Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

Nghiên cứu tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính trong đơn vị sự nghiệp có thu áp dụng cho bệnh viện đa khoa tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (784.15 KB, 109 trang )

MỤC LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT:

1.

BVĐK



Bệnh viện đa khoa

2.

HCSN



Hành chính sự nghiệp

3.

SNCT



Sự nghiệp có thu

4.


NSNN



Ngân sách Nhà nước

5.

TCTC



Tự chủ tài chính

6.

XHH



Xã hội hoá


DANH MỤC CÁC BẢNG


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Năm 2012, Ban chỉ đạo Nhà nước về thực hiện đổi mới cơ chế hoạt động
các đơn vị sự nghiệp công lập được thành lập là một trong những bước đi khá

toàn diện nhằm thay đổi tư duy, nhận thức của nhiều đơn vị khi thực hiện chủ
trương của Nhà nước và Chính phủ, nhất là trong thực hiện đổi mới cơ chế tài
chính đối với các đơn vị sự nghiệp công.
Với vai trò là cơ quan thường trực, giúp việc cho Ban chỉ đạo, Bộ Tài
chính đã tích cực tham mưu với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ nghiên cứu,
chỉ đạo, điều hành việc triển khai thực hiện nội dung Kết luận số 37-TB/TW
của Bộ Chính trị về Đề án “Đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị sự
nghiệp công lập, đẩy mạnh xã hội hóa một số loại hình dịch vụ sự nghiệp
công”. Tuy nhiên, tiến độ triển khai và kết quả đạt được của các nội dung về
đổi mới cơ chế hoạt động trong lĩnh vực sự nghiệp công chưa thực sự đáp ứng
được yêu cầu.
Đề cập những nhiệm vụ trọng tâm mà Bộ Tài chính tập trung triển khai
trong năm 2013, Thứ trưởng Nguyễn Thị Minh cho biết, trên cơ sở đôn đốc
các bộ, ngành tập trung đề xuất về đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tổ chức,
cơ chế quản lý, xây dựng hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật của ngành, lĩnh
vực, Bộ Tài chính sẽ phối hợp để xây dựng cơ chế tài chính, các định mức tài
chính phù hợp.
Việc đổi mới sẽ thực hiện theo từng bước, phù hợp với khả năng của nền
kinh tế và thu nhập của nhân dân, có lộ trình cụ thể.
Bên cạnh đó, Bộ Tài chính cũng sẽ phối hợp với các bộ, ngành và cơ
quan có liên quan xây dựng Đề án trình Thủ tướng Chính phủ xem xét cho
phép thực hiện thí điểm các nội dung về đặt hàng đào tạo và đào tạo chất


lượng cao, học phí cao; đổi mới đối với các đơn vị đã có đủ điều kiện và có
nguyện vọng thực hiện, trên cơ sở đó tổng kết, rút kinh nghiệm và mở rộng
dần.
Đặc biệt, việc khảo sát, đánh giá cụ thể các cơ chế hiện tại về chính sách
tự chủ, tự chịu trách nhiệm về nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và tài chính đối với
từng lĩnh vực để có nền tảng xây dựng dự thảo Nghị định của Chính phủ về

đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính đối với từng lĩnh vực cụ thể đảm
bảo phù hợp cũng sẽ được Bộ Tài chính phối hợp với các bộ, ngành triển khai
tích cực trong năm 2013.
Bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Ninh là bệnh viện tuyến tỉnh với 6 phòng
ban và 20 khoa lâm sàng và 9 khoa cận lâm sàng và đội ngũ cán bộ công
nhân viên chức chưa kể sinh viên thực tập là hơn 400 người là một đơn vi sự
nghiệp tồn tại trong lĩnh vưc y tế phuc vu nhu cầu khám chữa bệnh cho người
dân cũng như đảm bảo công tác cứu chữa bệnh nhân. Ngoài việc cứu chữa
cho bệnh nhân bệnh viện còn không ngừng đầu tư xây dựng cơ sở ha tầng và
nâng cấp trang thiết bị nhằm đảm bảo công tác khám chữa bênh và cung cấp
thêm nhiêu dịch vụ cho bệnh nhân . Trong thời gian vừa qua, công tác quản lý
nguồn tài chính của bệnh viện vân còn nhiều cái chưa hợp lý nên việc đảm
bảo tự thu, tự chi còn gặp nhiều khó khăn .những khó khăn nay do nhiều yêu
tố cả khách quan lẫn chủ quan . Nhận thức được vấn đề này, đề tài: “Nghiên
cứu tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính trong đơn vị
sự nghiệp có thu áp dụng cho bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Ninh .” là
cần thiết trong giai đoạn hiện nay
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề xuất các giải pháp có căn cứ khoa học và phù hợp với thực tiễn, góp
phần nâng cao hiệu quả quản lý tài chính và góp phần xây dựng bệnh viện đa
khoa Quảng Ninh Ngày càng phát triển


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm về
tài chính của các đơn vị sự nghiệp có thu.
- Phạm vi nghiên cứu là kết quả nghị định 43/2006/NĐ-CP và tập trung
nghiên cứu toàn bộ hoạt động tài chính của bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng
Ninh từ đó có các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý tài chính của
bệnh viện đa khoa tỉnh quảng ninh giai đoạn 2013-2015

4.

