Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

Tổng hợp kiến thức Ôn tập môn Chủ nghĩa xã hội khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (497.96 KB, 61 trang )

MÔN CNXH KHOA HỌC
Câu 1: Hiểu về CNXHKH
Câu 2: Làm rõ sự sáng tỏ tư duy lý luận về CNXH
Câu 3: Làm rõ sự sáng tỏ về con đường đi lên CNXH

Câu 1- Hiểu về CNXH.
* Khái niệm CNXH.
CNXH là 1 nhu cầu XH khách quan, xuất phát trong lịch sử nhân loại và phát triển cùng với sự vận động
của quy luật đấu tranh giai cấp. CNXHKH là ước mơ, nguyện vọng, lý tưởng của nhân dân lao động muốn giải
phóng mình thoát khỏi áp bức, bóc lột, xây dựng xã hội công bằng, bình đẳng, tự do, ấm no, hạnh phúc.
CNXH là quan điểm, giá trị tư tưởng, học thuyết lý luận phản ánh sự tìm tòi khám phá của nhân loại về con
đường, về hình thức, giải pháp đấu tranh giải phóng nhân dân lao động, tìm mô hình xã hội mới, xóa bỏ áp bức,
xây dựng xã hội công bằng, bình đẳng, tự do.
Phân tích khái niệm:
CNXH phát triển qua nhiều thời kỳ, khái quát với 2 thời kỳ lớn là CNXH không tưởng và CNXH khoa học.
Dưới hình thái lý luận, CNXH là khái niệm phản ánh lý tưởng giải phóng đông đảo nhân dân lao động bị áp
bức, bóc lột khỏi sự thống trị của các giai cấp thống trị bóc lột.
CNXH tiếp cận từ hiện thực, thực tiễn thể hiện như: Phong trào XHCN, chế độ XHCN. Chế độ XHCN được
hình thành sau thắng lợi CMXHCN tháng 10 Nga, với sự ra đời của nhà nước Xô Viết XHCN Nga đến Liên
bang cộng hòa XHCN Xô Viết - Liên Xô, Trung Quốc, VN, Cu Ba.
- Chế độ XHCN có đặc trưng:
+ Chế độ chính trị:Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lí, nhân dân làm chủ
+ Chế độ kinh tế: công hữu TLSX, LĐ bình đẳng, phân phối theo LĐ trên cơ sở LLSX PT cao.
+ Chế độ XH: Hòa bình, công bằng, bình đẳng, dân chủ.
* Quy luật ra đời và PT của CNXH:
XH XHCN ra đời và PT như 1 quá trình lịch sử tự nhiên bắt nguồn từ sự phát triển của kinh tế, SX.
XH XHCN ra đời và PT thông qua quá trình CM XHCN. Mâu thuẫn giữa LLSX XH với QHSX TBCN, biểu
hiện về mặt XH là mâu thuẫn giữa GCCN và GCTS. Con đường đi tới CNXH, CNCS chỉ có thể bằng con
đường CM XHCN với nội dung cơ bản là: tiến hành CM chính trị, đập tan Nhà nước TS, thiết lập chuyên chính
VS (Nhà nước XHCN);
XH XHCN ra đời nhất thiết phải có sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của ĐCS.


XH XHCN ra đời và PT gắn liền với sự ra đời và PT của Nhà nước XHCN.
* Những đặc trưng cơ bản của XH XHCN (6 đặc trưng Tr 74 - 79).
Thứ nhất: cơ sở vật chất- kỹ thuật của CNXH là nền SX công nghiệp hiện đại.
Thực tế và lý luận đều chứng minh, XH XHCN là sự kế tiếp sau XHTBCN, có nhiệm vụ giải quyết những
mâu thuẫn mà CNTB đã không thể giải quyết triệt để. Đặc biệt là mâu thuẫn giữa yêu cầu xã hội hóa ngày càng
cao của LLSX ngày càng hiện đại với chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về TLSX. Do đó, LLSX của XH XHCN
khi nó hoàn thiện, phải cao hơn so với CNTB.
Ở những nước TBCN đã có LLSX PT cao (G7...) thì lên XH XHCN giai cấp VS ở đó chủ yếu chỉ phải trải
qua 1 cuộc CM về chính trị. Khi đó chính trình độ LLSX đã PT cao là cơ sở rất thuận lợi cho việc tiếp tục XD
thắng lợi, hoàn thiện CNXH cả QHSX và LLSX cao hơn CNTB.
Ở những nước XHCN bỏ qua chế độ TBCN (như VN) thì đương nhiên phải có quá trình thực hiện CNHHĐH, XD từng bước cơ sở vật chất hiện đại của CNXH.
Thứ 2: XH XHCN đã xóa bỏ chế độ tư hữu TBCN, thiết lập chế độ công hữu về TLSX chủ yếu.
CNXH không xóa bỏ chế độ tư hữu nói chung mà chủ yếu xóa bỏ chế độ tư hữu TBCN về TLSX. Bởi chế
độ tư hữu TBCN đã nô dịch, áp bức bóc lột đối với đại đa số nhân dân LĐ, đem lại lợi nhuận ngày càng cao cho
thiểu số các tập đoàn TB và giai cấp thống trị.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, kết cấu XH còn đan xen nhiều giai cấp, tầng lớp XH; Đó chỉ là những
quan hệ bóc lột cụ thể chứ không phải trên cả 1 chế độ XH, GC này bóc lột GC khác, tầng lớp khác. Đó là 1 đặc
trưng kinh tế của thời kỳ quá độ và cả của CNXH.
Thứ ba: XH XHCN tạo ra các tổ chức LĐ và kỷ luật LĐ mới.
Quá trình XD và bảo vệ CNXH là một quá trình hoạt động tự giác của đại đa số nhân dân, vì lợi ích của đa
số nhân dân. CNXH sẽ là 1 kiểu tổ chức LĐ mới của nhân dân LĐ dưới sự lãnh đạo, hướng dẫn của ĐCS, đội
tiên phong của GCCN và Nhà nước XHCN. Do đó kỷ luật LĐ mới có những đặc trưng mới, vừa là kỷ luật chặt
chẽ theo những quy định chung của luật pháp, pháp chế XHCN, vừa có tính tự giác - kỷ luật tự giác. Đương
nhiên để mọi người LĐ có tổ chức và kỷ luật lao động mới tự giác như vậy phải trải qua quá trình đấu tranh,
từng bước hoàn thiện CNXH.


Thứ tư: XH XHCN thực hiện nguyên tắc phân phối theo LĐ - nguyên tắc phân phối cơ bản nhất.
Trong quá trình lao động cụ thể, mỗi người LĐ sẽ nhận được từ XH mới số lượng SP tiêu dùng có giá trị
tương đương số lượng, chất lượng và hiệu quả LĐ của họ đã tạo ra cho XH, sau khi đã trừ đi 1 số khoản đóng

góp chung cho XH.
Thứ năm: Nhà nước XHCN mang bản chất GCCN, tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc; thực
hiện quyền lực và lợi ích của ND.
Khi đề cập đến hệ thống chuyên chính vô sản, CN M-LN đã xác định rõ bản chất, chức năng, nhiệm vụ của
nhà nước chuyên chính vô sản. Thực chất Nhà nước đó là do đảng của GCCN lãnh đạo và nhân dân tổ chức ra.
Thông qua nhà nước là chủ yếu mà đảng lãnh đạo toàn XH về mọi mặt và nhân dân LĐ thực hiện quyền và lợi
ích của mình trên mọi mặt của XH.
Thứ sáu: XH XHCN là chế độ giải phóng con người thoát khỏi áp bức bóc lột, thực hiện công bằng,
bình đẳng, tiến bộ XH, tạo những điều kiện cơ bản để con người PT toàn diện.
Việc giành chính quyền, độc lập, tự do, dân chủ- giải phóng con người về chính trị, suy cho cùng cũng là để
giải phóng con người về kinh tế, về đời sống vật chất và tinh thần. Dù lúc đầu mới có chính quyền, trình độ kinh
tế, mức sống vật chất của nhân dân còn thấp, nhưng đã bước vào XD CNXH là đã không còn chế độ tư hữu, áp
bức bất công với tư cách một chế độ XH. Đây là những tiền đề chính trị, kinh tế khác về bản chất so với các chế
độ cũ để từng bước thực hiện việc giải phóng con người và phát triển con người toàn diện.

Câu 2- Làm sáng tỏ tư duy LL về CNXH.
Qua 25 năm, sự nghiệp đổi mới của Việt Nam đạt được những thành tựu như ngày hôm nay là nhờ có Đảng
lãnh đạo và do Đảng đã luôn luôn chủ động, sáng tạo trong đổi mới tư duy về CNXH.
Văn kiện Đại hội X của Đảng viết: “Qua tổng kết lý luận – thực tiễn trên 20 năm đổi mới, chúng ta càng
thấy rõ giá trị định hướng và chỉ đạo to lớn của Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội , đồng thời cũng thấy rõ thêm những vấn đề mới đặt ra cần giải đáp.
Đảng ta cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung và phát triển Cương lĩnh, làm nền tảng chính trị, tư tưởng cho mọi
hoạt động của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong quá trình đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội” (1). Việc tiếp
tục đổi mới tư duy về lý luận XHCN, là sự cần thiết, vừa cấp bách vừa cơ bản, xuất phát từ yêu cầu tiếp tục giải
phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và tiếp
cận những thành tựu mới nhất của nền kinh tế tri thức, góp phần xây dựng mô hình mới của chủ nghĩa xã hội ở
nước ta.
* Nhận thức mới trên lĩnh vực lí luận:
Về mặt lý luận chúng ta đã làm rõ được những hệ giá trị bền vững của CN M-LN, đó là hệ thống giá trị bao
gồm các nguyên lý, các học thuyết lý luận, nền tảng học thuyết hình thái kinh tế xã hội, học thuyết về giá trị

thặng dư, học thuyết CMXH. Về Đảng kiểu mới và Nhà nước kiểu mới, về sứ mệnh LS thế giới của GCCN và
vấn đề thời đại, về văn hóa, về con người và tư tưởng giải phóng con người ... Những giá trị bền vững đó luôn
luôn là điểm tựa, thế giới quan và phương pháp luận cho chúng ta trong nhận thức và vận dụng sáng tạo vào
thực tiễn công cuộc đổi mới đất nước.
Với phương pháp nghiên cứu LL và khách quan, ĐCSVN đã khẳng định, cùng với CN M-LN, TT HCM là
nền tảng TT của Đảng, của sự nghiệp đổi mới và kim chỉ nam cho hành động của CMVN. Do đó, trong quá
trình đi lên CNXH cần thiết phải vận dụng đúng quy luật và bước đi cho phù hợp. Đó cũng là cơ sở để tìm tòi và
đi tới những nhận thức mới về CNXH.
Trước những biến động dữ dội và hết sức phức tạp của thế giới với sự đổ vỡ của hệ thống XHCN, phong
trào cách mạng thế giới thoái trào. Trong hoàn cảnh đó không dễ gì nhận diện được chuẩn xác những chiều
hướng PT của TG. Song ĐCSVN với tư duy KH đã phân tích cục diện TG và có được nhận thức đúng đắn về
thời đại ngày nay.
Đó là thành quả lý luận quan trọng vì trên cơ sở nhận thức đó chúng ta không chỉ có niềm tin khoa học để
kiên trì giữ vững định hướng con đường đi lên CNXH, giữ vững độc lập tự chủ, mà còn chủ động tích cực hội
nhập quốc tế và đi tới nhận thức: "Để đi lên CNXH, chúng ta phải phát triển kinh tế tri thức định hướng XHCN;
đẩy mạnh CNH, HĐH xây dựng nền VH tiên tiến, đậm đà bản sắc DT làm nền tảng tinh thần của XH; XD nền
DC XHCN, thực hiện đại đoàn kết toàn DT; XD Nhà nước PQ XHCN của ND, do ND, vì ND; XD Đảng
TSVM; đảm bảo vững chắc QP và AN quốc gia..." . Nhận thức được những nội dung đó là thành tựu nổi bật
trong tư duy Llý luận của Đảng qua hơn 20 năm đổi mới.
* Nhận thức mới về bản chất, mục tiêu và động lực của CNXH.
Việc nhận thức bản chất, mục tiêu và động lực của CNXH đều nhằm mục đích trả lời câu hỏi: CNXH là gì?
XH XHCN mà chúng ta XD trong điều kiện mở cửa, hội nhập quốc tế hiện nay là một XH như thế nào?
Nhận thức về bản chất, mục tiêu của CNXH ở nước ta được thể hiện trong "Cương lĩnh XD đất nước trong
thời kỳ quá độ lên CNXH" mà ĐH VII của Đảng đã thông qua và được ĐH VIII, IX, X của Đảng khẳng định
lại, đến ĐH XI bổ sung, phát triển năm 2011, đó là một XH XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một XH:
- "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".


- Do nhân dân làm chủ;
- Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp;

- Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
- Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện;
- Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển;
- Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh
đạo;
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Đặc trưng XH XHCN ở VN không chỉ xác định chủ thể XH là ND mà còn nhấn mạnh tới bản chất KT của
CNXH. "Nền KT PT cao" đã trở thành định hướng để dứt khóat xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, đi
vào KTTT, chấp nhận cạnh tranh, phân hóa, vượt trội để tạo động lực PT. XD XH XHCN là XD một XH VH
cao, đó là một XHLĐ, XH học tập, XH dân chủ, công bằng, văn minh, hiện đại. Phát triển KT, chính trị, VH,
XH đều nhằm vào mục đích phục vụ cuộc sống của nhân dân LĐ. Đó là bản chất, mục tiêu của CNXH ở VN.
Trong những năm thực hiện sự nghiệp đổi mới, chúng ta đã nhận thức được rằng: CNXH phải phục vụ con
người. Con người dựa trên sự lựa chọn CNXH như là một hình thức hợp lí nhất để đạt tới mục tiêu giải phóng
mình và giải phóng XH. Từ nhận thức đó chúng ta đã xác định, động lực của CNXH là một hệ động lực bao
gồm các động lực VC và tinh thần, các động lực bên trong (nội lực) và bên ngoài (ngoại lực). Cùng với KTHH,
KTTT và trong tương lai là trình độ KT tri thức, là thể chế chính trị DC - pháp quyền và năng lực trí tuệ, bản
lĩnh chính trị của Đảng, là đại đoàn kết toàn dân tộc, là nền VH tiên tiến đậm đà bản sắc DT.
Tất cả đều là những phương diện quan trọng cấu thành nguồn lực để PT 1 XH dân chủ, công bằng, văn
minh, tự do và hạnh phúc của con người.
3. Những nhận thức mới về TKQĐ lên CNXH ở VN.
Trong các VK Đảng TK đổi mới đã xác định rõ hình thức LS của QĐ lên CNXH ở nước ta là QĐ bỏ qua
chế độ TBCN. Đây là nhận thức mới của Đảng ta về TKQĐ.
Trước đây khi đề cập đến vấn đề này, có khi chúng ta nói: "bỏ qua CNTB", "bỏ qua giai đoạn PT TBCN"...
Mặc dù cách diễn đạt có khác nhau nhưng đều xuất phát từ nhận thức đối lập hoàn toàn giữa CNTB và CNXH,
coi những gì đã có trong CNTB đều phải loại bỏ, không thể dung nạp trong CNXH (như KTTT, DCTS, Nhà
nước pháp quyền...). Cách nhìn đó đã dẫn tới thái độ phủ nhận phủ nhận những thành quả về VH, KH-KT... mà
nhân loại đã đạt được trong thời đại TBCN; không ý thức được sự cần thiết phải kế thừa có chọn lọc những
thành quả đó để giúp ích cho sự PT của CNXH.
Mặt khác, cũng có khuynh hướng đồng nhất CNXH mới ở trạng thái phát sinh, manh nha với CNXH đã PT
thành thục (mà sự PT này vốn chưa có trong thực tế, mới chỉ là xu hướng được lí tưởng hóa). ĐH IX của Đảng

