Tải bản đầy đủ (.docx) (233 trang)

luận án XD tiêu chuẩn đánh giá trình độ tập luyện của vận độngviên các môn TT hoạt động có chu kỳ lứa tuổi 15 17 tại thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 233 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

VIỆN KHOA HỌC THỂ DỤC THỂ THAO

PHẠM VĂN LIỆU

XÂY DỰNG TIÊU CHUẨN ĐÁNH GIÁ TRÌNH ĐỘ
TẬP LUYỆN CỦA VẬN ĐỘNG VIÊN CÁC MÔN
THỂ THAO HOẠT ĐỘNG CÓ CHU KỲ
LỨA TUỔI 15-17 TẠI THANH HÓA

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

HÀ NỘI – 2016


2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

VIỆN KHOA HỌC THỂ DỤC THỂ THAO

PHẠM VĂN LIỆU

XÂY DỰNG TIÊU CHUẨN ĐÁNH GIÁ TRÌNH ĐỘ
TẬP LUYỆN CỦA VẬN ĐỘNG VIÊN CÁC MÔN


THỂ THAO HOẠT ĐỘNG CÓ CHU KỲ
LỨA TUỔI 15-17 TẠI THANH HÓA

Chuyên ngành: Huấn luyện thể thao
Mã số: 62.14.01.04

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Cán bộ hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS Lê Đức Chương

2. GS.TS Nguyễn Xuân Sinh

Hà Nội, năm 2016
LỜI CAM ĐOAN


3
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
số liệu, kết quả trong luận án là trung thực và chưa tác giả nào công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả luận án

Phạm Văn Liệu


4
MỤC LỤC



5
Danh mục chữ viết tắt thông thường
STT
1
2
3

Từ viết tắt

5
6
7
8
9

CLTB
ĐDB
ĐK
HCB
HCV
HLTT
HLV
Nxb
SBTĐ

10

SEA Games


11
12
13
14
15
16
17
18
19
20

SMB
TDTT
TĐTL

TĐTB
THPT
TTTT
TSB
VĐV
Xpc

4

Viết đầy đủ
Cự ly trung bình
Độ dài bước
Điền kinh
Huy chương bạc
Huy chương vàng

Huấn luyện thể thao
Huấn luyện viên
Nhà xuất bản
Sức bền tốc độ
Southeast Asian Games (Đại hội Thể
thao Đông Nam Á)
Sức mạnh bật
Thể dục thể thao
Trình độ tập luyện
Tốc độ
Tốc độ trung bình
Trung học phổ thông
Thành tích thể thao
Tần số bước
Vận động viên
Xuất phát cao


6

Danh mục chữ viết tắt y sinh
STT

Từ viết tắt

Tên đầy đủ tiếng Anh

Tên tiếng Việt

1


ATP

Adenozin Triphosphate

2

ADP

Adenozin Diphosphate

3

AT4

Acid lactic threshold

4

DTS

5

CO2

Carbon dioxide

6

CP


Creatine Phosphate

7

CNT

Heart work (HW)

Công năng tim

8

FT

Fast twitch

Sợi cơ co nhanh

9

HA

10

HR

Heart Rate

Tần số nhịp tim


11

LA

Lactic acide

Axit lactic (AL)

12

O2

Oxy

13

PWC170

Physical Working Capacity

14

ST

15

VAnT

16


VO2max

Slow twitch
VelocityAnaerobic
Threshold
Volume oxy maximum
uptake

Ngưỡng axit lactic 4
mmol/lít
Dung tích sống
Khí các bô nic

Huyết áp

Sợi cơ co chậm
Ngưỡng yếm khí tốc độ
Thể tích oxy hấp thụ tối đa


7
DANH MỤC BẢNG TRONG LUẬN ÁN
Thể
loại

Bản
g

Số


Nội dung

Kiểm định lựa chọn test đánh giá thực trạng TĐTL về
3.1 hình thái chức năng, tố chất thể lực VĐV bơi CLTB
tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17 (n =23)
Kiểm định lựa chọn test đánh giá thực trạng TĐTL về
3.2 hình thái chức năng, tố chất thể lực VĐV chạy CLTB
tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17 (n =23)
Độ tin cậy các test đánh giá TĐTL VĐV bơi cự ly
3.3
trung bình tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17
3.4
3.5

3.6
3.7
3.8
3.9
3.10
3.1
1
3.12
3.13
3.14

Độ tin cậy các test đánh giá TĐTL VĐV chạy cự ly
trung bình tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17
Tính thông báo các test đánh giá TĐTL (sư phạm)
TĐTL VĐV bơi cự ly trung bình tỉnh Thanh Hóa lứa

tuổi 15-17
Tính thông báo các test đánh giá TĐTL (sư phạm)
TĐTL VĐV chạy cự ly trung bình tỉnh Thanh Hóa lứa
tuổi 15-17
Thực trạng hình thái chức năng sinh lý VĐV bơi cự ly
trung bình tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17
Thực trạng hình thái chức năng sinh lý VĐV chạy cự
ly trung bình tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17
Thực trạng tố chất thể lực VĐV bơi cự ly trung bình
tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17
Thực trạng tố chất thể lực VĐV chạy cự ly trung bình
tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17
Kiểm định phân phối chuẩn Shapyro-Winky các test
của VĐV bơi CLTB tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17.
Kiểm định phân phối chuẩn Shapyro-Winky các test
của VĐV chạy CLTB tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17
Tiêu chuẩn phân loại các chỉ tiêu đánh giá TĐTL (sư
phạm) VĐV bơi CLTB tỉnh Thanh Hóa 15-17 tuổi Nam.
Tiêu chuẩn phân loại các chỉ tiêu đánh giá TĐTL (sư