Nhiệm vụ nghiên cứu

Nghiên cứu tổng quan về thực trạng quản lý tài chính tại bênh viện đa
khoa tỉnh Quảng Ninh. Trên cơ sỏ đó đánh giá và đưa ra các giải pháp để
nâng cao hiệu quả áp dụng cơ chế tự chủ, tự chiu trách nhiệm về tài chính tại
đơn vị.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các nhiệm vụ đặt ra trên, đề tài sẽ sử dụng các phương
pháp thống kê, tổng hợp để hệ thống hoá các vấn đề về lý luận và thực tiễn
liên quan đến đối tượng nghiên cứu; phương pháp đồ thị bảng biểu , phương
pháp mô hình hóa, phương pháp so sánh
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa khoa học của đề tài là tổng hợp, hệ thống hóa những vấn đề cơ
bản của quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính trong đơn vị sự nghiệp
có thu nói chung và các bệnh viện, trung tâm y tế nói riêng
Ý nghĩa thực tiễn là phân tích thực trạng áp dụng cơ chế tự chủ tự chịu
trách nhiệm về tài chính tại bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Ninh , đề xuất các
giải pháp để nâng cao hiệu quả quản lý tài chính để góp phần nâng cao chất


lượng khám và chữa bệnh của bênh viện, là tài liệu tham khảo cho bệnh viện
và các bệnh viện khác
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn:
Chương 1 - Tổng quan nghiên cứu về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm
về tài chính trong đơn vị sự nghiệp có thu.
Chương 2 - Phân tích thực trạng việc áp dụng cơ chế tự chủ tự chịu trách

nhiệm về tài chính ở bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2010
-2012
Chương 3 - Giải pháp tăng cường tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài
chính ở bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Ninh .


Chương 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ CƠ CHẾ TỰ CHỦ,TỰ CHỊU
TRÁCH NHIỆM VỀ TÀI CHÍNH TRONG ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÓ
THU
1.1.Tổng quan lý luận về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài
chính trong đơn vị sự nghiệp có thu .
1.1.1.Những vấn đề lý luận về đơn vị sự nghiệp có thu .
a. Khái niệm
Theo nghị định 43 ngày 25 tháng 4 năm 2006 của Chính phủ quy định về
quyền tự chủ, tự chiu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vu, tổ chức bộ máy,
biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập. Đơn vị sự nghiệp
công lập (sau đây gọi tắt là đơn vị sự nghiệp có thu) được khái niệm như sau :
Đơn vị sự nghiệp có thu là những đơn vị do Nhà nước có thẩm quyền
quyết định thành lập nhằm thực hiện cung cấp dịch vụ công trong các lĩnh vực
giáo dục, môi trường, y tế, văn hóa, thể dục, thể thao, sự nghiệp kinh tế, dịch
vụ việc làm.
b. Vai trò của đơn vị sự nghiệp trong nền kinh tế:
Hoạt động của các đơn vị sư nghiệp là một bộ phận của nền kinh tế và có
vị trí quan trọng đặc biệt trong nền kinh tế quốc dân. Ngày 27-6, tại Hà Nội,
Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) tổ chức họp báo công bố số liệu
tổng điều tra cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp năm 2012.
Đối tượng của tổng điều tra cơ sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp năm
2012 là các đơn vị sản xuất, kinh doanh, các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính
trị, đoàn thể, hiệp hội, đơn vị sự nghiệp, cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng.



Tính đến ngày 1-7-2012, cả nước có gần 5,2 triệu đơn vị kinh tế, hành
chính sự nghiệp, thu hút 22,8 triệu lao động. So với năm 2007, số đơn vị tăng
27,4%, tương đương 1,11 triệu đơn vị; lao động tăng 38,5%, tương đương 6,3
triệu người. Tốc độ tăng bình quân hằng năm về đơn vị là 5%, lao động 6,7%
thể hiện sự mở rộng về quy mô của các đơn vị. So với giai đoạn 2002-2007
thì các tốc độ đều tăng thấp hơn. Sự phát triển về số lượng đơn vị và lao động
thể hiện xu hướng tích cực. Mức tăng ở các đơn vị kinh tế cao hơn với 28,1%
đơn vị và 42,6% lao động; trong khi đó ở đơn vị sự nghiệp tăng lần lượt là
5,7% và 20,5%.
Doanh nghiệp là loại hình dẫn đầu mức tăng về số lượng và thu hút lao
động. Tính đến hết năm 2011, cả nước có gần 342.000 doanh nghiệp đang tồn
tại, tăng hơn 216.000 doanh nghiệp; thu hút 11 triệu lao động, tăng 65% so
với năm 2007. Loại hình kinh tế tập thể-hợp tác xã hiện có 13,6 nghìn, tương
đương năm 2007 về số lượng và giảm 11,8% lao động. Tính đến 1-7-2012, cả
nước có 4,6 triệu cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể phi nông nghiệp và thủy
sản với 7,9 triệu lao động, tăng 23,4% về cơ sở và 20,5% về số lượng lao
động so với năm 2007.
So với năm 2007, số lượng đơn vị hành chính sự nghiệp tăng không cao
như các đơn vị kinh tế. Trong khi số lượng các đơn vị hành chính giảm nhẹ
sau 5 năm (giảm 0,4%) thì các đơn vị sự nghiệp tăng khá hơn với mức tăng
10,6% về số lượng đơn vị và 26,5% về lao động. Các đơn vị kinh tế thuộc cơ
quan hành chính sự nghiệp giảm 15,7% số đơn vị và 62% lao động so với
năm 2007 do chủ trương của Nhà nước chuyển hoạt động của các đơn vị này
sang hạch toán kinh tế độc lập.
Trong thời gian qua các đơn vị sự nghiệp đã có nhiều đóng góp cho sự
ổn định và phát triển kinh tế xã hội của đất nước :



