Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Báo cáo thực tập tại viện kinh tế và chính trị thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.94 KB, 31 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới là một trong những cơ quan nghiên
cứu hàng đầu về kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế quốc tế, Viện thuộc
Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia được hội đồng Bộ trưởng
(nay là Chính phủ) quyết định thành lập. Viện được thành lập từ rất
sớm(9/9/1983) và đến năm 2004 Viện đổi tên thành Viện Kinh tế và Chính trị
thế giới. Viện có đội ngũ làm công tác chuyên môn nghiệp vụ cao có khả
năng đáp ứng mọi nhiệm vụ được giao. Nhằm thực hiện tốt chủ trương của
Đảng và Nhà nước, trong những năm vừa qua Viện đã mở rộng quan hệ hợp
tác nghiên cứu khoa học với các nước trên thế giới; Viện đã thực hiện nhiều
đề tài cấp Nhà nước, cấp Bộ và cấp Viện. Những kết quả đạt được góp phần
tăng cường, cung cấp những kiến thức, luận cứ khoa học quan trọng trong
việc hoạch định đường lối chính sách kinh tế đối nội, đối ngoại của Đảng và
Nhà nước.
Nhằm tạo điều kiện để thế hệ trẻ, đặc biệt là sinh viên được tiếp xúc
với những vấn đề do thực tiễn xảy ra, đảm bảo thực hiện nguyên lý học đi đôi
với hành, nhà trường gắn liền với xã hội, lý luận đi đôi với thực tiễn. Đồng
thời tạo cho sinh viên rèn luyện tác phong của người cán bộ quản lý, của nhà
quản lý Kinh tế, rèn luyện kỷ luật, ý thức lao động. Bộ môn Kinh tế quốc tế
thuộc Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Hà Nội đã tổ chức đợt thực tập cho sinh viên khoa từ ngày 31/12/2007 đến
ngày 27/4/2008 trong đó đợt thực tập tổng hợp gồm 6 tuần đầu và thực tập
chuyên đề trong thời gian còn lại. Được sự giúp đỡ của Viện và thầy giáo
hướng dẫn, em đã có diều kiện tham gia đợt thực tập này. Qua đợt thực tập
tổng hợp trong 6 tuần đầu em đã có cơ hội tìm hiểu và có được một cái nhìn
khái quát quá trình hoạt động và nghiên cứu của Viện Kinh tế và Chính trị
Thế giới.
Bản báo cáo thực tập tổng hợp của em gồm 3 phần, trong đó ba phần
tóm tắt quá trình hình thành phát triển, cơ cấu tổ chức, phương hướng và giải
pháp nhằm nâng cao hoạt động nghiên cứu của Viện Kinh tế và Chính trị Thế
giới trong thời gian tới.



1


I. Quá trình hình thành và phát triển của Viện Kinh tế và Chính
trị Thế giới.
II. Thực trạng hoạt động của Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới
III. Những ưu điểm, tồn tại, nguyên nhân và phương hướng phát triển
của Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới.
Trong quá trình thực tập tại Viện em đã nhận được nhiều sự giúp đỡ và
chỉ dẫn tận tình của cán bộ trong Viện và sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo
hướng dẫn. Tuy đã có nhiều cố gắng học hỏi, nghiên cứu và tìm hiểu để hoàn
thành bản báo cáo thực tập tổng hợp này, song do thời gian và kinh nghiệm
chưa nhiều nên bản báo cáo của em không tránh khỏi những sai sót. Vì vậy,
em rất mong được sự đóng góp ý kiến của Viện và thầy giáo hướng dẫn để
bản báo cáo thực tập tổng hợp của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.
Sinh viên thực tập

2


1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA VIỆN
KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ THẾ GIỚI
1.1. Sơ lược quá trình hình thành của Viện Kinh tế và Chính trị
Thế giới
Do những thay đổi về bối cảnh quốc tế, yêu cầu chung đối với những
nghiên cứu quốc tế và sự thay đổi trong tổ chức ở Trung tâm khoa học xã hội
và Nhân văn quốc gia đòi hỏi thành lập Viện Kinh tế Thế giới với chức năng
và nhiệm vụ chủ yếu là: nghiên cứu những vấn đề kinh tế thế giới dưới giác

độ kinh tế chính trị học Mác- Lênin, nhằm làm sáng tỏ những đặc điểm,
những quy luật và cơ chế vận động của nền kinh tế thế giới và quan hệ kinh
tế quốc tế, trên cơ sở đóng góp những luận cứ koa học cho việc hoạch định
những đường lối chính sách kinh tế đối nội, đối ngoại của Đảng và Nhà nước.
Viện Kinh tế Thế giới thuộc Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc
gia được Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) quyết định thành lập tháng
9/1983 theo Nghị định số 96/HĐBT ngày 9/9/1983 và được tái khẳng định
theo Nghị định số 23/CP ngày 22/5/1993 của Chính phủ, với tên giao dịch
quốc tế là: INSTITUTE OF WORLD ECONOMY, đến hiện nay viện đã
hoạt động được hơn 20 năm và hiện nay Viện có tên gọi là Viện Kinh tế và
Chính trị thế giới.
Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới là một trong số các cơ quan nghiên
cứu về lĩnh vực kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế quốc tế đầu ngành tại Việt
Nam, cung cấp các luận cứ khoa học cho việc đề ra các chính sách của Đảng
và Nhà nước thông qua các chức năng và mục tiêu của Viện là các đề tài của
Viện luôn hướng về chủ trương kinh tế và chính trị của Đảng và Nhà nước.
Viện cũng đào tạo được một đội ngũ cán bộ có năng lực hiện đang công tác
3


tại Viện hoặc đang trở thành những cán bộ nòng cốt trong các trung tâm
nghiên cứu quốc tế.
Một trong những xu hướng nổi bật của thế giới ngày nay là quá trình
toàn cầu hoá và khu vực hoá phát triển nhanh chóng. Những nghiên cứu có
tính chất khu vực hoặc theo nước không thể hàm chứa hết những vấn đề
chung như tài chính quốc tế, thương mại quốc tế, các thể chế kinh tế toàn
cầu, các quan hệ kinh tế xuyên châu lục như: APEC, ASEM. Đây là đối
tượng nghiên cứu riêng biệt, thuộc về chức năng của một viện nghiên cứu
những vấn đề kinh tế và chính trị quốc tế nào khác đã từng thực hiện. Vì vậy,
chúng ta phải xác định rõ sự khác biệt của Viện với các Viện và Trung tâm

khác mới được thành lập trong những năm gần đây, để thấy rõ tính riêng biệt
mà chưa có một Viện hay Trung tâm nào khác đã từng thực hiện. Hiện nay,
Viện có tên gọi là Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới, linh vực hoạt động của
Viện ngày càng mở rộng hơn cả về quy mô lẫn số lượng nghiên cứu sâu hơn
không những về kinh tế mà cả về chính trị.
1.2. Cơ cấu tổ chức, quản lý của Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới
Cơ cấu tổ chức của Viện hiện có 16 phòng, trong đó có 10 phòng
nghiên cứu, các phòng nghiên cứu của Viện tập chung chủ yếu nghiên cứu
các vấn đề: kinh tế phát triển, kinh tế các nền kinh tế phát triển, đang phát
triển, kinh tế chuyển đổi, chính trị quốc tế, tài chính- tiền tệ -đầu tư thương
mại quốc tế; kinh tế CHLB Đức và kinh tế Việt Nam. Từ năm 1994, Viện
được Chính Phủ giao nhiệm vụ đào tạo tiến sỹ chuyên ngành kinh tế thế giới,
mỗi năm chiêu sinh từ 8-10 Nghiên cứu sinh.
Đội ngũ cán bộ của Viện hiện có 61 cán bộ, trong đó có 46 cán bộ
nghiên cứu (5 nghiên cứu viên cao cấp, 15 nghiên cứu viên chính, 26 nghiên
cứu viên), các cán bộ làm chức năng phục vụ nghiên cứu, số cán bộ có học
hàm học vị bao gồm: một Viện sỹ đồng thời là PGS.TSKH, 7 PGS có học vị
tiến sỹ, 15 tiến sỹ và 10 thạc sỹ, ngoài hai người có trình độ trung cấp ra còn
lại đều có trình độ đại học trở lên. Có thể nói, đội ngũ cán bộ công nhân viên
của Viện là một đội ngũ có trình độ và được đào tạo cơ bản, và cơ cấu tổ
4


chức nhân sự của Viện được thể hiện qua sơ đồ sau.