trên CS tổng kết thực tiễn, tiếp tục đổi mới tư duy về CNXH đã nghiêm túc phê phán những sai lầm, thiếu sót
trong nhận thức LL, tham khảo kinh nghiệm (thành công và thất bại) của nhiều nước XHCN để đi tới khẳng
định nhận thức mới về TKQĐ là:
- TKQĐ lên CNXH ở VN là một TKLS lâu dài, phải trải qua rất nhiều những bước đi trung gian được đặc
trưng bởi định hướng XHCN trong XD nền KTTT. Tính chất mục tiêu của CNXH được thể hiện trong XD nền
DC, nhà nước PQ; đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị để không ngừng đảm bảo DC và phát huy
quyền làm chủ của ND.
- CNH, HĐH là nhiệm vụ trung tâm của TKQĐ lên CNXH, nhằm tạo lập CVVC-KT hiện đại cho CNXH,
đảm bảo giải phóng và PT LLSX, trên CS đó, từng bước XD QHSX mới tiên tiến XHCN.
Thời kỳ quá độ không chỉ là một quá trình phát triển KT công nghệ mà còn là 1 quá trình PT KT-XH, quá
trình PT VH, con người. Đạo đức - lối sống theo hệ giá trị của CNXH... (xem thêm SGK Tr 202).
4. Nhận thức mới về phương hướng và con đường đi lên CNXH ở VN.
Cương lĩnh XD đất nước trong TKQĐ lên CNXH được thông qua tại ĐHVII của Đảng (1991) không chỉ
nêu ra những đặc trưng của CNXH mà còn vạch ra phương hướng, con đường XD CNXH ở VN, đến ĐH XI của
Đảng (2011), Đảng ta đã bổ sung, phát triển và xác định những phương hướng cơ bản đó là:
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài
nguyên, môi trường.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân
dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế.
Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng
mặt trận dân tộc thống nhất.
Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.


Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Tám điểm trong phương hướng nêu trên chính là nhiệm vụ lớn phải giải quyết trong TKQĐ, là nội dung của

con đường đi lên CNXH ở nước ta.
Trên lĩnh vực kinh tế, ĐCSVN đã xác định, PTKT là trung tâm và để làm được điều đó phải giải phóng và
PT LLSX, đây là mấu chốt và thực chất của vấn đề. Từ đó, Đảng đưa ra nhận thức mới về CNXH, SXHH không
đối lập với CNXH, mà là thành tựu PT của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan cần thiết cho công cuộc
CD CNXH và cả khi CNXH đã được XD. Đây là sự nhận thức vượt trên nhận thức giáo điều trước đây.
Tóm lại: Con đường đi lên CNXH ngày càng sáng tỏ hơn về mặt LL nhận thức và thực tiễn được thể
hiện trên các phương diện:
- ĐLDT gắn liền với CNXH là QL phát triển của CM nước ta trong thời đại ngày nay.
- Mục tiêu của đổi mới theo định hướng XHCN đồng thời là mục tiêu, bản chất của CNXH, của sự nghiệp
XD CNXH ở nước ta là dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
- TKQĐ lên CNXH ở VN là một thời kỳ LS lâu dài được đặc trưng bởi định hướng XHCN, trong XD nền
KTTT, tính chất mục tiêu của CNXH được thể hiện trong XD nền dân chủ, Nhà nước PQ, đổi mới và nâng cao
chất lượng hệ thống chính trị để không ngừng bảo đảm dân chủ và phát huy quyền làm chủ của ND.
- CNH, HĐH là nhiệm vụ trung tâm của TKQĐ lên CNXH nhằm tạo lập CSVCKT hiện đại của CNXH, bảo
đảm giải phóng và PT LLSX. Từng bước XD QHSX mới, tiến tiến XHCN đó không chỉ là quá trình PT KTcông nghệ mà còn là quá trình PT KT-XH, quá trình PT VH, XH, con người - đạo đức - lối sống theo hệ giá trị
của CNXH.
- CN M- LN, TT HCM là nền tảng TT, kim chỉ nam hành động của CMVN, XD CNXH ở VN là XD một
"xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt" (HCM toàn tập, tập 10, Tr 591).
- Đổi mới và hình thành nhận thức mới về CNXH, về con đường đi lên CNXH ở nước ta là làm sao cho
công cuộc đổi mới, XD CNXH đúng QL, thuận lòng dân và hợp thời đại, tạo ra sức mạnh tổng hợp của hệ thống
chính trị và quyền lực của nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân.
Câu 3: Làm rõ sự sáng tỏ về con đường đi lên CNXH.
A. Đặt vấn đề (Tự cá nhân làm).
B. Nội dung:
1. Tính tất yếu của con đường quá độ lên CNXH ở VN (Tr 71 - 72 giáo trình to).
- Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, với lòng yêu nước nồng nàn, không chịu khuất phục, không cam chịu
làm nô lệ, một loạt phong trào yêu nước và các cuộc khởi nghĩa chống TD Pháp liên tục nổ ra, từ PT Cần
Vương và các cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám... đến các PT yêu nước của Phan Bội
Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học ... Nhưng tất cả các cuộc khởi nghĩa và PT yêu nước ấy đều thất bại.
Thực tế đó chứng tỏ, trong ĐK nước ta con đường giải phóng DT dưới ngọn cờ tư tưởng phong kiến hoặc tư

tưởng tư sản đều không thể giành được thắng lợi.
- Thắng lợi của CM tháng Mười Nga (1917) đã mở đầu một thời đại lịch sử mới – thời đại quá độ từ CNTB
lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới. Từ đó chiều hướng phát triển chủ yếu của LS là đấu tranh xóa bỏ trật tự
TBCN, thiết lập và từng bước XD CNXH trên phạm vi thế giới. PT Cộng sản và CN quốc tế phát triển mạnh;
PT giải phóng DT có xu hướng theo con đường CN tháng Mười.
- Cũng chính lúc đó, Nhà yêu nước NAQ trên hành trình tìm đường cứu nước đã đến với CNM-LN và tìm
thấy ở đó con đường cứu nước mới: con đường CM dân tộc dân chủ nhân dân lên CM XHCN. Người đã truyền
bá CNM-LN vào VN và thành lập ĐCS VN ngày 03-02-1930 để lãnh đạo CM nước ta.
- Từ 1930, dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN, ND ta đã phát huy cao độ truyền thống anh hùng, bất khuất của
DT, kiên trì chiến đấu hy sinh để giành độc lập thống nhất cho TQ, hoàn thành CM dân tộc dân chủ nhân dân.
Sau khi hoàn thành về cơ bản nhiệm vụ của cuộc CMDT dân chủ nhân dân, ĐCSVN đã lãnh đạo nhân dân
tachuyeenr sang thực hiện nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên CNXH, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân ta
và phù hợp với xu hướng phát triển của LS nhân loại.
2. Cơ sở lựa chọn con đường đi lên CNXH ở VN
a) Cơ sở lý luận:
- CN M - LN và TT HCM là cơ sở LL, là nền tảng TT của sự lựa chọn con đường đi lên CNXH ở VN.
CN M-LN với 2 phát kiến lớn là học thuyết m và CNDVLS, CN M-LN đã vạch rõ QL khách quan của sự
PT loài người, vạch rõ tính tất yếu của LS, của việc CNXH thay thế CNTB, đó là một quá trình LS tự nhiên.
CN M-LN cũng chỉ rõ, quá trình LS tự nhiên đó không chỉ diễn ra bằng con đường PT tuần tự mà còn bao
hàm cả sự bỏ qua một hoặc vài hình thái KTXH nhất định (PT rút ngắn). LL M-LN đã làm sáng tỏ 1 cách lôgic
tất yếu trong thời đại ngày nay sự nghiệp đấu tranh giành ĐLDT chỉ có thể là SNCM trên lập trường của GCCN,
do GCCN và chính Đảng của nó lãnh đạo; giải quyết vấn đề DT phải kết hợp CNDT với CN quốc tế.
- TT HCM: Chủ tịch HCM tiếp cận CNXHKH từ lập trường yêu nước và khát vọng GP DT. TT của Người
là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của CMVN, là kết quả của sự vận dụng


và PT sáng tạo CN M-LN vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và PT các giá trị truyền thống tốt đẹp của
DT, tiếp thu tinh hoa VH nhân loại. Đó là TT về GPDT, GPGC, GP con người; về ĐLDT gắn liền với CNXH,
kết hợp sức mạnh DT với sức mạnh thời đại; về sức mạnh của ND, của khối đại ĐK DT... Đó là 1 hệ thống
những vấn đề LL quan trọng có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong thời đại CMVS.

Thắng lợi của CMVN dưới sự lãnh đạo của Đảng cùng với những thành tựu to lớn của hơn 20 năm đổi mới
đã khẳng định sự lựa chọn con đường tiến lên CNXH dựa trên cơ sở và nền tảng CNM-LN, TTHCM là đúng
đắn.
Sự nghiệp đổi mới đang đòi hỏi Đảng và ND phải kiên trì và vận dụng, PT sáng tạo CNM-LN, TTHCM
nhằm giải đáp những vấn đề mới do thực tiễn đặt ra và làm sáng tỏ hơn con đường đi lên CNXH ở nước ta.
b) Vai trò của ĐCSVN với việc lựa chọn con đường ĐLDT và CNXH.
Năm 1930, ĐCSVN ra đời, đánh dấu 1 bước ngoặt quan trọng trong LS DT. Do nắm bắt được những
nguyên lí cơ bản của CNM-LN và QL khách quan của thời đại, ngay từ khi ra đời Đảng ta đã xác định con
đường CMVN là con đường CMVS. Đó là con đường "làm TS dân quyền cách mệnh và thổ địa cách mệnh để đi
tới XH CS". Con đường được lựa chọn, tuy không phải là con đường bằng phẳng, thậm chí có nhiều quanh co,
phức tạp, nhưng đó là con đường bảo đảm cho DT được ĐL, ND được ấm no, HP; đó là con đường tiến tới sự
công bằng, văn minh và tiến bộ. Trong giai đoạn đầu (CMDT dân chủ ND" thì ĐLDT là mục tiêu trực tiếp, còn
CNXH được thể hiện trong tư tưởng chỉ đạo, các hình thức biện pháp tổ chức lực lượng CM và trong phương
hướng tiến lên của CM. Ở giai đoạn sau, tiến hành CMXHCN, giương cao ngọn cờ ĐLDT gắn liền với CNXH,
Đảng ta đã khơi dậy được nguồn sức mạnh tổng hợp của DT, của quốc tế và của thời đại.
Như vậy, thực hiện ĐLDT và CNXH chính là điều kiện đảm bảo cho cuộc CMDT dân chủ được thực hiện 1
cách triệt để và liên tục nhằm tạo ra những tiền đề về chính trị - KT - VH tư tưởng cho sự PT.
Có thể nói, PT nhận thức của Đảng về MQH giữa CM giải phóng DT, CM dân chủ ND với CMXHCN trong
suốt hơn 3/4 thế kỷ là 1 nhận thức khoa học. Thể hiện rõ lập trường CM triệt để và kiện định của GCCN. ĐLDT
gắn liền với CNXH đó là điểm nổi bật xuyên suốt và chủ đạo trong mục tiêu chiến lược của Đảng. Sự lựa chọn
đó phản ánh 1 cách chính xác QL vận động và PT của CM nước ta - sự lựa chọn đó là một khẳng định:
CMGPDT trong thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH chỉ có thể thắng lợi trọn vẹn, mở ra nguyện vọng đi tới
CNXH. Nếu đặt dưới sự lãnh đạo của ĐCS - đội tiền phong của GCCN, đại biểu trung thành cho lợi ích của DT
và của NDLĐ. Thực hiện lí tưởng và mục tiêu của CNXH, chính là thực hiện sứ mệnh LS của GCCN.
Xu thế PT khách quan của LS trong thời đại CMVS đã cho phép các DT dưới sự lãnh đạo của đội tiền phong
của GCCN, quá độ tới CNXH không nhất thiết phải trải qua chế độ TBCN. Đó là vấn đề LL đã được làm sáng
tỏ trong di sản kinh điển của CNM-LN, trong kho tàng TT HCM và trong các VK của Đảng suốt từ ngày thành
lập cho tới nay.
Mỗi bước đi lên trong tiến trình CM, Đảng ta đã trải qua nhiều lần lựa chọn để giải quyết sự lựa chọn duy
nhất là CNXH. Với CMT8, CNXH còn là 1 TT, định hướng PT, kháng chiến kiến quốc trong khi tập trung thực

hiện mục tiêu GPDT đánh đuổi CN thực dân xâm lược, nhiều tiền đề XD XH mới đã được chú ý. Đến khi 2
miền đi vào thực hiện 2 mục tiêu chiến lược khác nhau, việc MB quá độ tới CNXH là 1 QĐ mang tính LS. Từ
sự QĐ đúng đắn đó chúng ta đã tạo ra được sức mạnh vật chất và tinh thần to lớn để chiến thắng cuộc CT nhiều
mặt tàn bạo và khốc liệt của ĐQ Mĩ và cuối cùng sức mạnh của CNXH đã đưa MN tới toàn thắng.
Chiến tranh kết thúc, cả nước cùng chung 1 nhiệm vụ LS, trong tình hình mới, quá độ tới CNXH bỏ qua
CNTB. Cho đến nay mặc dù hệ thống XHCN không còn nưa, song ĐLDT và CNXH vẫn là định hướng tư
tưởng, chính trị không thay đổi của sự nghiệp CM nước ta, của Đảng và DT ta. Định hướng đó được thể hiện
nhất quán và toàn diện trong mọi chương trình, kế hoạch hành động của toàn đảng, toàn dân nhằm thực hiện đầy
đủ và tốt nhất mục tiêu của đổi mới.
Trước mọi biến động quanh co của LS, ĐH toàn quốc lần thứ XI của Đảng khẳng định: "Xã hội xã hội chủ
nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân
dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù
hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có
điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp
nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do
Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới".
c) Con đường ĐLDT gắn với CNXH được lựa chọn từ sức mạnh của khối đại ĐK dân tộc.
Nhận thức được sâu sắc sức mạnh của DT từ cội nguồn LS đó là ĐKDT. ĐCSVN đã coi ĐKDT là nguyên
tắc có tính bất biến của CMVN. DO đó, con đường đi lên và PT của DT không chỉ phù hợp với Ql phát triển của
LS mà còn phải đáp ứng được khát vọng của ND.
ĐLDT gắn liền với CNXH không chỉ là sự lựa chọn của Đảng, của GCCN mà còn là sự lựa chọn của cả DT.
Vì vậy, ĐLDT là nhân tố quan trọng tạo ra sự đồng thuận, sự gắn kết của của toàn DT và đoàn kết DT là động
lực chủ yếu để chúng ta đi lên CNXH... Đoàn kết các DT VN trong cuộc đấu tranh CM đã trở thành vấn đề máu
thịt của Đảng.


