Tải bản đầy đủ (.docx) (114 trang)

Hình tượng ông hoàng bảy từ văn bản đến đời sống sinh hoạt, thực hành văn hóa, tín ngưỡng đương đại(nghiên cứu dưới lí thuyết nhân học ứng dụng)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.4 MB, 114 trang )

LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến Thạc sĩ
Nguyễn Thị Hường - người đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ tôi trong quá trình làm
khóa luận.
Tôi cũng chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn đã yêu
thương, chỉ dạy cho tôi từ những điều nhỏ nhất.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến bác Minh - phó ban quản lí di tích đền Bảo Hà
và các thanh đồng đạo quan, thủ nhang đồng đền đã cung cấp thông tin mới lạ,
bổ ích để tôi viết bài.
Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè - những người đã
tin tưởng, ủng hộ tôi trong suốt thời gian vừa qua.
Sinh viên

Nguyễn Thị Thanh Phương

1


MỤC LỤC

2


MỞ ĐẦU
1.

Lí do chọn đề tài
Văn hóa dân gian là di sản vô cùng quý báu của dân tộc mà các thế hệ đi
trước bao đời xây đắp và gìn giữ. Ngày nay việc nghiên cứu văn hóa dân gian
không phải để trưng bày, cất giữ trong tủ kính hay trong viện bảo tàng nhằm
bảo tồn những giá trị xưa cũ mà được ứng dụng để giải quyết những vấn đề


hiện tại.
Hiện nay, có rất nhiều hướng nghiên cứu, tiếp cận văn hóa, tín ngưỡng ở
nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, nhân học là ngành nghiên cứu đang được
rất nhiều người quan tâm. Bởi lẽ ngành khoa học này nghiên cứu rất rộng về
các vấn đề của đời sống con người. Nhiều nước trên thế giới đang tìm hiểu
nhân học ở các khía cạnh khác nhau. Tại Việt Nam, hướng nghiên cứu này vẫn
chưa thực sự phổ biến. Vì vậy việc khai thác một vấn đề dưới ánh sáng của
nhân học là một điều mới mẻ và đầy hứa hẹn. Nằm trong hướng nghiên cứu
chung về nhân học, nhân học ứng dụng gắn liền lí thuyết với thực tiễn để giải
quyết những vấn đề mà cuộc sống đặt ra. Đặc biệt đối với những hiện tượng
văn hóa, nhân học ứng dụng nghiên cứu ngọn ngành từ đó đưa ra giải pháp,
quyết sách để cải thiện tình trạng hiện tại và những chiến lược phát triển trong
tương lai.
Khi tìm hiểu về văn học, văn hóa dân gian, chúng tôi nhận thấy nước Việt
ta không chỉ là một dân tộc đã anh dũng, quật cường trong chiến tranh chống
ngoại xâm mà còn là một đất nước có bề dày truyền thống với biết bao tín
ngưỡng, phong tục. Một trong những nét đặc sắc về văn hóa của dân tộc ta là
tín ngưỡng thờ Mẫu. Tín ngưỡng này liên quan chặt chẽ với đất nước vốn xuất
thân từ nền nông nghiệp lúa nước truyền thống-nơi con người trọng tính Nữ
(Mẹ). Trên điện thờ ở đền, chùa, phủ ta vẫn thường thấy hình ảnh của các Mẫu
- đấng tối cao cai quản các miền không gian. Ngoài vị Thánh Mẫu, Chầu, Cô và
Cậu còn có Ông Hoàng – những người anh hùng, đấng tối cao trong điện thần
Đạo Mẫu. Họ ngự ở những ngôi đền linh thiêng và sống mãi trong tâm khảm,
lòng tin của mỗi người dân. Điều này đã cho ta thấy sức mạnh văn hóa, tâm
linh của đạo Mẫu đối với mỗi người dân Việt.
Trong hàng Ông Hoàng, quan Hoàng Bảy là người rất hay giáng đồng và
Ông có nhiệm vụ kén lính bắt đồng. Giá hầu Hoàng Bảy luôn được con nhang đệ
tử trông mong, chờ đợi vì họ muốn xin Ông lộc để buôn bán được thuận lợi.
3



Khi đến đền Bảo Hà – nơi thờ quan Hoàng Bảy, ta mới thấy hết tầm quan trọng
của vị Thánh này trong suy nghĩ của nhân dân. Người dân nô nức đến lễ và xin
phước lộc Ngài. Đền thờ Ngài cũng nhận được sự quan tâm rất lớn từ chính
quyền địa phương và nhân dân sở tại. Không chỉ có vai trò quan trọng trong
điện thần Đạo Mẫu, quan Hoàng Bảy còn làm nên những mốc son trong lịch sử
chống xâm lược. Tuy nhiên, theo tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy việc nghiên cứu
về ông Hoàng Bảy vẫn còn là một khoảng trống lớn. Các công trình nghiên cứu
mới chỉ tập chung vào hàng Thánh Mẫu, vì vậy nghiên cứu về quan Hoàng Bảy
nói riêng và hàng Ông Hoàng nói chung còn là một miền đất hứa với những
người say mê tìm tòi, nghiên cứu.
Qua sự tiếp xúc với thanh đồng đạo quan, con nhang đệ tử chúng tôi
thấy hiểu biết về Ông Hoàng Bảy và các vị Thánh trong Tam Phủ, Tứ Phủ của
nhân dân còn hạn chế. Có nhiều nguời chỉ biết đến tên mà không rõ về lai lịch,
hành trạng, chiến công của các Thánh. Vì thế dẫn đến những cách hiểu lệch lạc
về loại hình văn hóa tín ngưỡng này. Vì vậy việc đưa ra những nghiên cứu
chính xác, cụ thể về nhân vật nghiên cứu và các vị Thánh trong điện thần Đạo
Mẫu là điều cần thiết. Từ những tài liệu tìm được, chúng tôi nhận thấy có nhiều
bản kể truyền thuyết về Ông Hoàng Bảy. Không những vậy, Ngài còn hiện diện
khá rõ trong tâm thức dân gian thông qua việc có rất nhiều bản văn chầu viết
về Ngài. Qua đó, vị Thánh cai quản đất Bảo Hà này lại một lần nữa tiến đến
gần hơn với đời sống thực. Như thế, hình ảnh vị Thánh đất Bảo Hà cứ trở đi
trở lại trong các sáng tác và mang nhiều nét mới mẻ so với hình dung, tưởng
tượng của chúng ta. Vì vậy, việc tìm hiểu về hình tượng vị Thánh này trong
văn bản và trong đời sống sinh hoạt thực hành văn hóa tín ngưỡng là một
điều thú vị.
Ngày nay, các công trình nghiên cứu về hình tượng quan Hoàng Bảy có
ý nghĩa thực tiễn rất lớn và đang nhận được sự quan tâm đặc biệt của những
nhà chức trách. Sở Văn hóa Hà Nội phối hợp với các cơ quan khác đã tổ chức
Liên hoan văn hóa Tín ngưỡng thờ Mẫu thu hút sự tham gia của hàng trăm

thanh đồng và sự chú ý của hàng nghìn người. Tuy nhiên việc tổ chức những
buổi liên hoan văn hóa ấy nghiêng nhiều hơn vào việc thực hành diễn xướng
chứ chưa chú trọng đến việc lí giải, phân tích cội nguồn ý nghĩa của các hành
động sinh hoạt tín ngưỡng trong dân gian. Trong thời gian này, các cơ quan
chức năng đang hoàn thiện hồ sơ để trình UNESCO công nhận Tín ngưỡng
4


