngân hàng tuỳ thuộc chủ yếu vào việc thực hiện kế hoạch tín dụng và
thành công của tín dụng xuất phát từ chính sách cho vay của ngân hàng. Các loại
cho vay có thể phân loại bằng nhiều cách, bao gồm: mục đích, hình thức bảo đảm,
kỳ hạn, nguồn gốc và phương pháp hoàn trả...
Hai là, tiến hành đầu tư
Đi đôi với sự phát triển của xã hội là sự xuất hiện của hàng loạt những nhu cầu
khác nhau. Với tư cách là một chủ thể hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ, đòi hỏi
Ngân hàng phải luôn nắm bắt được thông tin, đa dạng các nghiệp vụ để cung cấp
đầy đủ kịp thời nguồn vốn cho nền kinh tế. Ngoài hình thức phổ biến là cho vay,
ngân hàng còn sử dụng vốn để đầu tư. Có 2 hình thức chủ yếu mà các ngân hàng
thương mại có thể tiến hành là:
Đầu tư vào mua bán kinh doanh các chứng khoán hoặc đầu tư góp vốn vào các
doanh nghiệp, các công ty khác.

8


Đầu tư vào trang thiết bị TSCĐ phục vụ cho hoạt động kinh doanh của
ngân hàng.
Ba là, nghiệp vụ ngân quỹ.
Lợi nhuận luôn là mục tiêu cuối cùng mà các chủ thể khi tham gia tiến hành
sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, đằng sau mục tiêu quan trọng đó là hàng loạt các
nhân tố cần quan tâm. Một trong những nhân tố đó là tính an toàn. Nghề ngân hàng
là một nghề kinh doanh đầy mạo hiểm, trong hoạt động của mình, ngân hàng không
thể bỏ qua sự “an toàn”. Vì vậy, ngoài việc cho vay và đầu tư để thu được lợi
nhuận, ngân hàng còn phải sử dụng một phần nguồn vốn huy động được để đảm
bảo an toàn về khả năng thanh toán và thực hiện các quy định về dự trữ bắt buộc do
Trung ương đề ra.
1.1.2.3. Nghiệp vụ khác:
Là trung gian tài chính, ngân hàng có rất nhiều lợi thế. Một trong những lợi

thế đó là ngân hàng thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá và
dịch vụ. Để thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng
đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc, uỷ
nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ …cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối
các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Mặt khác, các ngân hàng
thương mại còn tiến hànhmôi giới, mua, bán chứng khoán cho khách hàng và làm
đại lý phát hành chứng khoán cho các công ty . Ngoài ra ngân hàng còn thực hiện
các dịch vụ uỷ thác như uỷ thác cho vay, uỷ thác đầu tư, uỷ thác cấp phát, ủy thác
giải ngân và thu hộ…
Như vậy, các nghiệp vụ trên nếu thực hiện tốt sẽ đảm bảo cho ngân hàng tồn
tại và phát triển vững mạnh trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt như
hiện nay. Vì các nghiệp vụ trên có mối liên hệ chặt chẽ thường xuyên tác động qua
lại với nhau. Nguồn vốn huy động ảnh hưởng tới quyết định sử dụng vốn, ngược
lại nhu cầu sử dụng vốn ảnh hưởng tới quy mô, cơ cấu của nguồn vốn huy động.
Các nghiệp vụ trung gian tạo thêm thu nhập cho ngân hàng nhưng mục đích chính
là thu hút khách hàng, qua đó tạo điều kiện cho việc huy động và sử dụng vốn có
hiệu quả.

9


1.2. Hoạt động huy động vốn của NHTM
Cũng như các ngành nghề kinh doanh khác, để cho hoạt động kinh doanh
được diễn ra thường xuyên và liên tục thì cần phải có tư liệu sản xuất. Ngân hàng
thương mại là một Doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ trong đó tiền là nguyên liệu
chính trong việc tạo ra sản phẩm Ngân hàng, là một thứ nguyên liệu độc tôn không
thể thay thế. Hoạt động tìm kiếm tư liệu sản xuất của Ngân hàng là hoạt động huy
động vốn. Do đặc trưng của nguồn vốn huy động là luôn có một lượng tồn khoản rất
lớn và Ngân hàng có thể sử dụng lượng tồn khoản này để phục vụ cho qúa trình
hoạt động kinh doanh của mình. Nên tình hình hoạt động của Ngân hàng phụ thuộc

rất lớn vào tình hình huy động vốn của chính Ngân hàng đó
1.2.1.1. Vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu của ngân hàng thương mại là vốn tự có do ngân hàng tạo lập
được thuộc sở hữu riêng của ngân hàng, thông qua góp vốn của các chủ sở hữu hoặc
hình thành từ kết quả kinh doanh. Mặc dù chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng
nguồn vốncủa ngân hàng, song lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi thành lập một
ngân hàng. Vì đây là nguồnvốn ổn định, nên một mặt ngân hàng chủ động sử dụng
nó vào mục đích kinh doanh của mình, mặt khác lại được coi như tài sản đảm bảo,
gây lòng tin đối với khách hàng và duy trì khả năng thanh toán trong trường hợp
ngân hàng gặp rủi ro tín dụng. Vốn tự có của ngân hàng thương mại được hình
thành bởi vốn điều lệ (vốn pháp định), vốn tự bổ sung (quỹ dự trữ bổ sung vốn điều
lệ, quỹ dự phòng bù đắp rủi ro, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi…).
1.2.1.2. Vốn huy động
Đây là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong ngân hàng. Nó là những giá trị
tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã
hội. Ngân hàng chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu với nguồn vốn này
và phải có trách nhiệm hoàn trả đúng hạn cả gốc lẫn lãi khi chủ sở hữu có nhu cầu
rút vốn.Vốn này luôn biến động nên ngân hàng không được sử dụng hết mà phải có
dự trữ với một tỷ lệ hợp lý để đảm bảo khả năng thanh toán.
Vốn huy động của ngân hàng thương mại chủ yếu bao gồm: Nhận tiền gửi của
các tổ chức kinh tế (tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn), huy động từ các
tầng lớp dân cư (tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu) và nguồn vốn đi vay.