Từ những bài học của CM tháng Mười về huy động LL và tập hợp quần chúng để giành chính quyền, giữ
CQ, XDCQ. ĐCSVN đã thấy được sức mạnh tiềm ẩn của DT từ khối đại ĐKTD, Đảng ta xác định: ĐLTD gắn
với CNXH là đòi hỏi khách quan của bản thân quần chúng ND trong cuộc ĐT để tự GP. Đảng có sữ mệnh thức
tỉnh, tập hợp họ lại, hướng dẫn họ chuyển những đòi hỏi khách quan tự phát của ND thành những đòi hỏi tự giác

có tính tổ chức, kỷ luật, tạo nên sức mạnh vật chất vô địch trong cuộc ĐT vì ĐL tự do và HP của mọi người.
Con đường ĐLDT gắn liền với CNXH đã quy tụ được các DT, các GC, các tầng lớp, đảng phái, tôn giáo, trí
thức yêu nước, kiều bào ở nước ngoài, tạo ra sức mạnh nội sinh và nguồn năng lượng để DT đi tới hòa bình, dân
chủ giàu mạnh, văn minh và hội nhập.
ĐLDT và CNXH là động lực, là mục tiêu lý tưởng, là cơ sở của tư tưởng chiến lược. Đoàn kết DT và ĐK
quốc tế của ĐCSVN - một chiến lượng tổng hòa biện chứng MQH DT và GC, quốc gia và quốc tế.
d) Lựa chọn con đường được căn cứ vào yếu tố thời đại.
CM tháng Mười mở ra 1 thời đại mới trong LS nhân loại, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi
toàn thế giới. CM tháng Mười đã khẳng định bản chất tốt đẹp của chế độ XH mới, XH XHCN, chỉ ra con đường
CM không ngừng, từ CMDT dân chủ nhân dân tiến lên CMXHCN. Điều này cũng có nghĩa là với thời đại mới,
CM giải phóng DT trở thành bộ phận khăng khít của CMVS thế giới. CM giải phóng DT phải phát triển thành
CMXHCN mới đảm bảo được thắng lợi hoàn toàn. Những nội dung thời đại nếu trên cho thấy: sau CM tháng
Mười, giải quyết vấn đề DT phải đứng trên lập trường của GCCN, tức là ĐLDT phải gắn liền với CNXH - CN
yêu nước phải gắn liền với CN quốc tế vô sản.
Do vậy, muốn cứu nước và GPDT, không có con đường nào khác con đường CMVS. Lựa chọn con đường
ĐLDT gắn liền với CNXH đó là sự lựa chọn phù hợp với QL tiến hóa của LS. Tuy nhiên cũng phải thấy rằng:
Bất kỳ thời đại nào ra đời và PT cũng trải qua những bước thăng trầm. Sự sụp đổ của LX và các nước XHCN ở
Đông Âu là 1 minh chứng lịch sử. Điều đó đã cho thấy tính chất gay go phức tạp của cuộc đấu tranh và những
bước quanh co, khúc khuỷu trên con đường đi tới CNXH. Nắm vững QL khách quan của sự vận động và PT,
ĐCSVN khẳng định: LS thế giới đang trải qua những bước quanh co, song loài người cuối cùng nhất định sẽ
tiến tới CNXH vì đó là QL tiến hóa của LS.
Giữ vững và kiên trì với con đường đã lựa chọn của Đảng, của DT. ĐH đại biểu toàn quốc lần thứ VIII tiếp
tục khẳng định: Sau những biến cố chính trị ở LX và Đông Âu, CNXH tạm thời lâm vào thoái trào, nhưng điều
đó không làm thay đổi được tính chất của thời đại loài người vẫn đang trong thời ký quá độ từ CNTB lên
CNXH. Tới ĐH toàn quốc lần thứ IX, X, XI, dân tộc ta vẫn giữ vững một niềm tin: "Theo QL tiến hóa của LS,
loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH".
3. Liên hệ đất nước, địa phương:
a) Trước đổi mới (Tham khảo Tr 188 khoa CNXHKH - ngắn gọn).
- Về kinh tế: Đã XD được cơ sở KT của chế độ mới trong các ngành, các lĩnh vực KT, CN, nông nghiệp,
thương nghiệp, tài chính, ngân hành, giao thông vận tải... Trong NN đã diễn ra sôi nổi và mạnh mẽ PT xây dựng

HTX. Trong CN đã thực hiện CNH, coi đó là nhiệm vụ trung tâm của TKQĐ, lấy PT CN nặng làm nền tảng, ở
thời kỳ này trong PT KT đã chú trọng PT CN và NN, đựa SX nhỏ lên SX lớn XHCN.
- Về chính trị: Quan điểm được nhấn mạnh là nắm vững chuyên chính VS, coi đấu tranh giữa hai con đường
TBCN và XHCN là nội dung chủ yếu của đấu tranh GC. Tiến hành đồng thời 3 cuộc CM, trong đó CM kỹ thuật
là then chốt, CM QHSX đi trước 1 bước, XD QHSX mới XHCN với chế độ công hữu là nền tảng để mở đường
cho LLSX PT. Sức mạnh, động lực để cải tạo và XD CNXH thời kỳ này là khối liên minh công nông đặt dưới
sự lãnh đạo của Đảng.
- Về VH-XH: Chú trọng XD nền VH mới, con người mới XHCN và lối sống mới XHCN, quan niệm này
được coi là mô hình XD CNXH ở nước ta. Chú trọng những biện pháp và tiến tới xóa bỏ giai cấp bóc lột (GC
TS – địa chủ, phong kiến), xóa bỏ tình trạng bóc lột gắn với chế độ tư hữu, xác lập chế độ công hữu với 2 TPKT
quốc doanh và tập thể.
Như vậy, nhìn tổng thể:
- Ưu điểm: Đảng xác định đúng mục tiêu, bản chất của CNXH và quy nô to lớn với nội dung toàn diện của
sự nghiệp XD CNXH... XD và PTKT, VH chính là phục vụ cuộc sống của ND, những người chủ của XH mới,
XH XHCN với tất cả tính ưu việt của nó.
- Hạn chế: Không nhận thức được KT hàng hóa – thị trường là lực đẩy và PT LLSX. Hạn chế và yếu kém
về dân chủ làm suy yếu động lực PT. Sự chậm trễ trong chiến lược PT KH-CN, trong mở cửa hội nhập quốc tế
đã làm chúng ta không tận dụng được những thành tựu văn minh nhân loại, không bắt kịp xu thế phát triển hiện
ddaij của thế giới, không có được chính sách kịp thời và cơ chế hữu hiệu đồng bộ để phát huy tài năng sáng tạo
của con người, nguồn lực quan trọng nhất trong mọi nguồn lực. Những hạn chế đó buộc chúng ta phải đi tới
nhận thức quyết liệt là: Đổi mới để tồn tại, để phát triển.
b) Những nhận thức mới của Đảng về CNXH và con đường đi lên CNXH (Tr 195 giáo trình khoa
CNXHKH - Xem câu 2)
c) Địa phương đã làm gì để góp phần làm sáng tỏ con đường đi lên CNXH hiện nay.


- Làm tốt công tác chính trị tư tưởng, thống nhất nhận thức và hành động nhằm kiên định mục tiêu ĐLDT và
CNXH trong Đảng bộ và toàn XH.
- Tăng cường công tác bồi dưỡng LLCT về CNM-LN, TTHCM, đặc biệt là tư tưởng về CNXH...
- Tổ chức quán triệt, tuyên truyền, thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả tư tưởng chỉ đạo Cương lĩnh XD đất

nước trong thời ký quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) và các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, cụ
thể hóa thành Chương trình hành động, kế hoạch, đề án của địa phương tập trung PT KT-VH-XH; giữ vững ổn
định chính trị, tăng cường QP, AN, tăng cường công tác xây dựng Đảng và cả hệ thống chính trị TSVM, thực
hiện thắng lợi mục tiêu XD thành công CNXH ở nước ta..... (Các bạn bổ sung thêm).
C. Kết luận:
- Khẳng định con đường đi lên CNXH ở nước ta là hoàn toàn hợp QL vận động phát triển của XH loài
người, phù hợp với CMVN và hợp lòng dân...
- Trách nhiệm của cá nhân trong tuyên truyền, vận động và hành động cụ thể để XD CNXH ở nước ta...


Câu hỏi 2: Bộ máy hành chính nhà nước? Nội dung cải cách bộ máy Hành chính ở nước ta hiện
nay? Liên hệ thực tế tại địa phương, cơ quan công tác?
Bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam là hệ thống các cơ quan Nhà nước từ Trung ương tới cơ sở
được tổ chức và thực hiện theo những nguyên tắc chung nhất, tạo thành một cơ cấu đồng bộ thực hiện các chức
năng và nhiệm vụ của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Bộ máy hành chính nhà nước nước là hệ thống các cơquan thực thi quyền hành pháp gồm có Chính phủ,
Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; Ủy ban nhân dân các cấp và các cơ quan chuyên môn trực
thuộc UBND các cấp
Các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện 4 chức năng cơ bản là chức năng chính trị, chức năng kinh
tế, chức năng văn hóa và chức năng xã hội. Mỗi một loại cơ quan hành chính nhà nước được trao đổi những
chức năng và quyền hạn cụ thể. Tùy thuộc vào loại hình cụ thể có thể chia thẩm quyền thành 2 loại: thẩm quyền
chung và thẩm quyền riêng. Thẩm quyền chung được trao cho những tổ chức hành chính nhà nước thực hiện
chức năng vừa mang tính chất ngành vừa mang tổ chức lãnh thổ. Thẩm quyền riêng được chia thành nhóm theo
ngành và nhóm chức năng cụ thể.
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, là cơ quan hành chính cao nhất của nước Cộng hòa xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam. Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế xã hội, an
ninh quốc phòng và đối ngoại của nhà nước, đảm bảo hiệu lực của bộ máy nhà nước từ Trung ương đến cơ sở,
đảm bảo veiecj tôn trọng và chấp hành hiến pháp, pháp luật, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc
hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước.

Cơ cấu tổ chức của Chính phủ gồm có các bộ và cơ quan ngang bộ. Nhiệm kỳ của Chính phủ theo nhiệm
kỳ của Quốc hội. Nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và Thứ trưởng cơ
quan ngang bộ được quy định trong Hiến pháp, Luật Tổ chức Chính phủ.
Thủ tướng Chính phủ do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi miễn theo đề nghị của Chủ tịch nước.
Thủ tướng Chính phủ trình Quốc hội phê chuẩn về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và từ chức đối
với Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
Ủy ban nhân dân các cấp là cơ quan hành chính ở địa phương, do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra, là
cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân chịu trách nhiệm chấp hành hiến pháp, luật, các
văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân. Ủy ban nhân dân chịu trách nhiệm
báo cáo trước Hội đồng nhân dân cùng cấp và cơ quan hành chính nhà nước cấp trên. Cơ quan trực thuộc Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh là các sở, ở cấp huyện là các phòng.
Do ảnh hưởng của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, nền hành chính nhà nước ta còn mang nặng dấu ấn
của cơ chế cũ, chưa đáp ứng được những yêu cầu của cơ chế quản lý mới cũng như yêu cầu phục vụ nhân dân
trong điều kiện mới, hiệu lực, hiệu quả quản lý chưa cao; Chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của bộ máy
hành chính trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa được xác định thật rõ và phù hợp; sự
phân công, phân cấp giữa các ngành và các cấp chưa thật rành mạch. Hệ thống thể chế hành chính chưa đồng
bộ, còn chồng chéo và thiếu thống nhất; thủ tục hành chính trên nhiều lĩnh vực còn rườm rà, phức tạp; trật tự, kỷ
cương chưa nghiêm.
Cải cách hành chính ở Việt Nam được coi là công việc mới mẻ, diễn ra trong điều kiện thiếu kiến thức và
kinh nghiệm về quản lý hành chính nhà nước trong thời kỳ mới, có nhiều vấn đề phải vừa làm, vừa tìm tòi rút
kinh nghiệm, được tiến hành với những bước đi, lộ trình khác nhau từ thấp tới cao. Bắt đầu là việc cải cách một
bước thủ tục hành chính trong việc giải quyết các công việc của tổ chức, của cá nhân, đến cải cách một bước
nền hành chính với cả 4 nội dung là cải cách thể chế hành chính, cải cách bộ máy hành chính nhà nước, xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức và cải cách tài chính công.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đề ra đường lối đổi mới kinh tế ở nước ta và đã tạo tiền đề cho nền
kinh tế ở nước ta thoát khỏi khủng hoảng trong thời kỳ kinh tề kế hoạch hóa tập trung. Trong khi đó hoạt động
quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực đặc biệt là quản lý hành chính nhà nước về kinh tế có nhiều bất
cập đã cản trở công cuộc đổi mới kinh tế vì vậy cải cách nền hành chính nhà nước đã trở thành nhu cầu khách
quan.
Hội nghị Trung ương lần thứ 8 khóa VII (01/1995) đặt nền tảng cho công cuộc cải cách hành chính ở

nước ta, đã chỉ ra nội dung, quan điểm, nguyên tắc cơ bản của cải cách hành chính nhà nước trong tổng thể đổi
mới hoạt động của nhà nướ, đánh dấu bước phát triển mới về xây dựng và phát triển nền hành chính nhà nước,
đã mở ra một giai đoạn mới, giai đoạn chuyển biến thật sự trong cải cách hành chính ở nước, có ý nghĩa thúc
đẩy tiến trình cải cách trong hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới vừa qua.
Chương trình cải cách hành chính trong những năm qua, đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp đổi mới
và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, làm cho bộ máy hành chính hoàn chỉnh hơn, hoạt động có hiệu quả
hơn, từng bước đổi mới thể chế hành chính trên các lĩnh vực trước hết là hình thành thể chế kinh tế phù hợp với
yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phục vụ nhân dân đúng pháp luật, tốt hơn, tiết


kiệm hơn, dần chuyển nền hành chính từ cơ quan cai quản thành các cơ quan phục vụ dân, làm các dịch vụ đối
với dân, công dân là khách hàng của nền hành chính, nhằm góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa với bản chất của dân, do dân, vì dân.
Với mục tiêu chung của Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước, giai đoạn 2001 – 2010 là:
xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa, hoạt động có hiệu
lực, hiệu quả theo nguyên tắc của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng; xây dựng
đội ngũ cán bộ công chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng phát triển đất
nước.
Mục tiêu cụ thể:
Cơ cấu tổ chức của Chính phủ gọn nhẹ, hợp lý theo nguyên tắc Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, thực
hiện chức năng chủ yếu là quản lý vĩ mô toàn xã hội bằng pháp luật, chính sách, hướng dẫn và kiểm tra thực
hiện.
Bộ máy của các Bộ được điều chỉnh về cơ cấu trên cơ sở phân biệt rõ chức năng phương thức hoạt động của
các bộ phận tham mưu, thực thi chính sách, cung cấp dịch vụ công.
- Tích cực phân cấp quản lý hành chính nhà nước giữa Trung ương và địa phương, giữa các cấp chính
quyền địa phương; định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và tổ chức bộ máy chính quyền ở đô thị và nông
thôn.
- Các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện tiếp tục được kiện toàn lại gọn
nhẹ, thực hiện đúng chức năng quản lý nhà nước theo nhiệm vụ và thẩm quyền được xác định trong Luật Tổ
chức Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân dân sửa đổi. Xác định rõ tính chất, cơ cấu tổ chức, chế độ làm việc của