Thờ Mẫu là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Vì vậy việc cung cấp
thêm tư liệu, phân tích cụ thể về các phương diện khác nhau của tín ngưỡng
này là một điều vô cùng cần thiết.
Ngoài ra, việc nghiên cứu về Tín ngưỡng thờ Mẹ còn giúp ta vén lên lớp
màn bí ẩn đã bao lên mình di sản này hàng trăm năm nay. Việc làm ấy sẽ đưa
Đạo Mẹ đến gần hơn với đời sống để con người hiện đại hiểu đúng và có thái
độ trân trọng loại hình văn hóa tín ngưỡng này. Ngày nay vẫn còn rất nhiều
người cho rằng việc thờ các vị Thánh Mẫu và tổ chức các buổi hầu đồng là mê
tín dị đoan. Chính hiểu biết mập mờ về tín ngưỡng đã dẫn đến những cách
hiểu sai lệch. Đã đến lúc chúng ta phải gột rửa hết bụi bặm mà thời gian, định
kiến đã khoác lên di sản để trả về cho Tín ngưỡng thờ Mẫu giá trị vốn có của
nó và kéo nét đẹp văn hóa này lại với đời sống thực, không để Tín ngưỡng thờ
Mẫu thoát li hay chơi vơi, chống chếnh. Việc làm cho Tín ngưỡng thờ Mẹ
Sống và Ứng dụng trong cuộc sống hiện đại là điều vô cùng cần thiết. Ta sẽ
chỉ có thể làm được như vậy nếu hiểu đúng bản chất và hiểu sâu về tín
ngưỡng cũng như về từng vị Thánh trong tín ngưỡng đó.
Vì tất cả những lí do kể trên, chúng tôi đã quyết định lựa chọn đề tài
nghiên cứu là: “Hình tượng Ông Hoàng Bảy từ văn bản đến đời sống sinh
hoạt, thực hành văn hóa, tín ngưỡng đương đại (Nghiên cứu dưới lí thuyết
Nhân học ứng dụng)”. Chúng tôi mong rằng đề tài này sẽ mang đến một cái
nhìn mới về hình tượng quan Hoàng Bảy trong truyền thuyết, văn chầu cũng
như các nghi lễ, lễ hội. Xa hơn, chúng tôi còn mong đề tài của mình sẽ cung

cấp thêm những thông tin về lí luận và thực tiễn để Tín ngưỡng thờ Mẫu sẽ
được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại trong
thời gian tới.
2.

Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Đã có một số công trình nghiên cứu về Đạo Mẫu nói chung và Ông
Hoàng Bảy nói riêng ở những mức độ rộng hẹp khác nhau: từ các chuyên
luận, các bài báo đến những bản luận án, luận văn của nghiên cứu sinh và học
viên cao học.Trước hết là việc nghiên cứu về Đạo Mẫu
Vũ Ngọc Khánh với cuốn “Đạo Thánh ở Việt Nam”[15] (2006) đã cung cấp
cho độc giả những tri thức về các vị Thánh Mẫu. Tác giả đã giải thích việc tôn
sùng bốn bà Mẹ cai quản những miền không gian khác nhau. Ngoài ra, đối với
5


mỗi đấng tối cao quyền cai các phủ, tác giả đều sưu tầm những truyền thuyết về
vị Thánh đó.
Khai thác về tín ngưỡng thờ Mẫu với những nét khái lược đã được Thích
Minh Nghiêm trình bày trong cuốn “Nghi lễ thờ Mẫu văn hóa và tập tục” [20]
(2010). Trong tài liệu này, tác giả đã nêu những đặc trưng về nguồn gốc và bản
chất của Tín ngưỡng thờ Mẫu, nghi lễ trình đồng và thờ cúng trong sinh hoạt
văn hóa tín ngưỡng này. Thêm vào đó, tác giả cũng nói về những vị thần được
thờ cúng và lễ hội gắn với Tín ngưỡng đó.
“Lên đồng, hành trình của thần linh và thân phận”[32] ra đời năm 2010 là
cuốn sách nói về nhiều khía cạnh của tín ngưỡng thờ Mẫu: từ việc giới thiệu các
vị Thánh Tam phủ, Tứ phủ tới việc nói đến những người có căn số. Trong tài liệu
này, nghi lễ lên đồng được Ngô Đức Thịnh giới thiệu một cách cụ thể kết hợp so
sánh với các loại hình tương tự: Then của người Tày, Mỡi của người Mường…
Một công trình nữa liên quan đến thờ Mẫu được in năm 2012 là cuốn

“36 giá đồng”[42]. Ở tài liệu này, tác giả đã trình bày hệ thống thần linh Tam
phủ, Tứ phủ, không gian thờ tự, nghi lễ lên đồng… Ngoài ra, cuốn sách còn
chia nguồn gốc lịch sử của Đạo Mẫu thành ba giai đoạn. Giai đoạn tiền sử của
tín ngưỡng này bắt đầu từ khi người Việt thờ các nữ thần thiên nhiên như bà
Nữ Oa vá trời, Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện… Giai đoạn hai là lúc
các thần linh được kết hợp lại trong khái niệm Thánh Mẫu hay Mẹ như Mẹ Âu
Cơ đẻ ra trăm trứng. Giai đoạn cuối cùng là khi khái niệm Thánh Mẫu đã mở
rộng bao hàm cả những nữ anh hùng dân gian-những người có thật nổi lên
trong lịch sử với vai trò là người cai quản các cõi.
“Đạo Mẫu Việt Nam”[33]-một cuốn sách viết rất sâu về Đạo Mẫu xuất
bản năm 2012 . Công trình này là sự tổng hợp và bổ sung của những cuốn
sách viết về Đạo Mẫu mà Ngô Đức Thịnh đã xuất bản trước đó. Ở đây, tác giả
đã đưa ra cái nhìn cụ thể về Đạo thờ Mẹ từ ghi chép, san định đến nghiên cứu.
Ngoài ra, ông còn tìm hiểu về các mảng nghệ thuật tạo hình của Tín ngưỡng
thờ Mẹ và những đặc điểm của tín ngưỡng này trong xã hội đương đại.
Nhà nghiên cứu Ngô Đức Thịnh cũng góp phần làm phong phú hơn cho
kho tư liệu về Đạo Mẫu qua cuốn “Tín ngưỡng trong sinh hoạt văn hóa dân
gian”[34] xuất bản năm 2012. Ở đây, tác giả đã đưa ra hệ thống điện thờ Mẹ
và giải thích nguồn gốc của Tam phủ, Tứ phủ. Ngoài ra, ông cũng nói đến
những lễ hội và nghi lễ liên quan.
6


Năm 2012, Ngô Đức Thịnh tiếp tục ra mắt độc giả cuốn “Tín ngưỡng và
văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam”[35]. Ở đây, nhà nghiên cứu đã đặt thờ Mẫu
trong một số loại hình tín ngưỡng dân gian. Tác giả cũng đưa ra ba dạng
thức thờ Mẫu của người Việt ứng với ba miền: Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ.
Trong cuốn “Văn hóa thờ Nữ thần-Mẫu ở Việt Nam và Châu Á Bản sắc và
giá trị” [37] xuất bản năm 2013, Ngô Đức Thịnh đã sưu tầm những bài viết về
Tín ngưỡng thờ Mẫu của những nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Ở tài

liệu này, các tác giả đã trình bày về việc thờ Nữ thần, Mẫu thần ở Việt Nam
cũng như một số nước Châu Á khác như: Hàn Quốc, Triều Tiên, Trung Quốc…
Việc thờ Mẫu ở Việt Nam trong những bài viết này được giải quyết ở khía cạnh
so sánh với tục thờ Mẫu ở Trung Quốc và giải một số mã tín ngưỡng thờ Mẫu
trong văn hóa Việt.
Gần đây, NXB Dân trí in cuốn “Đạo Mẫu Tam phủ, Tứ phủ” [36] (năm
2013) của tác giả Ngô Đức Thịnh . Tư liệu này cung cấp cho chúng ta cái nhìn
mới mẻ về Đạo Mẫu trong xã hội Việt Nam với những khuynh hướng biến đổi
của nó. Qua đó, tác giả cũng đã phần nào lí giải về sự thay đổi, về những nét
mới của loại hình văn hóa tín ngưỡng truyền thống này.
Tác giả Nguyễn Thị Hiền đã nhìn nhận lên đồng và thờ Mẫu trong sự
đối sánh giữa việc thực hành nghi lễ ở California và Việt Nam trong bài viết:
Lên đồng xuyên quốc gia: những thay đổi trong thực hành nghi lễ Đạo Mẫu ở
California và vùng Kinh Bắc [10]. Ở tài liệu này, nhà nghiên cứu đã trình bày
mối liên hệ giữa các đồng thầy ở miền Bắc Việt Nam với kiều bào nước ngoài.
Họ tìm ra người hòa giải tâm linh để xua đi những khác biệt về chế độ chính
trị xưa, về kinh tế, văn hóa…
Nhà nghiên cứu Vũ Thị Tú Anh trong bài Đạo Mẫu, nghi thức lên đồng
và sự trao quyền lực cho người phụ nữ [1] đã nhắc đến quyền lực mềm có vai
trò điều tiết xã hội. Người phụ nữ bước vào thế giới của các vị Thánh-một
không gian tâm linh khác với thế giới họ đang sống. Phương pháp quyền lực
mềm ở đây là sức mạnh trao truyền, khích lệ người phụ nữ về vẻ đẹp bên
ngoài của họ và làm họ ý thức hơn về bản thân mình. Trên tạp chí nước ngoài,
nhà nghiên cứu này cũng giới thiệu với bạn bè quốc tế biết đến tín ngưỡng
thờ Mẫu tại Việt Nam qua bài viết Worshipping the Mother Goddess: the Đạo
Mẫu movement in Northern VietNam [2]. Trong bài viết này, tác giả đã đặt tín
ngưỡng thờ Mẫu trong hệ thống các tín ngưỡng của nước ta và giới thiệu
7