Sau
tran
g

90

91
96
97
99


100
101
102
106
109
113
114
115
116


8
Thể
loại

Số

3.15

3.16

3.17
3.1
8
3.1
9
3.2
0
3.2

1
3.2
2
3.2
3
3.2
4
3.25
3.26

Nội dung

phạm) VĐV bơi CLTB tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17
- Nữ
Tiêu chuẩn phân loại các chỉ tiêu đánh giá TĐTL (sư
phạm) VĐV chạy CLTB tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 1517 - Nam
Tiêu chuẩn phân loại các chỉ tiêu đánh giá TĐTL (sư
phạm) VĐV chạy CLTB tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 1517 - Nữ.
Hệ số tương quan giữa các yếu tố thành phần với thành
tích bơi CLTB của VĐV bơi VĐV bơi cự ly trung bình
tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17.
Hệ số tương quan giữa các yếu tố thành phần với thành
tích bơi CLTB của VĐV chạy cự ly trung bình tỉnh
Thanh Hóa lứa tuổi 15-17.
Tỷ trọng ảnh hưởng các test chuyên môn với thành tích
bơi CLTB của VĐV tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17.
Tỷ trọng ảnh hưởng các test chuyên môn với thành tích
chạy CLTB của VĐV tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17.
Bảng điểm các chỉ tiêu đánh giá TĐTL (các test
chuyên môn) VĐV bơi CLTB tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi

15-17 - Nam.
Bảng điểm các chỉ tiêu đánh giá TĐTL (các test
chuyên môn) VĐV bơi CLTB tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi
15-17 - Nữ.
Bảng điểm các chỉ tiêu đánh giá TĐTL (các test
chuyên môn) VĐV chạy CLTB tỉnh Thanh Hóa 15-17
tuổi - Nam.
Bảng điểm các chỉ tiêu đánh giá TĐTL (các test
chuyên môn) VĐV chạy CLTB tỉnh Thanh Hóa lứa
tuổi 15-1 - Nữ.
Bảng điểm tổng hợp đánh giá TĐTL (sư phạm) VĐV
bơi CLTB tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 5-17 .
Bảng điểm tổng hợp đánh giá TĐTL (sư phạm) VĐV
chạy CLTB tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17.

Sau
tran
g

117

118

120

121
121
121
123


123

124

124
125
125


9
Thể
loại

Số

3.27
3.28
3.29
3.30
3.31
3.32
3.33
3.34
3.35
3.3
6

Nội dung

Sau

tran
g

Cấu trúc nội dung huấn luyện VĐV bơi CLTB tỉnh
161
Thanh Hóa lứa tuổi 15-17, giai đoạn chuyên môn hóa
Cấu trúc nội dung huấn luyện VĐV chạy CLTB tỉnh
163
Thanh Hóa lứa tuổi 15-17, giai đoạn chuyên môn hóa
Tăng trưởng về hình thái, chức năng sinh lý VĐV bơi
166
CLTB tỉnh Thanh Hóa 15-17 tuổi.
Tăng trưởng về hình thái, chức năng sinh lý VĐV chạy
167
CLTB tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17.
Tăng trưởng TĐTL (sư phạm) VĐV bơi CLTB tỉnh
168
Thanh Hóa 15-17 lứa tuổi - Nam
Tăng trưởng TĐTL (sư phạm) VĐV bơi CLTB tỉnh
169
Thanh Hóa lứa tuổi 15-17 - Nữ
Tăng trưởng TĐTL (sư phạm) VĐV chạy CLTB tỉnh
170
Thanh Hóa lứa tuổi 15-17 - Nam
Tăng trưởng TĐTL (sư phạm) VĐV chạy CLTB tỉnh
171
Thanh Hóa lứa tuổi 15-17 - Nữ
Bảng tổng hợp đánh giá TĐTL (sư phạm) VĐV bơi
CLTB tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17, giai đoạn
178

chuyên môn hóa
Bảng tổng hợp đánh giá TĐTL (sư phạm) VĐV chạy
CLTB tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17, giai đoạn
179
chuyên môn hóa


10
DANH MỤC BIỂU TRONG LUẬN ÁN
Thể
loại

Số

Biểu
đồ

3.1

Nội dung

Tăng trưởng một số chỉ tiêu chức năng sinh lí VĐV
bơi CLTB tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17 - Nam
Tăng trưởng một số chỉ tiêu chức năng sinh lí VĐV
3.2
bơi CLTB tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17 - Nữ
Tăng trưởng một số chỉ tiêu chức năng sinh lí VĐV
3.3
chạy CLTB tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17 - Nam


Sau
tran
g

172
172
173

3.4

Tăng trưởng một số chỉ tiêu chức năng sinh lí VĐV
chạy CLTB tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17 - Nữ

173

3.5

Tăng trưởng TĐTL (sư phạm) VĐV bơi CLTB tỉnh
Thanh Hóa lứa tuổi 15-17 - Nam

174

3.6

Tăng trưởng TĐTL (sư phạm) VĐV bơi CLTB tỉnh
Thanh Hóalứa tuổi 15-17 - Nữ

174

3.7


Tăng trưởng TĐTL (sư phạm) VĐV chạy CLTB tỉnh
Thanh Hóa lứa tuổi 15-17 - Nam

175

3.8

Tăng trưởng TĐTL (sư phạm) VĐV chạy CLTB tỉnh
Thanh Hóa lứa tuổi 15-17 - Nữ

175

3.9

Tổng hợp đánh giá TĐTL (sư phạm) VĐV bơi CLTB
tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17 - Nam

176

3.10

Tổng hợp đánh giá TĐTL (sư phạm) VĐV bơi CLTB
tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17 - Nữ

176

3.11

Tổng hợp đánh giá TĐTL (sư phạm) VĐV chạy CLTB

180
tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17 - Nam

3.12

Tổng hợp đánh giá TĐTL (sư phạm) VĐV chạy CLTB
180
tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17 - Nữ