Sơ đồ tổ chức nhân lực của Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới
Viện trưởng
Hội đồng khoa học

Tổng biên tập tạp chí

Phó viện trưởng

Phó viện trưởng

Phòng quan hệ
kinh tế quốc tế
Các
phòng
chức
năng

Hành chính
tổ chức
Học giả
nước ngoài

Phòng tư
vấn hành
chính

Các
phòng
nghiên
cứu

Phòng nghiên cứu
phát triển
Phòng nghiên cứu
các nền kinh tế
đang phát triển


Các
phòng
nghiệp
vụ

Phòng nghiên cứu
kinh tế SNG và
Đông Âu
Phòng kinh tế các
nước Đông Âu

Phòng toà
soạn trị sự

Phòng
thông tin
thư viện

1.3. Chức năng của Viện và của một số phòng thuộc Viện Kinh tế
và Chính trị Thế giới
1.3.1. Chức năng của Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới
5


Xuất phát từ mục tiêu và phương hướng của Viện Kinh tế và Chính trị
Thế giới, Viện đã xác định chức năng cơ bản của Viện là:
Một là, Nghiên cứu một cách cơ bản và toàn diện những vấn đề kinh
tế, chính trị thế giới; chính trị và kinh tế trong nước làm cơ sở cho việc đề ra
và thực hiện các chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, góp phần vào

việc nâng cao sự hiểu biết các vấn đề quốc tế.
Hai là, Nghiên cứu các mô hình phát triển, các chiến lược và chính
sách phát triển của quốc gia, từ đó rút ra bài học, các kiến nghị góp phần đổi
mới chiến lược và chính sách phát triển của nước ta.
Ba là, Nghiên cứu và đề xuất chính sách của Việt Nam đối với các tổ
chức quốc tế và khu vực cũng như trên thế giới.
Bốn là, Tư vấn cho các cơ quan hoạch định chính sách, lãnh đạo cao
cấp, tổ chức kinh doanh về những vấn đề liên quan đến hoạt động kinh tế và
quan hệ đối ngoại nhằm thực hiện đường lối và chính sách của Đảng và Nhà
nước.
Năm là, Tổ chức hoạt động trao đổi khoa học giữa các nhà khoa học
Việt Nam và các nhà khoa học nước ngoài và tổ chức các hội nghị khoa học
trong nước và quốc tế vè kinh tế va quan hệ quốc tế.
Sáu là, Đào tạo cán bộ khoa học về các chuyên ngành liên quan đến
kinh tế và chính trị quốc tế tại Viện và các trường đại học.
Bẩy là, Xuất bản và phổ biến các công trình nghiên cứu, cung cấp
thông tin về kinh tế và thị trường thế giới, các vấn đề quan hệ quốc tế và
chính sách đối ngoại của Việt Nam cho độc giả trong và ngoài nước.
1.3.2. Chức năng của một số phòng thuộc Viện Kinh tế và Chính trị
Thế giới
1.3.2.1. Phòng nghiên cứu phát triển thực hiện nghiên cứu về:
- Các lý thuyết về mô hình phát triển, quan hệ tăng trưởng kinh tế và
tiến bộ xã hội
- Nguồn nhân lực và phát triển
- Phát triển và các vấn đề toàn cầu
- Cơ cấu và động thái phát triển của nền kinh tế
6


1.3.2.2. Phòng nghiên cứu các nền kinh tế phát triển thực hiện nghiên

cứu về:
- Đặc điểm xu hướng phát triển kinh tế các nước công nghiệp phát
triển.
- Kinh tế các nước lớn: Mỹ, Nhật Bản, Đức, Pháp, Anh và các nước
thuộc OECD.
- Những vấn đề chính trị của các nước công nghiệp phát triển, so sánh
các mô hình kinh tế Mỹ, Nhật Bản, Châu Âu.
1.3.2.3. Phòng nghiên cứu các nền kinh tế đang phát triển thực hiện
nghiên cứu về:
- Đặc điểm, xu hướng phát triển và vị trí của các nước đang phát triển
trong nền kinh tế thế giới .
- Kinh tế các nước ASEAN, Mỹ la tinh, Châu phi.
- Những vấn đề chính trị của các nước đang phát triển, so sánh các mô
hình công nghiệp hoá.
1.3.2.4. Phòng quan hệ kinh tế quốc tế
- Sự phát triển kinh tế Việt Nam trong bối cảnh kinh tế thế giới và khu
vực.
- Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
- Chính sách và quan hệ đối ngoại của Việt Nam.
1.3.2.5. Phòng tư vấn – phát hành
- Thực hiện các hoạt động tư vấn và dịch vụ khoa học về các vấn đề
kinh tế và thương mại quốc tế.
- Thực hiện các công việc về hoạt động tạp chí tiếng Việt và tiếng Anh,
công tác xuất bản và phát hành.
1.3.2.6. Phòng thông tin thư viện.
- Thực hiện các công việc biên soạn, biên dịch các tài liệu phục vụ
nhiệm vụ nghiên cứu .
- Thực hiện các công tác bảo quản, lưu trữ, xây dựng, sửa chữa, nâng
cấp trụ sở làm việc, quản trị tài sản vật tư, bảo vệ, thông tin liên lạc, và các
7



công việc phục vụ hàng ngày.
1.4. Mục tiêu của Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới
Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới có 4 mục tiêu chính đến năm 2010
như sau:
Thứ nhất, xây dựng cơ cấu tổ chức Viện hợp lý và hiệu quả, đảm bảo
thực hiện các chương trình và lĩnh vực nghiên cứu được xác định cho từng
thời kì.
Thứ hai, có một đội ngũ cán bộ nghiên cứu giỏi trong từng lĩnh vực
chuyên sâu về kinh tế và thương mại quốc tế, có khả năng nghiên cứu và tổ
chức những vấn đề nghiên cứu khoa học cơ bản thuộc chức năng của Viện.
Thứ ba, Có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, hệ thống thông tin tư liệu
thư viện đáp ứng tốt các yêu cầu của công tác nghiên cứu đào tạo và phổ biến
khoa học về kinh tế và chính trị quốc tế.
Thứ tư, có quan hệ quốc tế rộng rãi và quan hệ hợp tác khoa học với
các trung tâm nghiên cứu quốc tế.
2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KINH TẾ VÀ
CHÍNH TRỊ THẾ GIỚI
Quá trình hơn 20 năm hoạt động và trưởng thành, Viện Kinh tế và
Chính trị Thế giới đã đạt được những thành tựu đáng kể trên tất cả các lĩnh
vực, là một Viện hoạt động năng động và có hiệu quả của Trung tâm Khoa
học xã hội và Nhân văn Quốc gia, là cơ quan nghiên cứu khoa học đầu ngành
về lĩnh vực kinh tế thế giới ở Việt Nam. Điều đó thể hiện ở những điểm sau.
2.1. Công tác nghiên cứu khoa học
Ngay từ khi mới thành lập, công tác nghiên cứu khoa học của Viện
luôn luôn gắn liền với nền kinh tế thế giới và khu vực, đặc biệt là những vấn
đề có ảnh hưởng đến kinh tế Việt Nam và hội nhập kinh tế Việt Nam vào nền
kinh tế thế giới. Viện có 6 phòng nghiên cứu về: Những vấn đề chung của
nền kinh tế thế giới tập chung vào nghiên cứu phát triển: quan hệ kinh tế