chính quyền cấp xã.
* Nội dung cải cách tổ chức bộ máy hành chính:
1. Điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và
chính quyền địa phương các cấp cho phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước trong tình hình mới.
- Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang bộ tập trung thực hiện chức năng xây dựng, ban hành thể chế, kế
hoạch, chính sách, quản lý vĩ mô đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, chỉ đạo và kiểm tra thực hiện.
- Phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các bộ trưởng, Thủ
trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; trách nhiệm của tập thể và trách nhiệm của cá nhân trong
cơ quan hành chính các cấp.
- Định rõ vai trò, chức năng và trách nhiệm của chính quyền địa phương các cấp phù hợp với yêu cầu đổi
mới sự phân cấp quản lý hành chính giữa Trung ương và địa phương, gắn với các bước phát triển của cải cách
kinh tế.
- Từng bước điều chỉnh những công việc mà Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ và chính quyền địa phương đảm nhiệm để khắc phục những chồng chéo trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ.
Chuyển cho các tổ chức xã hội, tổ chức Phi Chính phủ hoặc doanh nghiệp làm những công việc về dịch vụ
không cần thiết phải do cơ quan hành chính nhà nước trực tiếp thực hiện.
Đẩy mạnh việc phân cấp trung ương – địa phương; phân cấp giữa các cấp chính quyền địa phương, nâng
cấp thẩm quyền và trách nhiệm của chính quyền địa phương, tăng cường mối liên hệ và trách nhiệm của chính
quyền trước nhân dân địa phương. Gắn phân cấp công việc với phân cấp về tài chính, tổ chức và cán bộ. Định rõ
những loại việc địa phương toàn quyền quyết định, những việc trước khi quyết định phải có ý kiến của Trung
ương và những việc phải thực hiện theo quyết định của Trung ương.
- Bố trí lại cơ cấu tổ chức của Chính phủ:
+ Xây dựng cơ cấu tổ chức của Chính phủ gồm các Bộ, cơ quan ngang Bộ làm chức năng quản lý nhà
nước. Trên cơ sở xác định, điều chỉnh chức năng của Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ phù hợp với yêu cầu
quản lý nhà nước về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại, về mối quan hệ giữa
các ngành, các lĩnh vực trong tình hình mới mà định lại số lượng và cơ cấu các Bộ, cơ quan ngang bộ, làm cho
bộ máy của Chính phủ gọn nhẹ, chức trách rõ ràng, làm việc khoa học, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Điều
chỉnh tổ chức các cơ quan có chức năng quản lý nhà nước cho phù hợp với cơ cấu của Chính phủ. Đổi tên một
số Bộ, cơ quan ngang Bộ cho phù hợp với nội dung và phạm vi trách nhiệm quản lý nhà nước.
+ Giảm mạnh các cơ quan thuộc Chính phủ và tổ chức trực thuộc Thủ tướng Chính phủ. Chỉ duy trì một

số ít cơ quan thuộc Chính phủ có tính chất chuyên môn, nghiệp vụ phục vụ cho công việc quản lý bĩ mô của
Chính phủ.
+ Định rõ tính chất, phương thức hoạt động của các tổ chức tư vấn do Thủ tướng Chính phủ thành lập.
Chỉ thành lập các tổ chức này khi Chính phủ có yêu cầu chỉ đạo tập trung những nhiệm vụ quan trọng liên quan
đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Các tổ chức này không có bộ máy chuyên trách và biên chế riêng, bộ phận
thường trực đặt tại Bộ hoặc cơ quan ngang Bộ có liên quan nhiều nhất.
+ Trên cơ sở xác định đúng chức năng quản lý nhà nước và phạm vi quản lý của mỗi Bộ, cơ quan ngang
Bộ, tách chức năng quản lý nhà nước của bộ, cơ quan ngang bộ đối với toàn ngành, lĩnh vực trong phạm vi cả


nước với việc chỉ đạo, điều hành các tổ chức sự nghiệp có tổ chức phục vụ công trực thuộc Bộ, cơ quan ngành
Bộ.
- Điều chỉnh cơ cấu tổ chức bộ máy bên trong các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ.
+ Tách chức năng quản lý nhà nước của Bộ, cơ quan ngang Bộ đối với ngành, lĩnh vực trong phạm vi cả
nước với chức năng điều hành các tổ chức sự nghiệp công trực thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ; theo đó, tách tổ
chức hành chính với tổ chức sự nghiệp công để hoạt động theo cơ chế riêng, phù hợp, có hiệu quả.
+ Cơ cấu lại tổ chức bộ máy bên trong của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, làm cho
bộ máy tinh gọn, hợp lý, tương xứng với chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của mỗi cơ quan; định rõ tổ
chức và các loại hình tổ chức trực thuộc để tham mưu và thực thi pháp luật.
- Cải cách tổ chức bộ máy chính quyền địa phương.
+ Quy định các các tiêu chí cụ thể đối với từng loại đơn vị hành chính ở nước ta để đi đến ổn định, chấm
dứt tình trạng chia, tách nhiều như thời gian vừa qua.
+ Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và trách nhiệm của chính quyền địa phương trên cơ sở
phân cấp rõ ràng hợp lý giữa Trung ương và địa phương, phân biệt chức năng, nhiệm vụ của chính quyền ở
nông thôn; tổ chức hợp lý Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ở từng cấp căn cứ quy định Hiến pháp và
Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (sửa đổi).
+ Sắp xếp, tổ chức lại các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân các cấp theo hướng trách nhiệm
rõ ràng, phân công rành mạch, bộ máy bọn nhẹ, tăng cường tính chuyên nghiệp, giải quyết nhanh công việc của
cá nhân tổ chức.
- Cải tiến phương thức quản lý, lề lối làm việc của cơ quan hành chính các cấp.

+ Xác định rõ các nguyên tắc làm việc và quy chế phối hợp trong sự vận hành bộ máy hành chính. Định
rõ phận sự, thẩm quyền và trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị về kết quả hoạt động của bộ máy do
mình phụ trách.
+ Loại bỏ những việc làm hình thức, không có hiệu quả thiết thực, giảm hội họp, giảm giấy tờ hành
chính. Tăng cường trách nhiềm và năng lực của cơ quan hành chính trong giải quyết công việc của cá nhân và tổ
chức.
- Thực hiện từng bước hiện đại hóa nền hành chính nhà nước.
+ Triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động chỉ đạo, điều hành của hệ thống hành chính
nhà nước; áp dụng các công cụ, phương pháp quản lý tiên tiến hiện đại trong các cơ quan hành chính nhà nước.
+ Tăng cường đầu tư để hiện đại hóa nền hành chính nhà nước với các trang thiết bị tương đối hiện đại, cơ
quan hành chính cấp xã trong cả nước có trụ sở và phương tiện làm việc bảo đảm nhiệm vụ quản lý; mạng tin học
diện rộng của Chính phủ được thiết lập tới cấp xã.
Có thể nói: Chương trình cải cách hành chính trong những năm qua đã được triển khai toàn diện trên cả 4
nội dung, từng bước đi vào chiều sâu và tạo ra những chuyển biến đáng ghi nhận, góp phần quan trọng vào quá
trình đổi mới kinh tế, dân chủ hóa đời sống xã hội, họi nhập kinh tế quốc tế và củng cố và duy trì ổn định chính
trị. Kết quả rõ nét nhất là bộ máy hành chính nhìn chung tốt hơn nhiều so với trước đây. Hiệu lực và hiệu quả
quản lý hành chính nhà nước của hệ thống hành chính được nâng cao rõ rệt không chỉ thể hiện trong điều kiện
bình thường mà vẫn được bảo đảm trong tình huống cấp bách, khó khăn như thiên tai, dịch bệnh. Vai trò, chức
năng nhiệm vụ của cơ quan hành chính nhà nước tiếp tục được điều chỉnh bảo đảm quản lý nhà nước và phục vụ
xã hội; việc điều chỉnh tỏng phân công, phân cấp và chức năng quản lý vĩ mô của Chính phủ trong nền kinh tế
thị trường ngày càng rõ nét; tổ chức bộ máy các cơ quan hành chính từ Trung ương đến địa phương từng bước
được sắp xếp lại theo hướng hợp lý, gọn đầu mối.
Tuy nhiên, cho đến nay bộ máy hành chính nhà nước chưa được cải cách để đáp ứng yêu cầu của cơ chế
quản lý mới và yêu cầu hội nhập quốc tế. Chức năng của từng cơ quan hành chính nhà nước chưa được phân
định rõ và phù hợp, còn chồng chéo về thẩm quyền và nhiệm vụ quản lý nhà nước. Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ, các bộ và chính quyền địa phương các cấp vẫn còn ôm đồm quá nhiều việc, trong khi đó chính năng chính
là tập trung quản lý vĩ mô chưa được thực hiện tốt.
Phân cấp Trung ương – địa phương vẫn không đạt được mục tiêu, tư tưởng không muốn phân cấp vẫn đang
phổ biến trong đội ngũ cán bộ, công chức ở cấp Trung ương. Số lượng các cơ quan của Chính phủ mặc dù đã giảm
nhưng vẫn còn quá nhiều đầu mối, tổ chức của các sở ở cấp tỉnh và phòng ở cấp huyện đề tăng ... dẫn đến ga tăng

tổ chức bên trong, tăng biên chế. Chủ trương phân biệt quản lý nhà nước theo địa bàn đô thị, nông thôn, xác định
tiêu chí phân loại đơn vị hành chính lãnh thổ đã được đề ra nhưng chậm triển khai thực hiện.
Nguyên nhân:
- Mặc dù chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và trách nhiệm của các cơ quan hành chính nhà nước đã
được điều chỉnh nhưng nhìn chung vẫn chưa phù hợp với yêu câu quản lý xã hội và quản lý nhà nước đối với
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nguyên nhân chủ yếu là tư duy về kinh tế và hành chính
chậm được đổi mới. Thói quen, cách làm ăn trong quản lý, trong hành chính của cơ chế kinh tế tập trung quan
liêu bao cấp vẫn còn tác động đến từng bước đi trong cải cách.


- Tổ chức chưa tốt các chủ trương, thể chế đã có về phân cấp mạnh cho chính quyền địa phương, tác cơ
quan hành chính với doanh nghiệp với đơn vị sự nghiệp dịch vụ công.
Chương trình cải cách tổng thể giai đoạn 2011-2020
a) Tiến hành tổng rà soát về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và biên chế hiện có của các
Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp, các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, các cơ quan, tổ chức khác thuộc bộ máy hành chính nhà nước ở trung ương
và địa phương (bao gồm cả các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước); trên cơ sở đó điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và tổ chức, sắp xếp lại các cơ quan, đơn vị nhằm khắc phục tình trạng chồng chéo, bỏ trống hoặc
trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; chuyển giao những công việc mà cơ quan hành chính nhà nước
không nên làm hoặc làm hiệu quả thấp cho xã hội, các tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ đảm nhận;
b) Tổng kết, đánh giá mô hình tổ chức và chất lượng hoạt động của chính quyền địa phương nhằm xác lập mô
hình tổ chức phù hợp, bảo đảm phân định đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, sát thực tế, hiệu lực, hiệu quả;
xây dựng mô hình chính quyền đô thị và chính quyền nông thôn phù hợp.
Hoàn thiện cơ chế phân cấp, bảo đảm quản lý thống nhất về tài nguyên, khoáng sản quốc gia; quy hoạch và có
định hướng phát triển; tăng cường giám sát, kiểm tra, thanh tra; đồng thời, đề cao vai trò chủ động, tinh thần
trách nhiệm, nâng cao năng lực của từng cấp, từng ngành;
c) Tiếp tục đổi mới phương thức làm việc của cơ quan hành chính nhà nước; thực hiện thống nhất và nâng cao
chất lượng thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông tập trung tại bộ phận tiếp nhận, trả kết quả thuộc Văn
phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp huyện; bảo đảm sự hài lòng của cá nhân, tổ chức đối với sự
phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước đạt mức trên 80% vào năm 2020;

d) Cải cách và triển khai trên diện rộng cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp dịch vụ
công; chất lượng dịch vụ công từng bước được nâng cao, nhất là trong các lĩnh vực giáo dục, y tế; bảo đảm sự
hài lòng của cá nhân đối với dịch vụ do đơn vị sự nghiệp công cung cấp trong các lĩnh vực giáo dục, y tế đạt
mức trên 80% vào năm 2020.


Câu hỏi 4: Tài chính công? Nội dung cải cách tài chính công ở nước ta hiện nay? Liên hệ thực tế tại
địa phương, cơ quan công tác?
Là một phạm trù kinh tế thuôc lĩnh vực phân phối dưới hình thức giá trị, tài chính là tổng thể các quan hệ
kinh tế phát sinh trong quá trình hình thành, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ của nên kinh tế quốc dân. Tài
chính gắn liền với sự ra đời, tồn tại và hoạt động của nhà nước. Sự phát triển của tài chính có mối quan hệ hữu
cơ với sản xuất hàng hóa và quan hệ hàng hóa- tiền tệ, sự vận động của đồng vốn theo các chu kỳ tái sản xuất.
Hệ thống tài chính của một quốc gia là tổng thể những khâu tài chính trong các lĩnh vực hoạt động khác
nhau, có mối quan hệ hữu cơ với nhau trong quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các nguồn lực tài chính. Hệ
thống tài chính ở nước ta hiện nay bao gồm cá khâu tài chính như sau: tài chính nhà nước, tài chính doanh
nghiệp, bảo hiểm, tín dụng, tài chnhs các tổ chức xã hội và tài chính hộ gia đình.
Tài chính công gắn liền với các hoạt động kinh tế của khu vực nhà nước. Tài chính công phục vụ cho
hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước và việc thực hiện các chức năng của nhà nước. Nhà nước sử dụng
các nguồn thu thông qua thuế và các nguồn thu khác để cung cấp tài chính đối với hàng hóa và dịch vụ cho các
nhu cầu cơ bản của đời sống kinh tế xã hội mà các hoạt động kinh tế của khu vực tư nhân không thể cung cấp,
nó luôn gắn với chức năng của nhà nước.
Như vậy, Tài chính công là tổng thể các hoạt động thu và chi bằng tiền của Nhà nước (ngân sách nhà
nước) do Nhà nước tiến hành gắn với quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ công nhằm phục vụ việc thực
hiện các chức năng của Nhà nước, vì nhu cầu, lợi ích chung của toàn xã hội
Tài chính công có vai trò quan trọng trong việc thiết lập một môi trường để tạo điều kiện cho cơ chế thị
trường có thể vận hành có hiệu quả và đồng bộ, nó có tác dụng mạnh mẽ vào quá trình tái sản xuất xã hội, có vai
trò chủ động thúc đẩy sản xuất phát triển, gắn liền với sự phát triển kinh tế, củng cố bộ máy hành chính nhà
nước, nâng cao đời sống, ổn định chính trị - xã hội. Đây là công cụ quan trọng nhất, hiệu nghiệm nhất cho việc
thực hiện quản lý kinh tế - xã hội vĩ mô của nhà nước. Mặt khác, với nguồn lực của kinh tế nhà nước và tài
chính nhà nước có đủ thực lực, đủ thẩm quyền tập trung nguồn vốn để đầu tư vào những lĩnh vực then chốt,