11
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trình độ tập luyện (TĐTL) là một phức hợp gồm nhiều thành tố:
Hình thái, y - sinh, tâm lý, kỹ thuật, chiến thuật, thể lực, ngày càng được
nâng cao nhờ ảnh hưởng trực tiếp, lâu dài của lượng vận động (LVĐ) tập
luyện và thi đấu cũng như các liệu pháp hỗ trợ ngoại sinh khác. Trong quy
trình đào tạo vận động viên (VĐV) thể thao đỉnh cao, việc đánh giá TĐTL
của VĐV theo tuổi, giới tính và môn thể thao chuyên sâu rất có ý nghĩa về
mặt thực tiễn và lý luận, đặc biệt trong tuyển chọn và đào tạo VĐV trẻ [1],
[5],[7].
Như vậy, quan niệm khoa học về TĐTL là rất phong phú, đa dạng
được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau, nhưng đều thống nhất ở chỗ
nó được hình thành, phát triển và nâng cao dưới tác động của LVĐ. Do đó,
TĐTL là năng lực thích ứng của cơ thể đối với lượng vận động tập luyện
nhờ quá trình huấn luyện có hệ thống.
Do tác động có chủ đích của LVĐ nên trong cơ thể VĐV đã xảy ra
các biến đổi sinh học. Sự tác động có hệ thống sẽ dẫn đến những thích ứng
nâng cao năng lực làm việc của các cơ quan trong cơ thể, cải thiện năng lực
điều khiển của hệ thần kinh đối với hệ điều tiết của hệ vận động, các cơ
quan và tổ chức. Những thích ứng đó thể hiện ở trình độ phát triển tổng

hợp về kỹ thuật, chiến thuật, các tố chất thể lực (TCTL), năng lực trí tuệ và
các yếu tố khác. VĐV có thành tích thể thao (TTTT) càng tốt thì TĐTL
càng cao, năng lực thể thao càng cao thì thành tích thể thao càng tốt. Vì
vậy, hiểu đúng về TĐTL của VĐV có ý nghĩa quan trọng trong việc điều
khiển và điều chỉnh quá trình huấn luyện một cách khoa học, phát huy tính
tích cực, tự giác tập luyện nâng cao hiệu quả trong công tác huấn luyện [4],
[10],[11],[18],[19].
Kiểm tra đánh giá TĐTL và đề ra phương pháp huấn luyện phù hợp,
khoa học để nâng cao TĐTL của VĐV được đánh giá là rất quan trọng, đã
sớm được các nhà khoa học TDTT của nước ta du nhập và tập trung nghiên


12
cứu. Các công trình nghiên cứu đã xây dựng được các tiêu chuẩn đánh giá
riêng lẻ hoặc tổng hợp trình độ tập luyện (TĐTL) của VĐV các môn thể
thao khác nhau [3],[21],[56].
Tuy vậy, nghiêm túc nhìn nhận việc xây dựng tiêu chuẩn đánh giá
TĐTL của vận động viên (VĐV) các môn thể thao ở nước ta còn một số
tồn tại cơ bản đó là: Công tác nghiên cứu về lý luận và phương pháp kiểm
tra đánh giá TĐTL ở nước ta còn thiếu, việc xây dựng tiêu chuẩn đánh giá
TĐTL các môn thể thao chưa sâu; Các tiêu chuẩn đánh giá xây dựng chưa
đồng bộ cho các nhóm tuổi và các giai đoạn huấn luyện; Một số tiêu chuẩn
đánh giá còn chưa phù hợp hoặc tụt hậu và thiếu tính thực tiễn; Nghiên cứu
ứng dụng các tiêu chuẩn đánh giá TĐTL còn chưa rộng rãi ở các đối tượng
tập luyện[39],[75].
Hai môn Bơi lội và Điền kinh là những môn thể thao cơ bản và quan
trọng trong chương trình thi đấu của các kỳ Đại hội thể thao Olympic và
các giải quốc tế. Trong thời gian qua, trên đấu trường quốc tế thành tích
của bơi lội và điền kinh nước ta không ngừng tăng lên. Đặc biệt tại SEA
Games 28-2015 Sinhgapore thành tích của VĐV Nguyễn Thị Ánh Viên,

Hoàng Quý Phước (môn Bơi) và Nguyễn Thị Huyền (Điền kinh)…được
xem là hiện tượng và đã tỏa sáng ghi đậm nét trong lịch sử thể thao nước
nhà.
Ngày nay, các cuộc tranh tài ở các môn thể thao nói chung, trong đó
bơi và điền kinh nói riêng ngày càng quyết liệt. Các kỷ lục thế giới của bơi
lội và điền kinh liên tiếp bị phá vỡ và nhiều kỷ lục mới được thiết lập trong
các kỳ Đại hội Olympic, các giải đấu thế giới, châu lục và khu vực. Để đạt
được những thành tích, kỷ lục quý giá thì công tác đào tạo VĐV đòi hỏi
phải hết sức bài bản, khoa học hay nói cách khác là phải đưa và ứng dụng
khoa học - công nghệ tiên tiến vào tuyển chọn, đào tạo và huấn luyện thể
thao.
Ở các nước tiên tiến trong những thập niên gần đây, công tác đào tạo
VĐV không chỉ dựa vào yếu tố sẵn có của bẩm sinh, di truyền, năng khiếu


13
và cũng không đơn thuần chỉ dựa vào yếu tố khổ luyện của VĐV, mà huấn
luyện thể thao phải là sự kết hợp chặt chẽ giữa sự khổ luyện với khoa họccông nghệ tiên tiến [25],[28],[31].
Để tạo dựng cơ sở khoa học cho định hướng và chuẩn hóa quy trình
đào tạo VĐV nhiều năm, giải pháp có tính thực tiễn và khả thi hơn cả là
vận dụng phương pháp tiếp cận đi tắt đón đầu, từng bước xây dựng các tiêu
chí đặc trưng mô hình của VĐV cấp cao từng môn thể thao trọng điểm,
đồng thời, trong phạm vi có thể, vẫn tiến hành dần dần đánh giá TĐTL của
VĐV trẻ các cấp trong chương trình thể thao quốc gia nhằm nâng cao hiệu
quả tuyển chọn, đào tạo và huấn luyện VĐV các cấp[82],[83],[85],[104].
Thanh Hóa là một địa phương có phong trào thể dục thể thao
(TDTT) khá mạnh, một số môn thể thao nhất là các môn thể thao có chu kỳ
như Điền kinh, Bơi lội…đều đã giành được những thành tích tương đối tốt
trong các giải thi đấu toàn quốc, đồng thời cũng đóng góp nhiều vận động
viên xuất sắc cho đội tuyển Bơi và Điền kinh Quốc gia.