10


1.2.1.3. Nợ
Là loại vốn mà ngân hàng chủ động đi vay với mục đích, thời hạn vay và đối
tượng vay khác nhau. Nó là quan hệ vay mượn giữa ngân hàng thương mại và ngân
hàng nhà nước, giữa các ngân hàng thương mại với nhau, giữa ngân hàng thương

mại với các tổ chức tín dụng khác trong nước hoặc nước ngoài nhằm bổ sung vào
vốn hoạt động khi ngân hàng sử dụng hết vốn khả dụng.
1.2.1.4. Vốn khác
Ngoài các hình thức huy động vốn trên thì ngân hàng có thể huy động từ:
• Vốn trong thanh toán: Là nguồn vốn mà ngân hàng tạo lập được trong quá
trình làm trung gian thanh toán.
• Vốn tiếp nhận: Là số vốn ngân hàng thương mại tiếp nhận từ ngân hàng nhà
nước do tài trợ, uỷ thác đầu tư, làm đại lý, để cấp phát và cho vay các công trình tập
trung trọng điểm của Nhà nước.
1.2.2. Các phương thức tạo vốn của Ngân hàng:
1.2.2.1. Huy động từ chủ sở hữu:
Vốn chủ sở hữu được coi là thước đo sức mạnh tài chính của NHTM, thường
bao gồm vốn góp ban đầu (vốn điều lệ) và lợi nhuận chưa chia.Tương ứng với mỗi
loại hình vốn chủ sở hữu có các hình thức huy động riêng:
-Để tăng vốn góp ban đầu,ngân hàng yêu cầu bổ sung vốn điều lệ từ ngân sách
nhà nước đối với NHTM quốc doanh,kêu gọi cổ đông đóng góp nếu là NHTM liên
doanh,đối với các NHTMCP thì phát hành cổ phiếu ra thị trường để huy động trực
tiếp nguồn vốn của thị trường.
- Để tăng lợi nhuận chưa chia, ngân hàng lập thêm nhiều quỹ dự trữ tăng
lượng vốn trích lập vào các quỹ dự trữ hiện có như quỹ dự trữ đặc biệt,quỹ đầu tư
phát triển…
1.2.2.2. Huy động tiền gửi
Ở Việt Nam, theo luật các tổ chức tín dụng thì tiền gửi nói chung được hiểu là
số tiền của khách hàng gởi taị tổ chức tín dụng dưới nhiều hình thức tiền gửi không
kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Trên phương
diện chủ thể gửi tiền thì tiền gửi có thể được chia thành hai loại: Tiền gửi của các
doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế- xã hội, và Tiền gửi tiết kiệm của dân cư.

11



• Tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế-xã hội
Đây là khoản tiền tạm thời nhàn rỗi phát sinh trong quá trình sản xuất kinh
doanh, quá trình hoạt động của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế- xã hội và
được các đơn vị này gửi vào ngân hàng nhằm mục đích sinh lời. Khoản vốn này tạm
thời được giải phóng ra khỏi quá trình luân chuyển vốn nhưng chưa có nhu cầu sử
dụng trong ngắn hạn.
Đây là nguồn chiếm tỷ trọng không lớn trong cơ cấu nguồn vốn cũng như là
trong cơ cấu vốn nói chung của NHTM. Bởi lẽ trong quá trình sản xuất kinh doanh
của mình, các doanh nghiệp ít khi có một lượng vốn nhàn rỗi trong một thời gian
dài và nếu có chỉ là một lượng nhỏ mà thôi. Các tổ chức kinh tế- xã hội có vử khả
quan hơn về mặt kỳ hạn nhưng lượng vốn họ có lại không đủ lớn. Tuy vậy nguồn
vốn này vẫn không thể thiếu trong cơ cấu tạo nên nguồn vốn của một ngân hàng.
Cũng như tiền gửi có kỳ hạn nói chung, các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế- xã
hội khi gửi tiền vào ngân hàng cũng phải có sự thoả thuận về kỳ hạn của khoản tiền
đó.
Như vậy về nguyên tắc, người gửi tiền chỉ có thể rút tiền ra theo thời hạn đã
thoả thuận. Tuy nhiên trên thực tế do quá trình cạnh tranh trong lĩnh vực hoạt động
ngân hàng ngày càng gay gắt và để thu hút nguồn này một cách tốt nhất, các NHTM
thường cho phép khách hàng được rút tiền ra trước hạn nhưng không được hưởng
lãi hoặc hưởng lãi ở mức thấp hơn. Hầu hết các NHTM ở Việt Nam, nếu khách
hàng rút tiền trước thời hạn đã thoả thuận thì chỉ được hưởng theo lãi suất loại tiền
gửi không kỳ hạn.
NHTM có thể sử dụng nguồn này một cách chủ động hơn trong hoạt động
kinh doanh, góp phần đáp ứng nhu cầu tín dụng của nền kinh tế.
• Tiền gửi tiết kiệm của khách hàng
Tiền gửi tiết kiệm là hình thức huy động truyền thống của ngân hàng. Ở các
nước công nghiệp phát triển, trong số các loại tiền gửi vào ngân hàng thì tiền gửi
tiết kiệm đứng vị thứ hai cả về mặt số lượng và tầm quan trọng.
Hiện nay ở hầu hết các quốc gia trên thế giới (trong đó có Việt Nam) người ta

