Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

BẢO vệ QUYỀN tự DO của CON NGƯỜI BẰNG PHÁP LUẬT tố TỤNG HÌNH sự VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (472.14 KB, 65 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
BẢO VỆ QUYỀN TỰ DO CỦA CON NGƯỜI
BẰNG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn
Sinh viên thực hiện
Mã sinh viên
Chuyên ngành

: TS. Trịnh Tiến Việt
: Nguyễn Thị Ngọc Anh
: 10065005
: Tư pháp hình sự

Hà Nội, tháng 5 năm 2014


MỤC LỤC
MỤC LỤC......................................................................................................................... 2
LỜI CẢM ƠN...................................................................................................................4
LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................................1
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ MUA LẠI VÀ SÁP NHẬP DOANH NGHIỆP..........4
1.1.Khái niệm pháp luật về mua lại và sáp nhập doanh nghiệp (M&A)....................................................4
1.1.1.Khái niệm mua lại doanh nghiệp.................................................................................................4
1.1.2.Khái niệm sáp nhập doanh nghiệp...............................................................................................6
1.1.3.Phân biệt mua lại và sáp nhập doanh nghiệp..............................................................................7
1.2.Động lực thúc đẩy hoạt động mua lại và sáp nhập doanh nghiệp....................................................11


1.2.1.Động lực hiệu quả kinh tế..........................................................................................................11
1.2.2.Động lực phát triển....................................................................................................................12
1.2.3.Động lực đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh......................................................................13
1.3.Vai trò của pháp luật về mua lại và sáp nhập doanh nghiệp.............................................................13
1.3.1.Tạo ra hành lang pháp lý cho các nhà đầu tư thực hiện hoạt động mua lại, sáp nhập doanh
nghiệp.................................................................................................................................................13
1.3.2.Giữ vai trò thúc đẩy hoạt động tập trung kinh tế.......................................................................13
1.3.3.Giúp nhà nước kiểm soát hoạt động mua lại và sáp nhập dẫn đến lạm dụng vị thế thống lĩnh
thị trường và nguy cơ độc quyền........................................................................................................14
1.3.4.Đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể bị tác động trong quá trình mua lại và sáp
nhập....................................................................................................................................................14
1.4.Các phương thức giao dịch mua lại và sáp nhập doanh nghiệp........................................................15
1.4.1.Mua cổ phần..............................................................................................................................15
1.4.2.Mua gom cổ phiếu.....................................................................................................................15
1.4.3.Hoán đổi, chuyển đổi cổ phiếu..................................................................................................17
1.4.4.Mua lại tài sản công ty...............................................................................................................17
1.5.Tiến trình thực hiện giao dịch mua lại và sáp nhập doanh nghiệp....................................................20
1.5.1.Tìm kiếm doanh nghiệp mục tiêu...............................................................................................21
1.5.2.Thẩm định giao dịch...................................................................................................................22
1.5.3.Đàm phán, giao kết thực hiện hợp đồng...................................................................................24


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG MUA LẠI VÀ SÁP
NHẬP DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM......................................................................27
2.1. Quy định của pháp luật về mua lại và sáp nhập doanh nghiệp ở Việt Nam.....................................27
2.1.1. Quyền thực hiện và các hình thức thực hiện mua lại và sáp nhập doanh nghiệp ở Việt Nam. .27
2.1.2. Điều kiện thực hiện mua lại, sáp nhập doanh nghiệp ở Việt Nam............................................30
2.1.3. Thủ tục thực hiện mua lại, sáp nhập doanh nghiệp ở Việt Nam...............................................32
2.2. Thực trạng pháp lý hoạt động mua bán và sáp nhập doanh nghiệp ở Việt Nam.............................37
2.2.1. Thực tiễn hoạt động mua lại và sáp nhập doanh nghiệp ở Việt Nam.......................................37

2.2.2. Một số tồn tại trong khung pháp lý mua lại và sáp nhập doanh nghiệp ở Việt Nam.................39

CHƯƠNG III: HOÀN THIỆN KHUNG PHÁP LÝ VÀ ĐẢM BẢO HIỆU QUẢ
THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ MUA LẠI VÀ SÁP NHẬP DOANH NGHIỆP..........48
Ở VIỆT NAM.................................................................................................................48
3.1. Sự cần thiết trong việc hoàn thiện khung pháp lý của hoạt động mua lại và sáp nhập doanh nghiệp
ở Việt Nam..............................................................................................................................................48
3.2. Kiến nghị hoàn thiện khung pháp lý của hoạt động mua lại và sáp nhập doanh nghiệp ở Việt Nam
................................................................................................................................................................49
3.2.1. Có cần thiết phải xây dựng một luật riêng điều chỉnh hoạt động mua lại, sáp nhập doanh
nghiệp.................................................................................................................................................49
3.2.2. Định hướng chung trong việc ban hành các quy định về M&A.................................................50
3.2.3. Những giải pháp cụ thể để hoàn thiện khung pháp lý về mua lại và sáp nhập doanh nghiệp...51
3.3. Kiến nghị nhằm đảm bảo thực thi hiệu quả các quy định về mua lại và sáp nhập doanh nghiệp....55
3.3.1. Nâng cao nhận thức pháp luật của các chủ thể kinh tế và các cơ quan thi hành pháp luật......55
3.3.2. Nâng cao tính khả thi của các quy định pháp luật về sáp nhập và mua lại doanh nghiệp.........56
3.3.3. Ban hành đầy đủ và kịp thời các văn bản và tài liệu hướng dẫn...............................................57
3.3.4. Tăng cường sự phối hợp giữa các ban ngành để đảm bảo kiểm soát vĩ mô đối với hoạt động
mua lại và sáp nhập doanh nghiệp.....................................................................................................57

KẾT LUẬN..................................................................................................................... 59
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................60


LỜI CẢM ƠN
Kính gửi đến các thầy cô giáo Khoa luật – Đại học Quốc gia Hà Nội lòng biết ơn
sâu sắc vì đã tận tình giảng dạy, giúp đỡ em trong suốt bốn năm học vừa qua.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới TS. Bùi Ngọc Cường, giảng viên
Bộ môn Luật kinh doanh, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội đã tận tình giúp đỡ,
hướng dẫn em trong quá trình hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.

Do thời gian nghiên cứu và khả năng nghiên cứu còn nhiều hạn chế, khóa luận còn
nhiều thiếu xót. Em rất mong nhận được sự góp ý của quý thầy cô và các bạn.
Em xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2014
Sinh viên
Ngô Thu Trang


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
M&A đã có lịch sử phát triển lâu dài trên thế giới đặc biệt là ở các quốc gia có
nền kinh tế thị trường phát triển. Riêng ở Việt Nam, hoạt động này mới bắt đầu được
quan tâm kể từ khi Luật doanh nghiệp ra đời năm 1999 và có những bước phát triển
trong những năm gần đây đặc biệt từ khi Việt Nam tham gia tổ chức Thương mại Thế
giới WTO1 năm 2007. Tuy nhiên, hiện nay khung pháp lý về mua lại và sáp nhập
doanh nghiệp của Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập chưa phù hợp với thông lệ quốc tế
và gây ra những rào cản trong tự do kinh doanh của các doanh nghiệp.
Nắm bắt được vấn đề trên, em xin chọn đề tài “Khía cạnh pháp lý về mua lại
và sáp nhập doanh nghiệp ở Việt Nam” làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Mục đích của khóa luận tốt nghiệp là làm sáng tỏ hoạt động mua lại và sáp
nhập doanh nghiệp trên phương diện pháp lý và thực tiễn, từ đó tìm ra phương hướng
hoàn thiện hệ thống quy định pháp luật của Việt Nam điều chỉnh hoạt động mua lại và
sáp nhập doanh nghiệp
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trong khuôn khổ đề tài của khóa luận tốt nghiệp, khóa luận “Khía cạnh pháp
lý về mua lại và sáp nhập doanh nghiệp ở Việt Nam” tập trung nghiên cứu và phân
tích làm rõ các vấn đề lý luận cơ bản và thực tiễn của pháp luật Việt Nam về mua lại,
sáp nhập doanh nghiệp từ đó có được cái nhìn đầy đủ về vấn đề mua lại và sáp nhập

doanh nghiệp ở Việt Nam, căn cứ vào đó đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện
khung pháp lý và đảm bảo thực thi pháp luật về hoạt động mua lại và sáp nhập doanh
nghiệp ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề pháp lý liên quan đến hoạt động mua
lại và sáp nhập doanh nghiệp bao gồm các quan điểm, tư tưởng pháp lý về hoạt động
mua lại và sáp nhập doanh nghiệp cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật về mua lại và
sáp nhập doanh nghiệp ở Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở phạm vi khóa luận tốt nghiệp, em xin đi sâu vào nghiên cứu những
vấn đề pháp lý cơ bản nhất liên quan đến hoạt động mua lại, sáp nhập doanh nghiệp tại
Việt Nam và thực tiễn hoạt động này ở Việt Nam hiện nay để từ đó đưa ra những kiến
1