Cung cấp các dịch vụ công về giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục, thể thao…
có chất lượng cao cho xã hội, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân,
góp phần cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
Thực hiện các nhiệm vụ chính trị được giao như : đào tạo và cung cấp
nguồn nhân lực có trình độ và chất lượng, khám chữa bệnh, bảo vệ sức khỏe
nhân dân, nghiên cứu và ứng dụng các kết quả khoa học, công nghệ, cung ứng
các sản phẩm văn hóa và nghệ thuật..phục vụ sự nghiệp CNH,HĐH đất nước.
c. Đặc điểm hoạt động của các đơn vị sự nghiệp có thu .
Đơn vị sự nghiệp công lập được xác định bởi các tiêu thức cơ bản:
- Là các đơn vị công lập do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập,
hoạt động cung cấp dịch vụ công trong các lĩnh vực giáo dục, khoa học công
nghệ, môi trường, y tế, văn hóa thể dục thể thao, sự nghiệp kinh tế, dịch vụ
việc làm...
- Được nhà nước đầu tư cơ sở vật chất, đảm bảo chi phí hoạt động
thường xuyên để thực hiện các nhiệm vụ chính trị, chuyên môn được giao.
- Đơn vị sự nghiệp được Nhà nước cho phép thu một số loại phí, lệ phí,
được tiến hành hoạt động sản xuất cung ứng dịch vụ để bù đắp chi phí hoạt
động, tăng thu nhập cho cán bộ, viên chức.
- Có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng, tổ chức bộ máy kế
toán theo quy định của luật kế toán.
Một khái niệm rất mới được các nhà quản lý kinh tế đưa ra đó là đơn vị
SNCT khi hoạt động cung cấp “dịch vụ công” của các đơn vị sự nghiệp được
công nhận. Tuy nhiên không phải tất cả các đơn vị sự nghiệp đều có khả năng
thu và có nguồn thu. Nguồn thu của các đơn vị rất khác nhau ở từng lĩnh vực,


từng ngành, từng địa phương. Vì vậy, một cơ chế tài chính chung cho tất cả
các loại hình đơn vị sự nghiệp sẽ là không hiệu quả.
1.1.2.Phân loại đơn vị sự nghiệp có thu
* Phân loại đơn vị sự nghiệp theo hình thức sở hữu:

- Đơn vị sự nghiệp công: là cơ sở do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quyết định thành lập (đơn vị dự toán độc lập, có con dấu và tài khoản riêng, tổ
chức bộ máy kế toán theo quy định của Luật kế toán), hoạt động trong các
lĩnh vực sự nghiệp Giáo dục - Đào tạo và Dạy nghề; sự nghiệp Y tế, Đảm bảo
xã hội; sự nghiệp Văn hoá - Thông tin (bao gồm cả đơn vị phát thanh truyền
hình ở địa phương), sự nghiệp Thể dục- Thể thao, sự nghiệp kinh tế và sự
nghiệp khác.
- Đơn vị sự nghiệp tư: là cơ sở do các tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân, nhóm cá nhân hoặc cộng đồng dân cư
thành lập, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, tự bảo đảm kinh phí hoạt động
bằng vốn ngoài ngân sách nhà nước và hoạt động theo quy định của pháp luật;
được thành lập theo quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước nhằm phát triển sự
nghiệp giáo dục - đào tạo, y tế, văn hoá, thể dục thể thao, khoa học - công
nghệ, môi trường, xã hội, dân số, gia đình, bảo vệ chăm sóc trẻ em.
* Phân loại đơn vị sự nghiệp theo lĩnh vực:
- Đơn vị sự nghiệp y tế: Các bệnh viện, các viện và trung tâm có giường
bệnh, cơ sở điều dưỡng và phục hồi chức năng thuộc các Bộ, ngành và địa
phương; Các cơ sở khám chữa bệnh thuộc viện nghiên cứu, trường đại học y,
dược trong toàn quốc; Các Trung tâm Y tế (bao gồm Trung tâm y tế quận,
huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh, Trung tâm y tế dự phòng, Trung tâm
phòng chống các bệnh xã hội, Trung tâm truyền thông giáo dục sức khỏe,
Trung tâm bảo vệ bà mẹ trẻ em – kế hoạch hóa gia đình hoặc Trung tâm sức


khỏe sinh sản), Trung tâm tin học y tế thuộc các Bộ, ngành, địa phương; Các
viện, trạm, trại hoặc các đơn vị khác có chức năng và nhiệm vụ phòng chống
bệnh dịch thuộc các Bộ, ngành, địa phương; Các đơn vị có chức năng kiểm
định vắc xin, sinh phẩm y tế, trang thiết bị y tế; kiểm nghiệm thuốc, hóa mỹ
phẩm, thực phẩm; kiểm dịch y tế thuộc các Bộ, ngành, địa phương; Các cơ sở
sản xuất vắc xin, sinh phẩm y tế, máu và các chế phẩm từ máu, dịch truyền
hoặc các sản phẩm khác thuộc ngành y tế.