những nét khái quát về các vị Thánh trong Tam phủ, Tứ phủ. Câu chuyện về
bà chúa Liễu Hạnh cũng được tác giả trình bày. Thêm vào đó, người viết cũng
nói đến một số nơi thờ Mẫu chính…Tài liệu này đã góp phần đưa tín ngưỡng
thờ Mẫu của Việt Nam đến gần hơn với bạn bè quốc tế.
Nằm trong hệ thống tài liệu nghiên cứu về tín ngưỡng thờ Mẫu, một số
công trình có nói đến Ông Hoàng Bảy với những nét khái lược.
Cuốn “36 giá đồng” [42] xuất bản năm 2012 đã đưa ra hình ảnh về giá
hầu quan Hoàng Bảy và lời chú thích về đặc điểm trang phục, hành động của
vị Thánh này. Qua đó, bạn đọc có thể nhìn nhận một cách trực quan về Ngài
và dễ dàng nhận ra Ngài qua những giá hầu.
Năm 2012, Ngô Đức Thịnh xuất bản cuốn “Đạo Mẫu Việt Nam”[33].
Cùng với những công trình trước đó, nhà nghiên cứu đã cho ta thấy diện mạo
chung của tín ngưỡng thờ Mẫu với những thứ bậc khác nhau. Ông Hoàng Bảy
xuất hiện trong hàng các Ông Hoàng. Tác giả cuốn sách cũng sưu tầm bài văn
chầu về vị Thánh này.
Có lẽ “Truyền thuyết – lịch sử đền Bảo Hà và một số đền thờ ở Lào Cai”
[5] do Phạm Văn Chiến xuất bản năm 2015 là cuốn sách viết sâu nhất về quan
Hoàng Bảy. Ngay ở những trang đầu, tác giả đã đưa ra hình ảnh ngôi đền Bảo
Hà linh thiêng cùng với những dòng giới thiệu di tích. Cuốn sách đã đưa ra
rất nhiều bản kể truyền thuyết, chầu văn về Thần vệ quốc Hoàng Bảy và đôi
nét về lễ hội đền Bảo Hà.
Như thế cái tên “Quan Hoàng Bảy” xuất hiện thoáng qua trong một số
tài liệu và chưa có bài nghiên cứu nào tìm hiểu sâu về vị Thánh này. Điều này
vừa là động lực, vừa đặt ra trách nhiệm cho chúng tôi khi tiến hành nghiên
cứu. Trong giới hạn của một khóa luận, chúng tôi không có tham vọng tìm
hiểu tất cả mọi vấn đề của tín ngưỡng mà chỉ tập trung đi sâu vào hình tượng
quan Hoàng Bảy từ văn bản đến đời sống thực hành văn hóa tín ngưỡng của
người Việt. Thông qua đó, người đọc sẽ thấy được sức sống của hình tượng
này trong cuộc sống của mỗi con dân trên dải đất thiêng này.
3.

3.1.

Mục đích nghiên cứu và phạm vi tư liệu
Mục đích nghiên cứu
Chọn và triển khai đề tài “Hình tượng Ông Hoàng Bảy từ văn bản đến
đời sống sinh hoạt, thực hành văn hóa, tín ngưỡng đương đại (Nghiên cứu

8


dưới lí thuyết Nhân học ứng dụng)” chúng tôi mong muốn đạt được mục đích
sau:
-

Tìm hiểu về hình tượng Ông Hoàng Bảy trong truyền thuyết và văn chầu
Thấy được nét đặc sắc của hình tượng Thần vệ quốc Hoàng Bảy trong diễn

-

xướng (lễ hội và nghi thức hầu đồng)
Chỉ ra ý nghĩa của hình tượng này trong đời sống sinh hoạt và trong thực

-

hành văn hóa tín ngưỡng của nhân dân
Chỉ ra ứng dụng của tín ngưỡng trong cuộc sống đương đại đặc biệt là vấn đề

3.2.

4.


khai thác tài nguyên văn hóa
Phạm vi tư liệu
Đề tài “Hình tượng Ông Hoàng Bảy từ văn bản đến đời sống sinh hoạt,
thực hành văn hóa, tín ngưỡng đương đại (Nghiên cứu dưới lí thuyết Nhân
học ứng dụng)” sẽ tìm hiểu về hình tượng Trấn An hiển liệt Thần vệ quốc
Hoàng Bảy qua một số truyền thuyết dân gian, các bài văn chầu và diễn
xướng dân gian về vị Thánh này. Phạm vi tư liệu truyền thuyết về Hoàng Bảy
được người viết khai thác trong sách vở, thư tịch và lời kể dân gian trong
chuyến điền dã. Về văn chầu, chúng tôi tiến hành khảo sát tư liệu qua cuốn
“Đạo Thánh Tam Phủ, Tứ Phủ” của tác giả Bùi Hùng Thắng.
Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài của mình, chúng tôi sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp khảo sát, thống kê, phân loại. Chúng tôi tiến hành khảo
sát những truyền thuyết, các bản văn chầu về Ông Hoàng Bảy. Trên cơ sở
những tư liệu vừa khảo sát được, chúng tôi sẽ tiến hành thống kê và phân loại
nó để tìm hiểu sâu và có một cái nhìn tổng quát về vấn đề.
- Phương pháp phân tích: chúng tôi chú trọng sử dụng phương pháp
này để làm sáng tỏ vấn đề. Dựa trên nguồn tài liệu thu thập được, chúng tôi
phân tích những đặc sắc về nội dung, nghệ thuật. Qua đó, người viết nhận
thấy nét tương đồng và sự sáng tạo của dân gian qua từng thể loại.
- Phương pháp so sánh: chúng tôi đối chiếu sự giống và khác nhau giữa
hình tượng Ông Hoàng Bảy từ truyền thuyết đến văn chầu cũng như đặt Ngài
trong sự đối sánh với một số Ông Hoàng khác.
- Phương pháp điền dã: chúng tôi đã đi đến đền Bảo Hà và một số ngôi
đền khác ở khu vực Lào Cai, Yên Bái. Qua đó, chúng tôi đã thu thập được
nhiều thông tin chân thực sinh động về vấn đề nghiên cứu.
5. Cấu trúc đề tài
9



Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của đề tài gồm ba chương:
Chương 1: Đôi nét về mảnh đất địa đầu Lào Cai và giới thuyết khái
niệm, tình hình khảo sát, thống kê, phân loại
Chương 2: Hình tượng Ông Hoàng Bảy trong truyền thuyết và chầu văn
Chương 3: Hình tượng Ông Hoàng Bảy trong diễn xướng và vấn đề
quản lí tài nguyên văn hóa nơi thờ tự

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: ĐÔI NÉT VỀ MẢNH ĐẤT ĐỊA ĐẦU LÀO CAI VÀ GIỚI THUYẾT
KHÁI NIỆM, TÌNH HÌNH KHẢO SÁT, THỐNG KÊ, PHÂN LOẠI
1.1.