Word Trade Organization

1


nghị nhằm hoàn thiện các cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động mua lại và sáp nhập
doanh nghiệp tại Việt Nam.
Về mặt không gian, khóa luận chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu hoạt động mua lại
và sáp nhập doanh nghiệp trong quy định của pháp luật Việt Nam. Sở dĩ, tác giả chỉ
lựa chọn Việt Nam vì nhận thấy cách tiếp cận về hoạt động mua lại và sáp nhập doanh
nghiệp của Việt Nam còn tương đối khác so với thế giới, dễ gây nhầm lẫn và khó khăn
trong quá trình thương vụ mua lại và sáp nhập doanh nghiệp của nhà đầu tư cũng như
cơ quan thực thi. Đồng thời nguồn tài liệu liên quan đến hoạt động mua lại và sáp nhập
doanh nghiệp của các nước khác cũng chưa thực sự rõ ràng.
Về mặt thời gian, do M&A là hoạt động thương mại tương đối mới tại Việt

Nam và chỉ phát triển mạnh mẽ từ khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại Thế
Giới WTO năm 2007 nên tác giả xin được tiếp cận vấn đề pháp lý của hoạt động này
từ năm 2005 đến nay thông qua quy định tại Luật dân sự 2005, Luật doanh nghiệp
2005, Luật cạnh tranh 2006 và Luật đầu tư 2005.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để làm rõ nội dung nghiên cứu đặt ra, người viết sử dụng các phương pháp
nghiên cứu truyền thống như: phương pháp thu thập, phương pháp thống kê; phương
pháp phân tích thông tin, phương pháp diễn giải – quy nạp, phương pháp đối chiếu –
so sánh, phương pháp mô tả - khái quát và phương pháp hệ thống hóa.
5. Tính mới của đề tài
Trên cơ sở đối chiếu so sánh với những đề tài nghiên cứu về vấn đề liên quan,
tác giả xin được trình bày những điểm mới trong khóa luận của mình.
Tiếp cận tổng quan khía cạnh pháp lý hoạt động mua lại và sáp nhập doanh
nghiệp tại Việt Nam nhằm chỉ ra những hạn chế trong quy định pháp luật về hoạt động
này và đưa ra giải pháp hoàn thiện, đảm bảo thực thi.
Tổng hợp và chỉ ra sự khác biệt căn bản giữa hai hoạt động mua lại và sáp nhập
doanh nghiệp dựa trên bản chất và đặc điểm của từng hoạt động cũng như phân biệt
các hoạt động gây nhầm lẫn với hoạt động mua lại doanh nghiệp như: mua tài sản
doanh nghiệp; mua cổ phần, phần vốn góp vào doanh nghiệp.
Tập trung nghiên cứu vào khía cạnh pháp lý của hoạt động mua lại và doanh
nghiệp nhằm giúp các nhà đầu tư giảm thiệt hại do những hiểu lầm về hoạt động mua
lại và sáp nhập doanh nghiệp tại Việt Nam.
Phân tích số liệu thực tế mới nhất về số lượng thương vụ và giá trị thương vụ
mua lại và sáp nhập doanh nghiệp tại Việt Nam.

2


Đưa ra các giải pháp pháp lý mang tính khả thi cao phù hợp với nền kinh tế
Việt Nam và bao quát các nguồn pháp luật điều chỉnh hoạt động mua lại và sáp nhập

doanh nghiệp này.
6. Kết cấu của đề tài
Nội dung khóa luận gồm có ba chương:
Chương I: Khái quát về mua lại và sáp nhập doanh nghiệp ở Việt Nam.
Chương II: Thực trạng pháp luật về mua lại và sáp nhập doanh nghiệp ở Việt Nam.
Chương III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện khung pháp lý và đảm bảo thực thi
pháp luật về mua lại và sáp nhập doanh nghiệp ở Việt Nam.

3


CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ MUA LẠI VÀ SÁP NHẬP DOANH NGHIỆP
1.1.

Khái niệm pháp luật về mua lại và sáp nhập doanh nghiệp (M&A)
M&A (viết tắt của cụm từ tiếng Anh “Mergers and Acquisitions” có nghĩa là

Mua lại và Sáp nhập) là hoạt động giành quyền kiểm soát một doanh nghiệp, một bộ
phận doanh nghiệp thông qua việc sở hữu một phần hoặc toàn bộ doanh nghiệp đó.
Như vậy, nguyên tắc cơ bản của M&A là phải tạo ra những giá trị mới cho các thành
viên trong công ty mà việc duy trì tình trạng cũ không đạt được. Nói cách khác, M&A
liên quan đến vấn đề sở hữu và thực thi quyền sở hữu để làm thay đổi hoặc tạo ra
những giá trị mới cho chủ sở hữu.
M&A dường như trở thành một cụm từ được phát âm cùng nhau. Tuy nhiên,
trên thực tế chúng có những điểm khác biệt và cần hiểu rõ giữa mua lại và sáp nhập
doanh nghiệp.
1.1.1. Khái niệm mua lại doanh nghiệp
Xem xét các quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam liên quan đến mua
doanh nghiệp sẽ đưa đến khẳng định: các quy định này tồn tại rải rác trong nhiều văn
bản pháp luật khác nhau như Bộ luật dân sự, Luật doanh nghiệp, Luật cạnh tranh, Luật

đầu tư, các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết tham gia…; chưa có sự thống nhất để
xác định thế nào là mua lại doanh nghiệp.
Bộ luật dân sự năm 2005 không đưa ra định nghĩa về mua bán doanh nghiệp chỉ
quy định những nguyên tắc cơ bản trong giao dịch dân sự. Mua bán doanh nghiệp
cũng là một loại giao dịch dân sự nên phải tuân thủ những nguyên tắc chung mà Bộ
luật dân sự quy định như nguyên tắc giao kết hợp đồng, những điều kiện có hiệu lực
của hợp đồng.
Luật doanh nghiệp năm 2005 không có quy định về mua bán công ty thuộc sở
hữu của nhiều thành viên mà chỉ có duy nhất Điều 145 quy định về bán nghiệp tư
nhân. Nếu hiểu doanh nghiệp là một loại hàng hóa trong quan hệ mua bán này thì
người bán phải chuyển giao cả tài sản của doanh nghiệp và tư cách pháp lý của doanh
nghiệp đó cho người mua. Nhưng theo quy định của pháp luật thì tư cách pháp lý của
doanh nghiệp không được chuyển cho người mua mà người mua doanh nghiệp phải đi
đăng ký kinh doanh lại đối với doanh nghiệp họ đã mua. Vì vậy, hoạt động mua bán
doanh nghiệp tư nhân theo quy định tại Luật doanh nghiệp năm 2005 chỉ là mua bán
tài sản và chuyển quyền sở hữu về tài sản của chủ doanh nghiệp tư nhân cho người
khác. Xem xét tổng thể các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, chỉ có duy nhất doanh

4


nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân. Phải chăng các nhà làm luật dựa vào dấu
hiệu này để đưa ra quy định như trên? Chủ doanh nghiệp tư nhân chỉ có quyền bán tài
sản của doanh nghiệp với tư cách là chủ sở hữu doanh nghiệp chứ không thể bán tư
cách pháp lý của doanh nghiệp tư nhân vì doanh nghiệp không có tư cách pháp nhân
để bán.
Khái niệm doanh nghiệp còn được đưa ra trong Nghị định số 109/2008/NĐ-CP
về bán, giao doanh nghiệp 100% vốn nhà nước. Trong đó bán doanh nghiệp bao gồm
toàn bộ hoặc bộ phận doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, công ty thành viên hoạch
toán độc lập quy định tại Khoản 1 và bán đơn vị phụ thuộc quy định tại Khoản 2 Điều