quốc tế, kinh tế các nước công nghiệp phát triển, kinh tế các nước đang phát
triển, các nước xã hội chủ nghĩa, kinh tế Đông Dương. Công tác nghiên cứu
8


của Viện được triển khai đồng thời tất cả các vấn đề khu vực và từng nước,
vừa nghiên cứu cơ bản, vừa nghiên cứu tình hình và động thái, kết hợp
nghiên cứu ngoài nước với nghiên cứu kinh tế Việt Nam nhằm tìm ra những
bài học kinh nghiệm để áp dụng vào nước ta, góp phần xây dựng đường lối
kinh tế đối ngoại, đối nội của Đảng và Nhà nước phục vụ sự nghiệp đổi mới
của đất nước.
Công tác nghiên cứu của Viện được triển khai theo các hệ đề tài
sau:
2.1.1. Hệ đề tài và nhiệm vụ Nhà nước
Từ năm 1991 đến nay, Viện được giao chủ trì và thực hiện 7 đề tài cấp
Nhà nước, trong đó đã có 4 đề tài đã hoàn thành đó là:
Đề tài KHXH 01.04: Đặc điểm và nội dung chủ yếu của thời đại ngày
nay do PGS.TSKH Võ Đại Lược làm chủ nhiệm. Đề tài gồm 10 chuyên đề
chuyên nghiên cứu những xu thế và đặc điểm chủ yếu của thời đại ngày nay,
đặc điểm của xu hướng thế giới những thập kỷ gần đây; về cách mạng khoa
học công nghệ, toàn cầu hoá, những chuyển biến và sụp đổ của hệ thống
XHCN, khủng hoảng và điều chỉnh chủ nghĩa tư bản, vị thế của các nước
đang phát triển trong thế giới hiện đại, phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế. Đề tài đã có 3 bản kiến nghị về: Chính sách kinh tế Việt Nam sau
thời kì cấm vận của Mỹ, sự hình thành các khối kinh tế và chính sách của
Việt Nam; Thời đại ngày nay và sự lựa chọn con đường phát triển của Việt
Nam và trên 50 bài viết nghiên cứu công bố trên các tạp chí khoa học.
Đề tài KHXH 01.05: Đặc điểm của chủ nghĩa tư bản hiện đại do
PGS.TS Lê Văn Sang làm chủ nhiệm, được thực hiện từ năm 1992-1996. Đề
tài đã nghiên cứu một cách hệ thống và toàn diện về chủ nghĩa tư bản hiện

đại. Kết quả nghiên cứu đã được xuất bản thành một bộ sách gồm 3 tập, hai
bản báo cáo kiến nghị gửi lãnh đạo Đảng và Nhà nước về chủ nghĩa tư bản
hiện đại và một số vấn đề của nó sau sự sụp đổ của Liên Xô và những đề xuất
mang tính kiến nghị của đề tài về chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Đề tài 06.02: Về những quan hệ mâu thuẫn và những thống nhất giữa
các nước tư bản lớn trên thế giới hiện nay và xu hướng phát triển quan hệ
9


đó, chính sách của chúng ta PGS.TS Lê Văn Sang làm chủ nhiệm, được thực
hiện tư năm 1996- 2000. Đề tài đã tập trung nghiên cứu quan hệ giữa ba
trung tâm lớn của thế giới là Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản, chỉ ra sự hợp tác và
cạnh tranh giữa chúng trong một thế giới, nêu lên những đề xuất mang tính
chiến lược cho Việt Nam trong quan hệ với các nước lớn. Kết quả nghiên cứu
đã được xuất bản thành sách và 15 bài đăng tạp chí.
Đề tài 06.08: Về khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản hiện đại, đặc biệt
là những năm cuối của thế kỷ XX và xu thế do PGS.TS. Lê Bộ Lĩnh chủ trì
thực hiện từ năm 1998- 2000. Đề tài đã phân tích một cách có hệ thống căn
nguyên và những hình thái biểu hiện chủ yếu của khủng hoảng của chủ nghĩa
tư bản hiện đại, đồng thời xem xét những điều chỉnh, nhận định về chiều
hướng thích nghi của chủ nghĩa tư bản trong xu thế toàn cầu hoá và cách
mạng tin học, đánh giá những tác động đối với Việt Nam. Kết quả nghiên
cứu đã được công bố trong cuốn Chủ nghĩa tư bản hiện đại: Khủng hoảng
kinh tế và điều chỉnh, gần 700 trang và trên 10 bài đăng tạp chí chuyên
ngành.
Hiện nay, Viện đang chủ trì thực hiện 4 hệ đề tài cấp Nhà nước.
.
+ Cục diện kinh tế thế giới trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI do
PGS.TS. Lê Văn Sang làm chủ nhiệm;
+ Tác động của Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đến tiến

trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam do PGS.TS. Nguyễn Xuân
Thắng làm chủ nhiệm.
Ngoài những đề tài Nhà nước nêu trên, Viện cũng đã thực hiện một số
nhiệm vụ nghiên cứu cấp Nhà nước theo yêu cầu của lãnh đạo Đảng và
Chính Phủ về: Chiến lược phát triển kinh tế xã hội Việt Nam giai đoạn 19902000; Đánh giá nguyên nhân và tác động của sự sụp đổ hệ thống xã hội chủ
nghĩa; Tình hình thế giới và cơ sở khoa học về đường lối đối ngoại của Đảng
ta; Vấn đề chống lạm phát của Việt Nam; Đầu tư trực tiếp của nước ngoài
vào Việt Nam, Khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực và tác động tới nền
kinh tế Việt Nam; Tác động của sự kiện 11- 9 tới nền kinh tế Việt Nam…
10