những vùng trọng điểm, phục vụ mọi thành phần kinh tế, bảo đảm cân đối nền kinh tế, kích thích phát triển
nguồn thu. Tài chính công cũng là một công cụ sắc bén để kiểm tra, kiểm soát, kiểm kê bằng tiền đối với sản
xuất, phân phối, bảo đảm các quan hệ, tỷ lệ, hướng dẫn điều tiết can thiệp vào thị trường, khắc phục những tiêu
cực của nền kinh tế thị trường. Tài chính công là một nhân tố quyết định đến việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế
trên lĩnh vực tài chính - tiền tệ.
Tài chính công có 3 chức năng đó là: Phân bổ nguồn lực tài chính trong nền kinh tế, cung cấp các nguồn
vốn để thỏa mãn các yêu cầu về hàng hóa và dịch vụ công cho xã hội; phân phối thu nhập, điều chỉnh sự thiếu
công bằng trong phân phối thu nhập của nền kinh tế thông qua hệ thống thuế và chi tiêu ngân sách nhà nước cho
các vấn đề xã hội; ổn định kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng, phát triển ổn định thông
quan các chính sách tài chính thích hợp.
* Cải cách tài chính công:
Xuất phát từ yêu cầu xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hưỡng xã hội chủ nghĩa, do yêu
cầu xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền, nhân dân ngày được
tham gia vào xây dựng các chính sách của chính phủ, nhà nước và xuất phát từ yêu cầu mở rộng hội nhập kinh
tế quốc tế do vậy cải cách hành chính đang là xu thế của thế giới, của các quốc gia hiện nay trước áp lực toàn
cầu hóa về kinh tế.
Thực hiện công cuộc đổi mới do đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Đảng ta xác định phải đổi mới hệ thống
chính trị mà trọng tâm là cải cách bộ máy hành chính nhà nước, cải cách hành chính nhà nước. Công cuộc cải cách
hành chính trong những năm qua, đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước. Chức năng và hoạt động của cá cơ quan trong hệ thống hành chính từ Chính phủ, các bộ ngành trung
ương đến Ủy ban nhân dân các cấp đã có nhiều thay đổi tiến bộ, tập trung nhiều hơn vào quản lý nhà nước. Từng
bước đổi mới thể chế hành chính trên các lĩnh vực, trước hết là hình thành thể chế kinh tế phù hợp với yêu cầu
phát triển nên kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu tổ chức bộ máy của Chính phủ và các cơ
quan hành chính được sắp xếp, điều chỉnh tinh giản hơn trước, bộ máy từ Trung ương đến cơ sở vận hành phát huy
tác dụng, hiệu quả hơn. Việc quản lý sử dụng cán bộ, công chức được đổi mới từ khâu tuyển chọn, đánh giá, thi
nâng ngạch, khen thưởng đến kỷ luật, đào tạo, bồi dưỡng. Những kết quả rõ nét trong việc thực hiện cải cách tài
chính công trong thời gian qua đó là việc thực hiện chế độ chính sách tiền lương bước đầu được cải cách theo
hướng tiền tệ hóa.
Mục tiêu chung của Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước, giai đoạn 2001 – 2010 là: xây
dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, có đủ năng lực, sử dụng đúng quyền lực và từng

bước hiện đại hóa để quản lý có hiệu quả công việc của nhà nước, thúc đẩy xã hội phát triển lành mạnh đúng
hướng, phục vụ đắc lực quần chúng nhân dân, xây dựng và làm việc theo hiến pháp và pháp luật.
Mục tiêu cụ thể cải cách tài chính công:


Tiền lương của cán bộ công chức được cải cách cơ bản, trở thành động lực của nền công vụ, bảo đảm
cuộc sống của cán bộ công chức và gia đình.
Cơ chế tài chính tiếp tục được đổi mới thích hợp với tính chất của cơ quan hành chính và tổ chức sự
nghiệp dịch vụ công.
Phương hướng: Phân cấp và quản lý sử dụng ngân sách một cách hợp lý. Đổi mới cơ chế phân cấp quản
lý tài chính theo hướng đảm bảo sự tập trung của Trung ương, tính chủ động trách nhiệm của địa phương. Đảm
bảo quyền quyết định ngân sách địa phương của Hội đồng nhân dân các cấp. Trên cơ sở phân biệt rõ cơ quan
hành chính công quyền với tổ chức sự nghiệp dịch vụ công thực hiện cấp kinh phí căn cứ vào kết quả và chất
lượng hoạt động, xóa bỏ chế độ cấp kinh phí theo số lượng biên chế. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm toán
nhằm lập lại trật tự, kỷ cương trong sử dụng ngân sách nhà nước.
Nội dung cải cách tài chính công (6 nội dung):
1. Đổi mới cơ chế phân cấp quản lý tài chính và ngân sách, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống tài
chính quốc gia và vai trò chỉ đạo của ngân sách trung ương đồng thời phát huy tính chủ động năng động, sáng
tạo và trách nhiệm của địa phương và các ngành trong việc điều hành tài chính và ngân sách.
2. Bảo đảm quyền quyết định ngân sách địa phương của Hội đồng nhân dân các cấp, tạo điều kiện cho
chính quyền địa phương chủ động xử lý các công việc ở địa phương; quyền quyết định của các Bộ, sở ban
ngành về phân bổ ngân sách cho các đơn vị trực thuộc; quyền chủ động của các đơn vị sử dụng ngân sách trong
phạm vi dự toán được duyệt phù hợp với chế độ, chính sách.
3. Trên cơ sở phân biệt rõ cơ quan hành chính công quyền với tổ chức sự nghiệp, dịch vụ công, tiếp tục
thực hiện đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách cho cơ quan hành chính, xóa bỏ chế độ cấp kinh phí theo số lượng
biên chế, thay thế bằng cách tính toán kinh phí theo mục tiêu của cơ quan hành chính, đổi mới hệ thống định
mức ch tiêu cho đơn giản hơn, tăng quyền chủ động của cơ quan sử dụng ngân sách.
4. Đổi mới cơ bản cơ chế tài chính đối với khu vực dịch vụ công
- Xây dựng quan niệm đúng về dịch vụ công. Nhà nước có trách nhiệm chăm lo đời sống vật chất và văn
hóa của nhân dân nhưng không phải vì thế mà mọi công việc về dịch vụ công đều do cơ quan nhà nước trực tiếp

đảm nhận. Trong từng lĩnh vực định rõ những công việc mà nhà nước phải đầu tư và trực tiếp thực hiện, những
công việc cần phải chuyển để các tổ chức xã hội đảm nhận.
- Nhà nước có các chính sách, cơ chế tạo điều kiện để doanh nghiệp tổ chức xã hội và nhân dân trực tiêp
làm các dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống dưới sự hướng dẫn hỗ trợ và kiểm tra kiểm soát của cơ quan hành
chính nhà nước.
- Xóa bỏ cơ chế cấp phát tài chính theo kiểm xin – cho, ban hành các cơ chế, chính sách thực hiện chế độ
tự chủ tài chính cho các đơn vị sự nghiệp có điều kiện như trường đại học bệnh viện, viện nghiên cứu … trên cơ
sở xác định nhiệm vụ phải thực hiện mức hỗ trợ tài chính từ ngân sách nhà nước và phần còn lại do các đơn vị
tự trang trải.
5. Thực hiện thí điểm để áp dụng rộng rãi một số cơ chế tài chính mới, như:
- Cho thuê các đơn vị sự nghiệp công, cho thuê đất để xây dựng cơ sở nhà trường, bệnh viện; chế độ
BHXH, bảo hiểm y tế đối với cán bộ công chức chuyển từ các dơn vị công lập sang dân lập.
- Cơ chế khuyến khích các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài đầu tư phát triển các cơ sở đào tạo dạy
nghề, đại học, trên đại học, cơ sở chữa bệnh có chất lượng cao ở các thành phố, khu công nghiệp; khuyến khích
liên doanh và đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào lĩnh vực này.
- Thực hiện cơ chế khoán một số loại dịch vụ công cộng như vệ sinh đô thị, cấp thoát nước, cây xanh
công viên, nước phục vụ nông nghiệp.
- Thực hiện cơ chế hợp đồng một số dịch vụ công trong cơ quan hành chính.
6. Đổi mới công tác kiểm toán đối với các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp nhằm nâng cao trách
nhiệm và hiệu quả sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước, xóa bỏ tình trạng nhiều đầu mối thanh tra, kiểm tra,
kiểm toán đối với các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp. Thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch về tài
chính công, tất cả các chỉ tiêu tài chính đều được công bố công khai.
Phương hướng, giải pháp:
Có thể nói: Chương trình cải cách hành chính trong những năm qua đã được triển khai toàn diện trên cả 4
nội dung, từng bước đi vào chiều sâu và tạo ra những chuyển biến đáng ghi nhận, góp phần quan trọng vào quá
trình đổi mới kinh tế, dân chủ hóa đời sống xã hội, hội nhập kinh tế quốc tế và củng cố và duy trì ổn định chính
trị. Kết quả nổi bật của nội dung cải cách tài chính công những năm qua cho thấy cơ chế phân cấp quản lý tài
chính và ngân sách đã có những đổi mới quan trọng, đã phân cấp ngân sách theo hướng tăng tính chủ động, tăng
thẩm quyền và trách nhiệm của các bộ ngành, địa phương trong quản lý tài chính, ngân sách. Đặc biệt, quyền và
trách nhiệm quyết định ngân sách địa phương của Hội đồng nhân dân tỉnh đã được đảm bảo, quyền quyết định

ngân sách và phân bổ ngân sách hàng năm được Quốc hội thực hiện dần đi vào nền nếp. Việc quản lý và điều
hành ngân sách tiếp tục được đổi mới, nguồn thu ngân sách tiếp tục tăng và được tập trung kịp thời. Quy chế
công khai tài chính gắn với quy địn công khai gtrong quy chế dân chủ ở cơ sở được triển khai rộng rãi thông qua


đó phát huy quyền làm chủ của tập thể, của người lao động và nhân dân trong kiểm tra, giám sát quá trình quản
lý sử dụng vốn, tài sản nhà nước và các khoản đóng góp của nhân dân. Cơ chế tài chính cho các loại tổ chức
trong hệ thống hành chính nhà nước đã bước đầu được đổi mới với những kết quả tích cực trong triển khai cơ
chế khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính và cơ chế tài chính cho các đơn vì sự nghiệp có thu.
Tuy nhiên, công tác phân cấp quản lý tài chính còn có tình trạng cắt khúc, trong một số lĩnh vực đã có
quy định giao cấp tỉnh phân cấp tiếp cho cấp huyện, cấp xã nhưng chưa thực hiện. Việc thực hiện các cơ chế tài
chính cho các cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp có thu theo các văn bản pháp luật vẫn còn ở mức độ chưa
cao. Cơ chế khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính chưa mang tính bắt buộc nên số lượng các cơ quan
đăng ký thực hiện còn hạn chế đặc biệt ở cấp Trung ương. Các quy định về chế độ tài chính áp dụng cho các cơ
quan hành chính còn bất hợp lý nhưng chậm sửa đổi.
Nguyên nhân:
- Cơ chế khoán biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan hành chính, mặc dù có
những ưu việt, nhưng tình hình triển khai không đồng đều, chủ yếu là ở cấp địa phương, có nguyên nhân là ở
dạng “thí điểm mở rộng”. Tính bắt buộc trong triển khai còn ở mức độ thấp.
- Cơ chế tự chủ, trong đó có tự chủ tài chính của các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công có phần chậm trong
xây dựng và triển khai và đòi hỏi sự đồng bộ trong cụ thể hóa những vấn đề về xã hội hóa, đặc biệt quan trọng
và nhậy cảm là vấn đề học phí, viện phí.
* Cải cách tài chính công trong chương trinh tổng thể CCHC giai đoạn 2011-2020:
a) Động viên hợp lý, phân phối và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội; tiếp tục
hoàn thiện chính sách và hệ thống thuế, các chính sách về thu nhập, tiền lương, tiền công; thực hiện cân đối
ngân sách tích cực, bảo đảm tỷ lệ tích lũy hợp lý cho đầu tư phát triển; dành nguồn lực cho con người, nhất là
cải cách chính sách tiền lương và an sinh xã hội; phấn đấu giảm dần bội chi ngân sách;
b) Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước, nhất là các tập đoàn kinh tế và
các tổng công ty; quản lý chặt chẽ việc vay và trả nợ nước ngoài; giữ mức nợ Chính phủ, nợ quốc gia và nợ
công trong giới hạn an toàn;

c) Đổi mới căn bản cơ chế sử dụng kinh phí nhà nước và cơ chế xây dựng, triển khai các nhiệm vụ khoa học,
công nghệ theo hướng lấy mục tiêu và hiệu quả ứng dụng là tiêu chuẩn hàng đầu; chuyển các đơn vị sự nghiệp
khoa học, công nghệ sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm; phát triển các doanh nghiệp khoa học, công nghệ,
các quỹ đổi mới công nghệ và quỹ đầu tư mạo hiểm; xây dựng đồng bộ chính sách đào tạo, thu hút, trọng dụng,
đãi ngộ xứng đáng nhân tài khoa học và công nghệ;
d) Đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách cho cơ quan hành chính nhà nước, tiến tới xóa bỏ chế độ cấp kinh phí theo
số lượng biên chế, thay thế bằng cơ chế cấp ngân sách dựa trên kết quả và chất lượng hoạt động, hướng vào
kiểm soát đầu ra, chất lượng chi tiêu theo mục tiêu, nhiệm vụ của các cơ quan hành chính nhà nước;
đ) Nhà nước tăng đầu tư, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa, huy động toàn xã hội chăm lo phát triển giáo dục, đào
tạo, y tế, dân số - kế hoạch hóa gia đình, thể dục, thể thao.
Đổi mới cơ chế hoạt động, nhất là cơ chế tài chính của các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công; từng bước thực hiện
chính sách điều chỉnh giá dịch vụ sự nghiệp công phù hợp; chú trọng đổi mới cơ chế tài chính của các cơ sở giáo
dục, đào tạo, y tế công lập theo hướng tự chủ, công khai, minh bạch. Chuẩn hóa chất lượng dịch vụ giáo dục,
đào tạo, y tế; nâng cao chất lượng các cơ sở giáo dục, đào tạo, khám chữa bệnh, từng bước tiếp cận với tiêu
chuẩn khu vực và quốc tế. Đổi mới và hoàn thiện đồng bộ các chính sách bảo hiểm y tế, khám, chữa bệnh; có lộ
trình thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân.
6. Hiện đại hóa hành chính:
a) Hoàn thiện và đẩy mạnh hoạt động của Mạng thông tin điện tử hành chính của Chính phủ trên Internet. Đẩy
mạnh ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước để đến
năm 2020: 90% các văn bản, tài liệu chính thức trao đổi giữa các cơ quan hành chính nhà nước được thực hiện
dưới dạng điện tử; cán bộ, công chức, viên chức thường xuyên sử dụng hệ thống thư điện tử trong công việc;
bảo đảm dữ liệu điện tử phục vụ hầu hết các hoạt động trong các cơ quan; hầu hết các giao dịch của các cơ quan
hành chính nhà nước được thực hiện trên môi trường điện tử, mọi lúc, mọi nơi, dựa trên các ứng dụng truyền
thông đa phương tiện; hầu hết các dịch vụ công được cung cấp trực tuyến trên Mạng thông tin điện tử hành


chính của Chính phủ ở mức độ 3 và 4, đáp ứng nhu cầu thực tế, phục vụ người dân và doanh nghiệp mọi lúc,
mọi nơi, dựa trên nhiều phương tiện khác nhau;
b) Ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong quy trình xử lý công việc của từng cơ quan hành chính
nhà nước, giữa các cơ quan hành chính nhà nước với nhau và trong giao dịch với tổ chức, cá nhân, đặc biệt là

trong hoạt động dịch vụ hành chính công, dịch vụ công của đơn vị sự nghiệp công;
c) Công bố danh mục các dịch vụ hành chính công trên Mạng thông tin điện tử hành chính của Chính phủ trên
Internet. Xây dựng và sử dụng thống nhất biểu mẫu điện tử trong giao dịch giữa cơ quan hành chính nhà nước,
tổ chức và cá nhân, đáp ứng yêu cầu đơn giản và cải cách thủ tục hành chính;
d) Thực hiện có hiệu quả hệ thống quản lý chất lượng trong các cơ quan hành chính nhà nước;
đ) Thực hiện Quyết định số 1441/QĐ-TTg ngày 06 tháng 10 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê
duyệt Kế hoạch đầu tư trụ sở cấp xã, phường bảo đảm yêu cầu cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý của bộ máy nhà nước;
e) Xây dựng trụ sở cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương hiện đại, tập trung ở những nơi có điều
kiện
Liên hệ thực tế ở địa phương, cơ quan, đơn vị.