2 Nghị định này là việc chuyển sở hữu có thu tiền toàn bộ doanh nghiệp hoặc bộ phận
doanh nghiệp sang sở hữu tập thể, cá nhân hoặc pháp nhân khác. Khái niệm trên đã
xác định được bản chất của quan hệ mua bán doanh nghiệp là chuyển quyền sở hữu
doanh nghiệp hoặc bộ phận doanh nghiệp có thu tiền. Tuy nhiên, khái niệm này chỉ áp
dụng khi bán doanh nghiệp 100% vốn nhà nước chứ không áp dụng với các loại hình
doanh nghiệp khác.
Điều 56 Nghị định 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật đầu tư tuy không đưa khái niệm về mua lại
doanh nghiệp nhưng đã quy định nhà đầu tư nước ngoài có quyền mua bán toàn bộ
doanh nghiệp dưới hình thức sáp nhập, mua lại2.
Tiếp cận dưới góc độ luật cạnh tranh “mua lại doanh nghiệp là việc một doanh
nghiệp mua toàn bộ hoặc một phần tài sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát,
chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại”3. Theo quy định
này, mua bán doanh nghiệp là được coi là hành vi tập trung kinh tế, tuy nhiên việc
mua lại mang đến cho bên mua quyền kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một ngành
nghề.
Tóm lại dưới góc độ pháp lý, mua bán doanh nghiệp được hiểu “mua bán
doanh nghiệp là mua bán toàn bộ hoặc một phần tài sản của doanh nghiệp nhằm chi
phối toàn bộ hoặc một ngành nghề, một lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp bị mua
lại. Các quy định về mua bán doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, mua bán doanh

2

Khoản 3, 4 Điều 56 Nghị định 108/2006: Trường hợp nhà đầu tư nước ngoài sáp nhập, mua lại doanh nghiệp
đang hoạt động tại Việt Nam thì thực hiện thủ tục đầu tư để được cấp giấy Chứng nhận đầu tư theo quy định tại
Nghị định 108/2006. Việc nhà đầu tư nước ngoài sáp nhập, mua lại doanh nghiệp đang hoạt động tại Việt Nam
phải tuân thủ về điều kiện tập trung kinh tế quy định trong luật cạnh tranh và Điều 153 Luật doanh nghiệp
3

Khoản 3 Điều 17 Luật cạnh tranh 2005


5


nghiệp tư nhân trong pháp luật Việt Nam thể hiện rõ quan hệ “mua đứt bán đoạn” và
được thực hiện thông qua quan hệ hợp đồng”4 .
Từ khái niệm về mua lại doanh nghiệp dưới góc độ pháp lý có thể tóm tắt
những đặc điểm chính của mua lại doanh nghiệp.
Thứ nhất, có sự chuyển giao quyền sở hữu tài sản của doanh nghiệp này (bên
bán) sang doanh nghiệp khác (bên mua) bởi bản chất của mua bán “là hành vi trao đổi
giữa người mua hàng nhận được quyền sở hữu hàng hóa từ người bán”
Thứ hai, có sự thay đổi về quản trị đối với doanh nghiệp được mua lại. Tuy nhiên,
mức độ thay đổi về quản trị còn phụ thuộc vào các quy định của pháp luật, điều lệ doanh
nghiệp và thỏa thuận của các bên tham gia vào thương vụ mua bán doanh nghiệp.
Thứ ba, các bên trong thương vụ mua bán doanh nghiệp hướng đến mục tiêu
tìm kiếm những lợi ích, chủ yếu là lợi ích kinh tế từ các thương vụ này. Đặc điểm này
phù hợp với nguyên tắc cơ bản là phải tạo ra giá trị mới cho các cổ đông mà việc duy
trì tình trạng cũ không đạt được.
Thứ tư, hoạt động mua lại doanh nghiệp gồm hai trường hợp: mua lại toàn bộ
và mua lại một phần doanh nghiệp. Hoạt động mua lại toàn bộ doanh nghiệp có nhiều
nét tương đồng với hoạt động sáp nhập doanh nghiệp. Hoạt động mua lại một phần
doanh nghiệp thì thường được thể hiện dưới hình thức mua tài sản, cổ phần của doanh
nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối hoạt động của doanh nghiệp bị mua đó. Việc
mua lại này hoàn toàn khác với hoạt động góp vốn của doanh nghiệp bị mua đó và
khác với hoạt động góp vốn và mua lại của các cổ đông nhỏ lẻ. Do đó, chỉ khi một
doanh nghiệp đạt được mức sở hữu phần vốn góp, cổ phần của doanh nghiệp khác đủ
để tham gia quyết định các vấn đề quan trọng của doanh nghiệp đó thì mới có thể coi
là hoạt động mua lại doanh nghiệp.
1.1.2. Khái niệm sáp nhập doanh nghiệp
Khác với quy định của pháp luật về khái niệm của hoạt động mua lại doanh

nghiệp thì sáp nhập doanh nghiệp được đề cập đến trong các văn bản pháp luật dường
như có sự thống nhất hơn và quy định cụ thể chi tiết hơn từ Bộ luật dân sự đến các đạo
luật chuyên ngành như Luật doanh nghiệp, Luật cạnh tranh…
Khoản 1 Điều 153 Luật doanh nghiệp 2005 có quy định “Một hoặc một số
công ty cùng loại (sau đây gọi là công ty bị sáp nhập) có thể sáp nhập vào một công
ty khác (sau đây gọi là công ty nhận sáp nhập) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản,
quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt
4

Trần Thị Bảo Ánh: Hợp đồng mua bán doanh nghiệp, giáo trình một số hợp đồng đặc thù trong hoạt động
thương mại và kĩ năng đàm phán, soạn thảo, trang 122

6


sự tồn tại của công ty bị sáp nhập”. Trong khi đó Điều 17 Luật cạnh tranh cũng đưa ra
khái niệm về hoạt động sáp nhập doanh nghiệp tương đối sát với khái niệm trong Luật
doanh nghiệp tuy nhiên theo cách hiểu rộng hơn, không giới hạn thương vụ sáp nhập
doanh nghiệp chỉ được diễn ra giữa các công ty cùng loại “Sáp nhập doanh nghiệp là
việc một hoặc một số doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích
hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp khác, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của
doanh nghiệp bị sáp nhập”
Tóm lại, sáp nhập doanh nghiệp là việc một hoặc một số doanh nghiệp (doanh
nghiệp bị sáp nhập) chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của
mình sang một doanh nghiệp khác, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị
sáp nhập.
Từ khái niệm sáp nhập doanh nghiệp trên ta cũng có thể khái quát một số đặc
điểm của hoạt động sáp nhập doanh nghiệp;
Thứ nhất, đối tượng của thương vụ sáp nhập doanh nghiệp là toàn bộ tài sản,
quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp mục tiêu.

Thứ hai, có sự thay đổi về quản trị của doanh nghiệp bị sáp nhập phụ thuộc vào
tỉ lệ vốn của doanh nghiệp bị sáp nhập trong tổng số vốn điều lệ của doanh nghiệp sau
khi tiến hành sáp nhập. Tuy nhiên, các thành viên quản trị của doanh nghiệp bị sáp
nhập vẫn thường vẫn được đảm nhiệm vai trò, nhiệm vụ như trước khi có giao dịch
sáp nhập.
Thứ ba, giao dịch sáp nhập doanh nghiệp không dẫn đến sự hình thành một
doanh nghiệp mới như thương vụ hợp nhất doanh nghiệp mà chỉ dẫn chấm dứt hoàn
toàn sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập.
Như vậy, về mặt bản chất, sáp nhập chính là một dạng của hoạt động liên
doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp nhằm tập trung năng lực về vốn, các kênh cung
cấp mạng lưới phân phối, các lợi thế thị trường để hình thành các công ty, các tập đoàn
có quy mô lớn, có năng lực cạnh tranh cao trên thị trường.
1.1.3. Phân biệt mua lại và sáp nhập doanh nghiệp
Mặc dù mua lại và sáp nhập doanh được đề cập đến chung trong một thuật ngữ
quốc tế là M&A nhưng giữa chúng vẫn có sự khác biệt cả về bản chất và hình thức.
Từ khái niệm về mua lại và sáp nhập đã được đề cập ở trên có thể nhận thấy
những điểm khác biệt cơ bản giữa hai hoạt động này.
Thứ nhất, sáp nhập diễn ra đối với toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích
hợp pháp của doanh nghiệp bị sáp nhập trong khi đó hoạt động mua lại có thể diễn ra