Những vấn đề trên được tập thể cán bộ Viện nghiên cứu một cách
nghiêm túc, công phu, báo cáo kịp thời, trực tiếp hoặc bằng văn bản đến các
đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước.
Ngoài ra, Viện đã tích cực tham gia vào quá trình soạn thảo các nghị
quyết của TW về các vấn đề kinh tế. Đồng chí Võ Đại Lược, nguyên Viện
trưởng trong nhiều năm làm việc với tư cách cố vấn cho Tổng Bí Thư và
thành viên tổ tư vấn, nay là ban nghiên cứu của Thủ Tướng Chính Phủ đã có
nhiều đề xuất chính sách quan trọng. Một số đồng chí cán bộ có uy tín được
mời tham gia nhóm soạn thảo dư án công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
chính sách kinh tế đối ngoại của Đảng. Một số kiến nghị gửi lãnh đạo Đảng
được đánh giá tốt, thiết thực góp phần vào việc chuẩn bị các Văn kiện Đại
hội của Đảng.
2.1.2. Chương trình và hệ đề tài cấp bộ
Viện đã chủ trì hai chương trình cấp bộ, do PGS.TSKH. Võ Đại Lược
làm chủ nhiệm là:
* Chương trình: Bối cảnh quốc tế và sự lựa chọn chiến lược phát
triển kinh tế xã hội của Việt Nam, thực hiện từ năm 1988- 2000. Chương
trình gồm 6 đề tài nghiên cứu các xu hướng của thế giới, đề xuất một hệ

thống các quan điểm về chiến lược phát triển cho Việt Nam trong bối cảnh
mới. Trong đó có 3 đề tài do cán bộ của Viện chủ trì, đó là:
- Sự điều chỉnh phát triển của Việt Nam đến năm 2001 do PGS. TS
Nguyễn Xuân Thắng làm chủ nhiệm.
- Tình hình thế giới ( chủ yếu về kinh tế ) trong những thập kỷ cuối của
thế kỷ XX do PGS.TS Tạ Kim Ngọc làm chủ nhiệm.
* Chương trình: Bối cảnh hệ thống kinh tế thế giới và sự điều chỉnh
chính sách ở các nước lớn, thực hiện trong hai năm 2001- 2002, tập trung
nghiên cứu những điều chỉnh chính sách tài chính, tiền tệ, thương mại, đầu
tư, chính sách phát triển kinh tế tri thức và chính sách đối với khu vực doanh
nghiệp của các nước lớn. Trong đó có hai đề tài do cán bộ của Viện chủ trì,
đó là:
- Điều chỉnh chính sách kinh tế EU do TS. Chu Đức Dũng làm chủ
11


nhiệm
- Bối cảnh quốc tế và những xu hướng điều chỉnh chính sách của các
nước lớn, do PGS.TSKH. Võ Đại Lược làm chủ nhiệm.
Ngoài ra, Viện đã thực hiện tốt dự án Điều tra hoạt động của các
doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn Hà Nội và Tp.
Hồ Chí Minh, do PGS. TS. Lê Bộ Lĩnh chủ trì. Kết quả của cuộc điều tra này
là một bộ cơ sở dữ liệu và một báo cáo phân tích đã công bố dưới hình thức
một cuốn sách.
* Viện đã thực hiện một số đề tài cấp bộ độc lập sau:
- Các nước SNG và Đông Âu chuyển sang kinh tế thị trường, đề tài do
GS.TS. Bùi Huy Khoát chủ trì, nghiệm thu 1993.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá phát huy lợi thế so sánh- Kinh
nghiệm các nền kinh tế đang phát triển ở Châu Á, do PGS.TS. Đỗ Đức Định
làm chủ trì, nghiệm thu năm 1997.

- Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở một số nước Châu Á, do
PGS.TS. Lê Bộ Lĩnh chủ trì, nghiệm thu năm 1997.
- Chính sách kinh tế của Mỹ đối với khu vực châu Á- Thái Bình Dương
kể từ sau chiến tranh lạnh, do TS. Đinh Quý Độ chủ trì, nghiệm thu năm
2000.
- Vấn đề lựa chọn thị trường sản phẩm và thị trường trong chính sách
ngoại thương ở các nước Châu Á, do TS. Nguyễn Trần Quế chủ trì, nghiệm
thu năm 2000.
- Quan hệ thương mại và đầu tư Việt Nam – CHLB Đức thực hiện năm
2003, do TS. Nguyễn Thanh Đức thực hiện.
- Sự điều chỉnh hợp tác của khu vực Châu Á- Thái Bình Dương trong
bối cảnh toàn cầu hoá, do PGS.TS. Nguyễn Xuân Thắng chủ trì, thực hiện
trong các năm 2001- 2003.
- Cải cách chế độ sở hữu ở một số nền kinh tế chuyển đổi, do TS.
Nguyên Văn Tâm chủ trì, nghiệm thu năm 2002.
- Bước sang nền kinh tế tri thức ở một số nước lớn trên thế giới hiện
nay, do PGS.TS. Lưu Ngọc Trịnh chủ trì, nghiệm thu năm 2002….
12


- Kinh tế và chính trị thế giới 2005-2006, PGS.TS Nguyễn Xuân Thắng
chủ trì, thực hiên năm 2005
Nhìn chung, các đề tài cấp bộ đã được cán bộ của Viện nghiên cứu
công phu, đúng tiến độ được giao, được đánh giá có giá trị về mặt lý luận và
thực tiễn, hầu hết các đề tài đều được hội đồng nghiệm thu đánh giá vào loại
xuất sắc. Sản phẩm của đề tài đã được xuất bản thành sách, các bài báo đăng
trên tạp chí khoa học và có kiến nghị gửi tới các cơ quan Đảng và Nhà nước.
2.1.3. Hệ đề tài cấp Viện
Hàng năm, Viện tiến hành nhiều đề tài nghiên cứu cấp Viện. Đó là hệ đề tài
khoa học có tính chất chuyên ngành và cơ bản theo từng lĩnh vực hoặc theo

từng khu vực, từng nước cụ thể. Một số đề tài tập thể được triển khai theo
phòng nghiên cứu như: Tác động của khủng hoảng tài chính tiền tệ đối với
triển vọng kinh tế Đông Á; Hợp tác giữa các nước Đông Á trong các vấn đề
an ninh truyền thống; Điều chỉnh chính sách kinh tế đối ngoại ở các nước
đang phát triển Châu Á sau khủng hoảng; Những xu hướng lớn trong quan
hệ kinh tế quốc tế; Xu hướng phát triển tự do hoá thương mại khu vực và
những ảnh hưởng đến tương lai của APEC…. Một số được triển khai theo đề
tài độc lập trong đó có hệ thống các cuốn sách giới thiệu về kinh tế các nước
và các vấn đề kinh tế thế giới phục vụ bạn đọc rộng rãi. Kết quả nghiên cứu
trong 20 năm qua là Viện đã xuất bản gần 160 cuốn sách hàng trăm bài báo
và các kiến nghị khoa học.
2.2. Hợp tác nghiên cứu với nước ngoài
Ngoài các công trình nghiên cứu được giao, Viện Kinh tế và Chính trị
Thế giới đã chủ động khai thác các nguồn tài trợ và hợp tác với các Viện
nghiên cứu nước ngoài, thực hiện những công trình nghiên cứu về kinh tế thế
giới và sự phát triển kinh tế Việt Nam. Những kết qủa thể hiện chủ yếu ở các
hoạt động khoa học và công trình nghiên cứu sau:
Một là, phối hợp với Viện các nền kinh tế đang phát triển (DIE) của
Nhật Bản nghiên cứu các đề tài: Chính sách công nghiệp của Việt Nam trong
thời kỳ đổi mới (1994); Đổi mới kinh tế và chính sách dối ngoại của Việt
Nam (1995); Định hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá Việt Nam đến năm
13