Câu hỏi 1: Thể chế hành chính? Nội dung cải cách thể chế Hành chính ở nước ta hiện nay? Liên hệ
thực tế tại địa phương, cơ quan công tác?
Nền hành chính nước ta là một hệ thống tổ chức và định chế thực hiện chức năng hành pháp của nhà
nước (thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành xã hội). Được cấu thành từ 4 yếu tố đó là: Thể chế hành
chính công; Bộ máy hành chính nhà nước; Công vụ - công chức và nền tài chính công. Cải cách thể chế chính là
một nội dung quan trọng trong chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2010 đã
được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Thuật ngữ “Thể chế” được tiếp cận và hiểu theo nhiều góc độ khác nhau, đó là những quy định, luật lệ
của một chế độ xã hội, buộc mọi người phải tuân theo hay có cách tiếp cận cho rằng Thể chế là một tổ chức và
một hệ thống các quy định về tổ chức và hoạt động của tổ chức đó.
Thể chế bao gồm toàn bộ các cơ quan nhà nước với hệ thống quy định do nhà nước xác lập trong hệ
thống văn bản pháp luật của nhà nước và được nhà nước sử dụng để điều chỉnh và tạo ra các hành vi và mối
quan hệ giữa nhà nước và công dân, các tổ chức nhằm thiết lập trật tự kỷ cương xã hội.
Thể chế hành chính nhà nước là một phạm trù luôn luôn gắn liền và là một yếu tố cơ bản của hệ thống
chính trị và hệ thống tổ chức hoạt động quản lý nhà nước. Hoạt dộng của các cơ quan thuộc hệ thống hành chính
nhà nước nhằm thực thi quyền hành pháp, nó đóng vai trò rất quan trọng trong quản lý nhà nước, là một bộ phận
lớn nhất trong cơ cấu nhà nước, đảm nhận những chức năng thực thi quyền hành pháp để quản lý, điều hành mọi

lĩnh vực trong đời sống xã hội, trực tiếp tổ chức thực hiện đường lối chính sách của Đảng và thực thi quyền lực
của nhân dân. Do đó, Hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước là một hệ thống tổ chức và định chế có chức
năng thực thi quyền hành pháp, tức là quản lý công việc hàng ngày của nhà nước. Gắn liền với hệ thống các cơ
quan hành chính nhà nước là một thể chế được cấu thành từ những yếu tố nhằm đảm bảo thực thi các hoạt động
hành chính nhà nước một cách thống nhất.
Thể chế hành chính nhà nước là một hệ thống gồm Luật, các văn bản pháp quy dưới Luật tạo khuôn khổ
pháp lý cho các cơ quan hành chính nhà nước, một mặt là thực hiện chức năng quản lý, điều hành mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội, cũng như cho mọi tổ chức và cá nhân sống và làm việc theo pháp luật, mặt khác là các quy
định các mối quan hệ trong hoạt động kinh tế cũng như các mối quan hệ giữa các cơ quan và nội bộ bên trong
của các cơ quan hành chính Nhà nước.
Như vậy, Thể chế hành chính Nhà nước là toàn bộ các yếu tố cấu thành hành chính nhà nước để hành
chính nhà nước hoạt động quản lý nhà nước một cách hiệu quả, đạt được mục tiêu của quốc gia. Với quan niệm
về thể chế hành chính nhà nước như trên, nó được cấu thành từ các yếu tố:
- Hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước từ Trung ương đến cơ sở.
- Hệ thống các văn bản pháp luật của nhà nước điều chỉnh sự phát triển kinh tế-xã hội trên mọi phương
diện, đảm bảo xã hội phát triển ổn định, an toàn, bền vững, đó là thể chế quản lý hành chính nhà nước trên các
lĩnh vực (thể chế kinh tế, thể chế văn hóa…)
- Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật quy định nhiệm vụ, quyền hạn thẩm quyền của các cơ quan
thuộc bộ máy hành chính Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở.
- Hệ thống các văn bản quy định chế độ công vụ và các Quy chế công chức.
- Hệ thống các chế định về tài phán hành chính nhằm giải quyết những tranh chấp hành chính giữa công
dân với nền hành chính thông qua khiếu kiện về sự vi phạm pháp luật của các cơ quan quản lý hành chính nhà
nước đối với công dân, đối với các tổ chức xã hội.
- Hệ thống các thủ tục hành chính nhằm giải quyết các quan hệ giữa Nhà nước với công dân và các tổ
chức xã hội.
* Vai trò của thể chế hành chính nhà nước:
Thể chế Hành chính nhà nước là cơ sở pháp lý của quản lý hành chính nhà nước, là cơ sở để xây dựng cơ
cấu tổ chức bộ máy hành chính nhà nước thực hiện các chức năng quản lý nhà nước đã được phân công, là cơ sở
xác lập nhân sự trong các cơ quan hành chính nhà nước, là cơ sở xây dựng quan hệ cụ thể giữa nhà nước và
công dân, giữa nhà nước và các tổ chức xã hội.

Thể chế hành chính của nước ta là yếu tố cấu thành tổng thể hệ thống thể chế nhà nước. Thể chế hành
chính bao hàm quyền lập quy và quyền hành chính nhà nước, xác định quản lý của các cơ quan hành chính nhà
nước trên các lĩnh vực: Kinh tế, tài chính tiền tệ; quản lý và sử dụng lực lượng lao dộng xã hội; văn hóa, giáo
dục, y tế; giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, thiết lập tài phán hành chính giải quyết khiếu kiện; về an
ninh quốc phòng, trật tự trị an; về dân tộc, tôn giáo.
Do ảnh hưởng của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, nền hành chính nhà nước ta còn mang nặng dấu ấn
của cơ chế cũ, chưa đáp ứng được những yêu cầu của cơ chế quản lý mới cũng như yêu cầu phục vụ nhân dân
trong điều kiện mới, hiệu lực, hiệu quả quản lý chưa cao; Chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của bộ máy
hành chính trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa được xác định thật rõ và phù hợp; sự
phân công, phân cấp giữa các ngành và các cấp chưa thật rành mạch. Hệ thống thể chế hành chính chưa đồng


bộ, còn chồng chéo và thiếu thống nhất; thủ tục hành chính trên nhiều lĩnh vực còn rườm rà, phức tạp; trật tự, kỷ
cương chưa nghiêm.
Cải cách hành chính ở Việt Nam được coi là công việc mới mẻ, diễn ra trong điều kiện thiếu kiến thức và
kinh nghiệm về quản lý hành chính nhà nước trong thời kỳ mới, có nhiều vấn đề phải vừa làm, vừa tìm tòi rút
kinh nghiệm, được tiến hành với những bước đi, lộ trình khác nhau từ thấp tới cao. Bắt đầu là việc cải cách một
bước thủ tục hành chính trong việc giải quyết các công việc của tổ chức, của cá nhân, đến cải cách một bước
nền hành chính với cả 4 nội dung là cải cách thể chế hành chính, cải cách bộ máy hành chính nhà nước, xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức và cải cách tài chính công.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đề ra đường lối đổi mới kinh tế ở nước ta và đã tạo tiền đề cho nền
kinh tế ở nước ta thoát khỏi khủng hoảng trong thời kỳ kinh tề kế hoạch hóa tập trung. Trong khi đó hoạt động
quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực đặc biệt là quản lý hành chính nhà nước về kinh tế có nhiều bất
cập đã cản trở công cuộc đổi mới kinh tế vì vậy cải cách nền hành chính nhà nước đã trở thành nhu cầu khách
quan.
Hội nghị Trung ương lần thứ 8 khóa VII (01/1995) đặt nền tảng cho công cuộc cải cách hành chính ở
nước ta, đã chỉ ra nội dung, quan điểm, nguyên tắc cơ bản của cải cách hành chính nhà nước trong tổng thể đổi
mới hoạt động của nhà nướ, đánh dấu bước phát triển mới về xây dựng và phát triển nền hành chính nhà nước,
đã mở ra một giai đoạn mới, giai đoạn chuyển biến thật sự trong cải cách hành chính ở nước, có ý nghĩa thúc
đẩy tiến trình cải cách trong hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới vừa qua.

Chương trình cải cách hành chính trong những năm qua, đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp đổi mới
và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, làm cho bộ máy hành chính hoàn chỉnh hơn, hoạt động có hiệu quả
hơn, từng bước đổi mới thể chế hành chính trên các lĩnh vực trước hết là hình thành thể chế kinh tế phù hợp với
yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phục vụ nhân dân đúng pháp luật, tốt hơn, tiết
kiệm hơn, dần chuyển nền hành chính từ cơ quan cai quản thành các cơ quan phục vụ dân, làm các dịch vụ đối
với dân, công dân là khách hàng của nền hành chính, nhằm góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa với bản chất của dân, do dân, vì dân.
Mục tiêu chung của Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước, giai đoạn 2001 – 2010 là: xây
dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa, hoạt động có hiệu lực,
hiệu quả theo nguyên tắc của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng; xây dựng đội
ngũ cán bộ công chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng phát triển đất nước.
Mục tiêu xây dựng và hoàn thiện thể chế hành chính là:
- Hoàn thiện hệ thống thể chế hành chính, cơ chế, chính sách phù hợp với thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước về tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính.
- Tiếp tục đổi mới quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật, khắc phục tính cục bộ
trong việc chuẩn bị, soạn thảo các văn bản; đề cao trách nhiệm của từng cơ quan trong quá trình xây dựng thể
chế; phát huy dân chủ, huy động trí tuệ của nhân dân để nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật.
- Xóa bỏ về cơ bản các thủ tục hành chính mang tính quan liêu, rườm rà.
Nội dung cải cách thể chế với 4 nội dung:
1. Xây dựng và hoàn thiện các thể chế, trước hết là thể chế kinh tế của nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, thể chế về tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính nhà nước.
Trong đó, chú trọng thể chế về thị trường vốn và tiền tệ, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản,
thị trường khoa học và công nghệ, thị trường lao động, thị trường dịch vụ …
- Tiếp tục đảy mạnh cải cách thể chế về tổ chức và hoạt động của hệ thống hành chính, trước hết là tổ
chức và hoạt động của Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và UBND các cấp.
- Thể chế về quan h ệ giữa Nhà nước với nhân dân, như thu thập ý kiến của nhân dân trước khi quyết
định các chủ trương, chính sách quan trọng, trưng cầu dân ý, xử lý các hành vi trái pháp luật của cơ quan và cán
bộ, công chức nhà nước trong khi thi hành công vụ; thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan hành chính và của
Tòa án trong việc giải quyết khiếu kiện của nhân dân.
- Thể chế về thẩm quyền quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp nhà nước

nói riêng; phân biệt rõ quyền của chủ sở hữu, quyền quản lý hành chính nhà nước và quyền tự chủ kinh doanh
của doanh nghiệp.
2. Đổi mới quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
- Tiến hành rà soát và hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật theo từng lĩnh vực, loại bỏ những
quy định pháp luật không còn hiệu lực hoặc chồng chéo, trùng lắp, pháp huy hiệu quả của cơ sở dữ liệu quốc gia
về văn bản quy phạm pháp luật.
- Tăng cường năng lực của các cơ quan hành chính nhà nước ở Trung ương và địa phương trong việc xây
dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Khắc phục tình trạng luật, pháp lệnh chờ Nghị định và Thông
tư hướng dẫn thi hành.


- Nghiên cứu đổi mới phương thức, quy trình xây dựng pháp luật từ khâu đầu tư xây dựng ch đến khâu
Chính phủ xem xét, quyết định hoặc thông qua để trình Quốc hội.
- Ban hành các quy định đảm bảo sự tham gia có hiệu quả của nhân dân vào quá trình xây dựng pháp
luật, tổ chức tốt việc lấy ý kiến đóng góp của các tầng lớp nhân dân, của những người là đối tượng điều chỉnh
của văn bản trước khi ban hành.
- Các văn bản quy phạm pháp luật phải được Công báo hoặc yết thị, đưa tin trên các phương tiện thông
tin đại chúng ngay sau khi ký ban hành để công dân và các tổ chức có điều kiện tìm hiểu và thực hiện.
3. Bảo đảm việc tổ chức thực thi pháp luật nghiêm minh của các cơ nhà nước, của cán bộ, công chức.
- Cung cấp cho cán bộ, công chức đầy đủ các thông tin về chính sách, pháp luật của nhà nước để vận
dụng, giải quyết công việc theo chức trách và thẩm quyền.
- Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, chế độ thông tin công khai cho dân về chủ trương, chính sách nhà
nước, của chính quyền địa phương; chế độ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của các ngành ở Trung ương và địa phương
định kỳ trực tiếp gặp gỡ, đối thoại giải quyết các vấn đề của doanh nghiệp và nhân dân đặt ra.
- Phát huy hiệu lực của các thiết chế thanh tra, kiểm sát và tài phán để đảm bảo hiệu lực quản lý nhà
nước, giữ gìn kỷ cương xã hội. Phân định rõ trách nhiệm của các cơ quan thanh tra và tòa hành chính trong việc
giải quyết các khiếu kiện của dân đối với các cơ quan và cán bộ công chức.
- Mở rộng dịch vụ tư vấn pháp luật cho nhân dân, cho người nghèo, người thuộc diện chính sách và đồng
bào dân tộc ít người, vùng sâu, vùng xa. Tạo điều kiện cho các luật sư hod tư vấn có hiệu quả theo pháp luật.
4. Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính.

