Tải bản đầy đủ (.pdf) (131 trang)

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (947.8 KB, 131 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
----------

NGUYỄN NHƢ HIỂN

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ BẢO VỆ CÁC QUYỀN CON NGƢỜI BẰNG
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật hình sự
Mã số:
60 38 40

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS.TSKH. LÊ VĂN CẢM

Hà Nội - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví
dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị khoa luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Nhƣ Hiển


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu ............................................................ 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ................................................................ 5
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu ............................................. 8
4. Phương pháp nghiên cứu: ........................................................................ 10
5. Những đóng góp mới của luận văn.......................................................... 10
6. Ý nghĩa khoa học, thực tiễn của đề tài ................................................... 11
7. Kết cấu luận văn ...................................................................................... 11
Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ VIỆC BẢO VỆ
CÁC QUYỀN CON NGƢỜI BẰNG PHÁP LUẬT TTHS ....................... 12
1.1. Khái niệm bảo vệ quyền con người bằng pháp luật TTHS .................. 12
1.1.1. Khái niệm quyền con người ........................................................... 12
1.1.2 Khái niệm hoạt động tố tụng hình sự .............................................. 16
1.1.3 Khái niệm bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật TTHS ...... 18
1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu bảo vệ các quyền con người bằng pháp
luật TTHS. ................................................................................................... 20
1.2.1. Ý nghĩa về mặt lý luận khoa học pháp lý TTHS ............................. 20
1.2.2. Ý nghĩa về mặt lập pháp TTHS ...................................................... 20
1.2.3. Ý nghĩa về mặt thực tiễn hoạt động TTHS ..................................... 21
1.2.4. Ý nghĩa chính trị - xã hội................................................................ 21
1.3. Một số đặc điểm cơ bản của bảo vệ các quyền con người bằng pháp

luật TTHS. ................................................................................................... 21


1.4. Khái quát quy định của pháp luật TTHS Việt Nam từ năm 1945 đến
trước khi ban hành BLTTHS 2003 với việc bảo vệ các quyền con người .. 29
1.4.1. Quy định về TTHS của pháp luật Việt Nam từ 02/9/1945 đến trước
khi ban hành Bộ luật TTHS 1988 với việc bảo vệ các quyền con người .... 29
1.4.2. Bộ luật TTHS 1988 với việc bảo vệ quyền con người .................... 33
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .............................................................................. 41
Chƣơng 2. MỘT SỐ QUY ĐỊNH CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ THỰC ĐỊNH VIỆT NAM LIÊN QUAN ĐẾN BẢO VỆ
CÁC QUYỀN CON NGƢỜI ........................................................................ 43
2.1. Bảo vệ các quyền con người thông qua chế định về các nguyên tắc cơ
bản của Luật TTHS ...................................................................................... 43
2.1.1. Nhóm những nguyên tắc cơ bản của luật TTHS bảo vệ các quyền
con người đảm bảo cho việc phát hiện kịp thời, xử lý chính xác, nhanh
chóng, đúng quy định của pháp luật đối với những tội phạm xâm phạm
các quyền con người: ............................................................................... 44
2.1.2. Nhóm các nguyên tắc cơ bản của luật TTHS đảm bảo không làm
ảnh hưởng đến quyền cơ bản của công dân khi tiến hành TTHS ........... 50
2.2. Bảo vệ các quyền con người thông qua các quy định địa vị pháp lý của
cơ quan THTT, người THTT và người tham gia tố tụng. ........................... 55
2.2.1 Quy định về địa vị pháp lý của cơ quan THTT, người THTT ......... 55
2.2.2 Quy định về địa vị pháp lý của người tham gia tố tụng .................. 56
2.3. Bảo vệ các quyền con người bằng các quy định về chứng cứ, chứng
minh và áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong TTHS.............................. 57
2.3.1 Bảo vệ các quyền con người bằng các quy định về chứng cứ, đối
tượng chứng minh và nghĩa vụ chứng minh trong TTHS......................... 57
2.3.2. Bảo vệ các quyền con người bằng quy định về các biện pháp ngăn
chặn và về áp dụng biện pháp ngăn chặn trong TTHS ............................ 59



2.4. Bảo vệ các quyền con người bằng quy định về hoạt động khởi tố, điều
tra, truy tố. .................................................................................................... 62
2.4.1 Bảo vệ các quyền con người bằng quy định về khởi tố vụ án hình sự .. 62
2.4.2 Bảo vệ các quyền con người trong quy định về điều tra vụ án hình sự .... 64
2.4.3 Bảo vệ các quyền con người bằng các quy định về truy tố ............. 67
2.5. Bảo vệ các quyền con người bằng quy định về xét xử vụ án hình sự .......... 70
2.6. Bảo vệ các quyền con người trong các quy định về thi hành bản án,
quyết định hình sự có hiệu lực pháp luật của Tòa án. ................................. 74
2.7. Bảo vệ các quyền con người thông qua quy định về thủ tục xét xử đối
với người chưa thành niên phạm tội. ........................................................... 75
2.8. Bảo vệ các quyền con người thông qua các quy định về thủ tục rút gọn . 77
2.9. Bảo vệ các quyền con người bằng quy định về khiếu nại, tố cáo trong
TTHS ........................................................................................................... 78
2.9.1. Quy định về quyền khiếu nại, tố cáo trong TTHS bảo vệ các quyền
con người .................................................................................................. 78
2.9.2. Quy định về trách nhiệm của giải quyết khiếu nại, tố cáo trong
TTHS bảo vệ các quyền con người........................................................... 79
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .............................................................................. 80
Chƣơng 3. MỘT SỐ TỒN TẠI, HẠN CHẾ VÀ KIẾN NGHỊ MỘT SỐ
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ 2003
NHẰM TĂNG CƢỜNG BẢO VỆ CÁC QUYỀN CON NGƢỜI BẰNG
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ....................................... 82
3.1. Một số tồn tại, hạn chế trong quy định của BLTTHS 2003 trong việc
bảo vệ các quyền con người. ....................................................................... 82
3.1.1. Một số tồn tại, hạn chế trong quy định về các nguyên tắc cơ bản
của luật TTHS........................................................................................... 82