2000 (1996); Chính sách thương mại và đầu tư của Việt Nam (1997); Chính
sách thương mại - đầu tư và sự phát triển một số nghành công nghiệp chủ
lực cuả Việt Nam (1998).
Hai là, Phối hợp với Dataconsult và tập đoàn Economist Conferences
của Anh tổ chức hai diễn đàn kinh doanh (tháng 4/1994 và 10/1994) tại TP.
Hồ Chí Minh và 4 hội nghị bàn tròn cấp Chính Phủ tại Hà Nội, tham dự hội

nghị và diễn đàn kinh doanh là các nhà kinh doanh của các tổ chức kinh tế
hàng đầu thế giới, đến Việt Nam với mục đích tìm hiểu cơ hội đầu tư. Các
hội nghị trên đã thành công tốt đẹp, đã được các bên đối tác và các thành viên
dự hội nghị đánh giá tốt, và có hiệu quả thiết thực.
Ba là, Phối hợp với Sasakawa Foundation Peace tổ chức hội thảo về
AFTA và nền kinh tế Việt Nam, đồng thời cũng tham gia dự án nghiên cứu
do UNDP tài trợ về hỗ trợ Việt Nam gia nhập ASEAN (1996).
Bốn là, Phối hợp với Toyota Foundation tiến hành dịch và xuất bản
nhiều tài liệu về kinh tế Nhật Bản và khu vực như: Thuyết Z, Kinh tế chính trị
học Nhật Bản, Kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh, Kinh tế Nhật Bản giai đoạn
tăng trưởng cao, MITI và sư thần kỳ của Nhật Bản….
Năm là, Phối hợp với Viện Kinh tế và Chính trị thế giới của Trung
Quốc nghiên cứu đề tài: Cải cách doanh nghiệp Nhà nước ở Trung Quốc và
Việt Nam. Kết quả nghiên cứu là hai tập sách đã được xuất bản bằng tiếng
Việt và tiếng Trung Quốc.
Ngoài ra, Viện còn hợp tác với các viện và tổ chức kinh tế khác như:
Trung tâm kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương(VAPEC); với Đại học
Michigan- Hoa Kỳ. Hiện tại Viện được sự hỗ trợ của Ford Foundation, Viện
đang triển khai thực hiện hai dề tài về An ninh kinh tế và về Hợp tác kinh tế
Đông Á. Trong hơn 20 năm qua Viện Kinh tế Thế giới đã tổ chức đón hàng
trăm đoàn khách quốc tế và học giả nước ngoài đến làm việc và trao đổi hợp
tác khoa học với Viện.
2.3. Công tác tạp chí
Viện hiện có hai tờ tạp chí: Những vấn đề kinh tế thế giới- tiếng Việtmỗi năm 6 số và Vietnam Economic Review- tiếng Anh- mỗi năm có 12 số.
14


Đến nay, Viện đã xuất bản được gần 90 số tạp chí tiếng Việt và trên 100 số
tạp chí tiếng Anh. Trong những năm qua, hai tờ tạp chí luôn đổi mới cả về
nội dung lẫn hình thức, chất lượng tạp chí ngày càng được nâng cao và có

nhiều chuyên mục mới. Tờ tạp chí Vietnam Economic Review đã kịp thời
phản ánh đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, kịp thời cung cấp
những thông tin về thành tựu của nền kinh tế Việt Nam ra nước ngoài, góp
phần nâng cao sự hiểu biết của các nước đối với sự nghiệp đổi mới của đất
nước. Cả hai tờ tạp chí đều được bạn đọc trong và ngoài nước hoan nghênh,
số lượng tạp chí xuất bản ngày càng tăng. Hai tờ tạp chí này của Viện đã
được các độc giả đánh giá rất cao, nó đã cung cấp thông tin mới nhất về
những tình hình kinh tế trong nước cũng như ở nước ngoài với cách nhìn sâu
rộng và toàn diện. Không chỉ có vậy mà hai tờ tạp chí của Viện đã cung cấp
một lượng thông tin rất lớn cho các độc giả trong nước, đặc biệt là các độc
giả nước ngoài để họ có điều kiện tìm hiểu về nền kinh tế Việt Nam.

2.4. Công tác thông tin thư viện
Song song với việc nghiên cứu xuất bản các ấn phẩm sách báo, dưới
các hình thức lược thuật, lược dịch, tổng quát, hàng năm Viện đã in các tài
liệu dưới dạng tin nhanh, tài liệu phục vụ, tập san chuyên đề đề cập đến các
vấn đề nóng bỏng, quan trọng về tình hình kinh tế thế giới hoặc các bài viết
nổi bật của các nhà khoa học nước ngoài về các vấn đề kinh tế, cung cấp kịp
thời các thông tin cần thiết cho các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước đọc
và tham khảo.
Bằng nguồn kinh phí của Nhà nước cấp để mua sách báo và trao đổi
qua sách báo khá lớn: Trên 10.000 đầu sách tiếng Việt và tiếng nước ngoài,
hàng trăm tạp chí định kì các thứ tiếng Việt, Anh, Pháp, Đức, Trung…đáp
ứng nhu cầu nghiên cứu của cán bộ trong và ngoài Viện. Công tác phục vụ
bạn đọc ngày càng được nâng cao, bạn đọc có thể chọn tài liệu qua kho thư
viện mở của Viện. Với ngân sách Nhà nước cấp hàng tháng Viện Kinh tế Thế
giới đều mua và nhập về hàng trăm cuốn sách nhằm bổ sung tài liệu mới nhất
15



phục vụ cho cán bộ trong Viện để có diều kiện tốt nhất về tài liệu trong quá
trình nghiên cứu. Viện đã từng bước thực hiện công tác tin học hoá thông tin
thư viện. Hiện nay, người đọc có thể tìm sách báo trên máy vi tính khai thác
thông tin kinh tế thương mại qua mạng Intranet.
2.5. Công tác tổ chức cán bộ và đào tạo
Cơ cấu tổ chức của Viện hiện có 6 phòng nghiên cứu và 4 phòng chức
năng nhiệm vụ. Trong những năm qua, Viện đã chú trọng công tác bồi dưỡng
cán bộ. Bên cạnh đào tạo về chuyên môn trên đại học trong và ngoài nước,
còn coi trọng bồi dưỡng chính trị cho các cán bộ trong Viện.
Hiện nay, Viện có 59 cán bộ, trong đó có một viện sĩ, hai PGS, 19 tiến
sĩ, 6 thạc sĩ, ngoài hai đồng chí có trình độ trung cấp, số còn lại đều có trình
độ đại học (36 cán bộ nghiên cứu, 23 cán bộ làm công tác chức năng nhiệm
vụ). Đặc biệt, năm 1995 do những thành tích nghiên cứu trong khoa học,
đồng chí Võ Đại Lược được Viện Hàn Lâm Khoa học xã hội nhân văn của
Cộng hoà Liên Bang Nga tặng danh hiệu Viện sỹ nước ngoài.
Từ năm 1994, Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới được giao nhiệm vụ
đào tạo sau đại học, do có những bước chuẩn bị tốt nên trong một thời gian
ngắn Viện đã hướng dẫn và tổ chức bảo vệ thành công năm luận án tiến sỹ.
Hiện nay, Viện đang đào tạo 17 nghiên cứu sinh học vị tiến sỹ.
Ngoài ra, một số cán bộ của Viện đã và đang tham gia giảng dạy và
hướng dẫn nghiên cứu sinh tại các trường đại học và cơ sở đào tạo khác.
2.6. Công tác xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới được Nhà nước cấp vốn xây dựng
trụ sở làm việc 4 tầng với mặt bằng xây dựng gần 1000m từ năm 1985 tại
phường Trung Liệt- Đống Đa – Hà Nội được đưa vào sử dụng năm 1989. Do
xây dựng từ thời bao cấp và được xây dựng giữa ao hồ lên công trình xuống
cấp rất nhanh, mặt tiền thiết kế xấu và hướng tây nên rất nóng, bụi ồn ảnh
hưởng đến chất lượng làm việc hàng ngày của cán bộ công nhân viên. Trong
những năm gần đây bằng vốn chống xuống cấp, vốn đầu tư và vốn tự khai
thác qua các nguồn hỗ trợ bên ngoài. Viện đầu tư thêm trang thiết bị hiện đại,

điều hoà nhiệt độ, đèn chiếu, máy vi tính, máy Photocopy,… cũng như trang
16


thiết bị khác phục vụ công tác nghiên cứu. Hệ thống phòng họp, hội trường,
phòng khách quốc tế, thư viện được cải tạo nâng cấp đủ điều kiện tổ chức các
cuộc hội thảo trong nước và quốc tế. Kết quả là sau khi công trình được đầu
tư hoàn thành đưa vào sử dụng, trụ sở của Viện khang trang và đẹp đẽ hơn đã
góp phần nào chống được độ nóng và ồn ào, chất lượng công việc đạt hiệu
quả cao hơn. Hiện nay, Viện Kinh tế Thế giới là một trong những Viện có trụ
sở làm việc và cảnh quan môi trường tốt, thoáng mát, góp phần cải thiện điều
kiện làm việc cho cán bộ công nhân viên.