Trong quá trình đào tạo vận động viên, các huấn luyện viên đã bước
đầu ứng dụng các phương pháp huấn luyện hiện đại và khoa học. Tuy
nhiên, vẫn còn mang tính chủ quan, chưa xây dựng được hệ thống chỉ tiêu,
tiêu chuẩn đánh giá một cách khoa học nên chừng mực nhất định vẫn còn
hạn chế, hiệu quả công tác tuyển chọn, đào tạo và huấn luyện VĐV các
môn thể thao còn chưa cao, chưa bền vững trong đó các môn thể thao hoạt
động có chu kỳ như bơi lội và điền kinh không phải là ngoại lệ.
Từ cơ sở tiếp cận trên tôi nghiên cứu đề tài “Xây dựng tiêu chuẩn
đánh giá trình độ tập luyện của vận động viên các môn thể thao hoạt
động có chu kỳ lứa tuổi 15 - 17 tại Thanh Hóa” (Do khuôn khổ có hạn đề
tài chỉ tập trung nghiên cứu trên VĐV bơi và VĐV chạy CLTB, giai đoạn
chuyên môn hóa, là các nội dung sức bền đặc trưng cho các môn thể thao
có chu kỳ và đồng thời là trọng điểm của thể thao Thanh Hóa).
MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:


14
Trên cơ sở thực trạng về: Hình thái, y sinh và TCTL của VĐV bơi,
VĐV chạy CLTB tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17, xây dựng tiêu chuẩn
đánh giá TĐTL (sư phạm) và cấu trúc định hướng nội dung huấn luyện
giúp HLV chủ động điều chỉnh kế hoạch huấn luyện góp phần nâng cao
hiệu quả đào tạo VĐV và tiết kiệm kinh phí.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU:
1. Xây dựng tiêu chuẩn đánh giá TĐTL (sư phạm) của VĐV bơi,
VĐV chạy CLTB tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17, giai đoạn chuyên môn
hóa.
2. Kiểm nghiệm, đánh giá TĐTL (sư phạm) VĐV bơi, VĐV chạy cự
ly trung bình tỉnh Thanh Hóa lứa tuổi 15-17, giai đoạn chuyên môn hóa
thông qua cấu trúc định hướng nội dung huấn luyện.
GIẢ THUYẾT KHOA HỌC:

Việc đánh giá TĐTL của VĐV theo tuổi, giới tính và môn thể thao
chuyên sâu rất có ý nghĩa về mặt thực tiễn và lý luận, đặc biệt trong tuyển
chọn, đào tạo và huấn luyện thể thao. Nếu đánh giá đúng trình độ tập luyện
(TĐTL) của VĐV sẽ góp phần quan trọng trong việc điều khiển và điều
chỉnh quá trình huấn luyện khoa học, nâng cao hiệu quả công tác đào tạo
VĐV thể thao và tiết kiệm kinh phí đào tạo.

Chương 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Trình độ tập luyện


15
TĐTL là một khái niệm tổng hợp đặc trưng cho khả năng của toàn
bộ cơ thể; là mức độ thích ứng của cơ thể và năng lực thể thao đạt được
dưới tác động của lượng vận động tập luyện, qua quá trình huấn luyện có
hệ thống được thể hiện ở mức độ nâng cao khả năng chức phận và năng lực
vận động của VĐV hay nhờ lượng vận động tập luyện, lượng vận động thi
đấu và các bài tập bổ trợ khác [1],[38],[43],[82].
Khái niệm về quá trình biến đổi lâu dài của trình độ tập luyện luôn
gắn liền với các phạm trù “phát triển” và “thích nghi” [1],[30],[38].
Phát triển là một quá trình những biến đổi trạng thái của tất cả những
thành tố tạo nên thực tế trong thực thể, trong tự nhiên và xã hội diễn ra theo
quy luật nhất định. Sự biến đổi các thực thể đó có mối quan hệ tương hỗ về
lượng và chất; tính ngẫu nhiên, tính đa dạng của những biến đổi đó theo xu
hướng chung và tồn tại lâu dài [53],[54],[55]. Sự phát triển trình độ tập
luyện nhờ tác động lâu dài của lượng vận động tạo nên sự biến đổi về chức
năng và cấu trúc trong các cơ quan và các hệ thông cơ thể. Tuy nhiên mọi
quá trình phát triển đều mang tính tịnh tiến thường gắn với các yếu tố có

tính chất chu kì. Do đó quá trình phát triển trình độ tập luyện được thực
hiện không theo đường vòng, không theo đường thẳng mà dường như theo
đường xoáy chôn ốc bao gồm cả các yếu tố đối lập nhau nghĩa là vừa có
tính chu kì, vừa có dạng tuyến tính (đường thẳng) trong quá trình phát triển
của trình độ tập luyện [47],[58],[75].
Nếu xem xét quá trình phát triển trình độ tập luyện ở tầm chu kì dài
hạn thông qua lăng kính “trạng thái sung sức thể thao” thì càng cần phải
lưu ý tới tính chất xoáy chôn ốc của quá trình phát triển trình độ tập luyện.
Trong phạm vi một chu kì huấn luyện dài hạn, trạng thái của VĐV
thường thay đổi theo quy luật và theo từng giai đoạn: giai đoạn có trạng
thái sung sức thể thao được thay bằng giai đoạn tương đối ổn định và tiếp
đến là giai đoạn suy giảm tạm thời trạng thái sung sức thể thao. Ngoài ra
mỗi chu kì mới, như thường lệ, đều có điểm khác so với chu kì trước đó ở
chỗ sự phát triển trình độ tập luyện ở mức độ cao hơn. Sự phát triển trình


16
độ tập luyện theo từng giai đoạn và mang tính chu kì, do vậy tính chất lặp
lại là quy luật phổ biến và chung nhất đối với bất kì quá trình phát triển
TĐTL nào.
Thời lượng từng giai đoạn phát triển trạng thái sung sức thể thao có
mối quan hệ tương hỗ, ví dụ: giai đoạn một diễn ra mạnh bao nhiêu thì giai
đoạn hai tới nhanh bấy nhiêu, như vậy thời lượng giai đoạn một quyết định
thời lượng giai đoạn hai. Nói một cách tổng quát là thời lượng của từng
giai đoạn tùy thuộc vào sự thay đổi các phương tiện sử dụng bài tập trong
tập luyện và phụ thuộc vào thời gian thích ứng với lượng vận động chuyên
môn của VĐV theo hướng đã được lựa chọn [93],[100],[107].
Tóm lại quá trình phát triển trình độ tập luyện là một quá trình mang
tính chu kì và diễn biến lâu dài theo dạng xoáy chôn ốc của những biến đổi
về chức năng và cấu trúc trong tất cả các hệ thống của toàn bộ cơ thể vận