cho rằng vận động nhân dân gửi tiền tiết kiệm là một trong các nghiệp vụ quan

12


trọng của NHTM. Bởi lẽ nếu huy động được nguồn vốn nhàn rỗi tiềm tàng trong
các tầng lớp dân cư sẽ có tiền cấp phát cho phát triển công nghiệp, nông nghiệp góp
phần quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội.
Các tầng lớp dân cư gửi tiền tiết kiệm vào NHTM với mục đích chủ yếu là tiết
kiệm và sinh lời. Do đó, nguồn vốn này có tính ổn định khá cao.
Để tạo thuận lợi cho khách hàng cũng như ngân hàng, thủ tục gửi tiền cũng rất
đơn giản: Khi khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng sẽ được nhận một quyển sổ tiết
kiệm. Sổ này được coi là giấy chứng nhận số tiền, thời hạn, lãi suất của khoản tiền
đó trong quỹ tiết kiệm. Thông thường lãi suất của tài khoản tiết kiệm cao hơn lãi
suất của tài khoản gửi thanh toán và người chủ tài khoản không được hưởng dịch vụ
thanh toán quan ngân hàng như tài khoản tiền gửi thanh toán.
Để thoả mãn nhu cầu của khách hàng trong việc gửi tiết kiệm, các NHTM đã
và đang áp dụng nhiều hình thức huy động phong phú như: Tiết kiệm nhà ở, tiết
kiệm đảm bảo giá trị theo vàng, tiết kiệm có thưởng,... với nhiều kỳ hạn đa dạng và
đảm bảo nguyên tắc: Kỳ hạn càng dài thì lãi suất càn cao. Bên cạnh đó, NHTM
cũng từng bước nâng cao các tiện ích cho người gửi tiết kiệm như: Coi sổ tiết kiệm
như là một chứng từ đảm bảo tiền gửi, người có sổ có thể mang sổ tiết kiệm đến
ngân hàng để cầm cố hoặc xin chiết khấu để vay vốn khi cần thiết.
Tóm lại, nguồn vốn huy động từ tiền gửi có vai trò quan trọng trong việc tài
trợ cho các hoạt động kinh doanh của NHTM. Thống thường nguồn vốn này phụ
thuộc vào ba thông số chính: Lãi suất do các NHTM trả cao hay thấp; Lãi suất của
các loại hình đầu tư khác như: Trái phiếu, cổ phiếu,... Thu nhập của khách hàng.
Trong đó thông số đầu tiên được coi là quan trọng nhất. Vì thế việc đưa ra chiến
lược lãi suất như thế nào, hình thức huy động ra sao để thu hút được vốn nhiều và
kinh doanh có lãi là điều quan trọng hàng đầu, phản ánh khả năng kĩ trị của các

NHTM.
1.2.2.3. Vốn đi vay
Trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng khi dư vốn, đủ vốn, thiếu vốn là lẽ tất
nhiên, đặc biệt là vốn trung và dài hạn. Khi một NHTM thiếu vốn để đáp ứng nhu
cầu vốn của khách hàng hay cho mục đích đầu tư phát triển mà các nguồn khác

13


chưa đủ đáp ứng thì NHTM có thể đi vay. Nghiệp vụ vay vốn của NHTM có thể
chia thành hai loại chính: Vay thông qua phát hành giấy tờ có giá và vay trực tiếp.
• Vay thông qua phát hành giấy tờ có giá:
Phát hành giấy tờ có giá là nghiệp vụ huy động vốn của NHTM dưới hình thức
phát hành các chứng từ như: Chứng chỉ tiền gửi (kỳ phiếu), trái phiếu,...
Trong nghiệp vụ này, NHTM chủ động đứng ra thu gom vốn trong xã hội
bằng việc phát hành các giấy tờ có giá nhằm bổ sung nguồn vốn kinh doanh. Thông
thường việc phát hành được thực hiện sau khi đã tiến hành nên cân đối toàn hệ
thống của NHTM giữa nguồn vốn và sử dụng vốn.
Các NHTM nhận thấy rằng, người gửi tiền rất nhạy cảm với những thay đổi
trong lãi suất huy động của ngân hàng. Vì vậy khi cần vốn, một NHTM có thể phát
hành giấy tờ có giá với một mức lãi suất hấp dẫn hơn các loại nghiệp vụ huy động
thông thường khác nhằm huy động được kịp thời lượng vốn cần thiết. Mức lãi được
trả cho các công cụ này sẽ được thoả thuận trực tiếp giữa NHTM và khách hàng
hoặc được ấn định ở một mức độ nhất định mà người gửi tiền có thể chấp nhận
được, đồng thời đảm bảo hiệu quả kinh doanh cho ngân hàng.
Thông thường, phát hành giấy tờ có giá là nghiệp vụ huy động vốn theo sáng
kiến riêng của từng NHTM với hình thức và kỳ hạn rất đa dạng nhằm thoả mãn tối
đa nhu cầu khách hàng và huy động được vốn cho ngân hàng. Để tìm hiểu kỹ hơn
chúng ta sẽ xem xét hai công cụ cơ bản là: Kỳ phiếu và Trái phiếu ngân hàng.
Kỳ phiếu:

- Ở các nước phát triển như ở Mĩ, chứng chỉ tiền gửi hay còn gọi là CD là một
công cụ thị trường tiền tệ do ngân hàng phát hành. Một NHTM sẽ phát hành một
CD để tài trợ cho những cam kết nợ ngắn hạn hoặc nguồn vốn của mình. CD là một
chứng nhận về một khoản tiền gửi tại NHTM theo một thời hạn và lãi suất nhất
định. Người sở hữu CD có thể bán chứng chỉ này trên thị trường thứ cấp hoặc được
trả lại chứng chỉ tại thời điểm CD đến hạn và nhận lại toàn bộ số tiền gốc chứng chỉ
với lãi.
Một CD thường phát hành đa dạng ghi sổ với mệnh giá đa dạng. Thời hạn
của các CD cũng rất phong phú: Thường từ 7 ngày cho đến 5 hoặc 7 năm. Nhìn

14


chung không có quy định nào hạn chế về thời hạn của một CD đối với Ngân
hàng phát hành.
Ở Việt Nam, các NHTM phát hành kỳ phiếu dựa trên quyết định số 220NH/QĐ ngày 27/11/1991 của Thống đốc NHNN về việc cho phép NHTM quốc
doanh phát hành kỳ phiếu Ngân hàng. Như vậy chỉ có NHTM quốc doanh mới được
phép phát hành loại chứng chỉ tiền gửi này. Kỳ phiếu là một loại giấy nhận nợ do
NHTM quốc doanh phát hành nhằm huy động vốn trong xã hội một cách linh hoạt.
Căn cứ vào mục đích, nhu cầu cụ thể mà ngân hàng có thể phát hành kỳ phiếu bằng
VNĐ hay USD.
Nhu cầu phát hành kỳ phiếu thường phát sinh khi ngân hàng muốn có nguồn vốn
đủ điều kiện để tài trợ các dự án có quy mô, trọng điểm nhằm phục vụ kịp thời cho đầu
tư phát triển của đất nước hoặc vì mục đích kinh doanh của ngân hàng như: Đầu tư
chứng khoán, kinh doanh vàng bạc, ngoại tệ mà các nguồn huy động khác chưa đáp ứng
được. Khi đó ngân hàng có thể xin phép phát hành bằng từ trình gửi NHNN.
Trái phiếu:
- Ở các nước phát triển, trái phiếu ngân hàng là một loại công cụ nợ do NHTM
phát hành nhằm tài trợ vốn cho hoạt động kinh doanh cuả ngân hàng. Thông thường
việc phát hành trái phiếu phải được sự cho phép của Ngân hàng trung ương. Kỳ hạn

của trái phiếu rất phong phú: 7 năm, 10 năm, 20 năm,... Chủng loại cũng rất đa dạng
như: Trái phiếu có lãi suất điều chỉnh, trái phiếu có lãi suất thả nổi, trái phiếu có lãi
suất cố định, trái phiếu có thể chuyển đổi sang cổ phiếu,... Người sở hữu có thể bán
trái phiếu trên thị trường thứ cấp trước khi trái phiếu đó hết hạn.
Ở Việt Nam, theo quyết định số 212-QĐ-NH1 ngày 22/9/1995 của Thống đốc
NHNN ban hành thể lệ phát hành trái phiếu NHTM, Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển thì trái phiếu Ngân hàng là một công cụ vay nợ dài hạn trên thị trường vốn
dưới hình thức giấy nợ của các tổ chức tín dụng phát hành để huy động vốn. Trong
đó các tổ chức tín dụng cam kết trả gốc và lãi cho người mua (hoặc người sở hữu)
sau một thời gian nhất định.
Nguồn vốn huy động được từ nghiệp vụ phát hành trái phiếu không chịu sự
điều chỉnh của quy định dự trữ bắt buộc. Hơn nữa, nó là nguồn có tính ổn định cao,

15


đáng được quan tâm nếu muốn mở rộng nguồn vốn huy động trung và dài hạn tại
một NHTM. Bằng cộng cụ này, các NHTM có thể chủ động tạo được một khối
lượng vốn như mong muốn một cách nhanh chóng để đáp ứng nhu cầu vốn cấp
bách đầu tư cho các công trình lớn của quốc gia.
1.2.2.4. Vay vốn các tổ chức tín dụng
Khi cần vốn thì các NHTM có thể đi vay trực tiếp từ các tổ chức tín dụng
khác, Ngân hàng nước ngoài, từ công ty mẹ,... Nhưng dù vay ở nguồn nào thì nhìn
chung chi phí cho các khoản vay trực tiếp thường cao hơn chi phí phải trả cho các
hình thức huy động vốn khác.
Ở Việt Nam, nguồn vay vốn của NHTM cũng khá phong phú. Một NHTM có
thể vay ở một số nguồn chính như: Vay từ NHNN và Bộ Tài chính (BTC), vay từ
các NHTM khác và tổ chức tín dụng, từ nước ngoài.
• Vay từ NHNN và BTC:
- Vay từ NHNN: Trong quan hệ giữa NHTM và NHNN thì NHNN có tư cách