- Đơn vị sự nghiệp giáo dục - đào tạo và dạy nghề, gồm: các cơ sở giáo
dục mầm non, cơ sở giáo dục phổ thông, trường trung cấp chuyên nghiệp, cơ
sở giáo dục đại học, trung tâm giáo dục thường xuyên, trường chuyên biệt,
trường đào tạo bồi dưỡng cán bộ.
- Đơn vị sự nghiệp văn hóa - thể thao, gồm: Trung tâm kỹ thuật điện ảnh,
Trung tâm huấn luyện và thi đấu thể thao, Trung tâm bồi dưỡng cán bộ quản
lý văn hóa – thể thao – du lịch, Trung tâm triển lãm văn hóa thông tin, Bảo
tàng, thư viện, các Tạp chí, báo văn hóa, thể thao trực thuộc các Sở và Bộ
Văn hóa thể thao và du lịch, các Trung tâm văn hóa thể thao tại các huyện,
thị, thành phố.
Ngoài ra còn có đơn vị sự nghiệp giao thông, sự nghiệp kinh tế và các sự
nghiệp khác.
* Phân loại đơn vị sự nghiệp theo khả năng đảm bảo chi phí hoạt
động thường xuyên:
Theo Thông tư 71/2006/TT-BTC ngày 9 tháng 8 năm 2006 hướng dẫn
thực hiện Nghị định số 43/NĐ-CP ngày 25 tháng 4 năm 2006 của Chính phủ
có thể phân loại đơn vị sự nghiệp thành 3 loại, căn cứ vào khả năng bảo đảm
chi phí hoạt động thường xuyên, hay nói cách khác là căn cứ vào nguồn thu từ
hoạt động cung ứng “dịch vụ công” của đơn vị. Cụ thể là:


- Đơn vị có nguồn thu sự nghiệp tự bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động
thường xuyên (gọi tắt là đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm chi phí hoạt động).
- Đơn vị có nguồn thu sự nghiệp tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động
thường xuyên, phần còn lại được NSNN cấp (gọi tắt là đơn vị sự nghiệp tự
bảo đảm một phần chi phí hoạt động).
- Đơn vị có nguồn thu sự nghiệp thấp, đơn vị không có nguồn thu, kinh
phí hoạt động thường xuyên do NSNN bảo đảm toàn bộ (gọi tắt là đơn vị sự
nghiệp do NSNN bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động).
Việc phân loại đơn vị sự nghiệp theo quy định trên, được ổn định trong

thời gian 3 năm, sau thời hạn 3 năm sẽ xem xét phân loại lại cho phù hợp.
Trong thời gian ổn định phân loại, trường hợp đơn vị sự nghiệp có thay
đổi chức năng, nhiệm vụ, tổ chức thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem
xét điều chỉnh phân loại lại cho phù hợp.
Phương pháp phân loại đơn vị sự nghiệp:
Mức tự bảo đảm chi phí
hoạt động thường xuyên
của đơn vị (%)

Tổng số nguồn thu sự nghiệp
=

--------------------------------------- x 100 %
Tổng số chi hoạt động thường xuyên

Căn cứ vào mức tự bảo đảm chi phí hoạt động thường xuyên, đơn vị sự
nghiệp được phân loại như sau:
- Đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm chi phí hoạt động, gồm:
+ Đơn vị sự nghiệp có mức tự bảo đảm chi phí hoạt động thường xuyên
xác định theo công thức trên, bằng hoặc lớn hơn 100%.


+ Đơn vị sự nghiệp đã tự bảo đảm chi phí hoạt động từ nguồn thu sự
nghiệp, từ nguồn ngân sách nhà nước do cơ quan có thẩm quyền của Nhà
nước đặt hàng.
- Đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động: Là đơn vị sự
nghiệp có mức tự bảo đảm chi phí hoạt động thường xuyên xác định theo
công thức trên, từ trên 10% đến dưới 100%.
- Đơn vị sự nghiệp do ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt
động, gồm:

+ Đơn vị sự nghiệp có mức tự bảo đảm chi phí hoạt động thường xuyên
xác định theo công thức trên, từ 10% trở xuống.
+ Đơn vị sự nghiệp không có nguồn thu.
1.1.3. Những vấn đề lý luận chung về các bệnh viện, trung tâm y tế
1.1.3.1. Đặc điểm và mục tiêu của các đơn vị y tế
- Đặc điểm hoạt động của các đơn vị SNCT, là đơn vị hoạt động công ích
nên được cấp ngân sách đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ được giao đồng thời
có nguồn thu từ các hoạt động sự nghiệp y tế. Đơn vị SNCT trong lĩnh vực y
tế thực hiện quyền chủ sở hữu theo uỷ quyền của Nhà nước đối với nguồn tài
chính từ NSNN cấp và nguồn thu phí, lệ phí, thực hiện quyền sở hữu với tư
cách là chủ sở hữu đối với nguồn tài chính từ hoạt động sản xuất, kinh doanh
dịch vụ, từ viện trợ, tài trợ... và tương ứng mức độ tự chủ của đơn vị SNCT
đối với từng nguồn kinh phí là khác nhau.
- Nguồn thu chủ yếu của đơn vị sự nghiệp y tế là viện phí mà đơn giá
viện phí theo khung quy định của Nhà nước đã ban hành quá lâu, mức thu
thấp gây khó khăn cho đơn vị trong quá trình thực hiện trong khi chi phí cho
nghiệp vụ chuyên môn ngày càng cao. Do đó, hàng năm ngân sách nhà nước


vẫn phải đảm bảo một phần chi phí chi thường xuyên tạo nên tư tưởng trông
chờ sự bao cấp. Mặt khác, việc thực hiện Nghị định 43 thì việc nâng cao chất
lượng dịch vụ là tiêu chí đánh giá quan trọng nhất. Khi chất lượng dịch vụ
tăng sẽ khuyến khích người bệnh đến khám, chữa bệnh và làm tăng thu.
Nhưng thực tế vấn đề này chưa giải quyết được vì giá viện phí chưa sửa đổi,
bổ sung.
- Việc thực hiện tự chủ trong các bệnh viện cần hết sức thận trọng, vì các
nguồn thu, chi đều liên quan trực tiếp đến người bệnh. Các bệnh viện xác định
khám chữa bệnh là dịch vụ công đáp ứng an sinh xã hội mà nâng cao chất
lượng dịch vụ đó để thu hút người bệnh, nhất là người bệnh có thẻ bảo hiểm y
tế. Như vậy cơ chế tự chủ tài chính trong đơn vị sự nghiệp y tế không được