Lào Cai – mảnh đất địa đầu của Tổ quốc
1.1.1. Vị trí địa lý, tự nhiên
Lào Cai là tỉnh vùng cao nằm ở biên giới phía Bắc của Việt Nam, cách
thủ đô hơn 300km đường bộ. Mảnh đất này là vùng giáp ranh giữa Đông bắc
và Tây bắc. Phía Đông giáp tỉnh Hà Giang, phía Tây giáp Sơn La, Lai Châu,
phía Nam giáp Yên Bái và phía Bắc giáp Vân Nam (Trung Quốc) với 203 km
đường biên giới.
Với diện tích 6.383,9 km2, dân số khoảng 626.2 nghìn người (2010)
phân bố trên tám huyện và một thành phố, Lào Cai là vùng đất có vị trí địa lý
quan trọng liên quan đến chính trị, quốc phòng, kinh tế… Trước đây, con sông
Hồng chạy qua Lào Cai là tuyến giao thông huyết mạch nối liền vùng Vân
Nam (Trung Quốc) với vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Như thế, con sông
Hồng không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế, chính trị mà còn là cầu nối hai nền
văn hóa: “Sông Hồng là con đường chuyên chở văn hóa Đông Sơn qua trạm
trung chuyển Lào Cai lên Vân Nam và cũng là một cửa ngõ giao lưu với văn
hóa du mục” [23; 10]. Con sông Hồng cũng góp một phần quan trọng trong

việc hình thành sắc thái văn hóa Lào Cai.
Bên cạnh vị trí cửa ngõ, điều kiện tự nhiên cũng góp phần làm nên nét
riêng của văn hóa Lào Cai. Lào Cai có dãy Hoàng Liên Sơn đồ sộ, có đỉnh
Phanxipang cao 3143m, lại có những thung lũng, cánh đồng lớn. Địa hình có
núi lớn, sông dài ấy là nơi hội tụ linh khí. Khí hậu Lào Cai cũng rất đa dạng.
10


Sự đa dạng về đặc điểm tự nhiên đã mang đến cho vùng đất địa đầu của Tổ
quốc nền văn hóa phong phú, thuận lợi cho việc giao lưu, hội tụ văn hóa.
1.1.2. Về văn hóa, xã hội
Lào Cai là mảnh đất có nhiều tộc người sinh sống: Việt, Mường, Hmong,
La Chí, La Ha, Hà Nhì, Phù Lá, Thái, Nùng, Giáy, Bố Y. Các dân tộc này thuộc
những ngữ hệ khác nhau: Ngữ hệ Nam Á, ngữ hệ Hán – Tạng, ngữ hệ Thái
[23]. Vùng đất này trở thành điểm “hội lưu văn hóa tộc người” (theo Lê Sĩ
Giáo – Lào Cai, vùng hội lưu văn hóa). Mỗi dân tộc lại mang đến cho mảnh đất
này sắc thái văn hóa riêng biệt. Điều này làm nên sự đa dạng và thống nhất
của văn hóa bản địa. Sự đa dạng về văn hóa này được thể hiện từ trong cách
làm nhà cửa, ăn mặc, âm nhạc, văn học đến tôn giáo… Những căn nhà nền
đất, nền nửa sàn nửa đất, nhà sàn, những bộ trang phục dài ngắn khác nhau
và sặc sỡ sắc màu, những điệu múa xòe vòng, xòe chiêng, múa trống, múa gà…
đã trở thành dấu hiệu để phân biệt văn hóa mỗi tộc người.
Với mười sáu tộc người cư trú, mỗi tộc người lại mang đến một nghề
thủ công riêng. Điều này đã làm nên sự đa dạng của nghề thủ công nơi đây.
Một số nghề thủ công tiêu biểu, có giá trị về các mặt kinh tế, văn hóa phải
kể đến như: trồng bông dệt vải, làm thổ cẩm, đan lát, làm mộc, đục đá, làm
giấy…Nhiều nghề đã tạo ra những sản phẩm có thương hiệu như: hàng thổ
cẩm của người Thái, rèn đúc của người Hmong, đồ trang sức của người
Nùng. Nghề thủ công nơi đây mang đậm dấu ấn tộc người. Những sản
phẩm này mang giá trị văn hóa rất lớn.

Là một tỉnh nằm ở cửa ngõ biên giới, hệ thống các di tích đền thờ luôn
gắn liền với lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc. Cho đến
nay, toàn tỉnh Lào Cai đã có khoảng 26 di tích được công nhận là di tích cấp
tỉnh và Quốc gia, trong đó 13 di tích là các đền thờ Mẫu, thờ các danh tướng
có công lớn với dân, với nước.
Mảnh đất Lào Cai cũng là nơi có kho tàng văn học dân gian đồ sộ với
các thể loại từ thần thoại, truyện cổ tích đến câu đố, ca dao. Ứng với mỗi địa
danh lại có một hệ thống truyền thuyết, truyện cổ phong phú. Nằm ở vị trí tiếp
giáp với Trung Quốc, Lào Cai giữ một vị trí chiến lược quan trọng: “Từ thời cổ
đại, các quốc gia Nam Chiếu nhiều lần tiến quân dọc sông Hồng đánh chiếm
phủ Tống Bình (Hà Nội). Từ khi nước ta giành được độc lập đến thế kỉ XVIII,
phong kiến phương Bắc trong tám lần động binh đưa quân xâm lược nước ta
11


thì có sáu lần chúng tiến quân qua Lào Cai” [ 23;17]. Như thế, người dân nơi
đây thường xuyên phải đối mặt với hiểm nguy, với kẻ thù xâm lược. Ý thức
sẵn sàng chiến đấu bảo vệ quê hương đất nước luôn thường trực trong tâm
trí mỗi người. Từ đó, một kho tàng văn hóa dân gian nói về quá trình chống
ngoại xâm và đề cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc được hình thành. Các danh
tướng chống ngoại xâm đã trở thành những vị Thánh được nhân dân tôn thờ,
ngưỡng vọng. Họ trở thành những vị Thần linh trấn yểm vùng biên giới hay
các Thành hoàng bảo vệ cho từng ngôi làng, từng miền đất. Danh tướng
Hoàng Bảy đi vào điện thần Đạo Mẫu và được thờ phụng ở Bảo Hà. Dường
như vùng đất này trở thành nơi quy tụ, tập hợp hệ thống thần linh trong Đạo
Mẫu. Nhằm đáp ứng nhu cầu tâm linh để tăng thêm sức mạnh cho vùng đất,
nhân dân đã rước đức thánh Trần lên thờ. Mẫu Liễu Hạnh – vị thần chủ của
Đạo Mẫu, người cai quản Thiên phủ cũng được thờ để trấn ải vùng biên
cương. Dường như hệ thống thần linh được quy tụ về đây để phù trợ cho con
người trong những trận đối đầu với kẻ thù. Khi chiến tranh qua đi, các vị

Thánh ấy là những Phúc thần ban phát, che chở cho con dân. Như thế công
cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước ta là sự hợp lực của con người và thần linh.
Điều này không chỉ thể hiện tinh thần đoàn kết mà còn cho ta thấy được sự
linh thiêng của linh khí đất Việt.
Với hệ thống đền thờ, Lào Cai cũng là nơi diễn ra nhiều lễ hội. Có những
lễ hội để tưởng nhớ vị Thánh được thờ nhưng cũng có lễ hội mang đậm dấu
ấn văn hóa dân gian Lào Cai. Có thể kể đến là lễ hội xuống đồng. Đất nước ta
vốn là một nước nông nghiệp, vì vậy việc cầu mong mùa màng bội thu là
mong ước muôn đời của nhân dân. Hội xuống đồng là lễ hội cầu mùa đặc sắc
của người Tày ở Lào Cai. Hàng năm vào ngày mùng 5 Tết đến rằm tháng
giêng, người Tày lại mở hội xuống đồng. Thầy cúng sẽ mời thần của các con
suối, các ngọn núi về dự lễ cúng. Qua lễ hội này người ta cầu mong mùa màng
bội thu (lúa tốt như cỏ lau có lác, hạt to như quả đao không có sâu cắn phá,
cá nằm chật suối, chật ao; trâu lợn đầy đàn, vịt gà đầy sân; người người khỏe
mạnh, nhà nhà đông con, bản thêm nhiều trẻ nhỏ, xóm không người yếu đau”
[23; 50]. Mong ước về cuộc sống no đủ về sự sinh sôi nảy nở chẳng bao giờ mờ
nhạt trong tấm trí người dân.
Vùng đất Lào Cai là nơi vừa thuận lợi cho việc giao lưu văn hóa nhưng
cũng là nơi đặt ra nhiều thử thách cho những người làm về văn hóa. Làm thế
12


nào để có thể vừa giao lưu văn hóa vừa có thể bảo tồn những giá trị xưa cũ?
Các dân tộc ở vùng này đều cư trú một cách độc lập và mỗi tộc người lại đề
cao văn hóa, bản sắc của mình. Làm thế nào để văn hóa phát triển một cách
hài hòa, khai thác, phát huy được những điểm mạnh trong văn hóa của từng
tộc người khác nhau là một vấn đề thật khó để có được câu trả lời thỏa đáng.
Bảo tồn và phát triển văn hóa dân gian Lào Cai vừa là cơ hội và cũng là thách
thức đặt ra cho những người làm về văn hóa.
1.2.