7


với toàn bộ hoặc một phần tài sản của doanh nghiệp mục tiêu đủ để doanh nghiệp mua
nắm quyền kiểm soát doanh nghiệp bị mua lại đó.
Thứ hai, sáp nhập dẫn đến sự chấm dứt tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập và
như một hệ quả doanh nghiệp sáp nhập sẽ có vị thế hơn trên thị trường. Mua lại không
cho phép ra đời một pháp nhân mới mà trong trường hợp chỉ mua lại một phần doanh
nghiệp thì doanh nghiệp bị mua lại vẫn còn tài sản để hoạt động và vẫn tiếp tục tồn tại.
Còn trong trường hợp mua lại toàn bộ doanh nghiệp thì việc doanh nghiệp bị mua lại

có tồn tại hay không sẽ phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của doanh nghiệp đi mua lại,
nếu doanh nghiệp bị mua lại vẫn tiếp tục hoạt động như một chủ thể kinh doanh độc
lập thì nó sẽ trở thành một công ty con trong tập đoàn kinh tế.
Thứ ba, bản chất của hoạt động M&A là sở hữu công ty tuy nhiên trong hoạt
động sáp nhập buộc các bên tham gia bình đẳng thì mua lại khó có sự bình đẳng mà
thường mang tính chất thôn tính.
Khi một doanh nghiệp tiếp quản một doanh nghiệp khác và đặt mình vào vị trí chủ sở
hữu thì như vậy đã hình thành một giao dịch mua lại. Doanh nghiệp bị mua lại thường
ngừng hoạt động và doanh nghiệp đi mua lại thường nuốt trọn hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp bị mua lại đó. Còn theo cách hiểu thông thường sáp nhập thường
diễn ra giữa hai hay nhiều doanh nghiệp có cùng quy mô, đồng thuận gộp lại với nhau.
Tuy nhiên, trên thực tế hoạt động sáp nhập ngang bằng này thường hiếm khi xảy ra vì
một vài lý do trong đó nổi lên là vấn đề truyền tải thông tin ra công chúng cần có lợi
cho cả công ty sáp nhập và công ty nhận sáp nhập.
Thứ tư, mua lại doanh nghiệp mang bản chất của giao dịch mua bán tài sản theo
quy định của luật dân sự chính vì vậy bên bán doanh nghiệp phải chuyển giao tài sản
doanh nghiệp đủ để bên doanh nghiệp mua lại nắm quyền kiểm soát chi phối hoạt
động của doanh nghiệp bị mua lại. Bên mua doanh nghiệp phải có nghĩa vụ thanh toán
tiền cho bên bán. Bên bán sẽ không còn quyền sở hữu, từ bỏ quyền sở hữu của mình
đối với một phần hoặc toàn bộ tài sản đã bán. Trong khi đó, đối với thương vụ sáp
nhập, bên nhận sáp nhập có thể trả tiền cho bên bị sáp nhập hoặc thực hiện các điều
kiện khác.
Lưu ý, các trường hợp mua bán toàn bộ doanh nghiệp và sáp nhập doanh nghiệp rất
giống nhau, chỉ khác nhau chủ yếu là lựa chọn về hình thức tồn tại của doanh nghiệp
mục tiêu và thủ tục pháp lý phải thực hiện trong các thương vụ mua bán và sáp nhập
doanh nghiệp mục tiêu.

8



Thứ năm, mua lại doanh nghiệp phải thông qua sự thừa nhận của nhà nước theo
thủ tục pháp lý nhất định. Khi doanh nghiệp được mua bán và có sự chuyển giao quyền
và nghĩa vụ pháp lý của doanh nghiệp cho người khác cần có sự chứng nhận của cơ quan
công quyền về việc chuyển giao này. Tuy nhiên, sự chứng nhận của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền về thương vụ mua bán doanh nghiệp còn tồn tại nhiều bất cập như mâu thuẫn
giữa các quy định tại Điều 145 Luật doanh nghiệp và nghị định của chính phủ số 43/2010
ngày 15/04/2010 về đăng ký doanh nghiệp. Theo Điều 145 Luật doanh nghiệp 2005,
người mua doanh nghiệp tư nhân phải tiến hành đăng ký kinh doanh lại doanh nghiệp
nhưng theo quy định tại nghị định 43/2010 thì người mua doanh nghiệp sẽ thực hiện thủ
tục chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp tư nhân tại cơ quan đăng ký kinh doanh. Trong khi
đó, sáp nhập doanh nghiệp chỉ cần nộp đầy đủ giấy tờ yêu cầu trong hồ sơ sáp nhập và
chờ đợi cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đầu tư hoặc giấy chứng nhận đăng
ký kinh doanh doanh mới cho doanh nghiệp trong trường hợp hồ sơ đủ điều kiện và từ
chối bằng văn bản nếu không đủ điều kiện quy định.
Thứ sáu, mua bán doanh nghiệp được thực hiện thông qua hợp đồng mua bán
doanh nghiệp. Hợp đồng này có tính chất, nội dung hoàn toàn khác với các hợp đồng
chuyển nhượng cổ phần, phần góp vốn của thành viên công ty cũng như hợp đồng sáp
nhập doanh nghiệp vì chủ thể, đối tượng của hợp đồng có sự khác nhau. Hợp đồng
mua bán doanh nghiệp vẫn phải tuân thủ các quy định chung về hợp đồng trong dân
luật, thể hiện sự tự do do giao kết hợp đồng trong dân luật, thể hiện sự tự do giao kết
hợp đồng của các bên mua bán doanh nghiệp, đồng thời phản án những đặc thù của
quan hệ mua bán doanh nghiệp.

9


BẢNG 1: Phân biệt mua lại và sáp nhập doanh nghiệp dưới góc độ pháp lý
TIÊU CHÍ

MUA BÁN


PHÂN BIỆT

SÁP NHẬP

Là việc một doanh nghiệp mua Là việc một hoặc một số doanh
toàn bộ hoặc một phần tài sản nghiệp chuyển toàn bộ tài sản,
của doanh nghiệp khác đủ để quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp
Khái niệm

kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc pháp của mình sang một doanh
một ngành nghề của doanh nghiệp khác, đồng thời chấm dứt
nghiệp bị mua lại

sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp

nhập
Một doanh nghiệp mua: bên Một doanh nghiệp sáp nhập: bên
Chủ thể

mua
nhận sáp nhập
Một hoặc một số doanh nghiệp Một hoặc một số doanh nghiệp:
khác: bên bán/doanh nghiệp bên bị sáp nhập
mục tiêu
Toàn bộ hoặc một phần tài sản Toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ

Đối tượng

của doanh nghiệp mục tiêu


và lợi ích hợp pháp của doanh

nghiệp bị sáp nhập
Bên bán có thể chuyển quyền sở Doanh nghiệp bị sáp nhập chuyển
hữu một phần tài sản hoặc toàn toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi

Đặc điểm

Hậu quả
pháp lý

Mục tiêu

bộ tài sản và thỏa thuận chuyển ích sang doanh nghiệp nhận sáp nhập
Bên sáp nhập có thể trả tiền hoặc thực
giao một số quyền, nghĩa vụ cho
hiện các điều kiện khác
bên doanh nghiệp mua
Bên sáp nhập phần lớn có quyền
Bên mua phải trả tiền cho bên
“mạnh” hơn trong mọi quyết định
bán doanh nghiệp
chung
Bên mua có quyền thay đổi hoạt Không hình thành một doanh
động quản trị, kiểm soát ngành nghiệp mới thể hiện ở việc vẫn sử
nghề kinh doanh của doanh dụng đăng ký kinh doanh của công
nghiệp mục tiêu

ty sáp nhập chỉ thực hiện sửa đổi


thông tin đăng ký kinh doanh
Lợi ích kinh tế trong trường hợp Vị thế của doanh nghiệp nhận sáp
thân thiện tự nguyện
nhập sẽ tăng lên
Tôn tính tiêu diệt đối thủ cạnh
10


Hình thức

tranh trong trường hợp thù địch
Mua bán theo ngang: mua bán Dựa vào cấu trúc tài chính
+ Sáp nhập mua: việc mua công ty
diễn ra giữa các doanh nghiệp
được tiến hành bằng tiền mặt hoặc
kinh doanh cùng loại hàng hóa
thông qua một số công cụ tài chính
nhưng trong các chu trình khác
cụ thể
nhau
+ Sáp nhập hợp nhất: tài chính của
Ví dụ: Công ty Thủy sản Hùng
2 công ty sẽ được hợp nhất trong
Vương mua Lâm Thủy sản Bến
công ty mới
Tre FBT nhằm mở rộng diện
Dựa vào cấu trúc của từng doanh
tích vùng nuôi nguyên liệu đầu
nghiệp

vào
+ Sáp nhập ngang: diễn ra đối với
Mua bán theo chiều dọc: diễn ra
hai hay nhiều công ty cạnh tranh
đối với các doanh nghiệp trong
trực tiếp và chia sẻ cùng dòng thị
chuỗi giá trị, dẫn tới sự mở rộng
trường sản phẩm
về phía trước hoặc về phía sau + Sáp nhập dọc: diễn ra đối với các
hoặc về cả hai phía của công ty doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng.
sáp nhập trên chuỗi giá trị đó.
Chẳng hạn như nhà cung cấp lốp xe
Ví dụ: Công ty Tour Du lịch
của một đơn vị sản xuất ô tô.
Thiên Minh mua chuỗi khách + Sáp nhập kiểu tập đoàn: diễn ra
sạn Victoria
đối với hai công ty không có cùng
Các hình thức khác: mua nợ,
lĩnh vực kinh doanh nhưng muốn
mua cổ phần/cổ phiếu
đa dạng hóa hoạt động lĩnh vực

Quyền kiểm

kinh doanh đa dạng ngành nghề
Quyền kiểm soát thuộc về Quyền kiểm soát thuộc về doanh

soát doanh

doanh nghiệp có tỷ lệ vốn lớn nghiệp có tỷ lệ vốn lớn hơn.


nghiệp

hơn.
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp, 2014

1.2.