động viên. Nếu xem xét những luận điểm cơ bản về lý thuyết phát triển
trên cơ sở lý thuyết thích nghi chúng ta thấy rằng sự phát triển trình độ tập
luyện thực chất là chu kì của những phản ứng thích nghi. Như vậy, quá
trình thích nghi là một trong những mặt quan trọng của quá trình phát triển
trình độ tập luyện lâu dài.
Ngay từ những năm 1930 nhiều công trình nghiên cứu cho rằng,
những trấn động stress căng thẳng, kể cả lượng vận động tập luyện và thi
đấu với thời gian tác động tương đối lâu dài sẽ gây nên những phản ứng
định hình gồm 3 giai đoạn: giai đoạn lo lắng hồi hộp ban đầu dần dần đổi
sang giai đoạn đề kháng, nếu như stress quá mạnh, quá lâu thì phản ứng
stress chuyển sang giai đoạn kiệt sức [8].
Khi đề cập đến bản chất có tính chu kì của hội chứng thích ứng,
giải thích sự xuất hiện của giai đoạn thứ ba người ta cho rằng, đó là cạn
kiệt nguồn năng lượng thích ứng. Cho đến lúc này chưa rõ nguồn năng
lượng thích ứng là gì, nhưng bản chất tự nhiên của giai đoạn 3 về hội
chứng thích ứng nói chung chứng tỏ nguồn thích ứng là có giới hạn. Tuy


17
chưa có những phương pháp xác định nguồn dự trữ năng lượng thích ứng
một cách khách quan họ đề nghị phân thành 2 loại năng lượng thích ứng:
- Một loại năng lượng thích ứng thể hiện bề ngoài, dễ nhận biết và
phục hồi được.
- Một loại năng lượng thích ứng có chiều sâu ẩn chứa dưới dạng dự
trữ, bồi hoàn toàn nguồn năng lượng đã bị tiêu hao trong vận động tập
luyện vào lúc nghỉ ngơi hoặc chuyển đổi sang hoạt động khác.
Trong thực tiễn thi đấu thể thao có những trường hợp VĐV sau 2-3
tuần, đôi khi 2-3 tháng nghỉ ngơi đầy đủ do bị chấn thương hoặc bị ốm, khi
tham gia thi đấu bỗng nhiên đạt thành tích cao bất ngờ.
Theo quan điểm lý thuyết thích ứng nêu trên có thể giải thích hiện

tượng trên là nguồn dự trữ thích ứng có chiều sâu đến mức sau hàng tháng
hoặc hơn vẫn phát huy tác dụng có hiệu quả [72],[73],[96].
Ý tưởng của các nhà khoa học tiếp tục được phát triển trong các
công trình của các chuyên gia khác nhau, khi họ chia quá trình thích ứng
thành ba mức độ chức năng các nguồn dự trữ sinh học: dự trữ sinh học ở
mức độ chức năng thứ nhất là chuyển từ trạng thái tĩnh sang trạng thái hoạt
động bình thường với đặc điểm là các phản ứng đồng hóa chiếm ưa thế.
Đối với mức độ chức năng thứ 2 của dự trữ sinh học được biểu hiện bằng
sự cân bằng giữa các phản ứng của cả hai quá trình đồng hóa và dị hóa.
Cuối cùng mức độ chức năng dự trữ sinh học thứ 3 có thể được khai
thác các tình huống căng thẳng đòi hỏi, tất nhiên phải trả bằng giá đắt và
diễn dưới dạng phản ứng stress cao độ. Cần phải nhấn mạnh rằng thể thao
hiện đại có mức độ cạnh tranh rất gay gắt phải chịu đựng những căng thẳng
về tâm lý và thể lực rất lớn trong hàng các cuộc thi đấu quốc tế lớn luôn
phiên, liên tục cả mùa giải từ 2-4 tháng. Những tình huống như vậy có thể
để lại những hậu quả lâu dài, có thể gây ra những trấn thương nghiêm trọng
do stress hoặc do dự mệt mỏi mạn tính.
Rất đáng quan tâm ý kiến đến nhiều ý kiến cho sự cạn kiệt nguồn
năng lượng thích nghi thường có thể phục hồi sau lượng vận động tập


18
luyện trong thời gian ngắn, nhưng nếu sự cạn kiệt hoàn toàn nguồn năng
lượng thích ứng thì khó phục hồi. Ví dụ như trong lịch sử môn đua xe đạp
chưa bao giờ thấy một VĐV chiến thắng ở giải Tây Ban Nha (tháng 4) lại
có thể chiến thắng ở giải vô địch thế giới (tháng 8) duy nhất vào năm 1974
và 1987 chỉ có 2 VĐV E.Merks và Roge là đoạt được 3 lần trong một mùa
giải: Giải Italy (tháng 5-6), Tour de france (tháng 6) và vô địch thế giới
(tháng 8).
Trong trường hợp này số ngày thi đấu chỉ trong vòng 2 tháng với 44

ngày tham gia các vòng đua lớn khối lượng thi đấu 8000 km. Nhưng đáng
tiếc trong những năm sau chẳng bao giờ họ có thể đạt thành tích cao trong
bất kì cuộc đua nào cho dù cuộc thi đấu đó cách xa mấy năm sau [93],
[109],[110].
Những dữ kiện đây chứng tỏ không thể duy trì lâu dài trạng thái
sung sức thể thao (trình độ tập luyện cao) và nếu coi thường những quy
luật thích ứng đã quá rõ ràng thì sẽ nảy sinh những hậu quả trầm trọng
không lường trước được[6],[82],[85].
Những công trình nghiên cứu hiện nay xem xét những biến đổi diễn
ra trong cơ thể đáp lại những tác động khác nhau và quá trình thích ứng
được phân thành 4 giai đoạn [80],[84],[90].
- Giai đoạn cấp báo: có đặc điểm là các chức phận của hệ thống cơ
thể vượt quá mức tối đa, không tiết kiệm trong tiêu hao dự trữ của từng cơ
quan, các phản ứng stress cũng nghiêm trọng và dẽ gây trấn thương. Trong
giai đoạn này chưa xuất hiện những đổi mới về chức phận và hình thái
trong các hệ thống khác nhau của cơ thể.
- Giai đoạn quá độ: giai đoạn quá độ của quá trình thích ứng lâu dài
có đặc điểm là quá trình đổi mới về hình thái và chức năng diễn ra tích cực,
đặc biệt là sự phì đại vận động trong cơ bắp và các hệ thống khác, làm hoạt
hóa bộ máy di truyền của cấu trúc tế bào, tổng hớp các thành tố trong cấu
tạo (axit nucleotic, các albumin) tăng cường khả năng chức phận của các
hệ thống cơ thể đang thích nghi. Hình thành các dấu vết về mặt cấu trúc