1.2.1.

Một số khái niệm
Khái niệm hình tượng
“Từ điển thuật ngữ văn học” định nghĩa về hình tượng như sau: “Hình
tượng là khách thể đời sống được nghệ sĩ tái hiện bằng tưởng tượng sáng
tạo trong những tác phẩm nghệ thuật. (…) Hình tượng văn học tái hiện đời
sống nhưng không phải sao chép y nguyên hình tượng có thật mà tái hiện có
chọn lọc, sáng tạo thông qua trí tưởng tượng và tài năng của người nghệ sĩ
sao cho các hình tượng truyền lại được ấn tượng sâu sắc từng làm cho nghệ
sĩ day dứt, trăn trở cho người khác”. [12;147]
Mảnh đất Lào Cai nằm ở vị trí địa đầu của Tổ quốc có biên giới tiếp
giáp với Trung Quốc. Vùng đất ấy thường xuyên phải đấu tranh với kẻ thù
xâm lược để ngăn chúng tiến vào nước ta. Ý thức bảo vệ chủ quyền vẫn luôn
thường trực trong tâm trí của những người dân nơi đây. Với niềm tự hào, tự
tôn dân tộc và mong muốn được bảo vệ, che chở, những người dân đã xây
dựng lên câu chuyện về những người anh hùng có sử dụng những yếu tố kì ảo
dựa trên nền là sự thật lịch sử. Những nhân vật đời thường ấy được tái hiện
lại bằng trí tưởng tượng phong phú. Nhân vật trong câu chuyện kể của nhân
dân hiện lên mang nét trần tục mà cũng rất thiêng liêng. Nhân dân muốn
thiêng hóa nhân vật được kể và coi họ như một vị Thánh. Người anh hùng vệ
quốc Hoàng Bảy trong tâm thức nhân dân không chỉ là một dũng tướng giúp
dân đánh đuổi quân thù mà còn là một người luôn đau đáu lo lắng cho nhân
dân. Ngài không nỡ lòng chứng kiến cảnh dân đói khổ, làng mạc xơ xác, tiêu
điều. Vì thế Ngài ở lại đây giúp dân làm ăn buôn bán. Từ đó, nhân dân tôn
sùng Ông và Ông trở thành vị Thánh trong Tam phủ, Tứ phủ. Cốt lõi lịch sử
kết hợp với sự tưởng tượng của con người về đấng tối linh ấy, nhân dân đã
sáng tạo hình tượng quan Hoàng Bảy qua những câu chuyện kể. Tùy vào
hoàn cảnh, mục đích sử dụng cũng như đặc điểm của chất liệu và thể loại
13



sáng tác, hình tượng quan Hoàng Bảy được khắc họa với những nét chung và
nét riêng đặc sắc. Nghiên cứu hình tượng này trong sự biến đổi từ những câu
chữ trên trang viết đến thực hành diễn xướng trong lễ hội, nghi lễ hầu đồng là
một điều khá thú vị.
1.2.2.

Khái niệm văn bản
Trước đây khái niệm văn bản được hiểu theo nghĩa hẹp chỉ một tác
phẩm của một nhà văn, nhà thơ hoặc một văn kiện… “Bản” là “gốc”, “văn” là
“chữ”, văn bản được hiểu theo nghĩa là “văn tự”. Nếu hiểu khái niệm văn bản
như vậy người ta sẽ chỉ thấy cái được ghi lại và bỏ qua phần thực hành diễn
xướng. Hiện nay, văn bản được hiểu theo nghĩa khá rộng: “Văn bản là bất cứ
chuỗi kí hiệu nào có khả năng tiềm tàng có thể đọc ra nghĩa được, bất kể là có
do ngôn ngữ tạo thành hay không. Do đó một nghi thức, một điệu múa, một
nét mặt , một bài thơ đều là văn bản” [12; 395].
Với sự mở rộng cách nhìn nhận, cần phải phân tách khái niệm “văn bản
văn học” so với những văn bản khác. Vậy “văn bản văn học” khác gì so với
những bài báo, bài hát, điệu múa…? Các nhà nghiên cứu dựa vào ba tiêu chí
để phân biệt “văn bản văn học”. Trước hết, đó là những văn bản đi sâu phản
ánh hiện thực khách quan và khám phá thế giới tình cảm, tư tưởng và thỏa
mãn nhu cầu thẩm mĩ của con người. Tiêu chí thứ hai để phân biệt văn bản
văn học đó là ngôn ngữ mà các tác giả sử dụng. Ngôn ngữ trong tác phẩm
văn học không phải là thứ ngôn ngữ thô nhám, xù xì của cuộc sống mà là
ngôn ngữ nghệ thuật, có tính hình tượng, tính thẩm mĩ cao. Nhà văn, nhà thơ
khi xây dựng nên tác phẩm văn học thường sử dụng những phép tu từ như
nhân hóa, ẩn dụ, hoán dụ… để tạo nên tính hàm súc và gợi nhiều liên tưởng
trong bạn đọc. Cuối cùng, mỗi văn bản văn học được xây dựng theo một
phương thức riêng, theo quy ước của thể loại đó. Ẩn chứa trong mỗi trang

viết là tư tưởng, tình cảm mà nhà văn gửi gắm.
Để có một cái nhìn toàn diện nhất về Ông Hoàng Bảy, chúng tôi tiến
hành khảo sát hình tượng này qua các bản kể truyền thuyết, văn chầu và nét
đặc sắc của hình tượng trong khung cảnh diễn xướng. Qua đó chúng tôi thấy
được sự biến đổi của hình tượng từ câu chữ trên trang giấy đến sự sống động
trong khung cảnh thực hành diễn xướng dân gian.

1.2.3.

Khái niệm Nhân học ứng dụng
14


Nhân học (Anthropology) là một ngành khoa học cơ bản thuộc nhóm
ngành khoa học xã hội. Nhân học gồm bốn phân ngành chính: nhân học văn
hóa xã hội, ngôn ngữ học, khảo cổ học và nhân chủng học. Đối tượng nghiên
cứu của nhân học là con người với nghĩa rộng nhất. Nhân học nghiên cứu về
các khía cạnh của con người từ sinh học đến kinh tế, văn hóa, xã hội… Có thể
kể đến một số lĩnh vực nghiên cứu của nhân học như: nhân học văn hóa xã
hội, khảo cổ học, nhân học sinh học, nhân học ngôn ngữ, nhân học y tế, nhân
học kinh doanh, nhân học môi trường… Dù nghiên cứu ở một phương diện
nào đi chăng nữa ta cũng thấy nhân học là ngành nghiên cứu tổng hợp, cần
phải tập hợp kiến thức các lĩnh vực để phân tích, giải thích về con người bởi
con người là một thực thể đầy phức tạp và bí ẩn. Nghiên cứu về con người
luôn tiềm ẩn và thách thức những nhà nghiên cứu.
Ngày nay, các ngành nghiên cứu không chỉ là phương tiện để ta tiếp
cận với các lí thuyết. Nghiên cứu không hoàn toàn thoát li thực tế để đi vào
thế giới riêng của sách vở, giáo lí. Nghiên cứu gắn liền với thực tiễn và có
thể ứng dụng để giải quyết những vấn đề thực tiễn đề ra. Vì vậy, các lí
thuyết về ứng dụng đang được khai thác, mở rộng. Cùng với Văn hóa dân

gian ứng dụng, Nhân học ứng dụng cũng là một hướng nghiên cứu thu hút
được sự quan tâm của nhiều người.
Khái niệm nhân học ứng dụng được hiểu theo nhiều cách khác nhau.
George Foster trong cuốn Nhân học ứng dụng (1969) đã định nghĩa: “Nhân
học ứng dụng là một cụm từ được sử dụng phổ biến bởi các nhà nhân học
dùng để mô tả về hoạt động nghề nghiệp của họ trong các chương trình mà
mục tiêu cơ bản của họ là biến đổi hành vi của con người nhằm cải thiện
những vấn đề xã hội, kinh tế và công nghệ hơn là sự phát triển của lí thuyết
xã hội và văn hóa” [25; 8]. Như vậy mục tiêu quan trọng của nhân học ứng
dụng là đưa ra giải pháp cho các vấn đề. Cụm từ “giải pháp cho các vấn đề”
trong nhân học có thể theo hai hướng. Thứ nhất là giải pháp cho những vấn
đề lý thuyết, mang tính học thuật được gọi là nhân học lý thuyết. Thứ hai là
giải pháp cho những vấn đề thực tiễn. Ở hướng này, các nhà nghiên cứu gọi là
nhân học ứng dụng. Không quá chú trọng đến việc phát triển các lí thuyết,
nhân học ứng dụng hướng đến các giải pháp cho các vấn đề tồn tại trong hiện
15