tách rời khỏi chất lượng dịch vụ mà chất lượng dịch vụ tốt đòi hỏi máy móc
hiện đại cùng đội ngũ cán bộ giỏi tương ứng với chi phí lớn.
- Các chính sách tự chủ và cơ chế tài chính áp dụng cho ngành y tế phải
khác hoàn toàn so với các ngành kinh tế và không thể giống với các ngành
văn hóa, thể thao, giải trí... . Cần cải thiện thu nhập của CBNV y tế, nhưng
không sử dụng “lợi nhuận” để tạo động lực làm việc của CBNV y tế. Nghiên
cứu các chính sách đãi ngộ thỏa đáng (đặc biệt) đối với CBNV y tế dựa vào
kết quả làm việc, không gắn với “lợi nhuận” của bệnh viện.
1.1.3.2.Quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của bệnh viện,
trung tâm y tế
Cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính của các đơn vị sự nghiệp y tế công lập
sẽ được đổi mới theo hướng trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm toàn diện
cho đơn vị để mở rộng và phát triển các hoạt động, nâng cao chất lượng
khám, chữa bệnh. Bên cạnh đó, Nhà nước sẽ tăng cường vai trò quản lý nhà
nước về giá và chất lượng dịch vụ y tế.


Đây là tinh thần tổng quát của dự thảo Nghị định về cơ chế hoạt động, cơ
chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp y tế công lập đang được Bộ Y tế
lấy ý kiến rộng rãi của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
Nhóm 1: Đơn vị có nguồn thu sự nghiệp tự bảo đảm được toàn bộ kinh
phí kinh phí hoạt động thường xuyên và kinh phí đầu tư phát triển.
Nhóm 2: Đơn vị có nguồn thu sự nghiệp tự bảo đảm được toàn bộ kinh
phí hoạt động thường xuyên.
Nhóm 3: Đơn vị có nguồn thu sự nghiệp tự bảo đảm một phần kinh phí
hoạt động thường xuyên.
Nhóm 4: Đơn vị có nguồn thu sự nghiệp thấp hoặc không có nguồn thu,
kinh phí hoạt động thường xuyên theo chức năng, nhiệm vụ được giao do
ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ.
Dự thảo phân loại đơn vị sự nghiệp y tế thành 4 nhóm dựa trên cơ sở

mức độ bảo đảm chi phí hoạt động từ các nguồn thu.
Mỗi nhóm đơn vị sẽ có cơ chế hoạt động và cơ chế tài chính phù hợp để
phát huy tính tích cực của đội ngũ cán bộ y tế, nâng cao chất lượng dịch vụ,
hiệu quả hoạt động.
Đồng thời, dự thảo quy định các đơn vị phải xây dựng điều lệ tổ chức
hoạt động, nhằm xác định rõ vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của từng đơn
vị, làm cơ sở để giao dự toán, quyết định mức thu đối với các dịch vụ…, các
đơn vị được phép mở rộng hoạt động dịch vụ cho phù hợp với tinh thần đổi
mới, giao tự chủ.
1.1.3.3.Nguyên tắc tổ chức hoạt động của bệnh viện, trung tâm y tế
Căn cứ Nghị định số 63/2012/NĐ-CP ngày 31 tháng 8 năm 2012 của Chính
phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Y tế;
Bộ Y tế ban hành Thông tư hướng dẫn thực hiện quản lý chất lượng dịch vụ
khám bệnh, chữa bệnh tại bệnh viện.


QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh.
Thông tư này hướng dẫn việc quản lý chất lượng dịch vụ khám bệnh,
chữa bệnh tại bệnh viện (sau đây gọi tắt là quản lý chất lượng bệnh viện), bao
gồm:
1. Nội dung triển khai quản lý chất lượng bệnh viện.
2. Hệ thống tổ chức quản lý chất lượng bệnh viện.
3. Trách nhiệm thực hiện quản lý chất lượng bệnh viện.
Điều 2. Nguyên tắc tổ chức thực hiện quản lý chất lượng.
1. Lấy người bệnh làm trung tâm.
2. Việc bảo đảm và cải tiến chất lượng là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt
của bệnh viện, được tiến hành thường xuyên, liên tục và ổn định.
3. Các quyết định liên quan đến hoạt động quản lý chất lượng trong bệnh viện
dựa trên cơ sở pháp luật, cơ sở khoa học với các bằng chứng cụ thể và đáp

ứng nhu cầu thực tiễn nâng cao chất lượng của bệnh viện.
4. Giám đốc bệnh viện chịu trách nhiệm về chất lượng bệnh viện. Tất cả
cán bộ, công chức, viên chức, người lao động (gọi chung là nhân viên y tế)
trong bệnh viện có trách nhiệm tham gia hoạt động quản lý chất lượng.
NỘI DUNG TRIỂN KHAI QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG TRONG BỆNH
VIỆN
Điều 3. Xây dựng kế hoạch, chương trình bảo đảm và cải tiến chất
lượng trong bệnh viện.
1.

Bệnh viện xây dựng, ban hành, phổ biến mục tiêu chất lượng để

nhân viên y tế, người bệnh và cộng đồng được biết. Mục tiêu chất lượng phù
hợp với chính sách, pháp luật liên quan đến chất lượng và nguồn lực của bệnh
viện.