Động lực thúc đẩy hoạt động mua lại và sáp nhập doanh nghiệp

1.2.1. Động lực hiệu quả kinh tế
Đây là động lực chủ yếu thúc đẩy hoạt động M&A. Lợi thế của quy mô sản
xuất lớn thông qua hoạt động mua lại và sáp nhập doanh nghiệp chính là tạo ra hiệu
quả kinh tế, trong khi các chi phí cố định hoặc giảm xuống hoặc không tăng lên cùng
quy mô này nên hiệu quả kinh tế nhờ đó được nâng cao. Mặt khác, khi qui mô sản xuất
lớn được triển khai sẽ đem lại sự cộng hưởng. Sự cộng hưởng là động cơ quan trọng
11


giải thích cho mọi thương vụ mua lại và sáp nhập doanh nghiệp. Cộng hưởng sẽ cho
phép hiệu quả và giá trị của doanh nghiệp kỳ vọng sau mỗi thương vụ M&A bao gồm:
- Giảm nhân viên: nói chung sáp nhập doanh nghiệp thường có khuynh hướng
giảm việc làm. Hai hệ thống sáp nhập lại sẽ làm giảm nhiều công việc gián tiếp, ví dụ
các công việc văn phòng, tài chính, kế toán hay makerting. Việc giảm thiểu vị trí công
việc cũng đồng thời với đòi hỏi tăng năng suất lao động. Đây là cơ hội tốt để các
doanh nghiệp sa thải những vị trí làm việc thiếu hiệu quả.
- Đạt được hiệu quả dựa vào quy mô: Một doanh nghiệp lớn lúc nào cũng có thế
hơn khi giao dịch với các đối tác, kể cả mua văn phòng phẩm thì công ty lớn vẫn có ưu
thế khi đàm phán hơn là so với công ty nhỏ. Mặt khác, quy mô lớn cũng giúp giảm
thiểu chi phí.

- Trang bị công nghệ mới: để duy trì cạnh tranh, các công ty luôn cần vị trí đỉnh
cao của phát triển kỹ thuật và công nghệ. Thông qua việc mua bán hoặc sáp nhập,
công ty mới có thể tận dụng công nghệ của nhau để tạo lợi thế cạnh tranh.
- Tăng cường thị phần và danh tiếng trong ngành. Một trong những mục tiêu của
mua lại và sáp nhập nhằm mở rộng thì trường mới, tăng trưởng doanh thu và thu nhập.
Sáp nhập cho phép mở rộng các kênh Marketing và hệ thông phân phối. Bên cạnh đó
vị thế của công ty mới sau khi sáp nhập sẽ tăng lên trong mắt cộng đồng đầu tư: công
ty lớn hơn có được lợi thế hơn và có khả năng tăng vốn dễ dàng hơn một công ty nhỏ.
Đa số các giao dịch đem lại hiệu quả kinh tế do lợi thế quy mô lớn đều thuộc loại
M&A theo chiều ngang. Tuy nhiên, hoạt động kết hợp theo chiều dọc còn có thể tiết kiệm
chi phí do giảm nguyên liệu, thành phẩm tồn kho và cải tiến phương thức phân phối mua
bán hàng hóa, nguyên vật liệu. Bên cạnh đó, nếu hai công ty kết hợp theo phương thức
liên ngành cũng có thể tạo ra hiệu quả nhờ giảm chi phí quản trị chung do giảm số lượng
cán bộ cấp cao, nhân viên văn phòng và các dịch vụ văn phòng.
Khi một công ty thực hiện việc mua lại hay sáp nhập với một hoặc nhiều công ty
khác thì vị thế tín dụng của nó sẽ cao hơn bởi thu nhập của công ty sau khi sáp nhập hay
mua lại thường lớn hơn lợi nhuận của từng công ty riêng rẽ. Nhờ đó làm tăng khả năng
vay mượn, các chi phí phải trả lãi tăng lên và dẫn đến giảm thuế thu nhập phải nộp.
1.2.2. Động lực phát triển
Phát triển là mục tiêu quan trọng của doanh nghiệp, sự phát triển bên trong của
bản thân doanh nghiệp là một quá trình phức tạp bởi doanh nghiệp cần đầu tư mua
sắm, lắp đặt máy móc thiết bị, xây dựng thêm nhà xưởng và để làm được những việc
này thì cần phải có thời gian chuẩn bị, tốn sức người, sức của. Do đó trong nhiều

12


trường hợp việc mua lại hay sáp nhập một công ty khác là cách làm hiệu quả và tốn ít
thời gian nhất để phát triển qui mô của một doanh nghiệp.
1.2.3. Động lực đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh

Đa dạng hóa đầu tư có tác dụng làm giảm rủi ro của doanh nghiệp. Bởi vậy,
việc đầu tư mua một doanh nghiệp không cùng tuyến sản phẩm kết hợp theo phương
thức liên ngành sẽ đem lại cho doanh nghiệp một nguồn thu nhập ổn định hơn. Đó là
chưa kể đến việc đa dạng hóa đầu tư còn có thể giúp nâng cao tỷ suất sinh lời của
doanh nghiệp và mang lại cho cổ đông sau thương vụ mua lại và sáp nhập nhiều lợi
nhuận hơn.
1.3.

Vai trò của pháp luật về mua lại và sáp nhập doanh nghiệp

1.3.1. Tạo ra hành lang pháp lý cho các nhà đầu tư thực hiện hoạt động mua lại,
sáp nhập doanh nghiệp.
Các quan hệ xã hội về đầu tư kinh doanh càng phát triển thì xu hướng sáp nhập
và mua lại doanh nghiệp càng phát triển mạnh do việc đầu tư thành lập doanh nghiệp
mới ở một mức độ nào đó không đem lại hiệu quả kinh tế cao. Bởi vậy, việc có một
hành lang pháp lý rõ ràng, cụ thể để điều chỉnh hoạt động mua lại, sáp nhập doanh
nghiệp là đòi hỏi tất yếu của nền kinh tế.
Pháp luật về mua lại và sáp nhập doanh nghiệp tạo thành hành lang pháp lý cho
các nhà đầu tư thực hiện hoạt động mua lại và sáp nhập doanh nghiệp. Hành lang pháp
lý này đảm bảo cho các thương vụ M&A diễn ra lành mạnh, phù hợp với các nguyên
tắc chung của hệ thống pháp luật, đảm bảo tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của các
đối tượng liên quan đến quá trình này và đồng thời cũng góp phần hạn chế được hiện
tượng thất thu thuế do không có quy phạm pháp luật điều chỉnh cụ thể.
1.3.2. Giữ vai trò thúc đẩy hoạt động tập trung kinh tế
Khung pháp lý về mua lại và sáp nhập doanh nghiệp hợp lý, kinh doanh hiệu
quả, giúp các doanh nghiệp phát huy được tính chủ động và khai thác tối đa quyền tự
do kinh doanh.
Hệ thống quy phạm pháp luật về mua lại và sáp nhập doanh nghiệp có vai trò thúc
đẩy hoạt động tập trung kinh tế một cách hợp lý lành mạnh từ đó giúp các nhà đầu tư và
các doanh nghiệp có thêm một sự lựa chọn tốt trong việc ra các quyết định đầu tư kinh

doanh. Cụ thể, các doanh nghiệp bị mua lại hay sáp nhập thường là những doanh nghiệp
đang trong tình trạng khó khăn về tài chính và triển vọng kinh doanh không mấy sáng sủa
nguy cơ dẫn đến tình trạng phá sản hay giải thể thì hành lang pháp lý về mua lại, sáp nhập