tại từ những việc nhỏ nhất như hành vi của con người đến các vấn đề lớn lao
hơn như kinh tế, chính trị, xã hội…
Nhân học ứng dụng thường bắt đầu bằng việc đi điền dã để thu thập tư
liệu. Dựa trên tư liệu đó, các nhà nhân học sẽ phân tích, đánh giá vấn đề. Cuối
cùng của chuỗi hoạt động là đưa ra giải pháp giải quyết vấn đề. Múc đích
chính của nhân học ứng dụng là tìm ra giải pháp.
Nhân học có mức độ phủ sóng mạnh trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực
của đời sống. Đặc biệt là lĩnh vực văn hóa. Ngày nay, nhân học được ứng dụng
để giải quyết nhiều vấn đề mà văn hóa đặt ra đặc biệt là vấn đề quản lí tài
nguyên văn hóa. Quản lí tài nguyên văn hóa (Cultural resource management)
là “việc quản lí cả tài nguyên văn hóa và những tác động đối với chúng mà có
thể từ việc sử dụng đất đai và các hoạt động khác của thế giới đương

đại”[25;215]. Khái niệm tài nguyên văn hóa được hiểu rất rộng, bất kì một vật
được sử dụng có đặc điểm văn hóa đều được coi là tài nguyên văn hóa. Vậy có
những tài nguyên văn hóa hữu hình như những bức tượng, bản đồ, sách
vở,thư tịch nhưng cũng có những tài nguyên đang ở dạng tiềm ẩn. Như vậy,
một nhiệm vụ mới lại đặt ra cho nhân học ứng dụng. Đó là khai thác và quản
lí các tài nguyên văn hóa. Khi tiến hành điền dã lên đền Bảo Hà, chúng tôi
nhận thấy có rất nhiều vấn đề được đặt ra. Từ việc phát huy thế mạnh văn
hóa của địa phương đến một số vấn đề còn tồn tại. Tất cả cần được quản lí, sử
dụng một cách hợp lí.
Nghiên cứu về một vấn đề, hiện tượng văn hóa có thể sử dụng nhiều lý
thuyết khác nhau. Những lí thuyết về folklore, về văn hóa dân gian ứng dụng
đều có giá trị nhất định. Tuy nhiên trong đề tài của mình chúng tôi muốn soi
một hiện tượng văn hóa dưới ánh sáng của nhân học. Bởi nhân học là ngành
nghiên cứu về mọi mặt trong đời sống của con người và văn hóa cũng là một
định hướng lớn trong nhân học. Dưới cái nhìn của nhân học, mọi vấn đề đều
được xem xét, lí giải trên nhiều bình diện tạo nên cái nhìn đa dạng, đa chiều.
Hơn thế nữa các đích của nhân học ứng dụng mà chúng tôi lựa chọn trong đề
tài là hướng tới giải quyết các vấn đề trong thực tiễn. Ngày nay nhiều vấn đề
của cuộc sống đều liên quan mật thiết đến văn hóa, vì thế văn hóa phải nằm ở
vị trí tiên phong để định hướng một số giá trị. Nghiên cứu văn hóa dưới lý
16


thuyết nhân học để thấy được bản chất, đặc điểm, hiện trạng của văn hóa
đang tồn tại trong đời sống thực , thấy được mối quan hệ giữa văn hóa và
cuộc sống con người từ đó đưa ra những giải pháp để phát huy những tài
nguyên văn hóa, định hướng những sai lạc trong cách hiểu, cách thực hiện,
khai thác văn hóa là điều mà xã hội đang hướng đến. Trước những vấn đề đặt
ra tại đền Bảo Hà, chúng tôi nhận thấy cần soi chiếu hiện tượng văn hóa này
dưới ánh sáng nhân học. Vì vậy chúng tôi lựa chọn đề tài : “Hình tượng Ông

Hoàng Bảy từ văn bản đến đời sống sinh hoạt, thực hành văn hóa, tín ngưỡng
đương đại” (Nghiên cứu dưới lí thuyết Nhân học ứng dụng).
1.3.
1.3.1.

Giới thiệu về tín ngưỡng thờ Mẫu và tục thờ quan Hoàng Bảy
Giới thiệu về tín ngưỡng thờ Mẫu
Đất nước ta có nền văn hóa lâu đời với biết bao tín ngưỡng, phong tục.
Cùng với tín ngưỡng thờ Tổ Tiên, thờ Tổ sư của các nghề, thờ Thành hoàng
làng… Thờ Mẫu cũng được đặt trong hệ thống các tín ngưỡng dân gian đó.
Điều này làm nên lớp trầm tích văn hóa bản địa của nước ta.
Có rất nhiều nơi thờ Nữ thần, Mẫu thần. Trong các Nữ thần được tôn
thờ, một số người được tôn là Mẫu, Thánh Mẫu. Tất cả các Mẫu đều là Nữ
thần nhưng không phải tất cả các Nữ thần đều trở thành Mẫu. Thật không dễ
dàng để chỉ ra quá trình chuyển từ các Nữ thần thành Mẫu thần. Tuy nhiên,
“đa phần các vị Nữ thần gắn với các hiện tượng thiên nhiên, vũ trụ được
người đời gắn cho chức năng sáng tạo, bảo trợ và che chở cho sự sống con
người. Đó là trời, đất, sông nước, núi rừng…thành các Mẫu Thượng Thiên,
Mẫu Địa, Mẫu Thoải và Mẫu Thượng Ngàn” [30;39]. Trong dân gian, ngày
càng xuất hiện thêm nhiều những Đền, Phủ thờ Mẫu. Sau này dân gian ta gọi
là Đạo Mẫu.
Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ chứa đựng nhân tố của hệ thống
vũ trụ luận nguyên sơ cho rằng vũ trụ chia thành các miền do bốn vị thần cai
quản. Khi hóa thân vào hệ thống Tứ phủ, đại diện cho các cõi là bốn vị Thánh
Mẫu cai quản: bầu trời, mặt đất, sông nước và rừng núi.
Tín ngưỡng thờ Mẫu hình thành trên cơ sở coi trọng vai trò của người
phụ nữ trong gia đình và xã hội-vốn là đặc trưng của nền sản xuất nông nghiệp
trồng lúa nước. Những tập tục, nghi lễ của cư dân nơi đây hầu hết gắn đều gắn
với hoạt động sản xuất, với việc trọng tính Âm (tính Mẹ). Việc thờ Mẫu trong đạo
17



Tam phủ, Tứ phủ cũng bắt nguồn từ ý thức tưởng nhớ tổ tiên, lòng tôn kính với
những thế hệ đi trước về sau lại có thêm ảnh hưởng của Đạo giáo từ Trung Quốc
du nhập vào. Đạo Mẫu tiếp thu tư tưởng của Đạo giáo trên nhiều phương diện.
Chẳng hạn, quan niệm đồng nhất con người với tự nhiên, quan niệm về Tam
phủ, Tứ phủ, một số vị Thánh của Đạo giáo đã thâm nhập vào điện thần Tứ phủ
như Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu… Hình thức lên đồng cũng mang sắc thái
của Đạo giáo rất rõ, làm tăng thêm tính chất kì bí, ma thuật của tín ngưỡng dân
gian này.
Như vậy, việc thờ Nữ thần, Mẫu thần ở trong dân gian kết hợp với
những ảnh hưởng của Đạo giáo Trung Quốc đã hình thành đạo Mẫu Tam phủ,
Tứ phủ đặc trưng của Việt Nam.
1.3.2.

Thập vị Ông Hoàng và tục thờ Ông Hoàng Bảy
Khi đến với điện thần Đạo Mẫu ta sẽ thấy có sự phân ngôi bậc rõ ràng.
Và thứ tự này cũng thể hiện khá cụ thể trong nghi thức hầu đồng. Các giá
đồng lần lượt xuất hiện. Ngôi vị cao nhất trong tín ngưỡng thờ Mẫu là Đức
Vua Cha (thường ngự ở vị trí trung tâm). Điện thần Đạo Mẫu được bố trí theo
sơ đồ sau:
Đức Vua Cha
Thánh Mẫu
Quan Lớn
Chầu
Ông Hoàng

Cậu
Từ sơ đồ trên, chúng ta nhận thấy dưới hàng Chầu là Thập Vị Ông
Hoàng được gọi theo thứ tự từ Ông Hoàng Đệ Nhất đến Ông Hoàng Mười.