2. Bệnh viện xây dựng, phê duyệt kế hoạch và lập chương trình bảo đảm, cải
tiến chất lượng thông qua việc xác định các vấn đề ưu tiên. Nội dung của kế
hoạch chất lượng được lồng ghép vào kế hoạch hoạt động hằng năm và 5
năm, phù hợp với nguồn lực của bệnh viện..
Điều 4. Duy trì quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về bệnh viện.
1. Bệnh viện bảo đảm các điều kiện để được cấp giấy phép hoạt động
theo lộ trình quy định tại Nghị định số 87/2011/NĐ-CP ngày 27 tháng 9 năm
2011 của Chính phủ.
2. Bệnh viện đã được cấp giấy phép có trách nhiệm tiếp tục duy trì các
hoạt động để bảo đảm đáp ứng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia và các điều kiện
khác do Bộ Y tế quy định..
Điều 5. Xây dựng chỉ số chất lượng, cơ sở dữ liệu và đo lường chất
lượng bệnh viện.

1.

Xây dựng bộ chỉ số chất lượng bệnh viện dựa trên hướng dẫn của

Bộ Y tế và tham khảo các bộ chỉ số chất lượng bệnh viện trong nước hoặc
nước ngoài.
2.

Thực hiện đo lường chỉ số chất lượng trong bệnh viện.

3.

Tổ chức thu thập, quản lý, lưu trữ, khai thác và sử dụng dữ liệu

liên quan đến chất lượng bệnh viện.
4.

Lồng ghép báo cáo chất lượng vào báo cáo hoạt động chung của

bệnh viện.
5. Ứng dụng công nghệ thông tin để xây dựng cơ sở dữ liệu, phân tích,
xử lý thông tin liên quan đến quản lý chất lượng bệnh viện.


Điều 6. Tổ chức triển khai các quy định, hướng dẫn chuyên môn
trong khám bệnh, chữa bệnh
1. Tổ chức triển khai thực hiện các quy định, hướng dẫn chuyên môn do
Bộ Y tế và bệnh viện ban hành, bao gồm hướng dẫn chẩn đoán và điều trị,
hướng dẫn quy trình kỹ thuật, hướng dẫn quy trình chăm sóc và các văn bản
hướng dẫn chuyên môn khác.

2. Tổ chức triển khai thực hiện kiểm định chất lượng nhằm đánh giá
việc thực hiện các quy định, hướng dẫn chuyên môn của bệnh viện; tiến hành
phân tích có hệ thống chất lượng chẩn đoán, điều trị, chăm sóc người bệnh,
bao gồm các quy trình kỹ thuật lâm sàng, cận lâm sàng sử dụng trong chẩn
đoán, điều trị, chăm sóc người bệnh.
Điều 7. Triển khai các biện pháp bảo đảm an toàn người bệnh và
nhân viên y tế.
1. Thiết lập chương trình và xây dựng các quy định cụ thể bảo đảm an
toàn người bệnh và nhân viên y tế với các nội dung chủ yếu sau:
a) Xác định chính xác người bệnh, tránh nhầm lẫn khi cung cấp dịch vụ;
b) An toàn phẫu thuật, thủ thuật.
c) An toàn trong sử dụng thuốc;
d) Phòng và kiểm soát nhiễm khuẩn bệnh viện;
đ) Phòng ngừa rủi ro, sai sót do trao đổi, truyền đạt thông tin sai lệch
giữa nhân viên y tế;
e) Phòng ngừa người bệnh bị ngã;
g) An toàn trong sử dụng trang thiết bị y tế.


2. Bảo đảm môi trường làm việc an toàn cho người bệnh, khách thăm và
nhân viên y tế; tránh tai nạn, rủi ro, phơi nhiễm nghề nghiệp.
3. Thiết lập hệ thống thu thập, báo cáo sai sót chuyên môn, sự cố y khoa
tại các khoa lâm sàng và toàn bệnh viện, bao gồm báo cáo bắt buộc và tự
nguyện.
4. Xây dựng quy trình đánh giá sai sót chuyên môn, sự cố y khoa để xác
định nguyên nhân gốc, nguyên nhân có tính hệ thống và nguyên nhân chủ
quan của nhân viên y tế; đánh giá các rủi ro tiềm ẩn có thể xảy ra.
5. Xử lý sai sót chuyên môn, sự cố y khoa và có các hành động khắc
phục đối với nguyên nhân gốc, nguyên nhân có tính hệ thống và nguyên nhân
chủ quan để giảm thiểu sai sót, sự cố và phòng ngừa rủi ro.

Điều 8. Áp dụng bộ tiêu chuẩn quản lý chất lượng bệnh viện
1. Bệnh viện căn cứ vào các bộ tiêu chí, tiêu chuẩn quản lý chất lượng do
Bộ Y tế ban hành hoặc thừa nhận để lựa chọn bộ tiêu chí, tiêu chuẩn phù hợp
và triển khai áp dụng tại bệnh viện.
2. Quy trình triển khai áp dụng bộ tiêu chí, tiêu chuẩn quản lý chất lượng
được thực hiện theo hướng dẫn của cơ quan ban hành bộ tiêu chí, tiêu chuẩn
đó hoặc tổ chức chứng nhận chất lượng.
3. Sau khi bệnh viện được cấp giấy chứng nhận chất lượng cần tiếp tục
duy trì và cải tiến chất lượng.
Điều 9. Đánh giá chất lượng bệnh viện
1. Triển khai thực hiện đánh giá chất lượng nội bộ của bệnh viện dựa
trên bộ tiêu chí, tiêu chuẩn quản lý chất lượng do Bộ Y tế ban hành hoặc thừa
nhận.
2. Đánh giá hiệu quả áp dụng các tiêu chí, tiêu chuẩn, mô hình, phương pháp