là Ngân hàng củ các Ngân hàng, là “ Người cho vay cuối cùng” đối với các NHTM.
Thông thường các NHTM chỉ đươch vay NHNN để bù đắp những thiếu hụt ngắn
hạn, tạm thời dưới hình thức chiết khấu, tái chiết khấu, tái cấp vốn. Tuy nhiên, có
những trường hợp đặc biệt, NHNN vẫn cho NHTM vay để cho vay lại nền kinh tế
theo kế hoạch của Nhà nước với một mức lãi suất ưu đãi. Nhưng khoản vay này
thường bị hạn chế số lượng, đặc biệt là khi chính sách tiền tệ quốc gia đang thắt
chặt.
- Vay từ Bộ Tài chính: Mặc dù đã có Tổng cục đầu tư phát triển nhưng Bộ tài
chính vẫn có sự hỗ trợ cho các chương trình tín dụng Ngân hàng. Hàng năm, các địa
phương được phân bổ một số vốn trung và dài hạn cho các công trình phục vụ các
mục tiêu quốc kế dân sinh. Nguồn này sẽ được Bộ Tài chính chuyển sang Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển hoặc của NHTM quốc doanh khác dưới hình thức quỹ
đầu tư phát triển để cho các đối tượng này vay với lãi suất ưu đãi. Nhưng cũng có
những dự án thuộc danh mục Chính phủ chỉ định nhưng NHTM sẽ lo vốn đầu tư
toàn bộ. Do đó NHTM có thể vay một phần từ Bộ Tài chính để tài trợ cho các dự án
này, Bộ Tài chính sẽ chuyển tiền để cấp bù phàn chênh lệch giữa lãi suất cho vay

16


trung và dài hạn của NHTM là lãi suất ưu đãi để NHTM không bị lỗ trong kinh
doanh.
• Vay từ các NHTM và Tổ chức tín dụng khác
Ngoài nghiệp vụ vay từ NHNN và Bộ Tài chính thì các NHTM có thể vay
mượn lẫn nhau hoặc vay từ các Công ty Bảo biểm để đảm bảo vốn cho hoạt động
kinh doanh dựa trên nguyên tắc:
- Các NHTM phải hoạt động hợp pháp
- Thực hiện việc đi vay và cho vay theo hợp đồng tín dụng.
- Vốn vay phải được bảo đảm bằng thế chấp, cầm cố hay xin bảo lãnh của
NHNN.

Nguồn vay mượn này thường có chi phí cao, kỳ hạn trung hạn là chủ yếu, phụ
thuộc nhiều vào quan hệ cũng như uy tín của NHTM đi vay.
• Vay từ nước ngoài:
Theo Nghị định 90/1998/NĐ-CP ngày 7/11/1998 thì các NHTM có thể vay
vốn ở Ngân hàng nước ngoài để cho vay lại trong nước. Các NHTM Việt Nam hiện
có quan hệ đại lý và quan hệ thanh toán rộng rãi với các Ngân hàng trong khu vực
và trên thế giới nên nghiệp vụ này tiến hành cũng khá thuận lợi. Lãi suất vay được
áp dụng theo lãi suất trên thị trường tiền tệ thế giới. Tuy nhiên, khi vay thì các
NHTM Việt Nam phải chấp hành một hạn mức tín dụng do nước ngoài quy định.
Hạn mức này phải được Chính phủ hoặc NHNN Việt Nam bảo lãnh. Theo Nghị
định 90/CP, thì mức bảo lãnh vay vốn nước ngoài cho một tổ chức tín dụng không
quá 6 lần vốn tự có của tổ chức đó. Nhưng hạn mức trên phải trừ đi số nợ trước
chưa trả đến thời điểm đến thời điểm vay mới. Như vậy muốn tận dụng hạn mức tín
dụng của nước ngoài, các NHTM Việt Nam phải thực hiện tốt khâu hoàn trả.
Các khoản vay từ Ngân hàng nước ngoài của các NHTM Việt Nam đều do
NHNN trực tiếp kiểm soát và quản lý. Vì vậy, các hồ sơ vay vốn đều phải quan
NHNN xét duyệt. Các NHTM được quyền chủ động tìm kiếm các nguồn vay từ
nước ngoài, qua đó góp phần quan trọng trong việc tài trợ các hoạt động kinh doanh
ngân hàng.

17


1.2.3.

Chỉ tiêu đánh giá hoạt động huy động vốn của NHTM

1) Chỉ tiêu huy động theo loại tiền:
- Tiền gửi ngoại tệ (USD, EUR …) / Tổng tiền gửi: Cho thấy sản phẩm huy
động ngoại tệ của NH tốt hơn hay xấu hơn, lợi thế của NH

- Tiền gửi nội tệ/ Tổng tiền gửi: Cho thấy sản phẩm huy động nội tệ của NH
tốt hơn hay xấu hơn và lợi thế của NH
2) Chỉ tiêu huy động theo loại hình:
- Tiền gửi của các TCKT/ Tổng tiền gửi: Chỉ tiêu này có ưu điểm là chi phí
huy động nhỏ, món tiền lớn, nhược điểm là nguồn tiền không có kỳ hạn ổn định
- Tiền gửi tiết kiệm / Tổng tiền gửi: Chỉ tiêu này có ưu điểm là có kỳ hạn ổn
định. Tuy nhiên có nhược điểm là món tiền nhỏ, chi phí huy động lớn
- Kỳ phiếu, trái phiếu, GTCG / Tổng tiền gửi: Chỉ tiêu này có ưu điểm là có kỳ
hạn ổn định. Tuy nhiên có nhược điểm là món tiền nhỏ, chi phí huy động lớn
3) Chỉ tiêu huy động theo kỳ hạn:
- Tiền gửi ngắn hạn / Tổng tiền gửi: Tiền gửi ngắn hạn thường có chi phí huy
động cao –> NH sẽ cân đối huy động nguồn tiền này ở 1 tỷ lệ vừa phải; theo luật
NH chỉ được phép dùng MAX 30% vốn ngắn hạn để tài trợ các khoản dư nợ cho
vay trung dài hạn
- Tiền gửi trung dài hạn / Tổng tiền gửi: Tiền gửi trung dài hạn có chi phí huy
động thấp –> NH rất thích huy động được nguồn tiền này trong thời điểm LS có xu
hướng tăng dần trong tương lai.
4) Chỉ tiêu: Vốn huy động / Vốn tự có (Vốn điều lệ): Cho thấy đòn bẩy tài
chính của ngân hàng. Chỉ tiêu này càng lớn thì hoạt động tài chính của NH càng an
toàn, nếu chỉ tiêu này ở ngưỡng khoảng 15 – 20 lần chứng tỏ NH đang hoạt động
trong vùng an toàn với hệ số đòn bẩy hợp lý
5) Chỉ tiêu: Vốn huy động / Tổng nguồn vốn: Cho thấy khả năng tự chủ của
ngân hàng, tỷ lệ này càng bé càng tốt; càng lớn chứng tỏ NH đang phải trang trải
quá nhiều chi phí để huy động vốn. Chỉ tiêu này cần xem xét với chỉ tiêu: Tổng dư
nợ cho vay/ Tổng nguồn vốn. Nếu 2 chỉ tiêu này hơn kém nhau từ 0,9 – 1,1 lần thì
là ở ngưỡng an toàn, nếu không thì NH đang ko hoạt động hiệu quả