3.1.2. Hạn chế trong quy định về quyền và nghĩa vụ của người THTT,
người tham gia tố tụng ............................................................................. 89
3.1.3. Hạn chế trong quy định các biện pháp ngăn chặn ........................ 90
3.1.4. Một số hạn chế trong quy định về khởi tố vụ án theo yêu cầu ....... 91
3.1.5. Một số hạn chế trong quy định về trách nhiệm của Tòa án........... 92
3.1.6 Hạn chế trong quy định về thủ tục rút gọn ..................................... 92
3.1.7. Một số hạn chế, thiếu sót trong quy định về khiếu nại, tố cáo và
giải quyết khiếu nại tố cáo trong tố tụng hình sự .................................... 94
3.2. Kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện BLTTHS nhằm tăng cường bảo
vệ quyền con người trong TTHS ................................................................. 95
3.2.1. Hoàn thiện bổ sung các quy định về những nguyên tắc cơ bản
nhằm tăng cường việc bảo vệ các quyền con người ................................ 95
3.2.2. Hoàn thiện các quy định về quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm của
cơ quan THTT, người THTT và người tham gia tố tụng nhằm tăng cường
bảo vệ các quyền con người ................................................................... 100
3.2.3 Hoàn thiện các quy định về biện pháp ngăn chặn trong TTHS nhằm
tăng cường bảo vệ các quyền con người ............................................... 103
3.2.4. Sửa đổi, hoàn thiện quy định về một số thủ tục tố tụng nhằm tăng
cường bảo vệ các quyền con người ........................................................ 105
3.2.5. Hoàn thiện các quy định về khiếu nại, tố cáo trong TTHS .......... 111
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ............................................................................ 112
KẾT LUẬN .................................................................................................. 114
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 119


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Bộ luật hình sự

: BLHS


Bộ luật tố tụng hình sự

: BLTTHS

Tố tụng hình sự

: TTHS

Tiến hành tố tụng

: THTT


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu
Quyền con người là những giá trị xã hội cao quý nhất được thừa nhận
và bảo vệ của chung của cả nhân loại tiến bộ. Chăm lo đến con người, tạo
mọi điều kiện thuận lợi cho sự phát triển toàn diện của con người, tôn trọng
và bảo vệ quyền con người là những quan điểm chỉ đạo cơ bản và nhất quán,
là nguyên tắc, sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong đường lối, chính sách chỉ đạo của
Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng, được thể chế hóa trong Hiến
pháp và pháp luật của Nhà nước ta. Tôn trọng, bảo vệ quyền con người, tất
cả vì sự phát triển toàn diện của con người vừa là động cơ, vừa là mục đích
trong tổ chức hoạt động của Nhà nước ta, thể hiện rõ nét bản chất tiến bộ,
văn minh, nhân đạo pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhà nước Việt Nam ta.
Trong công cuộc cải cách tư pháp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa mà Đảng, Nhà nước và toàn thể dân tộc ta đang nỗ lực tiến hành, bảo
vệ quyền con người bằng pháp luật nói chung, bảo vệ quyền con người bằng
pháp luật TTHS nói riêng ngày càng được chú trọng quan tâm và trở thành

yêu cầu cơ bản, cấp thiết.
Nhận thức rõ vai trò quan trọng hàng đầu của việc bảo vệ quyền con
người trong công cuộc cải cách tư pháp, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”
khẳng định: “Đòi hỏi của công dân và xã hội đối với cơ quan tư pháp ngày
càng cao; các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân dân trong
việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời phải là công cụ hữu hiệu
bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các
loại tội phạm và vi phạm” [21]. Văn kiện Đại hội X của Đảng cũng đã đặt ra
nhiệm vụ “Xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân
chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người” [22, tr.127]; Văn kiện
1


Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI của Đảng cũng tiếp tục đặt ra nhiệm vụ
“Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đêna năm 2020” cụ
thể là:
Xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ công
lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Hoàn thiện chính sách,
pháp luật về hình sự, dân sự, thủ tục tố tụng tư pháp và về tổ chức
bộ máy các cơ quan tư pháp, bảo đảm tính khoa học, đồng bộ, đề
cao tính độc lập, khách quan, tuân thủ pháp luật của từng cơ quan
và chức danh tư pháp. Đổi mới hệ thống tổ chức toà án theo thẩm
quyền xét xử, bảo đảm cải cách hoạt động xét xử là trọng tâm của
cải cách hoạt động tư pháp; mở rộng thẩm quyền xét xử của toà
án đối với các khiếu kiện hành chính. Viện kiểm sát được tổ chức
phù hợp với hệ thống tổ chức toà án, bảo đảm tốt hơn các điều
kiện để Viện kiểm sát nhân dân thực hiện hiệu quả chức năng
thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp; tăng
cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố

với hoạt động điều tra. Sắp xếp, kiện toàn tổ chức và hoạt động
của cơ quan điều tra theo hướng thu gọn đầu mối; xác định rõ
hoạt động điều tra theo tố tụng và hoạt động trinh sát trong đấu
tranh phòng, chống tội phạm. Tiếp tục đổi mới và kiện toàn các tổ
chức bổ trợ tư pháp. Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và
đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư
pháp. Tăng cường các cơ chế giám sát, bảo đảm sự tham gia giám
sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp [23, tr. 250-251].
Thể chế hóa những quan điểm chỉ đạo trên của Đảng, căn cứ tình hình
thực tiễn đất nước, Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên đã dành hẳn chương II
với 36 điều (từ điều 14 đến điều 49) để quy định về “Quyền con người,
2


quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”. Ngay từ điều 14 Hiến pháp đã quy
định nguyên tắc bảo vệ quyền con người ở nước ta:
1/ Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con
người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã
hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp
và pháp luật. /2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị
hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý
do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức
xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.
Quy định bảo vệ quyền con người cụ thể liên quan đến TTHS cũng
được thể hiện tại điều 20 Hiến pháp với nội dung:
1/ Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp
luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn,
bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác
xâm phạm đến thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm;
2/ Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân,

quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân trừ trường
hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam giữ người do luật định.
Hoạt động TTHS là một mặt hoạt động đặc biệt của Nhà nước liên quan
chặt chẽ và có ảnh hưởng trực tiếp tới quyền con người, hoạt động này có
nhiệm vụ phát hiện nhanh chóng, ngăn chặn kịp thời, xử lý khách quan toàn
diện đối với mọi tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội
đồng thời không bỏ lọt tội phạm, bảo vệ quyền con người. Trong quá trình
TTHS, xuất phát từ nhiệm vụ phát hiện nhanh chóng, xử lý kịp thời, chính xác
mọi tội phạm và người phạm tội nên các biện pháp cưỡng chế nhà nước
nghiêm khắc nhất được cơ quan THTT áp dụng để đấu tranh phòng ngừa và
chống tội phạm, các biện pháp TTHS được áp dụng tác động trực tiếp tới việc
3


thực hiện các quyền con người cụ thể của người bị áp dụng và do đó, quyền
con người cũng dễ bị xâm hại nhất bởi hoạt động THTT hình sự.
Thực tiễn TTHS trong những năm qua, mặc dù các cơ quan cũng như
người THTT đã có sự đổi mới, nâng cao hiệu lực hiệu quả từ hoạt động ban
hành văn bản quy phạm pháp luật TTHS, áp dụng thực hiện pháp luật TTHS
đến bảo vệ pháp luật TTHS, tuy nhiên do nhiều nguyên nhân cả khách quan
lẫn chủ quan hiện tượng xâm phạm quyền con người vẫn xảy ra mà nguyên
nhân của nó là do còn bất cập, tồn tại hạn chế trong quy định của pháp luật
TTHS về bảo vệ quyền con người, cơ chế đảm bảo thực hiện bảo vệ quyền
con người trong TTHS còn chưa phù hợp, việc áp dụng pháp luật TTHS
trong quá trình THTT còn chưa thực sự đảm bảo nghiêm túc, khách quan,
khoa học... dẫn tới một số hạn chế trong việc bảo vệ quyền con người bằng
pháp luật TTHS đặt ra cho khoa học pháp lý Việt Nam nhiều câu hỏi cần giải
đáp chính xác nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn pháp lý, đáp ứng yêu cầu
phù hợp với sự phát triển tiến bộ chung của khoa học pháp lý thế giới trong
vấn đề bảo vệ các quyền con người.

Vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề bảo vệ quyền con người bằng pháp luật
TTHS Việt Nam trên cơ sở lý luận khoa học, xuất phát từ thực tiễn TTHS
Việt Nam đồng thời tiếp cận, tiếp thu những yếu tố hợp lý tiến bộ của TTHS
quốc tế để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền con người bằng
pháp luật TTHS, tìm ra những tồn tại, hạn chế trong quy định bảo vệ quyền
con người của pháp luật TTHS Việt Nam thực định để đề ra những giải pháp,
kiến nghị hoàn thiện pháp luật TTHS nhằm tăng cường việc bảo vệ quyền con
người bằng pháp luật TTHS Việt Nam là vấn đề có tính thời sự cấp bách, có ý
nghĩa, giá trị to lớn cả về mặt lý luận khoa học TTHS cũng như đối với thực
tiễn TTHS nhằm phát huy cao nhất giá trị bảo vệ quyền con người bằng pháp

4


luật TTHS đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đích thực ở nước ta.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Trong khoa học pháp lý Việt Nam, vấn đề bảo vệ quyền con người bằng
pháp luật chuyên ngành đã được nhiều tác giả nghiên cứu ở với các góc độ,
mức độ và cấp độ nghiên cứu khác nhau. Nghiên cứu về mặt lý luận bảo vệ
quyền con người bằng pháp luật trong lĩnh vực hình sự, tố tụng hình sự và thi
hành án hình sự có "Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền con người bằng
pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự" của GS.TSKH Lê Văn Cảm trong
chuyên khảo “Bảo đảm quyền con người trong tư pháp hình sự” do nhà xuất
bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 2010; Đề tài
khoa học cấp Đại học Quốc gia năm 2005 “Bảo vệ quyền con người bằng
pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự trong giai đọan xây dựng Nhà
nước pháp quyền Việt Nam” do GS.TSKH Lê Văn Cảm, TS Nguyễn Ngọc
Chí, Ths Trịnh Quốc Toản đồng chủ trì; TS. Trần Quang Tiệp với "Bảo vệ
quyền con người trong luật hình sự, luật tố tụng hình sự Việt Nam" nhà xuất

bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 2004…
Nghiên cứu về bảo vệ quyền con người bằng pháp luật TTHS nói
chung có: luận án tiến sĩ năm 2008 "Bảo vệ quyền con người trong tố tụng
hình sự Việt Nam" của Nguyễn Quang Hiền; của TS Nguyễn Ngọc Chí với
“Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật tố tụng hình sự” - Tạp chí Khoa học
của Đại học Quốc gia Hà Nội số 23 năm 2007 và một số công trình nghiên
cứu khoa học luật TTHS khác.
Nghiên cứu bảo vệ quyền của một số chủ thể cụ thể tham gia TTHS
hoặc bảo vệ quyền cụ thể của người tham gia TTHS bằng pháp luật TTHS có:
Lại Văn Trình với luận án tiến sĩ luật học "Bảo đảm quyền con người của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS Việt Nam” năm 2011 tại Trường
5


Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh; PGS. TS. Phạm Hồng Hải với “Bảo
vệ quyền bào chữa của người bị buộc tội” do nhà xuất bản Công an nhân dân
ấn hành năm 1999; “Hoàn thiện các quy định về bị can, bị cáo” - Tạp chí
Kiểm sát số 1 năm 2009; của TS, Luật sư Phan Trung Hoài với “Hoàn thiện
pháp luật về luật sư ở Việt Nam” - Nhà xuất bản Tư pháp xuất bản, Hà Nội,
năm 2006…
Năm 2010, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh
xuất bản chuyên khảo “Bảo đảm quyền con người trong tư pháp hình sự” do
TS. Võ Thị Kim Oanh chủ biên với các công trình khoa học như: “Những vấn
đề chung về bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật trong lĩnh vực tư
pháp hình sự” của tác giả TSKH. GS. Lê Văn Cảm; “Bảo vệ quyền con người
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong TTHS đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp” của PGS. TS. Trần Văn Độ; “Bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị
cáo - Một trong các nguyên tắc quan trọng góp phần bảo đảm quyền con
người trong tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả TS. Nguyễn Bá Ngừng;
“Đảm bảo quyền con người của bị can, bị cáo là người chưa thành niên theo

quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003” của NCS Nguyễn Hữu Thế
Trạch; “Quyền của người bị hại và vấn đề bảo vệ người bị hại trong tố tụng
hình sự Việt Nam” của ThS. Lê Nguyên Thanh; “Một số vấn đề bảo vệ quyền
con người trong tố tụng hình sự Việt Nam” của TS. Vũ Văn Nhiêm; “Bảo vệ
quyền con người trong hoạt động điều tra vụ án hình sự của đội ngũ điều tra
viên trong lực lượng cảnh sát nhân dân” của PGS. TS. Phạm Quang Phúc…
và một số công trình nghiên cứu khoa học về bảo vệ quyền con người bằng
pháp luật TTHS khác.
Đặc biệt, mới đây nhất, năm 2013 trong Báo cáo tổng hợp nghiên cứu
đề tài trọng điểm cấp Đại học Quốc gia (Mã số: QG.TĐ.10.16) với đề tài
“Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật về tư pháp hình sự - Lý luận,
6


thực trạng và hoàn thiện pháp luật” được triển khai từ năm 2010 đến năm
2013 do GS.TSKH Lê Văn Cảm (chủ trì) đã trình bày các quan điểm mang
tính phổ quát, khoa học về bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự,
pháp luật TTHS và pháp luật về thi hành án hình sự, nhiều vấn đề về lý luận
bảo vệ quyền con người bằng pháp luật tư pháp hình sự đã được làm sáng tỏ
về mặt khoa học trong đề tài này.
Qua nghiên cứu các công trình, đề tài khoa học trên thấy: Nhóm tác giả
Lê Văn Cảm, Nguyễn Ngọc Chí và Trịnh Quốc Toản đưa ra quan điểm phổ
quát khoa học vấn đề bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự và pháp
luật TTHS, một số tác giả khác đi sâu nghiên cứu việc bảo vệ một quyền cụ
thể trong TTHS là quyền bào chữa của bị can, bị cáo (Phạm Hồng Hải,
Nguyễn Văn Tuân, Hoàng Thị Sơn, Phan Trung Hoài, Nguyễn Bá Ngừng…);
tác giả Trần Văn Độ nghiên cứu việc bảo vệ quyền con người của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo; tác giả Nguyễn Hữu Thế Trạch nghiên cứu việc bảo
vệ quyền con người của người chưa thành niên; tác giả Lê Nguyên Thanh
nghiên cứu bảo vệ quyền con người của người bị hại; hoặc nghiên cứu bảo vệ

quyền con người trong chế định áp dụng biện pháp ngăn chặn trong TTHS
(Trần Quang Tiệp, Nguyễn Văn Điệp, Nguyễn Mai Bộ…); một số khác thì đề
cập đến việc bảo đảm quyền con người trong các nguyên tắc tố tụng (Nguyễn
Ngọc Chí, Hoàng Thị Sơn, Bùi Kiên Điện, Nguyễn Thái Phúc…). Đặc biệt,
tác giả Nguyễn Ngọc Chí đi sâu phân tích khoa học các nguyên tắc cơ bản của
luật TTHS trong việc bảo vệ quyền con người.
Khi tiếp cận nghiên cứu các công trình đã được công bố trên thấy về cơ
bản nội dung đề cập đến vấn đề bảo vệ quyền con người bằng quy định của
pháp luật về tư pháp hình sự cũng như bảo vệ quyền con người bằng pháp luật
TTHS, các tác giả đã đưa ra những khái niệm cơ bản, đặc trưng cũng như yêu
cầu của việc bảo vệ quyền con người bằng pháp luật tư pháp hình sự, bằng pháp
luật TTHS, đồng thời các tác giả cũng đã chỉ ra một số tồn tại hạn chế và đề
7


xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật TTHS về bảo vệ
quyền con người. Đây thực sự là những luận cứ khoa học có giá trị lý luận cũng
như thực tiễn TTHS sâu sắc về vấn đề bảo vệ quyền con người.
Các quan điểm lý luận khoa học về vấn đề bảo vệ quyền con người
bằng pháp luật TTHS trong các công trình khoa học này có vai trò đặc biệt
quan trọng, có ý nghĩa to lớn đối với nhận thức của tác giả luận văn về đề tài
nghiên cứu, đã gợi mở nhiều ý tưởng khoa học và là những tài liệu rất bổ ích
và được tác giả luận văn sử dụng trong quá trình nghiên cứu làm luận văn tốt
nghiệp của mình.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu các chuyên khảo, bài viết cũng như các
công trình khoa học về bảo vệ quyền con người bằng pháp luật TTHS Việt
Nam nêu trên thấy vẫn còn một số vấn đề lý luận quan trọng cần phải được
làm sáng tỏ hơn về mặt khoa học làm cơ sở cho việc nghiên cứu về bảo vệ
các quyền con người bằng pháp luật TTHS, làm có căn cứ khoa học vững
chắc để đề xuất những kiến giải lập pháp và giải pháp nâng cao hiệu quả bảo

vệ các quyền con người bằng pháp luật TTHS Việt Nam.
Nhận thấy bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật TTHS là đề tài
rất khó, có phạm vi nghiên cứu rất rộng lớn, phức tạp, tuy vậy, việc làm sáng
tỏ vấn đề bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật TTHS có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng cả trên phương diện lý luận nhận thức cũng như thực tiễn hoạt
động TTHS nên chúng tôi chọn đề tài “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam” làm đề
tài nghiên cứu trong luận văn thạc sĩ của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
+ Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về yêu cầu bảo vệ các quyền
con người bằng pháp luật TTHS, đồng thời nghiên cứu thực trạng quy định
pháp luật TTHS làm sáng tỏ những quy định về bảo vệ các quyền con người,
8


phát hiện, phân tích một số tồn tại, bất cập hạn chế của pháp luật TTHS thực
định và đưa ra một số kiến nghị, giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật
TTHS nhằm tăng cường việc bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật
TTHS Việt Nam.
+ Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là:
- Làm rõ cơ sở lý luận về quyền con người và yêu cầu bảo vệ các quyền
con người bằng pháp luật TTHS; phân tích có hệ thống các biện pháp bảo vệ
quyền con người trong pháp luật TTHS Việt Nam; làm rõ những yêu cầu đặc
thù về bảo vệ các quyền con người trong các giai đoạn TTHS khác nhau;
- Phân tích các quy định của BLTTHS 2003 về bảo vệ các quyền con
người đồng thời tìm ra một số tồn tại, hạn chế, bất cập của pháp luật TTHS
Việt Nam ảnh hưởng tới việc bảo vệ các quyền con người trong thực tiễn điều
tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự cũng như thi hành bản án, quyết định có hiệu

lực pháp luật của Tòa án;
- Kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật
TTHS nhằm tăng cường bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật TTHS.
+ Phạm vi nghiên cứu:
Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật TTHS có nội dung rộng
lớn, phạm vi bao quát, đề cấp tới rất nhiều vấn đề, xuyên suốt toàn bộ các giai
đoạn của TTHS, liên quan đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ
quan THTT, người THTT, liên quan đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của
người tham gia tố tụng trong TTHS…Trong phạm vi nghiên cứu luận văn
thạc sĩ của của mình do còn những hạn chế nhất định về điều kiện cũng như
khả năng nghiên cứu, tác giả luận văn chỉ xin được đề cập đến những vấn đề
mà theo quan điểm cá nhân là chủ yếu, quan trọng và có ảnh hưởng nhất đối

9


với việc bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật TTHS Việt Nam, cụ thể
là làm sáng tỏ hơn nữa về mặt khoa học đối với:
- Khái niệm, ý nghĩa, những đặc điểm cơ bản của bảo vệ các quyền
con người bằng pháp luật TTHS.
- Pháp luật TTHS Việt Nam kể từ 1945 đến nay với việc bảo vệ các
quyền con người trong TTHS.
Một số tồn tại, hạn chế của BLTTHS 2003 trong việc bảo vệ các quyền
con người và kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện BLTTHS 2003 nhằm
tăng cường bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật TTHS Việt Nam.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác Lênin (duy vật biện chứng và duy vật lịch sử), tư tưởng Hồ Chí Minh và các
quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà nước và Pháp luật, về Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về bảo vệ quyền con người.
Việc nghiên cứu được thực hiện từ góc độ lý luận chung về quyền con

người nói chung và từ góc độ TTHS nói riêng.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng bao gồm: phương
pháp phân tích để làm rõ nội dung của đối tượng nghiên cứu, phương pháp
tổng hợp để khái quát đối tượng nghiên cứu, phương pháp lịch sử để làm rõ
tiến trình hình thành, phát triển của đối tượng nghiên cứu, phương pháp so
sánh để thấy sự giống và khác nhau của cùng đối tượng nghiên cứu, phương
pháp thống kê để minh họa, dẫn chứng cho vấn đề nghiên cứu.
5. Những đóng góp mới của luận văn
- Luận văn đã góp phần làm rõ thêm một số vấn đề lý luận về quyền con
người, về yêu cầu bảo vệ các quyền con người trong TTHS; hệ thống hóa
được một số biện pháp bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật TTHS;