18


“Cũng như các Quan, các Ông Hoàng đều có gốc tích là con trai Long Thần Bát
Hải Đại Vương ở hồ Động Đình, tuy nhiên theo khuynh hướng địa phương hóa
thì các Ông Hoàng thường được gắn với một nhân vật nào đó trên cõi dân
gian là những danh tướng có công dẹp loạn cứu nước, những người khai
sáng, mở mang đất nước. Trong số mười Ông Hoàng có sáu Ông giáng đồng,
có ba Ông giáng rất thường xuyên, đó là Ông Hoàng Bơ, Ông Hoàng Bảy và
Ông Hoàng Mười. Khi các Ông giáng đồng , các Ông Hoàng có phong cách gần
giống các quan lớn, tuy nhiên có phần phong nhã, vui tươi hơn”[27;860].
Ông Hoàng Bảy ngự ở đất Bảo Hà, Lào Cai là vị Thánh thường xuyên
giáng đồng. Nhân dân tỉnh Lào Cai và khu vực lân cận tôn thờ Ông, coi Ông
như đấng bảo trợ của họ. Đến với đền Bảo Hà vào dịp đầu, cuối năm, nhân
dân địa phương và khách thập phương đến đây lễ rất đông. Ai ai cũng chuẩn
bị lễ vậy như hoa quả, xôi, chè, vàng mã để dâng lên Thần vệ quốc Hoàng Bảy.
Mỗi người đến đây lại cầu xin những điều tốt đẹp cho mình và gia đình. Việc
thờ Ông Hoàng Bảy được các cơ quan chức năng rất quan tâm. Chính quyền,
ban quản lí di tích và nhân dân sở tại đã phối hợp để các hoạt động thực hành
nghi lễ được diễn ra thường xuyên. Lễ hội được tổ chức hàng năm và quy tụ
rất nhiều người tham gia. Như thế, không chỉ vào dịp đầu, cuối năm hay lễ hội
mà mỗi khi con dân muốn lễ bái, xin lộc và tưởng nhớ đến Ông đều có thể đến
hành lễ.
1.3.3.
1.3.3.1.

Nghi lễ hầu đồng và văn chầu
Nghi lễ hầu đồng
“Lên đồng hay hầu đồng, hầu bóng là nghi lễ chính của thờ Mẫu Tứ phủ
cũng như một số dạng thức thờ Mẫu khác. Đó là nghi lễ nhập hồn của các vị

Thánh Tam phủ, Tứ phủ vào thân xác các Ông đồng, Bà đồng, là sự tái hiện lại
hình ảnh các vị Thánh nhằm phán truyền, chữa bệnh, ban phúc lộc cho các tín
đồ Đạo Mẫu” [30;85].
Trong một năm có rất nhiều ngày lễ nhưng lớn nhất là vào dịp “Tháng
tám giỗ Cha, tháng ba giỗ Mẹ”. Vì đây là một nghi lễ hết sức linh thiêng nên các
Ông đồng, Bà đồng phải chuẩn bị rất kĩ lưỡng trước khi hầu: chuẩn bị đồ lễ,
trang phục, mời khách khứa… Để buổi lễ diễn ra thành công, người hầu còn
19


phải mời cung văn đến hát và các hầu dâng giúp việc dâng hương, thay trang
phục…
Trong một buổi hầu đồng, Ông đồng, Bà đồng có thể hầu nhiều giá
khác nhau. Giá đồng được tính bằng thời gian mỗi lần vị thần linh nào đó
nhập hồn rồi làm việc quan (tức là nhảy múa, phán truyền và ban phát lộc)
cho đến khi xuất hồn. Một giá đồng thường đi theo các bước như sau:
Thánh giáng, thay lễ phục, thắp hương, thực hiện các việc quan như phán
truyền, nhảy múa, ban lộc, ngồi thưởng các bài văn chầu và cuối cùng là
Thánh thăng. Có hai hình thức hầu là: trùm khăn (hầu tráng mạn) và mở
khăn. Các Thánh Mẫu chỉ giáng chứ không nhập.
Lên đồng diễn ra ở hầu khắp các điện, phủ trên cả nước. Nó đáp ứng
nhu cầu tâm linh của con người. Nhiều người đến với nghi thức này để cầu tài
lộc, may mắn hay cầu tự… Khi cuộc sống của con người còn nhiều những điều
khó khăn, những bất an thì con người ta lại tìm đến những vị Thần linh như
tìm đến một đấng cứu dỗi về tinh thần. Lên đồng là một loại nghi lễ với nhiều
điều bí hiểm mà đến nay các nhà khoa học cũng chưa thể lí giải được. Đó vẫn
là mảnh đất huyền bí của tâm linh. Nhiều khi con người ta vượt qua khó khăn
và tồn tại được dựa vào niềm tin vào những thế lực siêu nhiên đó.

1.3.3.2.


Văn chầu
Văn chầu là các bài hát văn dùng để thỉnh các Thánh Tam phủ, Tứ phủ
khi nhập hồn vào thân xác các Ông đồng, Bà đồng. Mỗi giá hầu có những bài
hát văn riêng. Thực ra thật khó để có thể thống kê được số lượng các bài văn
chầu vì chúng được sáng tác ở nhiều địa phương và trong các thời kì khác
nhau. Tuy mỗi bài viết về một vị Thánh nhưng chúng lại có cấu trúc khá giống
nhau. Phần đầu thường nói về gốc tích của các vị Thánh, phần tiếp theo mô tả
về vẻ bề ngoài (hình dung, tướng mạo), hành tung và công lao của các vị
Thánh, cuối cùng là sự linh hiển âm phù. Các bài văn chầu sử dụng lời thơ
trau chuốt, ngôn ngữ giàu hình ảnh và nhạc điệu. Các làn điệu chủ yếu để
thể hiện các bài văn chầu là điệu bỉ, điệu dọc, điệu cờn, điệu hãm, điệu xá…
20


Nhạc cụ sử dụng chủ yếu trong hát văn là đàn nguyệt, trống ban, thanh la…
Chúng có vai trò vô cùng quan trọng để cung văn thể hiện thành công
những bài văn chầu để dâng lên Thánh.
1.4.
1.4.1.

Khảo sát truyền thuyết, văn chầu về Ông Hoàng Bảy
Truyền thuyết về Ông Hoàng Bảy
Trong đề tài của mình, chúng tôi đã tập hợp được sáu truyền thuyết về
Ông Hoàng Bảy từ nhiều nguồn khác nhau. Nhờ vậy, chúng tôi có được hình
dung đầy đủ, rõ nét về vị Thánh này. Tuy nhiên chúng tôi muốn đặt các truyền
thuyết về Hoàng Bảy trong tương quan truyền thuyết về các Ông Hoàng khác.
Trong Thập Vị Ông Hoàng, có những vị thường xuyên giáng đồng như Hoàng
Bơ, Hoàng Bảy, Hoàng Mười vì thế số lượng truyền thuyết về các Ngài rất lớn.
Đối với những Thánh ít giáng như Hoàng Đôi, Hoàng Lục và Hoàng Bát, có

rất ít bản kể về họ. Trong dân gian, nhiều người cũng không biết đến các
Ngài. Từ kết quả khảo sát được trong truyền thuyết về Hoàng Bảy và Thập Vị
Ông Hoàng, chúng tôi xin đưa ra biểu đồ sau:

21


Biểu đồ 1: Truyền thuyết về Ông Hoàng Bảy trong tương quan với
Thập Vị Ông Hoàng
Truyền thuyết về Ông Hoàng Bảy chiếm số lượng rất lớn. Khi khảo
sát các bản kể về Thập Vị Ông Hoàng, Hoàng Bảy chiếm gần ¼ số truyền
thuyết. Tất nhiên kết quả này chỉ mang tính tương đối, bởi còn rất nhiều
bản kể lưu truyền trong dân gian mà chúng tôi chưa có cơ hội tiếp xúc, sưu
tầm lại. Mỗi Ông Hoàng gắn với một triều đại nhất định, khi sống, các Ông
phò vua giúp nước, lúc thác lại trở thành những phúc thần phù hộ cho quốc
thái dân an.
Tất cả các truyền thuyết đều khắc họa hành trạng, chiến công của
các Ông Hoàng: Đa phần các Ông Hoàng đều tham gia khởi nghĩa giành
lại chính quyền dưới thời Lê, Lý. Có một số Ông bất mãn với triều đình
mục ruỗng nên nổi dậy khởi nghĩa. Các Ông Hoàng có công đánh đuổi
giặc, bảo hộ cho nhân dân, góp phần vào sự hưng thịnh của các triều đại.
Có khi các Ông còn dạy dân cách trồng trọt, chăn nuôi, cách chế ngự
thiên nhiên… Như thế, với những công lao to lớn đó, các Ông được sắc
phong, được thờ phụng ở khắp cả nước.
Về việc hiển linh và thờ phụng: Sau khi hóa, Thập Vị Ông Hoàng rất
linh thiêng. Các Ngài đã về chứng đức, chứng tâm cho con dân, phù hộ cho
dân ta làm ăn buôn bán, học hành khoa cử, bảo hộ cho dân vùng biển…
Thập Vị Ông Hoàng được thờ ở khắp mọi miền trên Tổ quốc, từ những
vùng biên cương xa xôi, núi rừng heo hút, đến đô thị phồn hoa rồi cả vùng
hải đảo xa vắng… Mỗi người ngự và trấn một miền đất. Điều này thể hiện

mong ước của nhân dân về sự bảo trợ tinh thần và làm thiêng hóa dải đất
chữ S này.
Trong hệ thống truyền thuyết, các bản kể về Ông Hoàng Bảy chiếm số
lượng lớn nhất. Bởi vị Thánh này thường xuyên giáng đồng và Ông cũng
giữ một vai trò khá quan trọng trong điện thần Đạo Mẫu. Vị Thánh này
trấn giữ vùng biên cương của Tổ quốc. Đền thờ Ông được đặt ở Lào Cai, nơi
địa đầu của đất nước, vùng đất có ý nghĩa quan trọng về mặt chính trị,
quân sự của nước ta.
22


Từ những văn bản còn ghi chép lại trên sách vở, văn bia đến lời kể
dân gian, chúng tôi đã sưu tầm và tập hợp lại được sáu bản kể về Hoàng
Bảy. Những bản kể này là tài liệu vô cùng giá trị giúp chúng tôi có cách
hiểu đầy đủ và đưa đến cho chúng tôi cái nhìn nhiều chiều về một vấn đề,
một hiện tượng trong văn hóa.
Dựa vào số lượng truyền thuyết sưu tầm được, chúng tôi có bảng
khảo sát sau:
Truyền
thuyết
BK1: Thần
tích Ông
Hoàng Bẩy
Bảo Hà

Nguồn
Xuất thân
« Tín
-Con Đức
ngưỡng

Vua Cha
Tam Tứ phủ giáng trần
và Thờ
làm con
Thánh ở
trai thứ 7
Việt Nam » - trong danh
Bùi Hùng
tộc họ
Thắng
Nguyễn

BK2: Sự tích
« Truyền
đền Bảo Hà thuyết – lịch
sử đền Bảo
Hà và một
số đền thờ ở
Lào Cai » Phạm Văn
Chiến chủ
biên
BK3: Truyền
« Truyền
-Con Đức
thuyết và
thuyết – lịch Vua Cha
truyện kể về sử đền Bảo giáng trần
ngôi mộ Ông Hà và một
vào danh
Hoàng Bảy số đền thờ ở

tộc họ
Lào Cai » Nguyễn
Phạm Văn
Chiến chủ
23

Nội dung
Vẻ đẹp
Công lao Hiển linh
- Phong
-Đánh
-Ngày
lưu
giặc
Ông mất
-Trấn giữ trời bỗng
vùng biên chuyển
ải
gió, thi
-Chiêu dụ thể Ông
thổ hào
phát ra
khẩn
hào
điền, lập
quang,
ấp
phi ngựa
-Dăn dạy đến Bảo
người

Hà thì
dân làm dừng lại
ăn có đức
-Đánh
giặc
-Kêu gọi
nhân dân
khẩn điền
lập ấp

-Đánh
giặc

-Hồn rời
khỏi xác
cưỡi
ngựa đến
Bảo Hà
-Mộ của
Ông đùn
lên đống


biên

mối
-Phù họ
cho
những
gia đình

làm miếu

BK4: Truyện
« Truyền
kể dân gian thuyết – lịch
về Ông
sử đền Bảo
Hoàng Bảy
Hà và một
số đền thờ ở
Lào Cai » Phạm Văn
Chiến chủ
biên

-Đánh
giặc

BK5: Truyện Tài liệu điền
kể dân gian

về Ông
Hoàng Bảy

-Đánh
giặc
-Giúp dân
khẩn điền
lập ấp
-Trấn ải
biên

cương

BK6: Sự tích
« Truyền
hội chọi trâu thuyết – lịch
Bảo Hà
sử đền Bảo
Hà và một
số đền thờ ở
Lào Cai » Phạm Văn
Chiến chủ
biên

Bảng 1: Khảo sát các bản kể truyền thuyết về Ông Hoàng Bảy
Chú thích: BK: bản kể
Qua bảng khảo sát trên, chúng tôi nhận thấy một số điểm như sau:
Về nguồn gốc: Hai bản kể BK1 và BK3 đều thống nhất rằng vị Thánh
này là con Đức Vua Cha. Ông không phải là người bình thường mà có xuất
24


thân cao quý thuộc dòng dõi tiên thánh xuống trần để lập nên những chiến
tích lớn lao. Các bản kể khác hoàn toàn không nhắc đến nguồn gốc của
Ngài. Có thể do một số bản đã mặc định về xuất thân Hoàng Bảy là con Vua
Cha giáng trần để cứu nước giúp đời. Trong mười Ông Hoàng, có đến năm
Ông có nguồn gốc Thủy thần. Hoàng Cả, Hoàng Bơ, Hoàng Tư, Hoàng Lục,
Hoàng Mười đều là con Vua Cha Bát Hải Động Đình. Vị Thánh cai quản
vùng biên cương Bảo Hà có nguồn gốc thiên thần. Đa phần các Ông Hoàng
được nhân dân cả nước thờ phụng đều là những người có xuất thân cao
quý. Họ là thần tiên, là lực lượng đại diện cho sức mạnh, trí tuệ của con

người và thần linh.
Về công lao: Các bản kể đều khắc họa hình tượng Ông Hoàng Bảy
cũng như Thập Vị Ông Hoàng với công lao to lớn: chống giặc ngoại xâm,
giữ yên bờ cõi. Trong truyền thuyết họ là những người anh dùng dũng
mãnh, những vị tướng tài ba làm nên chiến công hiển hách. Trong hệ thống
truyền thuyết về nhân vật nghiên cứu, người viết nhận thấy tất cả các bản
kể đều ca ngợi công lao của Hoàng Bảy. Cả sáu truyền thuyết đều nhắc đến
việc Hoàng đánh giặc, trấn ải vùng biên cương. Ngoài ra BK1, BK2, BK5 còn
đề cập đến công lao của Ngài trong việc xây dựng và ổn định cuộc sống
nhân dân. Ngài chiêu dụ thổ hào, kêu gọi nhân dân khẩn điền, lập ấp. Nhờ
thế nhân dân quanh vùng thoát khỏi cảnh chết đói, xóm làng không còn xơ
xác, tiêu điều. Đặc biệt trong BK1, tác giả dân gian còn nhắc đến công lao
của vị Thánh đất Bảo Hà trong việc dạy dân làm ăn có đức, lấy đạo đức làm
thước đo giá trị cuộc sống. Con người không chỉ cần miếng cơm manh áo
mà còn cần được giáo dục, dạy dỗ. Ông Bảy Bảo Hà là người luôn đau đáu
hướng về cuộc sống của con người vì thế bên cạnh việc “yên dân”, “trừ
bạo”, Ông còn dạy dân đạo lí làm người và chăm lo cho đời sống vật chất
của con dân.
Về việc hiển linh, thờ phụng: Một lí do khiến khách thập phương và
nhân dân sở tại đổ dồn đến ngôi đền xa xôi này là trong tâm niệm của họ,
Quan Hoàng Bảy là một vị Thánh linh thiêng. BK1 và BK3 đều nhắc đến việc
Hoàng hiển linh. Sau khi mất, hồn Ông phi ngựa về đền Bảo Hà thì dừng lại.
Từ đó ông phù trợ cho con dân và được nhân dân tôn kính.
25


×