- Tiếp tục cải các thủ tục hành chính nhằm đảm bảo tính pháp lý, hiệu quả, minh bạch và công bằng
trong khi giải quyết công việc hành chính. Loại bỏ những thủ tục rườm rà, chồng chéo dễ bị lợi dụng để tham
nhũng, gây khó khăn cho dân. Mở rộng cải cách thủ tục hành chính trong tất cả các lĩnh vực, xóa bỏ kịp thời
những quy định không cần thiết về cấp phép và thanh tra, kiểm tra, kiểm soát, kiểm dịch, giám định.
- Mẫu hóa thống nhất trong cả nước các loại giấy tờ mà công dân hoặc doanh nghiệp cần phải làm khi có
yêu cầu giải quyết các công việc về sản xuất, kinh doanh và đời sống.
- Ban hành cơ chế kiểm tra cán bộ, công chức tiếp nhận và giải quyết công việc của dân; xử lý nghiêm
người có hành vi sách nhiễu, hách dịch, vô trách nhiệm; khen thưởng những người hoàn thành xuất sắc nhiệm
vụ được giao.
- Mở rộng thực hiện cơ chế “Một cửa” trong việc giải quyết công việc của cá nhân và tổ chức ở các cơ
quan hành chính nhà nước các cấp. Cơ quan hành chính các cấp có trách nhiệm giải quyết công việc của cá nhân
và tổ chức phải niêm yết công khai, đầy đủ mọi thủ tục, trình tự, lệ phí, lịch công tác tại trụ sở làm việc.
- Quy định cụ thể và rõ ràng trách nhiệm cá nhân trong khi thi hành công vụ. Việc xác định quyền hạn và
trách nhiệm của cán bộ, công chức trong khi thi hành công vụ phải đi liền với việc đánh giá, khen thưởng, kỷ
luật cán bộ, công chức.
Chương trình cải cách hành chính trong những năm qua đã được triển khai toàn diện trên cả 4 nội dung,
từng bước đi vào chiều sâu và tạo ra những chuyển biến đáng ghi nhận, góp phần quan trọng vào quá trình đổi
mới kinh tế, dân chủ hóa đời sống xã hội, họi nhập kinh tế quốc tế và củng cố và duy trì ổn định chính trị. Thể
chế của nền hành chính được cải cách và hoàn thiện một bước cơ bản phù hợp với yêu cầu pháp huy dân chủ với
thiết lập chế độ công khai, minh bạch và cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phần lớn các chủ
trương quan trọng của Đảng về các vấn đế cơ bản trong quá trình đổi mới, xây dựng và hoàn thiện nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa được thể chế hóa và tổ chức triển khai. Cải cách thủ tục hành chính đã cải thiện
mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân và làm tăng tính dân chủ trong quan hệ giữa các cơ quan hành chính
nhà nước; thu hút sự quan tâm của nhân dân đến các công việc của nhà nước và hoạt động của nền hành chính.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả và tiến bộ đã đạt được, vấn đề cải cách thể chế hành chính trong
những năm qua còn bộc lộ nhiều hạn chế và bất cập. Số lượng văn bản ban hành tuy nhiều, nhưng chất lượng
nhìn chung chưa cao, chưa thể hiện nhất quán và thấu suốt tinh thần cải cách hành chính. Hệ thống văn bản
được ban hành còn thiếu tính toàn diện, đồng bộ do dự báo khoa học mang tính chiến lược về nhu cầu xây dựng
thể chế trong thời kỳ mới. Tính cục bộ ngành, lĩnh vực theo phương thức truyền thống giao cho Bộ chủ trì xây
dựng luật chậm được khắc phục. tình trạng có luật quy định chung chung thiếu tính khả thi còn phổ biến dẫn

đến hiện tượng “nợ đọng” thiếu nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành.
Một số thể chế cơ bản còn chậm được xây dựng, sửa đổi, hoàn thiện (thể chế về thẩm quyền quản lý nhà
nước đối với doanh nghiệp nhà nước, thẩm quyền của chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp, thẩm
quyền, trách nhiệm của bản thân doanh nghiệp nhà nước trong quản lý tài sản nhà nước, thể chế về đất đai, bất
động sản …). Một số thể chế cơ bản về hoạt động công vụ, về trách nhiệm thực thi công vụ của từng cơ quan
hành chính, chức trách của từng vị trí cán bộ, công chức chưa đủ rõ và cụ thể. Đặc biệt là thiếu những quy định
pháp lý cụ thể về trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành chính, của từng cán bộ, công chức trong
thực thi công vụ.


Thủ tục hành chính cho dù được cải cách một bước nhưng nhìn chung vẫn phức tạp, phiền hà cho người
dân, doanh nghiệp. Vẫn còn tồn tại khá phổ biến xu hướng cơ quan hành chính giành thuận lợi về mình, đẩy khó
khăn về cho người dân gánh chịu gtrong giải quyết công việc của dân, doanh nghiệp. Một số địa phương thực
hiện cơ chế một cửa còn mang tính hình thức. Tổ chức thực hiện thể chế vẫn là khâu còn nhiều yếu kém. Nhiều
thể chế không được kịp thời tổng kết, sửa đổi, bổ sung kịp thời thông qua cơ chế kiểm tra quá trình thực hiện.
* Nguyên nhân:
- Chưa nhận thức đầy đủ, toàn diện về cơ cấu quy mô của hệ thống thể chế của xã hội nước ta trong thời
kỳ chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường.
- Tính nhất quán, đồng bộ giữa các thể chế chưa được đảm bảo do còn tư tưởng bao cấp, cục bộ giữa các
bộ ngành trong quá trình xây dựng.
- Quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật vẫn còn hạn chế.
- Các bộ ngành Trung ương chưa kiên quyết nhất quán tổ chức thực hiện đơn giản thủ tục hành chính;
chưa thực hiện tốt việc rà soát thủ tục hành chính với rà soát thẩm quyền.
* Nhiệm vụ cải cách thể chế trong Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn
2011 - 2020:
a) Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật trên cơ sở Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung;
b) Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật, trước hết là quy trình xây dựng, ban hành luật,
pháp lệnh, nghị định, quyết định, thông tư và văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương nhằm
bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính đồng bộ, cụ thể và khả thi của các văn bản quy phạm pháp luật;
c) Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế, cơ chế, chính sách, trước hết là thể chế kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sự công bằng trong phân phối thành quả của đổi mới, của phát triển kinh
tế - xã hội;
d) Hoàn thiện thể chế về sở hữu, trong đó khẳng định rõ sự tồn tại khách quan, lâu dài của các hình thức sở hữu,
trước hết là sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các
chủ sở hữu khác nhau trong nền kinh tế; sửa đổi đồng bộ thể chế hiện hành về sở hữu đất đai, phân định rõ
quyền sở hữu đất và quyền sử dụng đất, bảo đảm quyền của người sử dụng đất;
đ) Tiếp tục đổi mới thể chế về doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là xác định rõ vai trò quản lý của Nhà nước
với vai trò chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước; tách chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước với chức
năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước; hoàn thiện thể chế về tổ chức và kinh doanh vốn nhà
nước;
e) Sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về xã hội hóa theo hướng quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước
trong việc chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia
cung ứng các dịch vụ trong môi trường cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh;
g) Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế về tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà
nước; sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ,
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp;
h) Xây dựng, hoàn thiện quy định của pháp luật về mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân, trọng tâm là bảo
đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, lấy ý kiến của nhân dân trước khi quyết định các chủ trương,
chính sách quan trọng và về quyền giám sát của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước.
Liên hệ thực tế tại địa phương đồng chí đang công tác.


Câu 1. Khái niệm hành chính nhà nước, chức năng hành chính NN
Bài làm:
* Hành chính nhà nước: là tổng thể những hoạt động phục vụ, quản lý của chính phủ và UBND các cấp đối với
xã hội.
Khái niệm: chức năng HCNN là những phương diện hoạt động cơ bản của hành chính trong thực thi quyền
hành pháp nhằm duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội theo quy định của pháp luật.
* Chức năng hành chính nhà nước:
1. Chức năng chính trị: Là mặt hoạt động lâu dài, thường xuyên cơ bản từ trung ương đến địa phương nhằm bảo

vệ độc lập chủ quyền quốc gia, bảo vệ tài sản, tính mạng và lợi ích hợp pháp của nhân dân, bảo vệ tài sản nhà
nước, của tập thể, của công dân khi bị xâm phạm. Giữ vững trật tự an toàn xã hội và ổn định chính trị để phát
triển kinh tế bảo đảm an ninh quốc phòng.
- Bảo vệ độc lập chủ quyền quốc gia là trách nhiệm của toàn đảng, toàn dân nhất là trong điều kiện toàn cầu hóa
hiện nay thì vấnđề chủ quyền quốc gia có ý nghĩa sống còn. Tuy nhiên nhiệm vụ này dưới sự lãnh đạo của đảng
và nhà nước nhưng giao cho bộ quốc phòng và bộ công an chịu trách nhiệm chính.
- Duy trì trật tự xã hội là trách nhiệm chủ yếu của côn an, cảnh sát nhưng mỗi người dân việt nam đều phải có
trách nhiệm và ý thức để trật tự an toàn xã hội được bảo đảm.
- Bảo vệ tài sản của công dân.
2. Chức năng kinh tế: là chức năng cơ bản của hành chính nhà nước, chính phủ có nhiệm vụ đẩy mạnh sự phát
triển của nền kin tế thị trường định hướng XHCN được cụ thể hóa bằng các nhiệm vụ sau:
- Điều hành kinh tế vĩ mô, cân đối giữa cung và cầu, hợp lý cơ cấu vùng miền, câu cấu ngành nghề. Đảm bảo
tính hiệu của việc quản lý tài nguyên thiên nhiên, bảo tồn thiên nhiên, bảo vệ tài sản nhà nước....
- Quản lý vĩ mô bằng luật pháp và văn bản pháp qui tăng cường giám sát kinh tế. Chính phủ với tư cách là người
cầm lái chứ không phải là người bơi chèo.
- Tổ chức xây dựng các công trình lớn về QP-AN, về kinh tế, cơ sở hạ tầng, giao thông, sân bay, bến cảng...
3. Chức năng văn hóa: là điều hành, tổ chức đời sống văn hóa, xã hội, đưa đến cho nhân dân một đời sống văn
hóa ngày càng cao, xây dựng một nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. Thể hiện trên các phương tiện chủ yếu
sau:
- Công tác chính trị tư tưởng bao gồm: quản lý thông tin, báo chí, tự do tôn giáo...
- Quy hoạch sự nghiệp giáo dục, văn hóa nhằm nhằm nâng cao chất lượng đời sống tin thần của công dân, phát
triển con người toàn diện.
4. Chức năng xã hội:
- Hạn chế tăng dân số, xây dựng gia đình văn hóa, khối, phố văn hóa.....
- Xây dựng môi trường sống ngày càng cao về chất lượng (đi lại, ăn ở, sinh hoạt).
5. Chức năng điều hành.
Chức năng này được thể hiện trên các phương diện sau:
- Chức năng tổ chức: là tổ chức, bố trí phân công, phân nhiệm những ai làm gì hay nói cách khác xác định chức
trách, trách nhiệm, quyền hạn cho các tổ chức hành chính và cán bộ công chức. Xây dựng thể chế tổ chức hành
chính hợp lý để phát huy đầy đủ các yếu tố tích cực. Xây dựng hệ thống chỉ huy hành chính nhạy bén, hiệu quả,

thóng nhất có tính tiên quyết của chính quyền. Điều hòa phối hợp quan hệ hành chính giữa các cấp chính quyền,
giữa ngành này với ngành khác để vận hành mục tiêu quản lý hành chính.
- Chức năng kế hoạch: đây là chức năng do văn phòng các cấp đảm nhận. Văn phòng các cơ quan hành chính
phải dự thảo kế hoạch hoạt động ngắn hạn, dài hạn trên cơ sở căn cứ vào luật và tình hình thực tiễn của đơn vị
(phương án, mục tiêu, quy trình, con người, cơ sở vật chất...).
- Chức năng điều hành trực tiếp (điều tiết mục tiêu hoạt động quản lý hành chính)
Xác lập tiêu chuẩn quản lý cho phù hợp, mang tính cụ thể, khả thi. Th thập thông tin, xử lý thông tin, nắm chắc
tình hình, phân tích chính xác để xử lý kịp thời. Áp dụng các biện pháp điều hành cụ thể: khảo sát, đối thoại,
cưỡng chế, thực hiện giám sát có hiệu quả.
Theo quy trình để ban hành một văn bản, một quy định:


- Chức năng quy hoạch, kế hoạch.
- Chức năng tổ chức bộ máy hành chính.
- Chức năng xắp xếp, bố trí, phát triển nguồn nhân lực.
- Chức năng điều hành.
- Chức năng phối hợp.
- Chức nawg tài chính.
- Chức năng theo dõi, kiểm tra, giám sát.