10


làm rõ những đòi hỏi đặc thù của yêu cầu bảo vệ các quyền con người trong
các giai đoạn tố tụng khác nhau.
- Luận văn đã phân tích có hệ thống các quy định của Bộ luật TTHS
Việt Nam trong việc bảo vệ các quyền con người, từ đó tìm ra được một số
tồn tại hạn chế, bất cập trong một số quy định của BLTTHS 2003 trong việc
bảo vệ các quyền con người.
- Luận văn đã đưa ra được một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn
thiện quy định của pháp luật TTHS Việt Nam nhằm tăng cường bảo vệ các
quyền con người bằng pháp luật TTHS Việt Nam.
6. Ý nghĩa khoa học, thực tiễn của đề tài
- Đề tài - luận văn đóng góp một số ý kiến khiêm tốn trong việc giải
quyết về mặt lý luận khoa học vấn đề bảo vệ các quyền con người bằng pháp
luật TTHS.
- Đề tài - luận văn là một tài liệu tham khảo trong hoạt động lập pháp
TTHS, trong học tập, nghiên cứu về pháp luật TTHS cũng như trong thực tiễn

điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự cũng như thi hành bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật của Tòa án.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương.
- Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về việc bảo vệ các quyền
con người bằng pháp luật TTHS.
- Chƣơng 2: Một số quy định cơ bản của pháp luật TTHS thực định
Việt Nam trong việc bảo vệ các quyền con người.
- Chƣơng 3: Một số tồn tại, hạn chế và kiến nghị một số giải pháp
hoàn thiện BLTTHS 2003 nhằm tăng cường việc bảo vệ các quyền con người.

11


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ VIỆC
BẢO VỆ CÁC QUYỀN CON NGƢỜI BẰNG PHÁP LUẬT TTHS
1.1. Khái niệm bảo vệ quyền con ngƣời bằng pháp luật TTHS
1.1.1. Khái niệm quyền con người
Trong lịch sử chính trị - tư tưởng của nhân loại, thuật ngữ quyền con
người (nhân quyền) thường được sử dụng, nhưng cho đến nay chưa có quan
niệm hoàn toàn thống nhất về quyền con người trên phạm vi toàn thế giới
cũng như trong phạm vi mỗi quốc gia.
Trên lập trường duy vật và trên cơ sở phương pháp luận khoa học biện
chứng, chủ nghĩa Mác- Lênin đưa ra quan niệm về vấn đề quyền con người
xuất phát từ quan niệm coi con người vừa là sản phẩm tự nhiên, vừa là sản
phẩm của xã hội, và do đó quyền con người "Về bản chất bao hàm cả hai mặt
tự nhiên và xã hội" [4, tr.12].
Xét về mặt tự nhiên, C.Mác cho rằng, con người là "động vật xã

hội" [4, tr.855] có khả năng "tái sinh ra con người", con người là động vật cao
cấp nhất trong quá trình tiến hóa. Do đó, về mặt này quyền con người trước
hết là một thuộc tính tự nhiên. Quyền con người không phải là một "tặng vật",
do giai cấp thống trị ban phát thông qua nhà nước mà quyền con người trong
hình thức lịch sử tự nhiên của nó mang bản chất tự nhiên, được thể hiện ở
quyền được sống, quyền tự do, quyền được sáng tạo, phát triển, quyền được
đối xử như con người, xứng đáng với con người.
Xét về mặt xã hội, con người mặc dù là động vật cao cấp nhất của tự
nhiên, nhưng ngay khi tiến hóa trở thành động vật cao cấp, con người đã sống
thành bầy đàn và trở thành sản phẩm của lịch sử xã hội. Trong luận cương thứ
VI về Phoi-ơ-bắc, C.Mác cho rằng: "Trong tính hiện thực của nó, bản chất
con người là tổng hòa những quan hệ xã hội" [4, tr.21]. Do đó xét về khía
12


cạnh xã hội, thì "quyền con người, ngay từ khi có xã hội loài người, bên cạnh
bản tính tự nhiên còn in đậm bản tính xã hội" [4, tr.13]. Theo Mác: "Quyền
con người là những đặc quyền chỉ có ở con người mới có, với tư cách là con
người, là thành viên xã hội loài người" [3, tr.14].
Khi xã hội hình thành giai cấp, hình thành nhà nước đã tạo ra những
chuyển biến có tính "bước ngoặt" trong sự biến đổi mối quan hệ tương quan
giữa bản tính tự nhiên và bản tính xã hội của quyền con người. Đi kèm xã hội
có giai cấp là mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp; do đó, trong điều kiện
xã hội có giai cấp thì bản tính xã hội trở thành bản tính giai cấp. Và ngay cả
bản tính tự nhiên, những giá trị phổ biến của quyền con người cũng tất yếu
chịu sự chi phối của giai cấp thống trị xã hội.
Mặt khác, quyền con người, kể cả quyền tự nhiên, bẩm sinh còn bị ràng
buộc, chi phối vào chính khả năng khám phá chinh phục tự nhiên của chính
con người, nghĩa là phụ thuộc vào khả năng hoàn thiện, phát triển của con
người, sự phát triển của lực lượng sản xuất, trình độ phát triển kinh tế - xã