18



6) Chỉ tiêu: Tỷ lệ chi phí huy động vốn / Tổng chi phí: Tỷ lệ càng thấp cho
thấy hoạt động huy động vốn của NH càng hiệu quả
7) Tỷ lệ lãi thu từ hoạt động cho vay/Lãi chi cho hoạt động huy động vốn:
phản ánh chênh lệch giữa doanh thu từ cho vay và chi phí cho hoạt động huy động
vốn, tỷ lệ này càng lớn càng tốt.
8) Chênh lệch thu chi: Thu từ cho vay trừ chi cho huy động vốn: Chỉ tiêu này
cũng tương tự chỉ tiêu số 7; thể hiện thu nhập ròng mà ngân hàng nhận được trong
hoạt động kinh doanh giữa huy động vốn và cho vay, chỉ số này càng lớn thì hiệu
quả sinh lời của mỗi đồng vốn huy động càng lớn.
9) Vòng quay huy động vốn: Tổng doanh thu/Tổng vốn huy động; Vòng quay
HĐ vốn càng lớn cho thấy NH sử dụng vốn càng hiệu quả; một mặt nữa phản ánh
kỳ hạn các khoản vay và gửi tiền tại NH là các kỳ hạn ngắn.
10) Chỉ tiêu: Tỷ trọng các loại tiền gửi theo từng sản phẩm huy động
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn / Tổng tiền gửi
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn / Tổng tiền gửi
- Tiền gửi ký quỹ / Tổng tiền gửi- Tiền gửi tiết kiệm bậc thang / Tổng tiền gửi
- Tiền gửi tiết kiệm tích lũy / Tổng tiền gửi ….
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động huy động vốn của NHTM
1.3.1. Các nhân tố chủ quan:
• Các hình thức huy động vốn mà ngân hàng sử dụng
Để thực hiện tốt công tác huy động vốn, các ngân hàng thường đưa ra nhiều
hình thức huy động vốn đa dạng. Khối lượng vốn mà ngân hàng huy động được
phụ thuộc trực tiếp vào các hình thức huy động vốn mà ngân hàng áp dụng. Khi
áp dụng nhiều hình thức huy động vốn sẽ tạo những cơ hội để người gửi lựa
chọn, đáp ứng được các nhu cầu của người gửi. Mỗi ngân hàng đều tìm cho mình
những hình thức huy động vốn phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội, tâm lý dân
cư vùng mà ngân hàng đặt địa điểm, đồng thời phù hợp với yêu cầu sử dụng
cũng như dễ dàng quản lý có hiệu quả nguồn vốn của mình. Khi hình thức huy
động vốn đa dạng nghĩa là số lượng vốn huy động được tăng lên và chi phí huy
động có xu hướng giảm xuống.


19


• Lãi suất huy động
Lãi suất huy động vốn thường là mối quan tâm hàng đầu của cá nhân và tổ
chức muốn gửi tiền vào ngân hàng. Điều này hoàn toàn hợp lý vì trong nền kinh tế
lĩnh vực có lợi nhuận cao hơn bao giờ cũng thu hút được nhiều người tham gia đầu
tư hơn. Tuy nguồn tiền gửi không chỉ phụ thuộc vào lãi suất cao mà còn phụ thuộc
vào các nhân tố khác như kỳ hạn, mức độ rủi ro, điều kiện thanh toán, uy tín, địa
điểm ... của ngân hàng nhưng với lãi suất cao, linh hoạt, hợp lý thì luôn luôn có tác
dụng kích thích người gửi tiền. Nhưng lãi suất có ảnh hưởng lớn nhất đến lượng
tiền gửi tiết kiệm vì khách hàng chọn gửi tiền theo phương thức này thường có mục
đích hưởng lãi.
• Chiến lược Marketing ngân hàng.
Chiến lược Marketing ngân hàng cần phải được chú trọng đúng mức trong
chiến lược kinh doanh dài hạn của ngân hàng nói chung và huy động vốn nói riêng.
Trên cơ sở nghiên cứu thị trường, ngân hàng có thể nắm bắt toàn bộ các thông tin
về môi trường kinh doanh, về khách hàng, từ đó xây dựng chính sách sản phẩm với
các hình thức huy động vốn có thời hạn, giá cả hợp lý, phù hợp với từng giai đoạn
phát triển cụ thể để đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Không những thế,
công tác marketing ngân hàng còn phải biết kích thích các nhu cầu của khách hàng
nhằm lôi kéo khách hàng về với mình để không ngừng mở rộng thêm các khách
hàng mới, ngày càng thu hút được nhiều vốn hơn.
• Công tác cán bộ tổ chức.
Việc xây dựng một đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao, đoàn kết, thân
thiện, năng động, có bộ máy tổ chức khoa học hợp lý, đáp ứng được yêu cầu phát
triển kinh doanh sẽ mang lại cho ngân hàng nhiều lợi thế trong huy động vốn. Với
trang thiết bị cơ sở hạ tầng hiện đại, đội ngũ nhân viên nhiệt tình, lịch sự và có
chuyên môn nghiệp vụ cao, ngân hàng sẽ tạo ấn tượng tốt đối với khách hàng, điều

này sẽ thu hút được khách hàng đến giao dịch
1.3.2. Các nhân tố khách quan:
• Tình hình phát triển kinh tế:
Trong một nền kinh tế đang trong giai đoạn tăng trưởng, nguồn tiền gửi vào