17


3. NHỮNG ƯU ĐIỂM, TỒN TẠI, NGUYÊN NHÂN VÀ
PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA VIỆN KINH TẾ VÀ CHÍNH
TRỊ THẾ GIỚI
3.1. Những ưu điểm (những kết quả đạt được)
Hơn hai mươi năm qua, với những hoạt động nghiên cứu nêu trên, có
thể nói Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới xứng đáng là một trong những cơ
quan hàng đầu của Việt Nam về kinh tế , chính trị thế giới và quan hệ kinh tế
quốc tế. Điều này thể hiện ở khối lượng các công trình nghiên cứu đã công bố
và đặc biệt thể hiện ở tính hệ thống, toàn diện và tính thực tiễn của các đề tài
nghiên cứu. Viện đã nghiên cứu cả lý thuyết và động thái của kinh tế thế giới
và các khu vực, các nước cụ thể, nghiên cứu cả những vấn đề vi mô và vĩ mô
và đặc biệt là luôn gắn với những vấn đề do thực tiễn Việt Nam đặt ra, đồng
thời nghiên cứu trực tiếp những vấn đề kinh tế Việt Nam trong bối cảnh kinh
tế thế giới. Những kết quả nghiên cứu này đã được chuyển tải trực tiếp tới

các đồng chí lãnh đạo cao cấp nhất của Đảng và Chính phủ, cũng như được
phổ biến rộng rãi cho nhiều đối tượng khác nhau, đáp ứng nhu cầu tìm hiểu
kinh nghiệm phát triển kinh tế của thế giới. Có thể coi đó là đặc trưng nổi bật
của hoạt động nghiên cứu khoa học của Viện. Những đóng góp cụ thể của
Viện có thể được khái quát như sau:
3.1.1. Thời kỳ trước đổi mới
Một là, nghiên cứu kinh nghiệm của quá trình cải cách kinh tế ở các
nước XHCN, đặc biệt chỉ ra xu hướng tât yếu của việc vận dụng quan hệ
hàng hoá tiền tệ trong quản lý, xu hướng phi tập trung hoá. Các đề tài nghiên
cứu của Viện đã tập trung vào việc xem xét quá trình biến đổi của các nền
kinh tế XHCN, đặc biệt chỉ ra những giới hạn của sự phát triển theo chiều
rộng và xu hướng phát triển theo chiều sâu dựa trên việc áp dụng các công
nghệ mới vào sản xuất. Những bất cập của mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập
trung cũng đã được phân tích trong nhiều công trình nghiên cứu của Viện,
đồng thời chỉ rõ xu hướng tất yếu của sự vận dụng các quan hệ hàng hoá tiền
18


tệ trong nền kinh tế XHCN. Xu hướng cải tổ, cải cách của Liên Xô, Hungari
và đã chiếm một vị trí nổi bật trong các nghiên cứu ở thời kỳ này. Những
nghiên cứu và thông tin về các cuộc cải cách ở Trung Quốc đã có ý nghĩa
tham khảo rất tích cực.
Hai là, nghiên cứu lý giải những biến đổi trong hệ thống kinh tế tư bản
chủ nghĩa, đặc biệt chú trong nghiên cứu những thành tựu kinh tế của Nhật
Bản từ sau chiến tranh thế giới thứ II; nghiên cứu và phổ biến kinh nghiệm
phát triển kinh tế ở các nước tư bản phát triển và các nước đang phát triển,
đặc biệt là quá trình cải cáh khu vực kinh tế Nhà nước, chính sách kinh tế đối
ngoại. Nhiều công trình biên soạn và dịch thuật đã cung cấp những thông tin
trung thực và hữu ích về quá trình phát triển kinh tế ở các nước và các khu
vực, làm cơ sở cho những đánh giá khách quan xu hướng của thời đại.

Ba là, nghiên cứu những vấn đề về lý thuyết kinh tế. Bên cạnh những
nghiên cứu về lý luận thời kỳ quá độ có liên quan trực tiếp đến con đường
phát triển của Việt Nam, Viện còn có những nghiên cứu về những lý thuyết
kinh tế học hiện đại.
3.1.2. Từ sau khi đổi mới đến nay
Trong thời kỳ này các công trình nghiên cứu của Viện tiếp tục góp
phần vào việc cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn cho đường lối đổi mới cũng
như giới thiệu như giới thiệu cho công chúng trong bức tranh tổng thể nền
kinh tế thế giới. Những thành tựu nghiên cứu thể hiện trên những điểm chính
sau:
Một là, phân tích và luận giải những đặc điểm và xu thế phát triển của
kinh tế thế giới qua các thời kỳ. Trong thời kỳ 1986- 1990, Viện tiếp tục
nghiên cứu sâu hơn quá trình cải cách kinh tế ở các nước XHCN, tập trung
luận giải những mâu thuẫn của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung; phân tích
quá trình liên kết kinh tế quốc tế XHCN. Cuốn sách Đổi mới tư duy trong cải
tổ kinh tế ở Liên Xô, Ba Lan, Bungari, do tập thể cán bộ của Viện biên soạn
xuất bản năm 1988 là một trong số ít công trình nghiên cứu có hệ thống tư
tưởng cải tổ, cải cách trong hệ thống XHCN lúc đó đã có một tác dụng tốt đối
với công chúng nước ta, góp phần thúc đẩy tiến trình đổi mới tư duy ở Việt
19


Nam .
Từ đầu thập kỷ 90, Viện đã thực hiện những nghiên cứu mang tính cơ
bản hơn đặc biệt là hai đề tài cấp Nhà nước thời kỳ 1991- 1996: Nội dung và
những đặc điểm chủ yếu của thời đại ngày nay, và Chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Hai đề tài này và các đề tài độc lập khác đã vạch ra những xu hướng và đặc
điểm lớn của thế giới sau chiến tranh lạnh, đó là xu hướng hoà bình và hợp
tác; xu hướng chuyển sang cơ sở vật chất kĩ thuật mới dựa trên cuộc cách
mang khoa học hiện đại; xu hướng toàn cầu hoá kinh tế; xu hướng chuyển