về quản lý chất lượng tại bệnh viện để đưa ra quyết định lựa chọn tiêu chí,
tiêu chuẩn, mô hình, phương pháp phù hợp.
2. Bệnh viện thực hiện lấy ý kiến thăm dò và đánh giá sự hài lòng của
người bệnh, người nhà người bệnh, nhân viên y tế thường xuyên ít nhất là 03
tháng một lần, làm cơ sở cho việc cải tiến nâng cao chất lượng phục vụ người
bệnh và sự hài lòng của nhân viên y tế.
3. Bệnh viện xây dựng các báo cáo chất lượng và tự công bố báo cáo
chất lượng theo hướng dẫn của Bộ Y tế.
4. Các cơ quản lý tiến hành đánh giá chất lượng bệnh viện hoặc thẩm
định báo cáo chất lượng dựa trên bộ tiêu chí, tiêu chuẩn quản lý chất lượng do
Bộ Y tế ban hành hoặc thừa nhận theo định kỳ hằng năm hoặc đột xuất.
1.1.4.Cơ chế tài chính của đơn vị sự nghiệp có thu nói chung và các bệnh
viện trung tâm y tế nói riêng
1.1.4.1. Khái niệm cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chinh và

mục tiêu thực hiện cơ chế tự chủ tài chính trong đơn vị sự nghiệp có thu
Cơ chế quản lý tài chính có thể khái quát đó là hệ thống các nguyên tắc,
luật định, chính sách, chế độ về quản lý tài chính và mối quan hệ tài chính
giữa các đơn vị dự toán các cấp với cơ quan chủ quản và cơ quan quản lý Nhà
nước.
Cơ chế quản lý tài chính còn là mối quan hệ tài chính theo phân cấp:
+ Giữa Chính phủ (Bộ tài chính, Bộ Kế hoạch và đầu tư) với các Bộ,
ngành, các địa phương.
+ Giữa Bộ chủ quản, Bộ quản lý ngành với các đơn vị trực thuộc ở trung
ương; giữa UBND tỉnh với các đơn vị địa phương.


+ Giữa các đơn vị sự nghiệp, cơ quan quản lý nhà nước với các bộ phận,
đơn vị dự toán trực thuộc.
Theo quy định pháp luật hiện hành, chế độ quản lý tài chính đối với các
đơn vị SNCT được quy định tại Nghị định 43/2006/NĐ - CP ngày 25/04/2006
của Chính phủ. Nghị định cũng đã quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm của
đơn vị SNCT và trách nhiệm của cơ quan quản lý các cấp.
Cơ chế TCTC là cơ chế quản lý nhằm tăng cường quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm cho các đơn vị SNCT về các mặt hoạt động tài chính, tổ chức bộ
máy và sắp xếp lao động qua đó làm tăng chất lượng hoạt động cung cấp dịch
vụ công của đơn vị.
Khác với cơ chế tài chính của các đơn vị sự nghiệp đơn thuần, cơ chế tự
chủ của các đơn vị sự nghiệp có thu có những đặc trưng sau:
+ Đơn vị sự nghiệp có các hoạt động dịch vụ phải đăng ký, kê khai, nộp
đủ các loại thuế và các khoản khác (nếu có), được miễn, giảm thuế theo quy
định của pháp luật.
+ Đơn vị sự nghiệp có hoạt động dịch vụ được vay vốn của các tổ chức
tín dụng, được huy động vốn của cán bộ, viên chức trong đơn vị để đầu tư mở
rộng và nâng cao chất lượng hoạt động sự nghiệp, tổ chức hoạt động dịch vụ

phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và tự chịu trách nhiệm trả nợ vay theo quy
định của pháp luật.
+ Đơn vị thực hiện đầu tư, mua sắm, quản lý, sử dụng tài sản nhà nước
theo quy định của pháp luật về quản lý tài sản nhà nước tại đơn vị sự nghiệp.
Đối với tài sản cố định sử dụng vào hoạt động dịch vụ phải thực hiện trích
khấu hao thu hồi vốn theo quy định áp dụng cho các doanh nghiệp nhà nước.
Số tiền trích khấu hao tài sản cố định và tiền thu từ thanh lý tài sản thuộc
nguồn vốn NSNN đơn vị được để lại bổ sung Quỹ phát triển hoạt động sự


nghiệp. Số tiền trích khấu hao, tiền thu thanh lý tài sản thuộc nguồn vốn vay
được dùng để trả nợ vay. Trường hợp đã trả đủ nợ vay, đơn vị được để lại bổ
sung Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp đối với số còn lại (nếu có).
+ Đơn vị sự nghiệp mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước để phản ánh các
khoản kinh phí thuộc NSNN theo quy định của Luật NSNN; được mở tài
khoản tiền gửi tại Ngân hàng hoặc Kho bạc Nhà nước để phản ánh các khoản
thu, chi của hoạt động dịch vụ.
+ Căn cứ vào định mức kinh tế kỹ thuật, chế độ chi tiêu tài chính hiện
hành của Nhà nước, đơn vị SNCT được chủ động xây dựng tiêu chuẩn, định
mức và chế độ chi tiêu nội bộ cho các khoản chi hoạt động thường xuyên cao
hơn hoặc thấp hơn quy định, trong phạm vi nguồn tài chính được sử dụng;
đảm bảo hoạt động thường xuyên, thực hiện nhiệm vụ được giao, phù hợp với
đặc điểm đơn vị, tăng cường công tác quản lý và sử dụng kinh phí tiết kiệm
có hiệu quả. Quy chế chi tiêu nội bộ và việc xây dựng các định mức chi của
đơn vị SNCT đã khắc phục những bất cập, lạc hậu của một số chế độ, tiêu
chuẩn, định mức chi ngân sách hiện hành của Nhà nước như: chế độ công tác
phí, chế độ chỉ tiêu hội nghị, chi biên soạn giáo trình, chi vượt giờ của ngành
giáo dục, chi bồi dưỡng trực đêm của ngành y tế, chi tổ chức xét xử của ngành
toà án...
+ Cơ chế TCTC cho phép các đơn vị được quyết định kế hoạch sử dụng