20


các NHTM sẽ gia tăng nhanh chóng do hoạt động sản xuất được mở rộng, mang lại
nhiều công ăn việc làm từ đó góp phần cải thiện thu nhập của dân cư. Tuy nhiên,
khi nền kinh tế rơi vào lạm phát sẽ ảnh hưởng phần nào đến giá trị của các khoản
tiền gửi do lạm phát làm trượt giá đồng tiền. Điều này sẽ khiến người gửi tiền tìm
đến nhũng kênh đầu tư khác hoặc chuyển các tài sản của họ sang hình thái khác có
tính ổn định hơn về giá trị.
• Môi trường pháp lý:
Mọi hoạt động kinh doanh, trong đó hoạt động của ngân hàng đều phải chịu sự
điều chỉnh của luật pháp. Các hoạt động của ngân hàng thương mại chịu sự điều
chỉnh của luật các tổ chức tín dụng và hệ thống các văn bản pháp luật khác của Nhà
nước. Mặt khác, ở Việt nam hiện nay các ngân hàng thương mại được tổ chức theo
mô hình tổng công ty, do vậy các chi nhánh ngân hàng trong hoạt động của mình
ngoài việc phải tuân thủ theo pháp luật và các văn bản dưới luật của nhà nước ban
hành còn phải tuân thủ theo các quy định mà ngân hàng mẹ ban hành trong từng
thời kỳ về lãi suất, tỷ lệ dự trữ, hạn mức cho vay....Trong sự ràng buộc về luật pháp,
các yếu tố của nghiệp vụ huy động vốn thay đổi làm ảnh hưởng đến quy mô và chất
lượng của hoạt động huy động vốn.
• Môi trường cạnh tranh:
Khi định ra chiến lược phát triển cho ngân hàng rõ ràng cần phải tính đến điều
kiện về môi trường kinh doanh. Sự cạnh tranh của các ngân hàng khác trên địa bàn
sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của ngân hàng. Để có thể tồn tại và phát triển,
ngân hàng cần phải định ra chiến lược kinh doanh phù hợp để có thể thắng trong

cạnh tranh với ngân hàng khác. Trong quá trình cạnh tranh với đối thủ, ngân hàng
buộc phải cải tiến và đa dạng hoá các loại hình dịch vụ, thực hiện mức lãi suất hợp
lý, nghiên cứu kỹ thị trường và làm tốt công tác marketing. Ngân hàng phải bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ để có thể làm tốt công việc của mình. Như vậy, cạnh tranh
vừa là thách thức vừa là một nhân tố thúc đẩy sự phát triển chất lượng các hoạt
động ngân hàng trong đó có hoạt động huy động vốn
• Tâm lý khách hàng:
Khách hàng của ngân hàng bao gồm những người có vốn gửi tại ngân hàng và

21


những đối tượng sử dụng vốn đó. Về môi trường xã hội ở các nước phát triển,
khách hàng luôn có tài khoản cá nhân và thu nhập được chuyển vào tài khoản của
họ. Nhưng ở các nước kém phát triển, nhu cầu dùng tiền mặt thường lớn hơn. ở
khoản mục tiền gửi tiết kiệm có hai yếu tố quan trọng tác động vào là thu nhập và
tâm lý của người gửi tiền. Thu nhập ảnh hưởng đến nguồn vốn tiềm tàng mà ngân
hàng có thể huy động trong tương lai. Còn yếu tố tâm lý ảnh hưởng đến sự biến
động ra vào của các nguồn tiền. Tâm lý tin tưởng vào tương lai của khách hàng có
tác dụng làm ổn định lượng tiền gửi vào, rút ra và ngược lại nếu niềm tin của khách
hàng về đồng tiền trong tương lai sẽ mất giá gây ra hiện tượng rút tiền hàng loạt vốn
là mối lo ngại lớn của mọi ngân hàng. Một đặc điểm quan trọng của đối tượng
khách hàng là mức độ thường xuyên của việc sử dụng các dịch vụ ngân hàng. Mức
độ sử dụng càng cao, ngân hàng càng có điều kiện mở rộng việc huy động vốn.