sang nền kinh tế thị trường; xu hướng hình thành hệ thống chính trị toàn cầu.
Các công trình nghiên cứu cũng phân tích và đánh giá nguyên nhân của sự
sụp đổ hệ thống XHCN, khả năng thích ứng và tự điều chỉnh của chủ nghĩa
tư bản, những vấn đề cuả các nước đang phát triển trong thế giới hiện đại và
những vấn đề toàn cầu như nợ nần, đói nghèo, môi trường….Đặc biệt là các
công trình nghiên cứu của Viện không chỉ dừng lại ở việc nhận diện xu
hướng chung mà phân tích những tác động đa chiều của chúng đối với thế
giới nói chung và từng khu vực, xem xét sự phản ứng chính sách của các
nước lớn, các khu vực và các tổ chức quốc tế ( Bối cảnh quốc tế và sự điều
chỉnh chính sách của các nước lớn năm 2002; Những xu hướng phát triển
kinh tế thế giới năm 2001; Dự báo những vấn đề toàn cầu năm 2000; Tính
hai mặt của toàn cầu hoá năm 2001; Bước chuyển sang nền kinh tế tri thức ở
một số nước hiện nay năm 2002….
Hai là, một khối lượng lớn các công trình nghiên cứu của Viện tập
trung phân tích những vấn đề của chủ nghĩa tư bản hiện đại dưới góc độ
kinh tế chính trị học. Các công trình này đã phân tích chủ nghĩa tư bản như
một hình thái kinh tế – xã hội với nhiều biến thái trong thời đại toàn cầu hoá
và cách mạng công nghệ, chỉ ra những mâu thuẫn của nó gắn liền với xu thế
mới này: Chủ nghĩa tư bản ngày nay: Tự điều chỉnh kinh tế, Nxb. KHXH,
HN 1993; Điều chỉnh kinh tế của Nhà nước ở các nước tư bản phát
triển,Nxb. Chính trị Quốc gia, HN, 1993; Chủ nghĩa tư bản hiện đại, Nxb.
Chính trị Quốc gia1995….Không chỉ dừng lại ở những phân tích chiều
hướng chung, nghiên cứu của Viện về chủ nghĩa tư bản hiện đại đã đi sâu
20


phân tích các mô hình của chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là quan hệ hợp tác và
cạnh tranh giữa các trung tâm lớn của chủ nghĩa tư bản.
Ba là, nghiên cứu quá trình chuyển đổi kinh tế ở các nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung trước đây là một trong các hướng nghiên cứu có những

đóng góp khoa học hữu ích. Trên cơ sở bức tranh chung về cải cách và
chuyển đổi kinh tế, nhiều công trình nghiên cứu đã tập chung tìm hiểu phân
tích quá trình cải cách sở hữu, coi đây là vấn đề cốt lõi nhất của toàn bộ quá
trình chuyển đổi. Đề tài Cải cách chế độ sở hữu ở Nga và Đông Âu(2002);
sách Tư nhân hoá lớn ở các nước Trung và Đông Âu (1996); và Cải cách khu
vực doanh nghiệp Nhà nước ở Trung Quốc(1997) đã phân tích cả về lý luận
và thực tiễn của quá trình cải cách chế độ sở hữu, bước đi, hình thức và
những vấn đề nảy sinh của cải cách khu vực kinh tế Nhà nước. Các công
trình này cũng chỉ ra những đặc điểm đặc thù, các mô hình tư nhân hoá và cổ
phần hoá khác nhau giữa các nước.
Bốn là, trong những năm gần đây, các công trình nghiên cứu của Viện,
đã quan tâm đặc biệt tới vấn đề thương mại và đầu tư quốc tế. Quá trình tự do
hoá thương mại trong khuôn khổ WTO cũng như tự do hoá thương mại khu
vực, đặc biệt trong khuôn khổ AFTA đã được nghiên cứu dưới nhiều góc độ
khác nhau. Những nghiên cứu này đã phân tích cơ sở lý thuyết của xu thế tự
do hoá thương mại, những nguyên tắc của hệ thống thương mại đa phương,
tiến trình tự do hoá thương mại. Đầu tư trực tiếp nước ngoài được nghiên cứu
từ cả phía các công ty xuyên quốc gia lẫn phía nhân đầu tư , phân tích tác
động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với quá trình toàn cầu hoá, hình
thành mạng lưới sản xuất toàn cầu cũng như đối với phát triển kinh tế quốc
gia. Cuốn sách Các công ty xuyên quốc gia trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI
(Nxb, KHXH.1995) đã trình bày một cách có hệ thống , phân tích cơ cấu tổ
chức, mô tả hoạt động của các công ty xuyên quốc gia, xem xét chiến lược
hoạt động của chúng.
Năm là, nghiên cứu hệ thống tài chính tiền tệ thế giới. Đây là lĩnh vực
còn tương đối mới mẻ trong các công trình và đề tài do Viện thực hiện, song
những vấn đề cơ bản của hệ thống tài chính tiền tệ, đặc biệt các chế độ tỷ giá,
21



thị trường ngoại hối, quá trình cải tổ hệ thống tài chính quốc tế đã được xem
xét khá hệ thống, góp phần vào việc tìm hiểu và nghiên cứu những chiều
hướng mới của nền kinh tế thế giới
Sáu là, bên cạnh nghiên cứu cơ bản về xu thế phát triển kinh tế thế
giới như vừa nêu trên, Viện còn tổ chức nghiên cứu và cung cấp thông tin về
tình hình và động thái kinh tế thế giới, thể hiện qua các báo cáo hàng tháng
và hàng năm. Những diễn biến về thương mại, đầu tư, tài chính tiền tệ quốc
tế cũng như tình hình kinh tế của từng nước và khu vực đã được phản ánh
khá đầy đủ và kịp thời trong các đề tài của Viện. Đặc biệt, nhiều sự kiện kinh
tế thế giới những năm gần đây như khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á, suy
giảm kinh tế Mỹ- Nhật, sự kiện 11- 9 đã được tập trung nghiên cứu rất kịp
thời, đưa ra nhiều nhận định xác thực, cung cấp cho giới hoạch định chính
sách và đông đảo công chúng những thông tin và binh luận được đánh giá là
có giá trị khoa học tốt. Có thể nói, nhiều công trình nghiên cứu không chỉ
dừng lại ở phân tích sự kiện mà đã đi sâu tìm hiểu căn nguyên của các cuộc
khủng hoảng và biến chuyển gần đây, xem xét những giải pháp chính sách
khắc phục khủng hoảng.
Bẩy là, thành tựu của Viện trong hơn 20 năm qua còn được thể hiện
trong việc nghiên cứu các mô hình và các kinh nghiệm phát triển của các
quốc gia trên thế giới. Về mặt này, các công trình nghiên cứu đã đi sâu phân
tích những vấn đề có ý nghĩa tham khảo thiết thực cho Việt Nam như kinh
nghiệm công nghiệp hoá, cải cách kinh tế, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc
tế. Các cuốn sách: Các mô hình công nghiệp hoá: Xingapo, Nam Triều Tiên,
Ấn Độ (1988); Công nghiệp hoá, hiện đại hoá- Phát huy lợi thế so sánh:
Kinh nghiệm của các nền kinh tế đang phát triển châu Á(1991) đã phân tích
chiến lược công nghiệp hoá ở các nước đang phát triển châu Á, sự gắn kết
công nghiệp hoá với hội nhập kinh tế thể hiện qua chiến lược công nghiệp
hoá hướng vào xuất khẩu. Kinh nghiệm trong thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài, trong hoạt động ngoại thương, trong quá trình cải cách và cải tổ cơ cấu
kinh tế, phát triển khu kinh tế mở, trong việc kết hợp tăng trưởng kinh tế và