13


giúp cho các doanh nghiệp này có thêm sự lựa chọn tối ưu và an toàn. Việc giảm thiểu
những sụp đổ vi mô trong nền kinh tế như vậy cũng góp phần nâng cao hiệu quả của nền
kinh tế, tránh sự đổ vỡ mang tính dây chuyền đặc biệt đối với những doanh nghiệp lớn
trong những ngành kinh tế then chốt và nhạy cảm.
1.3.3. Giúp nhà nước kiểm soát hoạt động mua lại và sáp nhập dẫn đến lạm dụng
vị thế thống lĩnh thị trường và nguy cơ độc quyền.
Việc quản lý nhà nước với hoạt động kinh doanh ở tầm vĩ mô không chỉ bao
gồm việc thu thuế mà còn mang tính định hướng phát triển đảm bảo các thành phần
kinh tế phát triển theo đúng định hướng trong từng thời kỳ và phù hợp với điều kiện
khách quan về kinh tế, xã hội của đất nước. Trong vai trò quản lý vĩ mô của nhà nước
không thể thiếu được việc đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh. Muốn vậy, nhà
nước cần phải có các công cụ cần thiết để kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế trong
đó hoạt động mua lại và sáp nhập là hai hoạt động tập trung kinh tế chủ yếu có ảnh
hưởng sâu rộng. Việc quản lý này của nhà nước sẽ tránh được hoạt động tập trung kinh
tế diễn ra ngoài tầm kiểm soát gây ảnh hưởng cho nền kinh tế vĩ mô.
1.3.4. Đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể bị tác động trong quá
trình mua lại và sáp nhập.
Trong quá trình tiến hành thương vụ M&A, bên cạnh nhóm chủ thể chủ động là
các nhà đầu tư, doanh nghiệp thì còn có nhóm chủ thể thụ động. Nhóm chủ thể này
bao gồm người lao động trong doanh nghiệp bị mua lại hoặc doanh nghiệp bị sáp nhập
và người tiêu dùng. Nhóm chủ thể này thường là những nhóm yếu thế không có tiếng
nói quyết định trong quá trình diễn ra việc mua lại và sáp nhập doanh nghiệp. Tuy
nhiên, họ lại là đối tượng có ảnh hưởng lớn đến sự vận hành của nền kinh tế. Người

lao động làm trong các doanh nghiệp bị mua lại hay bị sáp nhập là đối tượng đầu tiên
bị ảnh hưởng do thất nghiệp từ hoạt động M&A này. Người tiêu dùng cũng sẽ gánh
chịu hệ lụy từ hoạt động này như rủi ro tài chính do giá cổ phần của công ty bị sáp
nhập thụt giảm. Như vậy, việc đảm bảo quyền lợi của các nhóm chủ thể có số lượng
lớn, có tác động sâu rộng tới sự phát triển kinh tế, một vai trò quan trọng thiết yếu của
pháp luật về mua lại và sáp nhập doanh nghiệp trong yêu cầu phát triển của mô hình
kinh tế hiện đại.

14


1.4.

Các phương thức giao dịch mua lại và sáp nhập doanh nghiệp
Việc xử lý các vấn đề định giá thương vụ M&A, phương thức thanh toán, chia –

nhập cổ phiếu, tài sản, thương hiệu, cơ cấu, tổ chức của doanh nghiệp bị M&A, các
vấn đề hậu M&A là những nội dung nằm trong phạm vi thỏa thuận giữa các bên liên
quan, được thể hiện trên bản hợp đồng M&A giữa các công ty đó. Các thỏa thuận này
mang tính chất chuyên biệt hóa đậm nét và sẽ là căn cứ cao nhất để xử lý tất cả các vấn
đề liên quan hậu chuyển đổi với điều kiện không vi phạm các quy định pháp luật về
doanh nghiệp, cạnh tranh và thuế. Do đó, cách thức thực hiện M&A cũng rất đa dạng
tùy thuộc vào mục tiêu, đặc điểm quản trị, cấu trúc sở hữu và ưu thế so sánh của các
doanh nghiệp liên quan trong từng trường hợp cụ thể. Có một số phương thức giao
dịch mua lại và sáp nhập doanh nghiệp thường được sử dụng.
1.4.1. Mua cổ phần
Tham gia mua cổ phần khi doanh nghiệp tăng vốn điều lệ hoặc đấu giá phát
hành cổ phiếu ra công chúng. Đây là hình thức thâu tóm một phần nhưng đủ để định
đoạt quyền sở hữu và quản trị theo mục tiêu chiến lược của bên mua. Một số doanh
nghiệp của Việt Nam cũng thành công nhờ chiến lược này ở giai đoạn đầu của quá

trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Ví dụ: Sau khi mua 24,9% cổ phần của
nước khoáng Vĩnh Hảo từ tay Gepadept, Masan Consumer tiếp tục thông qua việc chi
700 tỷ đồng định gom 75% cổ phần của Vĩnh Hảo với giá chào mua 85.000 đồng/cổ
phần. Tuy nhiên cuối cùng Masan Consumer gom được 5,14 triệu cổ phiếu Vĩnh Hảo,
nắm giữ 63,5% vốn tại công ty nước khoáng này.
1.4.2. Mua gom cổ phiếu
Mua gom cổ phiếu để giành quyền sở hữu và chi phối cũng là một chiến lược
được nhiều doanh nghiệp thực hiện. Thu gom cổ phiếu là phương thức mà công ty có
ý định M&A sẽ giải ngân để gom dần cổ phiếu của công ty mục tiêu thông qua giao
dịch chủ yếu trên thị trường chứng khoán hoặc mua lại cổ phiếu của các cổ đông chiến
lược hiện hữu. Phương pháp này đòi hỏi về thời gian, đồng thời nếu thông tin về
thương vụ M&A bị bại lộ, giá của cổ phiếu của công ty bị M&A có thể tăng cao trên
thị trường.
Ngược lại, phương thức này nếu được thực hiện dần dần và trôi chảy, công ty
nhận M&A có thể đạt được mục đích cuối cùng của mình một cách êm thấm, không
gây xáo động lớn cho công ty bị M&A, trong khi chỉ cần phải trả một mức giá rẻ hơn
so với phương thức chào thầu rất nhiều.
15


Tại Việt Nam, nửa cuối năm 2008, khi thị trường chứng khoán thụt giảm và
nhiều doanh nghiệp niêm yết có giá trị vốn hóa thấp đã trở thành mục tiêu bị thu gom.
Cách thức thu gom có thể mua dần trên thị trường giao dịch hoặc qua giao dịch thỏa
thuận; công khai chào thầu; lôi kéo cổ đông bất mãn; thương lượng tự nguyện với ban
điều hành
- Chào thầu giao dịch M&A
Chào thầu là hình thức một hay một số công ty hoặc cá nhân hoặc một nhóm
nhà đầu tư có ý định mua đứt toàn bộ công ty mục tiêu với đề nghị cổ đông hiện hữu
của công ty đó bán lại cổ phần của họ với một mức giá cao hơn giá thị trường rất
nhiều. Giá chào thầu đó phải đủ hấp dẫn để đa số cổ đông tán thành việc từ bỏ quyền

sở hữu cũng như quản lý công ty của mình
Hình thức đặt giá chào thầu này thường được áp dụng trong các vụ thôn tính
mang tính “thù địch” đối thủ cạnh tranh. Công ty bị mua thường là công ty yếu hơn.
Tuy nhiên, vẫn còn có một số trường hợp một công ty nhỏ thâu tóm công ty lớn hơn,
đó là khi họ huy động được nguồn tài chính khổng lồ từ bên ngoài để thực hiện vụ
thôn tính như: sử dụng thặng dư vốn, huy động vốn từ cổ đông hiện hữu, thông qua
phát hành cổ phiếu mới hoặc trả cổ tức bằng cổ phiếu, phát hành cổ phiếu chuyển đổi
hoặc vay từ các tổ chức tín dụng.
Điểm đáng chú ý trong thương vụ “chào thầu” là ban quản trị công ty bị mua bị mất
quyền định đoạt, bởi đây là sự trao đổi trực tiếp giữa công ty mua và cổ đông của công
ty bị mua. Thông thường, ban quản trị và các vị trí quản lý chủ chốt của công ty bị
mua sẽ bị thay thế, mặc dù thương hiệu và cơ cấu tổ chức của nó vẫn có thể được giữ
lại mà không nhất thiết bị sáp nhập hoàn toàn vào công ty thôn tính. Để chống lại vụ
sáp nhập bất lợi cho mình, ban quản trị công ty bị mua có thể thực hiện một số biện
pháp nhằm chống lại sự thôn tính này như tìm kiếm sự trợ giúp/ bảo lãnh tài chính
mạnh hơn, để có thể đưa ra mức giá chào thầu cao hơn mức chào thầu của công ty
định mua.
- Lôi kéo cổ đông bất mãn
Phương thức này thường được sử dụng trong những thương vụ “thôn tính mang
tính chất thù địch” lẫn nhau. Khi một công ty lâm vào tình trạng kinh doanh yếu kém
và thua lỗ, có một bộ phận không nhỏ các cổ đông bất mãn và muốn thay đổi ban quản
trị và điều hành công ty của mình. Công ty cạnh tranh có thể lợi dụng tình huống này
để lôi kéo cổ đông đó. Công ty cạnh tranh sẽ mua lại số lượng lớn cổ phần đủ để chi