19
còn tản mạn. Thực chất giai đoạn này có thể nói trình độ tập luyện đang
phát triển.
- Giai đoạn ổn định: trong giai đoạn này những phản ứng của cơ thể
dần dần giảm đi đối với các yếu tố gây ra thích ứng. Những biến đổi về cấu
trúc trong các hệ thống cơ thể khác nhau được phát triển ở mức độ nhất

định, như vậy nâng cao khả năng chức phận của các hệ thống đó và đảm
bảo hoạt động tiết kiệm và ổn định. Giai đoạn này hoàn thiện quá trình
hình thành các dấu vết về mặt cấu trúc một cách hệ thống, những biến đổi
về hình thái, chức phận trong cơ thể diễn ra theo quy luật từ từng bước
một.
- Giai đoạn trạng thái trơ ỳ của hệ thống cơ thể đối với quá trình
thích ứng, tuy không nhất thiết xuất hiện, nhưng có thể làm rối loạn quy
luật trong tập luyện thể thao khi sử dụng lượng vận động hoặc trong khi thi
đấu có các tình huống gây cấn- stress.
Dưới góc độ miễn dịch học các nhà khoa học cũng cho quá trình
thích ứng miễn dịch thành 4 giai đoạn [17],[29],[40].
- Giai đoạn động viên: huy động các nguồn dự trữ của hệ miễn dịch
trong cơ thể để đáp lại lượng vận động tập luyện với cường độ thấp.
- Giai đoạn phục hồi: khi tăng cường độ và khối lượng của lượng
vận động tập luyện, hàng rào phòng vệ sinh lý của cơ thể thực tế vẫn được
duy trì giai đoạn trước.
- Giai đoạn suy giảm hồi phục: thường quan sát thấy trong thời kì thi
đấu với lượng vận động cường độ cao có hiện tượng giảm sút miễn dịch
khá rõ. Sau khi thi đấu xuất hiện như là yếu tố stress, hiện tượng tê liệt về
chức phận của hệ thống miễn dịch.
- Giai đoạn dung lượng vận động tập luyện giảm đi đáng kể: quan
sát thấy các chỉ số về trạng thái miễn dịch và hormon được phục hồi dần
dần.
Quá trình thích ứng không phải là để lại những dấu vết giản đơn khi
biến đổi cấu trúc trong các hệ thống chức năng nào đó của cơ thể. Thực tế


20
chứng tỏ rằng sự biến đổi trong quá trình thích ứng đều có mối quan hệ
tương hỗ giữa các hệ thống, có sự phân phối lại nguồn dự trữ của cơ thể

diễn ra trong từng giai đoạn mới của quá trình thích ứng lâu dài để hình
thành trạng thái sung sức thể thao nhờ lượng vận động tập luyện và thi đấu
hợp lý trong mỗi chu kì huấn luyện dài hạn.
Khả năng thích ứng của cơ thể không phải là vô hạn, với một tiền đề
quan trọng để mở rộng những phản ứng thích ứng đều là kết quả của sự thủ
tiêu một phần hoặc toàn phần của quá trình thích ứng đã được hình thành
trước đó, nghĩ là cần thiết có giai đoạn suy thoái thích ứng. Hoàn toàn đúng
và có lý vì trong quá trình phát triển chủng loài của con người cũng là cũng
là quá trình thích nghi lâu dài, cái gì không đáp ứng được trong bối cảnh
mới đều bị loại bỏ và thay thể bằng cái mới phù hợp hơn [52],[81],[88].
Những quy luật trình bày trên đây cũng có thể diễn ra trong một chu
kì tập luyện dài hạn. Khi một chương trình mới bắt đầu hình thành thì cũng
là lúc bắt đầu thủ tiêu cái cũ. Ngay từ những năm 60 của thế kỉ 20, trong
những luận điểm về sự cần thiết phải có giai đoạn phục hồi, còn gọi là giai
đoạn quá độ sau khi kết thúc chu kì huấn luyện dài hạn. Novicop và
Matveep cho rằng mỗi một lần trước khi có trạng thái sung sức thể thao
mới, cần phải thủ tiêu hoặc quăng cái cũ đi [54].
Tính chất giai đoạn của quá trình thích nghi một lần nữa chứng minh
rằng sự phát triển trình độ tập luyện là một quá trình có tính chất chu kì và
giai đoạn vì vậy không thể kích thích kiên tục để phát triển trình độ tập
luyện do những đặc điểm nêu trên của các quá trình thích ứng. Lý thuyết
chu kì vẫn có sức sống mãnh liệt của nó, chứ đâu phải đã “cáo chung” như
một số người đã lầm tưởng [54].
Trong mỗi chu kì phát triển trình độ tập luyện có một giai đoạn thích
ứng lâu dài với những biến đổi hình thái-chức năng tương ứng trong các cơ
quan và các hệ thống cơ thể. Những biến đổi về cấu trúc chịu sự tác động
nhiều lần không thể diễn ra tức thời mà đòi hỏi một thời gian nhất định.