22


CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA
NHTMCP SACOMBANK CHI NHÁNH HÀ NỘI

2.1. Khái quát về NHTMCP Sacombank
2.1.1. Sơ lược quá trình phát triển NHTMCP Sacombank
Tên giao dịch: Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần Sài Gòn Thương
Tín(Sacombank)
Tên giao dịch quốc tế: Sai Gon Thuong Tin Commercial Joint Stock Bank
Logo:

Hội sở: 266-268 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, TP.Hồ Chí Minh,
Việt Nam
Điện thoại: (+84) 839320420

Fax: (+84) 839320 424

Telex: 813603 SGDTTVT SWIFT code: SGTTVNVX
Email: Website: www.sacombank.com
Vốn điều lệ: 10.739.676.640.000 đồng
Giấy phép thành lập: Số 05/GP-UB ngày 03/01/1992 của UBND TP.
Hồ Chí Minh
Giấy phép hoạt động: Số 0006/GP-NH ngày 05/12/1991 của NHNN
Việt Nam
Giấy Chứng nhận ĐKKD:Số 0301103908 do Sở Kế Hoạch và Đầu Tư TP.
HCM cấp (đăng ký lần đầu ngày 13/01/1992, đăng ký thay đổi lần thứ 34 ngày
22/06/2012)
Thành viên chủ chốt bộ máy lãnh đạo:
Ông Đặng Văn Thành (chủ tịch HĐQT)
Ông Trần Xuân Huy (Tổng giám đốc)
Ngân hàng Thương mại Cổ Phần Sài Gòn Thương Tín được chính thức đi vào
hoạt động vào ngày 21/12/1991 với số vốn điều lệ ban đầu là 3 tỷ đồng. Trải qua

23



hơn 20 năm xây dựng và hoạt động, đến nay Sacombank đã phát triển lớn mạnh
theo mô hình Ngân hàng bán lẻ với một mạng lưới hoạt động rộng khắp cả nước và
mở rộng sang các nước Đông Dương gồm 416 điểm giao dịch, trong đó có 72 Chi
nhánh/Sở Giao dịch, 336 Phòng giao dịch, 01 quỹ tiết kiệm trong nước; 01 chi
nhánh, 1 phòng giao dịch tại Lào và 01 Ngân hàng con, 04 chi nhánh tại
Campuchia. Đến thời điểm 31/12/2012, với mức vốn điều lệ vào khoảng 10.740 tỷ
đồng, Sacombank được đánh giá là một trong những Ngân hàng TMCP hàng đầu tại
Việt Nam về vốn điều lệ, về mạng lưới hoạt động cũng như về tốc độ tăng trưởng
trong hoạt động kinh doanh.
Năm 2013, Sacombank là “Ngân hàng nội địa tốt nhất Việt Nam” và “Ngân
hàng bán lẻ tốt nhất Việt Nam năm 2013” do Tạp chí The Asset và Tạp chí
International Finance Magazine (IFM) bình chọn. Các giải thưởng này đã khẳng
định uy tín, sức cạnh tranh nổi bật của Sacombank và chiến lược hoạt động hiệu quả
của Sacombank qua các thời kỳ.Tháng 12/2013, Sacombank đưa vào sử dụng hệ
thống Internet Banking phiên bản mới với nhiều tính năng hiện đại và vượt trội.
Ngày 01/10/2015, Sacombank thực hiện theo định hướng của Chính Phủ và
NHNN trong chương trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng nhằm mang đến cho thị
trường những định chế tài chính lớn mạnh, an toàn và chuyên nghiệp hơn. Southern
Bank chính thức sáp nhập vào Sacombank, đây là một mốc lịch sử trong hành trình
phát triển của Sacombank. Sau sáp nhập, Sacombank thuộc Top 5 ngân hàng lớn
nhất Việt Nam về tổng tài sản, vốn điều lệ và mạng lưới hoạt động.
Có thể nói, sản phẩm dịch vụ của Sacombank đã không ngừng được cải
tiến và mở rộng. Không còn đơn thuần chỉ thực hiện nghiệp vụ huy động và
cho vay truyền thống, nhiều dịch vụ mới đã ra đời hoà trong xu thế phát triển
của thị trường tiền tệ. Các dịch vụ như chuyển tiền nội địa, thanh toán quốc tế,
thu đổi ngoại tệ, kinh doanh ngoại tệ, chuyển tiền ra nước ngoài, kiều hối, chi
hộ – thu hộ, cho thuê ngăn tủ sắt, bảo lãnh, tài trợ thương mại, tiết kiệm tích
luỹ và đặc biệt là dịch vụ thẻ và hệ thống máy rút tiền tự động (ATM)… đã làm

cho hoạt động của Sacombank ngày càng phong phú và đa dạng, đáp ứng ngày
càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng.

24


Hơn 20 năm qua, Sacombank luôn kiên định với chiến lược phát triển của
mình, tự tin mở ranhững lối đi riêng và trở thành ngân hàng tiên phong trong nhiều
lĩnh vực. Chiến lược phát triển Sacombank giai đoạn 2011- 2020 tiếp tục kiên định
với mục tiêu trở thành“Ngân hàng bán lẻ hàng đầu Khu vực” và theo định hướng
hoạt động HIỆU QUẢ - AN TOÀN -BỀN VỮNG.
Tầm nhìn- Sứ mệnh- Giá trị cốt lõi
Tầm nhìn
Trở thành Ngân hàng bán lẻ hiện đại và đa năng hàng đầu Khu vực
Sứ mệnh
Tối ưu giải pháp tài chính trọn gói, hiện đại và đa tiện ích cho khách hàng; Tối
đa hóa giá trị gia tăng cho đối tác, nhà đầu tư và cổ đông; Mang lại giá trị về nghề
nghiệp và sự thịnh vượng cho CBNV; Đồng hành cùng sự phát triển chung của
cộng đồng xã hội.
Giá trị cốt lõi
Tiên phong mở đường và mạnh dạn đương đầu vượt qua những thách thức để
tiếp nối những thành công; Đổi mới và năng động để phát triển vững bền; Cam kết
chất lượng là nguyên tắc ứng xử của mỗi thành viên trong phục vụ khách hàng và
quan hệ đối tác; Trách nhiệm với cộng đồng và xã hội; Tạo dựng sự khác biệt bằng
tính đột phá sáng tạo trong kinh doanh và quản trị điều hành.
Sơ đồ tổ chức:

25



×