16


phối, công ty cạnh tranh, các cổ đông bất mãn sẽ triệu tập họp Đại hội đồng cổ đông
và bầu đại diện của công ty cạnh tranh vào Hội đồng quản trị mới.
- Thương lượng giữa các ban quản trị

Thương lượng tự nguyện với ban quản trị và điều hành là hình thức phổ biến trong
các vụ sáp nhập “thân thiện”. Khi hai công ty đều nhận thấy những lợi ích chung tiềm
tàng trong thương vụ M&A. Người chung gian sẽ xúc tiến để ban quản trị của hai công ty
ngồi lại và thương thảo cho một hợp đồng M&A. Có không ít trường hợp, chủ sở hữu các
công ty nhỏ thua lỗ hoặc yếu thế trong cuộc cạnh tranh tìm cách rút lui bằng cách bán lại,
sáp nhập để nhằm lật ngược tình thế của công ty mình trên thị trường.
1.4.3. Hoán đổi, chuyển đổi cổ phiếu
Phương thức này thường diễn ra đối với những công ty có mối liên hệ chặt chẽ
với nhau như trong cùng một tập đoàn. Vấn đề quan trọng nhất trong phương thức này
là định giá để bảo đảm lợi ích của các cổ đông của các bên.
Một hình thức khá phổ biến trong thời gian gần đây là trao đổi cổ phần, để nắm giữ
chéo sở hữu công ty của nhau. Thực chất, hình thức này mang tính liên minh hơn là
sáp nhập. Ví dụ: Hoán đổi cổ phiếu Công ty cổ phần Thủy điện Ry Ninh II thành cổ
phiếu Công ty cổ phần Thủy điện Cần Đơn.
1.4.4. Mua lại tài sản công ty
Phương thức này gần giống phương thức chào thầu. Công ty nhận M&A có thể
đơn phương hoặc cùng công ty bị M&A định giá tài sản của công ty đó. Sau đó các
bên sẽ tiến hành thương thảo để đưa ra được mức giá phù hợp.
Điểm hạn chế của phương thức này là các tài sản vô hình như thương hiệu, thị phần,
khách hàng, nhân sự, văn hóa doanh nghiệp rất khó định giá và được các bên thống
nhất. Do đó, phương thức này thường áp dụng để tiếp quản lại các công ty nhỏ, thực
chất là nhắm đến các cơ sở sản xuất, nhà xưởng, máy móc, dây chuyền, công nghệ…
đang thuộc sở hữu của công ty đó.
- Mua lại một dự án bất động sản
Đây là một phương thức phổ biến tại Việt Nam đặc biệt đối với những doanh
nghiệp đầu tư phát triển bất động sản. Theo quy định của Bộ Luật dân sự 2005 thì bất
động sản cũng được coi là một loại tài sản và được thực hiện dưới hình thức mua lại. Tuy
nhiên, đối với các doanh nghiệp phát triển dự án bất động sản, thuật ngữ “nhà đầu tư thứ
cấp” đã trở nên phổ biến hơn thuật ngữ M&A. Trong lĩnh vực này một số doanh nghiệp
có tiềm lực lấy được những dự án lớn nhưng khi triển khai thì lại chia nhỏ ra bán lại cho

các nhà đầu tư thứ cấp để phát triển. Ví dụ: Tập đoàn Bảo Sơn (chủ đầu tư), Công ty D&T

17


(nhà đầu tư thứ cấp) với khách hàng cá nhân mua bất động sản thuộc dự án của Bảo Sơn.
Như vậy, trong trường hợp này ngay từ đầu các bên tham gia phải chặt chẽ về hình thức
M&A để hạn chế những tranh chấp phức tạp phát sinh sau này.
- Mua nợ
Đây là một trong những hình thức tiến hành M&A gián tiếp. Khi một doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán và không thể trả nợ, chủ nợ có thể tìm một doanh
nghiệp có khả năng tài chính mua lại phần nợ với giá thỏa thuận. Doanh nghiệp mua
mới sẽ đương nhiên trở thành chủ nợ mới.
Tóm lại, có rất nhiều cách thức thực hiện M&A tùy thuộc vào mục tiêu, đặc
điểm quản trị, cấu trúc sở hữu và ưu thế so sánh của các doanh nghiệp liên quan trong
từng trường hợp cụ thể. Các vấn đề quyết định đến việc lựa chọn phương thức M&A
như xác định giá trị chuyển đổi, chia – nhập cổ phiếu, tài sản, thương hiệu, cơ cấu tổ
chức của công ty sau mua lại và sáp nhập cần được xem xét một cách cụ thể và là
những nội dung thỏa thuận giữa các bên trong bản hợp đồng M&A. Tuy nhiên, có
những trường hợp sau không được coi là mua lại và sáp nhập doanh nghiệp do không
thỏa mãn tiêu chí dẫn đến thay đổi hoạt động quản trị của doanh nghiệp mục tiêu của
mua bán doanh nghiệp.
- Một doanh nghiệp mua cổ phần của một doanh nghiệp khác nhưng không tham
gia hoạt động quản trị, điều hành, chỉ thuần túy nhận cổ tức hoặc kỳ vọng thặng dư khi
bán lại cổ phần cho các nhà đầu tư khác;
- Một quỹ đầu tư chứng khoán mua cổ phiếu (niêm yết) của một doanh nghiệp
đại chúng trên thị trường chứng khoán và cũng không tham gia quản trị điều hành hoạt
động doanh nghiệp đó;
- Một quy đầu tư mạo hiểm (Venture Capital) khi đầu tư vốn với tư cách cổ đông
vào các doanh nghiệp và cử đại diện phần vốn góp tại Hội đồng quản trị nhưng vai trò

của các thành viên này chỉ mang tính tư vấn, hỗ trợ cho các doanh nghiệp này với kỳ
vọng khi doanh nghiệp phát triển sẽ có thể thoái vốn thông qua việc phát hành cổ
phiếu ra công chúng.
Phân biệt tài mua bán doanh nghiệp với mua bán tài sản doanh nghiệp
Trên thực tế, chủ doanh nghiệp có thể bán các tài sản thuộc quyền sở hữu cho
cá nhân hay tổ chức khác thông qua một quan hệ mua bán tài sản dân sự hoặc mua bán
sản nghiệp thương mại, đó là quá trình khai thác các tài sản thương mại bằng các hình
thức như chuyển nhượng quyền sở hữu hay chia sẻ quyền sử dụng tài sản nhằm tìm
kiếm các khoản lợi nhuận cho doanh nghiệp. Dựa trên bản chất của việc bán tài sản
doanh nghiệp, có thể đi đến định nghĩa “Bán tài sản doanh nghiệp là sự chuyển