21

Khái niệm biến đổi cấu trúc không tách rời khái niệm thời gian bởi
vì mỗi cấu trúc sinh học bắt đầu từ những đại phân tử và các phần cấu
thành và kết thúc bằng các tổ chức tế bào và từng tế bào trong đó cũng có
cuộc sống riêng của mình do những đặc điểm về cấu trúc và hoạt động
riêng của bản thân [101],[102],[105].
Từ những điều trình bày trên đây sự biến động của trình độ tập luyện
theo thời gian không diễn ra theo một lộ trình tuyến tính, ngay cả khi nâng
lượng vận động tập luyện một cách hệ thống, mà diễn biến có tính chất giai
đoạn và thang bậc khác nhau. Bởi vậy cho nên, trong lý luận cũng như
trong thực tiễn phải có những thông tin đầu đủ kịp thời về quá trình biến
động diễn ra.
Trong thực tế, các môn thể thao khác nhau thì mức độ quan trọng
của từng năng lực thể thao trong TĐTL có khác nhau, mỗi môn thể thao
đều có những yếu tố khác nhau, mỗi môn thể thao đều có những yêu cầu
cao, có tính chất riêng đối với cơ quan hoặc hệ cơ quan trong cơ thể. Vì
vậy, mỗi môn thể thao đều có tác dụng hoàn thiện chủ yếu một hay một số
chức năng hoặc cơ quan nhất định. Trình độ tập luyện của vận động viên
được xác định thông qua các phương pháp sư phạm, tâm lý, y sinh học.
Tuy nhiên, TĐTL là một khái niệm tổng hợp đặc trưng cho khả năng của
toàn bộ cơ thể.
Từ những quan điểm về TĐTL của các tác giả nêu trên, có thể tóm
tắt như sau: TĐTL là mức độ thích ứng của cơ thể và năng lực thể thao đạt
được dưới tác động của lượng vận động tập luyện, qua quá trình huấn
luyện có hệ thống được thể hiện ở mức độ nâng cao khả năng chức phận và
năng lực vân động của VĐV hay nhờ lượng vận động tập luyện, lượng vận
động thi đấu và các bài tập bổ trợ khác [1],[38],[43],[82].
Đặc điểm cơ bản của TĐTL là thời gian tập luyện càng lâu dài, liên
tục thì TĐTL càng cao. Ngược lại, nếu gián đoạn tập luyện thì TĐTL bị
giảm sút. Mỗi môn thể thao khác nhau, cấu trúc của TĐTL sẽ khác nhau.



22
Từ các quan điểm về TĐTL của VĐV được trình bày ở trên, cho
thấy các nhà khoa học đã nhìn nhận dựa trên các luận điểm chính sau:
- TĐTL được xem xét trong trạng thái động.
- TĐTL chủ yếu là những biến đổi thích nghi về hình thái và chức
năng sinh lý diễn ra trong cơ thể dưới tác động của lượng vận động tập
luyện và thi đấu mà biều hiện là sự nâng cao khả năng chức phận và năng
lực vận động của VĐV.
- TĐTL là thước đo hiệu quả các quá trình huấn luyện phụ thuộc vào
quá trình huấn luyện.
- TĐTL gồm nhiều mặt, nhiều thành phần, trong đó yếu tố đặc trưng
cơ bản nhất của nó là thành tích thể thao.
- TĐTL được thông qua con đường tập luyện và thi đấu thể thao.
Do tác động có chủ đích của lượng vận động tập luyện nên trong cơ
thể vận động viên đã xảy ra các biến đổi sinh học. Sự tác động có hệ thống
sẽ dẫn đến những thích ứng nâng cao năng lực làm việc của các cơ quan
trong cơ thể, cải thiện năng lực điều khiển của hệ thần kinh đối với hệ điều
tiết của hệ vận động và các cơ quan và tổ chức.
Những thích ứng đó thể hiện ở trình độ phát triển tổng hợp về kỹ
thuật, chiến thuật, các tố chất thể lực năng lực trí tuệ và các yếu tố khác.
VĐV có thành tích thể thao càng tốt thì TĐTL càng cao, năng lực thể thao
càng cao thì thành tích thể thao càng tốt.
Theo Aulic I.V, yếu tố cơ bản của TĐTL là thành tích thể thao. Do
đó, TĐTL là năng lực tiềm tàng của vận động viên để đạt được những
thành tích nhất định trong môn thể thao được chọn lựa và năng lực này
biểu hiện cụ thể ở mức độ chuẩn bị về kỹ thuận thể thao, về thể lực, chiến
thuật, đạo đức, ý chí và trí tuệ. TĐTL chính là mức độ thích ứng của cơ thể
đối với một nhiệm vụ cụ thể, đạt được bằng con đường tập luyện [1].
Theo Novicop A.D và Matveep L.P, khái niệm TĐTL thường được

gắn chủ yếu với những biến đổi thích ứng về mặt sinh học (về chức năng
và hình thái) xảy ra trong cơ thể vận động trong quá trình tập luyện, được


23
biểu hiện ở sự nâng cao năng lực hoạt động; TĐTL càng cao thì hoàn thành
một hoạt động nhất định càng có hiệu quả và hoàn thiện hơn. Do đó TĐTL
là thước đo mức thích ứng của cơ thể đối với một hoạt động cụ thể đạt
được thông qua tập luyện [53],[54].
Theo quan điểm của Ozolin và cộng sự, TĐTL của vận động viên là
kết quả tổng hợp của việc giải quyết các nhiệm vụ trong thực tiễn HLTT.
TĐTL thể hiện ở mức độ nâng cao chức phận cơ thể, năng lực hoạt động
chung và chuyên môn của vận động viên ở mức độ hoàn thiện các kỹ năng
và kỹ xảo thể thao phù hợp [55].
Lưu Quang Hiệp, Lê Nguyệt Nga, Lê Quý Phượng và một số tác giả
thì cho rằng, mức độ thích nghi của cơ thể với hoạt động cụ thể nào đó đạt
được bằng tập luyện đặc biệt được gọi là TĐTL. Như vậy theo các tác giả
khi xem xét TĐTL, thực chất đó chính là quá trình đào tạo cho con người
thích nghi với hoạt động cơ bắp, giữ các hệ chức năng trên cơ sở những
biến đổi sấu sắc về cấu tạo, chức năng sinh lý và sinh hóa trong cơ thể [29],
[46],[48],[58].
Harre cho rằng, TĐTL của vận động viên thể hiện ở sự nâng cao
năng lực thể thao nhờ ảnh hưởng của lượng vận động tập luyện, lượng vận
động thi đấu và các biện pháp bổ trợ khác. Còn năng lực thể thao cao phù
hợp với TĐTL của họ được coi là trạng thái thể thao [25].
Cũng theo Harre, TĐTL được thể hiện ở sự phát triển của từng yếu
tố của năng lực thể thao như: tố chất thể lực, năng lực kỹ thuật, phối hợp
vận động, năng lực chiến thuật và cả phẩm chất tâm lý. Ngoài ra, TĐTL
còn thể hiện ở sự thích ứng về các mặt sinh học thông qua năng lực làm
việc được nâng cao của các hệ thống chức năng cơ thể. TĐTL được đánh