Câu hỏi 3: cán bộ, công chức? Nội dung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay?
Liên hệ thực tế tại địa phương, cơ quan công tác?
Để nhà nước tồn tại, phát triển theo ý chí của giai cấp cầm quyền, nhà nước nào cũng cần có một đội ngũ
cán bộ công chức bao gồm những người có trình độ quản lý, trình độ chuyên môn và đạo đức theo tiêu chí của
mõi nhà nước đó.
Chủ tịch HCM viết “cán bộ là cái gốc của mọi công việc” và “Công việc thành công hoặc thất bại đều do
cán bộ tốt hay xấu”.
Trong chương trình cải cách của Đảng, Nhà nước ta đề ra trong đó cải cách công chức công vụ là nhiệm
vụ trọng tâm trong công cuộc cải cách nói chung nhằm góp phần thúc đẩy sự nghiệp đổi mới theo đường lối của

Đảng ta.
Ở nước ta, khái niệm cán bộ công chức được hình thành, gắn với sự phát triển của đất nước. Ở mỗi thời
kỳ, giai đoạn phát triển khái niệm cán bộ, công chức được Đảng, Nhà nước ta nhận thức và từng bước hoàn
thiện.
Theo Điều 1, Sắc lệnh 76/SL ngày 20/5/1950 thì công chức là “Những người công dân Việt Nam được
chính quyền nhân dân Việt Nam tuyển dụng, giữ một chức vụ thường xuyên trong các cơ quan chính phủ ở
trong nước hay ngoài nước”.
Theo quy định tại khoản 1, Điều 4, Luật cán bộ công chức có hiệu lực từ ngày 01/01/2010 thì “Cán bộ là
công đân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong các cơ quan
của ĐCSVN, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, ở
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước”
Theo quy định tại khoản 2, Điệu 4, Luật cán bộ công chức “Công chức là công dân Việt Nam được tuyển
dụng, bổ nhiệm vào ngạch chức vụ, chức danh trong cơ quan ĐCSVN, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung
ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sỹ quan, quân nhân
chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sỹ quan,
hạ sỹ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo quản lý của các đơn vị sự nghiệp công lập của ĐCSVN, nhà
nước, tổ chức chính trị xã hội, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ
máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp
công lập theo quy định của pháp luật”.
Tại khoản 3, Điều 4, Luật cán bộ công chức “Cán bộ xã, phường, thị trấn là công dân Việt Nam, được
bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, phó bí thư
Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội; công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng
giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước”.
Nền hành chính nhà nước là một hệ thống tổ chức và định chế thực hiện chức năng hành pháp của nhà
nước (tức là thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành xã hội). Được cấu thành từ 4 yếu tố đó là: Thể chế
hành chính công; Bộ máy hành chính nhà nước; Công vụ - công chức và Tài chính công). Cải cách bộ máy hành
chính là một nội dung quan trọng trong chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2010 đã
được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Thực hiện công cuộc đỏi mới do đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Đảng ta xác định phải đổi mới hệ thống

chính trị mà trọng tâm là cải cách bộ máy hành chính nhà nước, cải cách hành chính nhà nước. Công cuộc cải cách
hành chính trong những năm qua, đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước. Những kết quả rõ nét trong việc thực hiện cải cách, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức trong thời gian
qua đó là việc quản lý, sử dụng cán bộ, công chức được đổi mới một bước theo các quy định của Pháp lệnh cán bộ,
công chức (nay là Luật cán bộ, công chức năm 2009) từ khâu tuyển chọn, đánh giá, thi nâng ngạch, khen thưởng,
kỷ luật đến đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức.
Với mục tiêu chung của Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước, giai đoạn 2001 – 2010 là:
xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa, hoạt động có hiệu
lực, hiệu quả theo nguyên tắc của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng; xây dựng
đội ngũ cán bộ công chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng phát triển đất
nước.
Mục tiêu cụ thể xây dựng đội ngũ cán bộ công chức: xây dựng được đội ngũ cán bộ công chức có số
lượng, cơ cấu hợp lý chuyên nghiệp, hiện đại. Tuyệt đại bộ phấn cán bộ công chức có phẩm chất tốt và đủ năng
lực thi hành công vụ, tận tụy phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước và phục vụ nhân dân.
Nội dung đổi mới nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức:
1. Đổi mới công tác quản lý cán bộ, công chức:
- Đổi mới công tác quản lý cán bộ, công chức phù hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội và cải
cách hành chính.


- Tiến hành tổng điếu tra, đánh giá đội ngũ cán bộ, công chức nhằm xác định chính xác số lượng, chất
lượng của toàn bộ đội ngũ cán bộ, công chức trên cơ sở đó quy hoạch, xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng,
quản lý đội ngũ cán bộ, công chức. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu cán bộ công chức để từng bước chuyển
sang quản lý cán bộ công chức bằng hệ thống tin học ở các cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương và địa
phương.
- Sửa đổi, bổ sung hệ thống ngạch, bậc, các quy định hiện hành về tiêu chuẩn nghiệp vụ chức danh cán
bộ công chức. Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn chức danh phù hợp với thực tiễn Việt Nam, với yêu cầu công tác
chuyên môn của từng đối tượng, làm căn cứ cho việc đánh giá năng lực của cán bộ công chức.
- Xác định cơ cấu cán bộ công chức hợp lý gắn với chức năng nhiệm vụ gtrong các cơ quan hành chính
nhà nước ở trung ương và ở địa phương, làm cơ sở cho việc định biên và xây dựng phát triển đội ngũ cán bộ,

công chức. Cải tiến phương pháp định biên làm căn cứ cho việc quyết định về số lượng, chất lượng và cơ cấu
cán bộ công chức phù hợp với khối lượng và chất lượng công việc của từng cơ quan hành chính.
- Hoàn thiện chế độ tuyển dụng cán bộ, công chức, thực hiện quy chế mới về đánh giá khen thưởng, kỷ
luật đối với cán bộ công chức để nâng cao chất lượng hoạt động công vụ. Cơ chế thi tuyển phải đảm bảo tính
dân chủ, công khai chọn đúng người đủ tiêu chuẩn vào bộ máy hành chính nhà nước, chú ý bảo đảm một tỷ lệ
thích đáng cán bộ công chức nữ trong các ngành, lĩnh vực khác nhau.
- Xây dựng quy định thống nhất về tinh giản biên chế trong cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp ở trung
ương và địa phương để thực hiện được việc thường xuyên đưa ra khỏi bộ máy những cán bộ công chức không
đủ năng lực, trình độ, những người vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp, tạo điều kiện đổi mới, trẻ
hóa, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ công chức.
- Đổi mới nâng cao năng lực của các cơ quan và cán bộ làm nhiệm vụ quản lý cán bộ công chức, công vụ phù
hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
- Sửa đổi việc phân cấp trách nhiệm quản lý cán bộ công chức. Mở rộng quyền và trách nhiệm quản lý
cán bộ công chức của chính quyền địa phương. Phân cấp quản lý về nhân sự đi liền với phân cấp về nhiệm vụ và
phân cấp về tài chính.
2. Cải cách tiền lương và các chế độ, chính sách đãi ngộ.
- Cải cách tiền lương theo quan điểm: Coi tiền lương là hình thức đầu tư trực tiếp cho con người, đầu tư
cho phát triển kinh tế - xã hội, góp phần nâng cao chất lượng cán bộ công chức và hoạt động công vụ. Những
việc chính là:
+ Nâng mức lương tối thiểu cho cán bộ công chức đủ sống bằng lương. Cải cách hệ thống thang lương,
bảng lương trên cơ sở xem xét tính chất và đặc điểm lao động của các loại cán bộ công chức; điều chỉnh bội số
và hệ số tiền lương trong thang, bảng lương.
+ Tiếp tục thực hiện cải cách tiền lương đối với cán bộ công chức; thực hiện tiền tệ hóa đầu đủ tiền
lương, điều chỉnh lương tưng ứng với nhịp độ tăng thu nhập trong xã hội.
+ Sửa đổi, bổ sung các quy định về chế độ phụ cấp ngoài tiền lương theo ngạch, bậc, theo cấp bậc
chuyên môn, nghiệp vụ cán bộ, công chức cho cán bộ công chức làm việc trong điều kiện khó khăn, nguy hiểm,
độc hại.
+ Ban hành và thực hiện chế độ tiền thưởng đối với cán bộ, công chức hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và
các chế độ đãi ngộ khác ngoài tiền lương đối với cán bộ công chức.
3. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức.

- Đánh giá lại công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức, xây dựng và triển khai kế hoạch về đào tạo
bồi dưỡng cán bộ công chức trong bộ máy hành chính nhà nước theo từng loại: cán bộ công chức làm nhiệm vụ
tham mưu hoạch định chính sách; cán bộ công chức các ngạch hành chính, sự nghiệp và cán bộ chính quyền cơ
sở.
- Tiếp tục đổi mới nội dung chương trình và phương thức đào tạo bồi dưỡng, chú trọng nâng cao kiến
thức, kỹ năng hành chính cho đội ngũ cán bộ công chức theo chức trách, nhiệm vụ đang đảm nhận. Mỗi loại cán
bộ công chức có chương trình, nội dung đào tạo và bồi dưỡng phù hợp. Kết hợp đào tạo chính quy với các hình
thức đào tạo không chính quy, đào tạo trong nước và gửi đi đào tạo ở ngoài nước. Khuyến khích cán bộ công
chức tự học có sự giúp đỡ của nhà nước.
- Tổ chức lại hệ thống cơ sở đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức; điều chỉnh sự phân công giữa các cơ
sở đào tạo. Tạo điều kiện để Học viện Hành chính quốc gia, các trường đáo tạo cán bộ của các tỉnh, thành phố
có thể chủ động đào tạo một bộ phận nhân lực phục vụ bộ máy hành chính nhà nước ở trung ương và địa
phương.
4. Nâng cao tinh thần trách nhiệm và đạo đức cán bộ công chức.
- Tăng cường các biện pháp giáo dục cán bộ công chức về tinh thần trách nhiệm, ý thức tận tâm tận tụy
với công việc. Xây dựng tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp cán bộ công chức. Tôn vinh nghề nghiệp, danh dự của
người cán bộ công chức.


- Ban hành và guh nghiêm Quy chế công vụ, gắn với thực hiện Quy chế dân chủ trong các cơ quan hành
chính nhà nước, thực hiện triệt để nguyên tắc công khai hóa hoạt động công vụ, nhất là trong các công việc có
quan hệ trực tiếp với công dân, trong lĩnh vực tài chính ngân sách; bảo đảm thực hiện kỷ cương của bộ máy,
nâng cao trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật của đội ngũ cán bộ công chức.
- Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng bộ máy hành chính nhà nước. Thực hiện chế độ
kiểm toán và các chế độ bảo vệ công sản và ngân sách nhà nước.
Phương hướng, giải pháp:
Có thể nói: Chương trình cải cách hành chính trong những năm qua đã được trienr khai toàn diện trên cả
4 nội dung, từng bước đi vào chiều sâu và tạo ra những chuyển biến đáng ghi nhận, góp phần quan trọng vào
quá trình đổi mới kinh tế, dân chủ hóa đời sống xã hội, hội nhập kinh tế quốc tề và củng cố và duy trì ổn định
chính trị. Công tác quản lý đội ngũ cán bộ công chức tiếp tục được cải cachs theo hướng rõ hơn về phân công và

phân cấp. Đã có sự phân định về trách nhiệm, thẩm quyền quản lý đội ngũ cán bộ công chức hành chính của
Thủ tướng Chính phủ, của các bộ và chính quyền địa phương. Thẩm quyền và trách nhiệm trong bổ nhiệm, sử
dụng, khen thưởng, kỷ luật cán bộ công chức cũng đã được xác định khá rõ cho người đứng đầu các cơ quan
hành chính và thủ trưởng các đơn vị sự nghiệp, dịch vụ công. Đặc biệt thẩm quyền và trách nhiệm của người
đứng đầu các đơn vị sự nghiệp, dịch vụ công được nâng cao đáng kể phù hợp với cơ chế về quyền tự chủ, tự
chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp và dịch vụ công.
Luật cán bộ công chức đã có sự phân biệt rõ hơn đội ngũ cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị ở
nước ta: cán bộ qua bầu cử, công chức hành chính, viên chức sự nghiệp, công chức cấp xã … trên cơ sở đó đã
xác định những yêu cầu, tiêu chuẩn về trình độ, năng lực, phẩm chất, cơ chế quản lý và chế độ, chính sách đãi
ngộ thích hợp. Hệ thống các tiêu chuẩn chức danh công chức có những điều chỉnh thông qua đó đẩy nhanh quá
trình chuẩn hóa và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công chức cơ sở. Chính sách tiền lương, chế độ bảo hiểm
xã hội đã có những cải cách bước đầu. Đề án cải cách chính sách tiền lương đã điều chỉnh lộ trình và bước đi
trong cải cách.
Tuy nhiên, yếu kém lớn nhất là chất lượng của đội ngũ cán bộ công chức vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu
quản lý nhà nước trong cơ chế mới. Mức độ chuyên nghiệp, tính chuyên sâu, kỹ năng hành chính của cán bộ
công chức thấp. Trình độ hiểu biết về kỹ năng của cán bộ, công chức với hàm lượng khoa học quản lý ở tầm vĩ
mô, vi mô thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu của một nền hành chính hiện đại. Một bộ phận không nhỏ cán bộ
công chức suy thoái về phẩm chất, đạo đức, tham nhũng, cửa quyền, thiếu ý thức trách nhiệm và tinh thần phục
vụ, vô cảm trước yêu cầu của nhân dân, của xã hội.
Những giải pháp mang tính đổi mới, theo hướng hiện đại hóa công tác quản lý cán bộ công chức chậm
được triển khai, dẫn đến các cơ quan hành chính vẫn ôm đồm nhiều việc và cản trở can thiệp sâu vào hoạt động
của các đơn vị cơ sở. Công tác quản lý, tuyển dụng, sử dụng, thi tuyển, thi nâng ngạch, đánh giá, luân chuyển,
đề bạt cán bộ, công chức chậm thay đổi. Các phương pháp khoa học trong đánh giá kết quả công tác của từng
cán bộ công chức chậm được áp dụng để thay thế phương pháp đánh giá dựa vào tập thể là chủ yếu.
Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong chương trình tổng
thể CCHC giai đoạn 2011-2020:
a) Đến năm 2020, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có số lượng, cơ cấu hợp lý, đủ trình độ và năng lực thi
hành công vụ, phục vụ nhân dân và phục vụ sự nghiệp phát triển của đất nước;
b) Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị, có năng lực,
có tính chuyên nghiệp cao, tận tụy phục vụ nhân dân thông qua các hình thức đào tạo, bồi dưỡng phù hợp, có

hiệu quả;
c) Xây dựng, bổ sung và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về chức danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ của cán
bộ, công chức, viên chức, kể cả cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý;
d) Trên cơ sở xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, đơn vị, xây dựng cơ cấu cán bộ, công chức,
viên chức hợp lý gắn với vị trí việc làm;
đ) Hoàn thiện quy định của pháp luật về tuyển dụng, bố trí, phân công nhiệm vụ phù hợp với trình độ, năng lực,
sở trường của công chức, viên chức trúng tuyển; thực hiện chế độ thi nâng ngạch theo nguyên tắc cạnh tranh; thi
tuyển cạnh tranh để bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo, quản lý từ cấp vụ trưởng và tương đương (ở trung ương),
giám đốc sở và tương đương (ở địa phương) trở xuống;


e) Hoàn thiện quy định của pháp luật về đánh giá cán bộ, công chức, viên chức trên cơ sở kết quả thực hiện
nhiệm vụ được giao; thực hiện cơ chế loại bỏ, bãi miễn những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ
luật, mất uy tín với nhân dân; quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức, viên chức tương ứng với
trách nhiệm và có chế tài nghiêm đối với hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm kỷ luật, vi phạm đạo đức công vụ
của cán bộ, công chức, viên chức;
g) Đổi mới nội dung và chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức; thực hiện việc đào tạo,
bồi dưỡng theo các hình thức: Hướng dẫn tập sự trong thời gian tập sự; bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch công
chức, viên chức; đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý; bồi dưỡng bắt buộc kiến thức, kỹ
năng tối thiểu trước khi bổ nhiệm và bồi dưỡng hàng năm;
h) Tập trung nguồn lực ưu tiên cho cải cách chính sách tiền lương, chế độ bảo hiểm xã hội và ưu đãi người có
công; đến năm 2020, tiền lương của cán bộ, công chức, viên chức được cải cách cơ bản, bảo đảm được cuộc
sống của cán bộ, công chức, viên chức và gia đình ở mức trung bình khá trong xã hội.
Sửa đổi, bổ sung các quy định về chế độ phụ cấp ngoài lương theo ngạch, bậc, theo cấp bậc chuyên môn, nghiệp
vụ và điều kiện làm việc khó khăn, nguy hiểm, độc hại.
Đổi mới quy định của pháp luật về khen thưởng đối với cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi công vụ và
có chế độ tiền thưởng hợp lý đối với cán bộ, công chức, viên chức hoàn thành xuất sắc công vụ;
i) Nâng cao trách nhiệm, kỷ luật, kỷ cương hành chính và đạo đức công vụ của cán bộ, công chức, viên
chức.
Liên hệ thực tế ở địa phương, cơ quan, đơn vị.



×