18


nhượng một phần hay toàn bộ tài sản, quyền tài sản của doanh nghiệp cho tổ chức, cá
nhân khác thông qua sự thỏa thuận giữa doanh nghiệp và tổ chức hay cá nhân đó”.
Trong quan hệ này, doanh nghiệp sẽ thông qua các đại diện của mình để thực hiện giao
dịch với bên mua, mọi thẩm quyền và các vấn đề có liên quan sẽ do cơ quan có thẩm
quyền cao nhất của doanh nghiệp quyết định và thực hiện theo điều lệ của doanh
nghiệp và các quy định của pháp luật.
Tuy về mặt hình thức có những điểm tương đồng, hai hoạt động mua bán
doanh nghiệp và mua bán tài sản doanh nghiệp là hai vấn đề có bản chất khác nhau.
Sự khác nhau thể hiện cụ thể ở chỗ, mua bán doanh nghiệp dẫn tới sự chuyển đổi
quyền sở hữu của doanh nghiệp, còn bán một phần hoặc toàn bộ tài sản của doanh
nghiệp không làm thay đổi địa vị của chủ sở hữu doanh nghiệp. Theo quy định của
pháp luật “Sản nghiệp là toàn bộ tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng hợp
pháp của thương nhân, phục vụ cho hoạt động thương mại như trụ sở, cửa hàng, kho
tàng, trang thiết bị, hàng hóa, tên thương mại, biển hiệu, nhãn hiệu, mạng lưới tiêu
thụ hàng hóa và cung ứng dịch vụ”5. Trong khối sản nghiệp thương mại, quan trọng
nhất là mạng lưới tiêu thụ hàng hóa và cung ứng dịch vụ. Có thể khẳng định rằng, việc

bán các tài sản thương mại không ảnh hưởng gì tới các hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Sau khi bán tài sản của doanh nghiệp, doanh nghiệp vẫn hoạt động hoặc
chuyển sang một mảng kinh doanh mới. Bên cạnh đó, việc bán doanh nghiệp là quá
trình làm chấm dứt sự tồn tại tư cách pháp lý của doanh nghiệp cũ, cụ thể là tư cách
này sẽ chấm dứt ngay khi doanh nghiệp được chuyển giao cho người mua. Người mua
muốn khai sinh tư cách pháp lý cho doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của mình phải
thực hiện các thủ tục cần thiết theo quy định của pháp luật như đăng ký kinh doanh lại;
thay đổi nội dung đăng kí kinh doanh. Tuy nhiên, giữa mua bán doanh nghiệp và mua
bán tài sản doanh nghiệp có một điểm giống nhau đó là đều phải tiến hành quá trình
xác định tài sản và định giá tài sản doanh nghiệp: bán doanh nghiệp là việc xác định
toàn bộ tài sản doanh nghiệp để định giá trị doanh nghiệp, trong khi đó bán sản nghiệp
là quá trình xác định sản nghiệp và định giá tài sản đem bán.
Phân biệt giữa việc mua bán toàn bộ doanh nghiệp và việc thành viên, cổ
đông công ty chuyển nhượng phần vốn góp, cổ phần của mình trong công ty.
Người bán toàn bộ doanh nghiệp phải là chủ sở hữu tất cả tài sản của doanh
nghiệp. Bên bán chỉ tham gia đàm phán, giao kết hợp đồng mua bán doanh nghiệp khi
được sự đồng ý của tất cả các đồng chủ sở hữu doanh nghiệp nếu các doanh nghiệp đó
5

Điều 97 Luật thương mại 2005

19


thuộc loại hình doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhiều chủ. Nếu doanh nghiệp thuộc sở
hữu của một chủ thì việc mua bán doanh nghiệp đơn giản hơn vì quyền quyết định bán
toàn bộ doanh nghiệp sẽ thuộc về người chủ doanh nghiệp đó. Với doanh nghiệp nhiều
chủ sở hữu, Điểm b Khoản 4 Điều 56 Nghị định 108/2006/NĐ-CP quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật đầu tư 2005 quy định về hồ sơ mua lại doanh nghiệp của
nhà đầu tư nước ngoài. Theo đó, hồ sơ phải có “Quyết định của Hội đồng thành viên

hoặc chủ sở hữu doanh nghiệp hoặc của Đại hội đồng cổ đông về việc bán doanh
nghiệp” (i) Đối với việc mua bán toàn bộ công ty, đối tượng mua bán là công ty nên
phải có sự chấp thuận của người chủ công ty đó; đó chính là chủ sở hữu hoặc các chủ
sở hữu công ty. Việc mua bán cổ phần, phần vốn góp của cổ đông, thành viên công ty
chỉ do chính người nào là chủ sở hữu phần vốn đó được toàn quyền quyết định việc
bán phần vốn của mình mà không phải “đợi chờ sự đồng thuận” của các thành viên
khác để được bán phần vốn góp đó. Tuy nhiên, thủ tục thực hiện việc chuyển nhượng
phần vốn góp của thành viên, chuyển nhượng cổ phần của cổ đông công ty phải tuân
thủ quy định của pháp luật; (ii) do đối tượng mua bán mua bán toàn bộ doanh nghiệp
là doanh nghiệp, một loại hàng hóa đặc biệt không chỉ có tài sản phần góp vốn của
thành viên vào trong công ty mà doanh nghiệm còn có các quyền và nghĩa vụ pháp lý.
Vì vậy khi mua bán toàn bộ doanh nghiệp thì người bán phải chuyển giao toàn bộ các
quyền trên cho người mua; người bán sẽ rút ra khỏi doanh nghiệp đã bán. Nếu chỉ có
một người mua doanh nghiệp thì người này có toàn quyền quyết định, định đoạt với
doanh nghiệp mà mình đã mua.
Trong trường hợp thành viên bán, chuyển nhượng phần vốn góp của mình cho
người khác thì chỉ chuyển được một phần quyền, nghĩa vụ của mình tại doanh nghiệp
cho người mua mà không thể chuyển giao tư cách pháp lý của doanh nghiệp cho người
mua. Người mua cũng không thể có toàn quyền quyết định hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp mà mình đã mua lại phần vốn góp của thành viên doanh nghiệp đó bởi
người mua cũng chỉ là một trong những đồng chủ sở hữu của doanh nghiệp.
1.5.

Tiến trình thực hiện giao dịch mua lại và sáp nhập doanh nghiệp
Mỗi thương vụ mua lại và sáp nhập doanh nghiệp lại có những cách thực hiện

riêng tuy thuộc vào đặc điểm và mục đích của doanh nghiệp tham gia vào thương vụ
đó. Tuy nhiên, có một số bước cơ bản mà phần lớn các thương vụ đều trải qua được
thể hiện tóm tắt qua sơ đồ sau:
Sơ đồ mô tả: Tiến trình thực hiện giao dịch mua lại và sáp nhập doanh nghiệp


20


TÌM KIẾM DOANH NGHIỆP MỤC
TIÊU
THẨM ĐỊNH GIAO DỊCH
ĐÀM PHÁN, GIAO KẾT VÀ THỰC
HIỆN HỢP ĐỒNG
Nguồn: tác giả tự tổng hợp, 2014
1.5.1. Tìm kiếm doanh nghiệp mục tiêu
Để đảm bảo M&A thành công, các bên cần lựa chọn nhiều hơn một doanh
nghiệp mục tiêu nếu được. Xuất phát từ việc M&A là nhu cầu của cả hai bên nên
doanh nghiệp mục tiêu ở đây có thể hiểu là bên mua hoặc/và bên bán, chứ không phải
chỉ một mình bên bán. Khi có nhiều doanh nghiệp mục tiêu, các bên sẽ có nhiều
phương án và điều kiện thuận lợi đàm phán giao dịch M&A hơn.
Việc xác định doanh nghiệp mục tiêu về bản chất là lấy được các thông tin
chính xác về các doanh nghiệp này, nhưng không phải bên tham gia M&A nào cũng
dễ dàng có được các thông tin cần thiết. Có nhiều cách thức tiếp cận để có được thông
tin, trong đó việc hợp tác với các tổ chức tài chính như công ty chứng khoán, quỹ đầu
tư… thường mang lại hiệu quả cao.
Trong giai đoạn tìm doanh nghiệp mục tiêu, bên bán có thể phải tiết lộ nhiều
thông tin mật mà không có sự đảm bảo chắc chắn liệu giao dịch M&A có được thực
hiện hay không. Bởi vậy, ngay khi bắt đầu tiếp xúc với bên mua, bên bán có thể đề
xuất ký thoả thuận bảo mật. Thoả thuận bảo mật liên quan đến cả bên bán, bên mua và
bên tư vấn (nếu có); quy định ai chịu trách nhiệm nhận và cung cấp thông tin; đưa ra
danh sách những thông tin không cần bảo mật như thông tin mà công luận đã biết
không phải do hành động vi phạm thoả thuận của bên nhận tin, thông tin vốn thuộc
quyền nắm giữ của bên nhận tin, thông tin do bên nhận tin tự mở rộng, thông tin nhận
từ một nguồn khác mà không có giới hạn về việc sử dụng hay tiết lộ. Thời hạn của

thoả thuận bảo mật thông thường từ ba đến lăm năm. Trong trường hợp một bên vi
phạm thoả thuận bảo mật, bên kia có quyền khởi kiện để đòi được bồi thường thiệt hại
do vi phạm gây ra. Tuy nhiên, trên thực tế rất khó chứng minh việc vi phạm nghĩa vụ
bảo mật và thiệt hại do vi phạm gây ra nên có rất ít các vụ vi phạm thoả thuận bảo mật
được đưa ra Toà.

21


×