giá bằng các test sư phạm, tâm lý, sinh lý, các test chuyên môn và các cuộc
thi đấu thể thao. Do ảnh hưởng của lượng vận động trong tập luyện và thi
đấu, năng lực thể thao của vận động viên được nâng cao phù hợp với từng
giai đoạn huấn luyện, trình độ được nâng cao phù hợp với các năng lực thể
thao được gọi là TĐTL [35].


24
Tác giả Bùi Huy Quang, cho rằng, TĐTL của vận động viên là khả
năng thích ứng ngày càng cao của vận động viên đạt được trong quá trình
tập luyện và thi đấu. Khả năng thích ứng này được biểu hiện bằng sự phát
triển tổng hợp những năng lực về kỹ thuật, chiến thuật, tố chất thể lực và
tâm lý [61]. Theo Trịnh Trung Hiếu, Nguyễn Sỹ Hà, TĐTL là trạng thái
gắn liền với những biến đổi thích nghi của các đặc tính sinh học trong cơ
thể vận động viên, những biến đổi đó xác định mức độ, khả năng của các
hệ thống chức năng cơ thể [30].
Quan điểm của Nguyễn Toán và Phạm Danh Tốn, chỉ ra TĐTL của
vận động viên là kết quả tổng hợp của việc giải quyết các nhiệm vụ trong
thực tiễn tập luyện thể thao. Nó thể hiện ở mức nâng cao khả năng chức
phận của cơ thể các hệ thống chức năng cơ thể, năng lực hoạt động chung
và chuyên môn của vận động viên ở mức hoàn thiện các kỹ năng, kỹ xảo
thể thao phù hợp. Qua quá trình nghiên cứu TĐTL của VĐV được thể hiện
một cách tổng hợp bao gồm các thành tố cơ bản như: Thể lực, kỹ thuật,
chiến thuật, năng lực tâm lý, ý chí. Giữa chúng có quan hệ mật thiết, vừa
thúc đẩy vừa chế ước cho nhau [73].
Theo Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Kim Minh, Trần Quốc Tuấn,
TĐTL là một phức hợp bao gồm nhiều thành tố y sinh, tâm lý, kỹ thuật, thể
lực ngày càng được nâng cao nhờ ảnh hưởng trực tiếp lâu dài của lượng
vận động tập luyện và thi đấu cũng như các liệu pháp hỗ trợ ngoại sinh
khác [84].

Nguyễn Ngọc Cừ (1998), định nghĩa, TĐTL là phạm trù đa giá trị,
có tính tương đối trừu tượng, tiềm ẩn, không thể nhận biết ngày được bằng
trực quan vì nó là tổng hòa những biến đổi thích nghi vô số các yếu tố
thuộc các lĩnh vực khoa học y sinh, sư phạm và tâm lý diễn ra bên trong cơ
thể của vận động viên, thông qua quá trình huấn luyện lâu dài, được biểu
hiện ra bên ngoài bằng năng lực vận động và thành tích thể thao, nhưng
không phải lúc nào TĐTL cũng tốt cũng được thể hiện một cách vô điều
kiện ra ngoài bằng thành tích thể thao cao bởi lẽ chúng ta không thể lường


25
hết và cũng không thể điều tiết được tất cả nhũng yếu tố chi phối tiêu cực
đối với các cuộc thi đấu thể thao [17].
Như vậy, quan niệm khoa học về TĐTL là rất phong phú, đa dạng
được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau, nhưng đều thống nhất ở chỗ
nó được hình thành, phát triển và nâng cao dưới tác động của lượng vận
động.
Do đó, TĐTL là năng lực thích ứng của cơ thể đối với lượng vận
động tập luyện nhờ quá trình huấn luyện có hệ thống. Vì vậy, hiểu đúng
TĐTL của VĐV có ý nghĩa quan trọng trong việc điều khiển và điều chỉnh
quá trình huấn luyện một cách khoa học, phát huy tính tích cực, tự giác
trong tập luyện và trong công tác huấn luyện.
1.2. Đánh giá trình độ tập luyện

Trong quy trình đào tạo VĐV nhiều năm, việc đánh giá trình độ tập
luyện của các VĐV các cấp theo độ tuổi, giới tính và môn thể thao chuyên
sâu rất có ý nghĩa về mặt thực tiễn và lí luận, đặc biệt trong tuyển chọn và
huấn luyện VĐV. Về kiểm tra, đánh giá trình độ tập luyện, các học giả
nước ngoài có một số khái niệm khái quát sau:[63],[97],[99],[103].
- Đánh giá là một quy trình gồm hai công đoạn kiểm tra và đánh giá.

Trong đó kiểm tra là việc sử dụng phương pháp chuẩn mực để thu thập
được các số liệu đủ độ tin cậy. Sau đó tiến hành so sánh đối chiếu với tiêu
chuẩn đánh giá nhằm xác định mức độ phân loại kết quả kiểm tra.
- Kiểm tra đánh giá trình độ tập luyện là quá trình kiểm tra nhằm thu
thập số liệu đánh giá và sau đó là quá trình so sánh với tiêu chuẩn đánh giá
đã được xây dựng một cách khoa học để xác định mức độ phân loại kết quả
kiểm tra từng chỉ tiêu và cuối cùng là đánh giá tổng hợp chung quá trình
đánh giá TĐTL.
Ở Việt Nam Dương Nghiệp Chí, Nguyễn Ngọc Cừ và nhiều tác giả
cho rằng: kiểm tra là quá trình thu thập số liệu, còn đánh giá là xác định
mức độ phân loại kết quả test [14]. Hay nói cách khác là phân loại thành


×