công bằng xã hội, trong phát triển nguồn nhân lực đã được nghiên cứu trong
22


nhiều công trình như: Một số vấn đề kinh tế đối ngoại của các nước đang
phát triển,(1988); Cải cách kinh tế ở các nước đang phát triển, (1994);
Chiến lược con người trong thần kỳ kinh tế Nhật Bản (1996); Tăng trưởng
kinh tế và công bằng xã hội ở một số nước châu Á và Việt Nam (1998) ….
Viện cũng đã tiến hành những nghiên cứu về kinh nghiệm quản lý và hoạt
động kinh doanh ở tầm vi mô như những vấn đề cải tổ công ty, kinh nghiệm
phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Nhật Bản và một số nước châu Á.
Tám là, đóng góp khoa học quan trọng của Viện là những nghiên cứu
về nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Quan điểm
chỉ đạo trong hoạt động nghiên cứu của Viện là mọi nghiên cứu phải hướng
vào giải pháp những vấn đề của Việt Nam. Vì vậy, nghiên cứu kinh tế Việt
Nam đã trở thành một mảng nghiên cứu quan trọng. Trong những năm 1980,
nhiều công trình nghiên cứu của Viện đã cung cấp các luận cứ khoa học xác
đáng cho việc đề ra đường lối đổi mới mà trọng tâm là cải cách kinh tế và
chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong bối cảnh toàn cầu hoá. Nhiều công
trình nghiên cứu cũng góp phần thiết thực vào giải quyết những vấn đề
kinh tế nóng bỏng của đất nước như: chống lạm phát thời kỳ 1987- 1989,
chiến lược phát triển kinh tế – xã hội Việt Nam 1991- 2010, về tự do hoá
thương mại, về chính sách tài chình tiền tệ, về đối sách với các nước lớn…
trong những năm gần đây.
Ngoài ra, Viện đã tiến hành điều tra với khu vực doanh nghiệp có vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài và các doanh nghiệp xuất khẩu hàng công nghiệp.
Kết quả điều tra đã cung cấp cơ sở dữ liệu tốt cho các nghiên cứu về hoạt
động của doanh nghiệp liên quan đến quá trình hội nhập.
3.2. Những tồn tại (hạn chế)
Đội ngũ cán bộ của Viện có trình độ chuyên sâu với tư cách là các

chuyên gia đầu ngành chưa nhiều, lực lượng trẻ cần có thời gian đào tạo, đúc
rút kinh nghiệm trong công tác nghiên cứu khoa học.
Cần xác định lại chức năng cơ cấu của Viện sao cho phù hợp với tình
hình và bối cảnh quốc tế hiện nay.
Phần nhiều cán bộ diễn đạt bằng tiếng Anh còn hạn chế do vậy ảnh
23


hưởng đến việc sinh hoạt khoa học trong và ngoài nước. Cho nên, bồi dưỡng
và nâng cao trình độ ngoại ngữ là một yêu cầu cấp thiết của Viện.
Cơ sở hạ tầng và các trang thiết bị của Viện hiện nay đã được nâng cấp
song vẫn chưa thực sự hiện đại, chưa xứng đang với tầm vóc của một Viện
nghiên cứu kinh tế hàng đầu trong cả nước hiện nay.
3.3. Phương hướng nghiên cứu của Viện Kinh tế và Chính trị Thế
giới trong thời gian tới
Trên cơ sở chức năng của Viện, những hướng nghiên cứu từ nay đến
năm 2010 của Viện là:
Thứ nhất, nghiên cứu và dự báo những xu hướng phát triển chủ yếu
của thế giới những thập kỷ đầu của thế kỷ XXI về kinh tế, chính trị, an ninh
trong đó chú trọng đặc biệt đến những đặc điểm và xu hướng lớn của nền
kinh tế thế giới với tư cách một chỉnh thể. Đây là hướng nghiên cứu cơ bản,
chi phối các hướng nghiên cứu cụ thể tiếp theo.
Thứ hai, nghiên cứu và dự báo cuộc cách mạng khoa học công nghệ,
những tác động về mặt kinh tế và chính trị của nó với các quan hệ kinh tế
quốc tế và sự phát triển của các quốc gia.
Thứ ba, nghiên cứu các lý thuyết phát triển, các mô hình phát triển,
các chiến lược và chính sách phát triển của các quốc gia và các khối quốc gia,
làm nổi rõ những lý thuyết, mô hình, chiến lược và chính sách phát triển có
ảnh hưởng trong các thập kỷ tới.
Thứ tư, nghiên cứu những vấn đề thương mại quốc tế, phân tích và dự

báo thị trường thế giới nói chung và thị trường khu vực và từng nước, chính
sách thương mại quốc tế của các quốc gia có quan hệ buôn bán với Việt
Nam; thị trường các sản phẩm và các đối thủ cạnh tranh trong từng lĩnh vực
định hướng xuất khẩu của Việt Nam.
Thứ năm, nghiên cứu đặc điểm và xu hướng của thị trường tài chính
quốc tế và những vấn đề tiền tệ quốc tế; quá trình tự do hoá tài chính quốc tế;
sự vận hành của đồng tiền chung châu Âu và tác động của nó; những đặc
điểm của thị trường chứng khoán quốc tế; vai trò của các đồng tiền mạnh; thị
trường ngoại hối; những diễn biến trên thị trường tài chính tiền tệ quốc tế.
24


Thứ sáu, nghiên cứu đặc điểm và các xu hướng đầu tư trực tiếp nước
ngoài; vai trò của các công ty xuyên quốc gia; chiến lược kinh doanh của
chúng ở các nước đang phát triển và khu vực châu Á- Thái Bình Dương.
Thứ bẩy, nghiên cứu toàn diện về tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO); các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực như: WB, IMF, EU, APEC,
NAFTA, ASEAN.
Thứ tám, nghiên cứu các quan hệ xuyên châu lục như quan hệ Á- Âu;
quan hệ giữa các nước lớn; quan hệ giữa các nước phát triển , giữa các nước
phát triển và các nước đang phát triển cũng như các hình thức mới của quan
hệ quốc tế.
Thứ chín, nghiên cứu các vấn đề chính trị và an ninh quốc tế, đặc biệt
là những vấn đề có liên quan đến khu vực châu Á- Thái Bình Dương và Việt
Nam.
Thứ mười, nghiên cứu những vấn đề phát triển toàn cầu như dân số,
các nguồn lực; nợ quốc tế; môi trường và phát triển; thu hẹp khoảng cách
phát triển.
Ngoài ra, Viện còn tổ chức nghiên cứu các lý thuyết mô hình và thực
tế phát triển như tăng trưởng và tiến bộ xã hội, nguồn lực con người và phát

triển, tăng cường nghiên cứu sự phát triển của các lĩnh vực, các ngành kinh tế
trên thế giới. Nghiên cứu những đặc điểm chung của các nước phát triển,
động thái và chính sách của các nước lớn như EU, Mỹ, Nhật Bản. Nghiên
cứu quá trình toàn cầu hoá, động thái, xu hướng và tác động của quá trình
này đến chính trị và kinh tế thế giới, khu vực và Việt Nam. Nghiên cứu quá
trình chuyển sang kinh tế thị trường ở các nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung
trước đây. Nghiên cứu quá trình hội nhập của Việt Nam vào đời sống kinh tế
và chính trị quốc tế, đặc biệt là việc Việt Nam gia nhập WTO, APEC,
ASEAN.
Cụ thể trong năm 2008 Viện tập trung nghiên cứu theo những hướng
hoạt động sau:
1- Quá độ sang thời kỳ kinh tế mới và chuyển dịch nền kinh tế thế giới
2- Toàn cầu hoá và cải tổ hệ thống kinh tế quốc tế.
25


×