hội. Con người càng có khả năng chế ngự, chinh phục thiên nhiên bao nhiêu
thì tự do, quyền con người ngày càng được mở rộng, ngày càng được đảm bảo
bấy nhiêu.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quyền con người không phải
chỉ là phép cộng đơn giản đối với hai quan niệm về quyền con người nêu trên,
mà từ phân tích nêu trên cho thấy bản chất hai mặt tự nhiên và xã hội của
quyền con người có những thuộc tính phức tạp và luôn có sự thống nhất giữa
hai mặt đối lập.
Như vậy, có thể hiểu quyền con người là một phạm trù tổng hợp, vừa là
"chuẩn mực tuyệt đối" mang tính phổ biến, vừa là "sản phẩm tổng hợp của
một quá trình lịch sử lâu dài luôn luôn tiến hóa và phát triển". Quyền con
người "không thể tách rời", đồng thời cũng không hoàn toàn phụ thuộc vào
13


trình độ phát triển kinh tế - xã hội... Quyền con người là một tổng thể những
quyền gắn bó với nhau trong mối tương quan biện chứng, đó là quyền cá nhân
và quyền của dân tộc cộng đồng, quyền chính trị - dân sự và kinh tế văn hóa
xã hội, quyền của cá nhân đi đôi với nghĩa vụ đối với xã hội...
Trong khoa học pháp lý Việt Nam, khái niệm quyền con người cũng đã
được đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu khoa học:
GS.TSKH Lê Văn Cảm trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng của Chủ nghĩa Mác - Lênin, từ việc nghiên cứu bảo vệ quyền con
người trong thực tiễn quốc tế cũng như ở Việt Nam đã đưa ra khái niệm đầy
đủ và sâu sắc về quyền con người mà theo đó:
Quyền con người là một phạm trù lịch sử cụ thể, là giá trị cao quý
nhất được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại và là đặc
trưng vốn có cần được tôn trọng và không thể bị tước đoạt của bất
kỳ cá nhân con người nào sinh ra trên trái đất, đồng thời phải được
bảo vệ bằng pháp luật bởi các quốc gia thành viên liên hợp quốc,

cũng như bởi cộng đồng quốc tế” [6, tr. 11]
PGS.TS Nguyễn Văn Động đưa ra nhận xét chung về quyền con người
đó là:
a) Là những giá trị quý báu được thừa nhận chung bởi toàn thế giới
đồng thời gắn bó chặt chẽ với sự tồn tại và phát triển của mỗi cá
nhân, mỗi quốc gia, mỗi dân tộc và cả cộng đồng quốc tế; b) Trực
tiếp liên quan tới các lĩnh vực sinh hoạt vật chất và tinh thần của
con người và góp phần quan trọng vào sự hình thành và phát triển
nhân cách, tính nhân đạo và nhân văn của con người; c) các quyền
con người tạo thành hệ thống thống nhất, quan hệ tác động lẫn
nhau, phụ thuộc vào nhau…[25, tr. 52-53].

14


PGS. TS. Trần Ngọc Đường cho rằng: tựu chung lại, khái niệm về quyền
con người được thể hiện ở các loại quan niệm như sau:
- Quan niệm thứ nhất, cho rằng quyền con người là đặc quyền tự nhiên.
Trong ý nghĩa ban đầu, thuyết pháp luật tự nhiên ra đời nhằm đáp ứng nhu
cầu tự do của con người; khẳng định quyền con người là tự nhiên, vốn có,
nhằm đối lập, phủ nhận quan niệm quyền con người tự do vương quyền và
thần quyền ban phát, tặng cho quyền tự nhiên.
- Quan niệm thứ hai, xem con người cũng như quyền con người trong
tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Quyền con người với tính chất là thuộc tính
bẩm sinh, tự nhiên, không được đặt ra trong xã hội thị tộc khi chưa có sự vi
phạm quyền con người. Chỉ khi xã hội có giai cấp, Nhà nước có sự vi phạm
quyền con người thì vấn đề con người mới được đặt ra trước nhân loại.
Học thuyết Mác - Lênin là một chỉnh thể thống nhất thể hiện những tư
tưởng nhân văn chân chính nhất của loài người, là sự kế thừa một cách biện
chứng những giá trị tinh hoa của con người. C.Mác đã xuất phát từ con người

là một thực thể thống nhất, một “sinh vật – xã hội”. Do đó, quyền con người
là sự thống nhất biện chứng giữa “quyền tự nhiên” (như một đặc quyền vốn
có và chỉ con người mới có) và “quyền xã hội” - sự chế định bằng các quy chế
pháp lý nhằm điều chính các mối quan hệ xã hội.
Vì vậy trong điều kiện ngày nay, việc đưa ra khái niệm đúng đắn về
quyền con người phải giải quyết được các quan hệ giữa cá nhân với xã hội,
giữa tính nhân loại với tính giai cấp, giữa các giá trị đạo đức với pháp luật và
quyền lực, giữa quan hệ quốc tế với lợi ích quốc gia, giữa khả năng và nhu
cầu tự nhiên với những nỗ lực chủ quan:
Một là, quyền con người là những giá trị gắn với mỗi con người vừa
với tư cách là cá nhân, vừa với tư cách là thành viên xã hội. Vì vậy, quyền con

15


người vừa mang thuộc tính cá nhân, vừa thể hiện lợi ích quốc gia, dân tộc,
cộng đồng.
Hai là, quyền con người là những giá trị phải được xã hội hóa bằng
cách thể chế hóa thành các quyền năng cụ thể, có tính phổ cập, cần thiết cho mọi
người, không phân biệt chủng tộc, sắc tộc, tôn giáo, ngôn ngữ, giới tính…
Ba là, quyền con người vừa là thuộc tính tự nhiên của con người, vừa
là những giá trị sản sinh trong đời sống cộng đồng, gắn liền với một nhà nước
cụ thể. Ghi nhận quyền con người, pháp luật phản ánh các nhu cầu và khả
năng khách quan phù hợp với chế độ chính trị, kinh tế, lịch sử, dân chí cụ
thể… Chỉ có thông qua pháp luật thì các giá trị của con người với tư cách là
tự nhiên và xã hội mới trở thành quyền được xác định và mới bảo đảm trở
thành hiện thực trong thực tiễn.
Và như vậy, “Quan niệm nhân quyền vừa khẳng định cơ sở tự nhiên và
giá trị nhân loại của quyền, đồng thời cũng thừa nhận thuộc tính xã hội - chính
trị và lịch sử cụ thể của quyền con người thuộc một quốc gia, một dân tộc”