lao động và xây dựng quỹ tiền lương, tạo ra cơ sở pháp lý để các đơn vị
SNCT được phép tăng thu nhập cho người lao động, hợp pháp hoá các khoản
thu nhập ngoài lương của cán bộ, viên chức. Từ đó tạo động lực khuyến khích
người lao động tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng và hiệu quả
công việc.


+ Tự chủ trong việc lập, chấp hành dự toán thu, chi: Để đáp ứng các yêu
cầu của cơ chế tài chính mới đối với cơ quan quản lý nhà nước và đơn vị sự
nghiệp, cơ chế cấp phát ngân sách cũng có thay đổi cơ bản so với cơ chế cấp
phát bằng hạn mức kinh phí như trước đây. Từ năm 2004, thực hiện cấp phát
ngân sách theo phương thức: các đơn vị sử dụng ngân sách căn cứ tiêu chuẩn,
định mức chi ngân sách, quy chế chi tiêu nội bộ của các đơn vị SNCT đã
được cấp chủ quản phê duyệt, khối lượng nhiệm vụ thực tế phát sinh và dự
toán được giao để rút kinh phí tại Kho bạc Nhà nước để chi tiêu. Vì vậy quyết
định giao dự toán của cơ quan chủ quản cho các đơn vị sử dụng ngân sách
trực thuộc là cơ sở pháp lý quan trọng nhất để các đơn vị SNCT được rút kinh
phí qua kho bạc Nhà nước. Ngoài ra, các đơn vị SNCT được chuyển kinh phí
chưa được sử dụng sang năm sau thực hiện. Cơ chế cấp phát mới thuận tiện
và đơn giản hơn cho các đơn vị sử dụng ngân sách đồng thời tăng cường vai
trò kiểm tra, kiểm soát của Kho bạc Nhà nước, góp phần nâng cao hiệu quả sử
dụng NSNN.
1.1.4.2.Tầm quan trọng của cơ chế tài chính trong đơn vị sự nghiệp
có thu nói chung và các bệnh viện, trung tâm y tế nói riêng
a. Tầm quan trọng của cơ chế tài chính trong đơn vị sự nghiệp có
thu
Hoạt động của đơn vị sự nghiệp có thu rất đa dạng, tham gia nhiều lĩnh
vực kinh tế, văn hóa, xã hội nên quản lý tài chính khá phức tạp, thường được
quy định cụ thể của từng ngành. Trong điều kiện kinh tế thị trường, yêu cầu
về chất lượng dịch vụ công và hiệu quả hoạt động của đơn vị sự nghiệp là

những vấn đề còn mang tính phức tạp hơn nữa bên cạnh nguồn thu từ ngân
sách Nhà nước cấp, các đơn vị này còn có nguồn thu chi trả của dân cư, các
nguồn do đơn vị tự tìm kiếm, khai thác. Cơ chế quản lý tài chính của đơn vị


sự nghiệp có thu không những góp phần giảm bớt các khoản chi sự nghiệp
của ngân sách Nhà nước cấp, mà còn khuyến khích cung cấp các dịch vụ chất
lượng cao cho xã hội với chi phí tiết kiệm.
Việc quản lý, sử dụng nguồn tài chính của các đơn vị sự nghiệp liên quan
đến hiệu quả kinh tế xã hội và chi tiêu đóng góp của nhân dân. Do đó nếu có
cơ chế quản lý tài chính hợp lý sẽ góp phần hạn chế, ngăn ngừa các hiện
tượng tiêu cực, tham nhũng trong khai thác và sử dụng nguồn lực tài chính
công, đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn tài chính của đất nước .
b. Tầm quan trọng của cơ chế tài chính trong các bệnh viện, trung
tâm y tế
Mục tiêu và bản chất nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự
quản lý của Nhà nước ở nước ta, một Nhà nước “của dân, do dân và vì dân”,
phải coi y tế là một sự nghiệp chung cũng giống như sự nghiệp cách mạng, sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của chúng ta vậy.
Chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân là một trong những công việc hết sức
to lớn, quan trọng mang lợi ích chung và lâu dài cho toàn bộ xã hội. Với
phương châm xây dựng một xã hội XHCN bền vững và phát triển toàn diện,
coi trọng yếu tố quyết định là con người thì không thể đặt các hoạt động y tế
ngoài sự nghiệp chung của toàn xã hội được.
Do vậy, sự nghiệp y tế là yêu cầu tất yếu khách quan của chế độ xã hội ở
nước ta và phải nhằm thực hiện những mục tiêu đem lại những kết quả về
chăm sóc sức khoẻ nhân dân cao nhất. Phấn đấu để mọi người dân đều được
hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu, có điều kiện tiếp cận và sử
dụng các dịch vụ y tế có chất lượng. Mọi người đều được sống trong cộng
đồng an toàn, phát triển tốt về thể chất và tinh thần. Giảm tỷ lệ mắc bệnh,

nâng cao thể lực, tăng tuổi thọ và phát triển giống nòi.


×