[27, tr.21].
1.1.2 Khái niệm hoạt động tố tụng hình sự
Trong khoa học luật TTHS đang được chấp nhận khá phổ biến khái
niệm TTHS như sau:
Tố tụng hình sự là cách thức, trình tự tiến hành các hoạt động của
cơ quan THTT, của người THTT, người tham gia tố tụng, của các
cơ quan Nhà nước khác và các tổ chức xã hội để giải quyết vụ án
hình sự theo quy định của pháp luật TTHS. Nói cách khác, tố tụng
hình sự là hoạt động khởi tố, điều tra vụ án hình sự của Cơ quan
điều tra, hoạt động truy tố người phạm tội ra trước Tòa án của Viện
kiểm sát, hoạt động xét xử vụ án hình sự của Tòa án và hoạt động

16


thi hành bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án [57,
tr.786].
Hoạt động TTHS là hoạt động của các chủ thể quan hệ pháp luật TTHS
bao gồm cơ quan THTT và người THTT, cụ thể là hoạt động khởi tố, điều tra
vụ án của Cơ quan điều tra và Điều tra viên, hoạt động truy tố bị can của Viện
kiểm sát và Kiểm sát viên, hoạt động xét xử Tòa án và Thẩm phán, Hội thẩm,
Thư ký tòa án. Tham gia vào quá trình tố tụng hình sự còn những người tham
gia tố tụng khác, họ có thể là người tham gia tố tụng có quyền lợi và nghĩa vụ
pháp lý liên quan đến vụ án hoặc đến quá trình tố tụng như người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Họ có thể tham gia tố tụng với tư cách người
bào chữa, người bảo vệ quyền lợi cho đương sự hoặc những người tham gia tố
tụng theo nghĩa vụ hoặc trách nhiệm nghề nghiệp hoặc tham gia tố tụng theo
quy định của pháp luật như người làm chứng, người giám định, người phiên
dịch v.v…

Hoạt động tiến hành TTHS của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm
xác định sự thật khách quan và xử lý vụ án hình sự đã xảy ra với yêu phát
hiện nhanh chóng, xử lý chính xác khách quan toàn diện và đầy đủ mọi tội
phạm và người phạm tội, thực hiện hiệu quả nhiệm vụ đấu tranh phòng ngừa
và chống tội phạm nhằm bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, lợi ích Nhà nước, lợi
ích hợp pháp của công dân, bảo vệ quyền con người. Hoạt động tiến hành
TTHS đòi hỏi phải được tiến hành thuân thủ triệt để, nghiêm túc các quy định
của BLTTHS và các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ TTHS.
Xuất phát từ chức năng nhiệm vụ của hoạt động TTHS là đấu tranh,
phát hiện, ngăn chặn và xử lý tội phạm, người phạm tội, đảm bảo mọi hành vi
phạm tội đều phải ngăn chặn kịp thời, xử lý hiệu quả, đảm bảo trật tự an toàn
xã hội nên trong quá trình thực hiện TTHS, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
17


phải áp dụng những biện pháp TTHS đối với người bị buộc tội dẫn tới hoạt
động TTHS là hoạt động dễ xâm hại nhất tới quyền con người và do vậy, để
hạn chế thấp nhất tới những hậu quả không mong muốn này có thể xảy ra, bảo
vệ quyền con người trong TTHS, pháp luật TTHS phải quy định khoa học,
chính xác, đầy đủ và phù hợp với pháp luật TTHS tiến bộ thế giới về các quy
định điều chỉnh quan hệ TTHS nhằm đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của hoạt
động TTHS mặt khác bảo vệ vững chắc quyền con người.
1.1.3 Khái niệm bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật TTHS
Khoa học pháp lý Việt Nam trên cơ sở thừa nhận chung về vai trò
không thể thiếu đối với việc bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật
TTHS đã có nhiều quan niệm, khái niệm về bảo vệ các quyền con người bằng
pháp luật TTHS được đưa ra. Trong đó đặc biệt phải kể đến quan điểm của
GS. TSKH. Lê Văn Cảm trên cơ sở lý luận khoa học, đánh giá đầy đủ yêu cầu
của một hệ thống pháp luật TTHS cũng như cơ chế TTHS hoàn chỉnh, tiến bộ,
nhân đạo, văn minh đảm bảo yêu cầu bảo vệ các quyền con người đã đưa ra

quan điểm khoa học về khái niệm bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật
TTHS đó là:
Sự điều chỉnh đầy đủ về mặt lập pháp, sự thực thi chính xác về mặt
hành pháp và sự đảm bảo tối đa về mặt tư pháp các quy định của
pháp luật tố tụng hình sự để làm cho các quy định đó phù hợp với
các nguyên tắc và các quy phạm tương ứng của pháp luật quốc tế
trong lĩnh vực tư pháp hình sự, được tuân thủ, chấp hành và áp dụng
một cách nghiêm chỉnh, thống nhất và triệt để bởi các cơ quan bảo
vệ pháp luật và Tòa án [5, tr. 224].
Theo đó, bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật TTHS thể hiện
đầy đủ ở các nội dung sau:

18


×