Tải bản đầy đủ (.doc) (120 trang)

Năng lực giáo dục của giáo viên THCS ở tây bắc nghệ an hiện nay”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (818.65 KB, 120 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hoạt động sư phạm của người giáo viên bao gồm hai hoạt động tiến
hành song trùng: hoạt động dạy học và hoạt động giáo dục, trong đó hoạt
động giáo dục là hoạt động quan trọng hơn, khó hơn so với hoạt động dạy
học. Chính vì vậy UNESCO đã xác định: người giáo viên thế kỷ 21 cần là nhà
giáo dục hơn chỉ là một chuyên gia dạy học, họ còn phải biết chẩn đoán, đánh
giá và chăm sóc tinh thần, phát triển nhân cách học sinh.
Trên thực tế, hiện nay hoạt động giáo dục đáng lý phải được quan tâm
hơn bởi vị trí và vai trò quan trọng của nó thì lại đang bị xem nhẹ trong nhà
trường phổ thông. Việc giáo dục đạo đức, nhân cách, lối sống cho học sinh bị
coi nhẹ so với dạy chữ. Sự mất cân bằng giữa dạy học và giáo dục thực sự là
vấn đề đáng báo động. Hệ quả là hàng loạt vấn đề liên quan tới sự xuống cấp
về đạo đức, nhân cách và lối sống của học sinh, sinh viên đang ngày càng trở
nên phổ biến, gây nhức nhối cho xã hội, ảnh hưởng lớn tới tương lai của dân
tộc, quốc gia. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do sự hạn chế về
năng lực của đội ngũ giáo viên, là sự mất cân đối giữa năng lực dạy học và
năng lực giáo dục trong năng lực sư phạm của họ. Các năng lực dạy học được
đề cao, được tập trung đào tạo và phát triển, còn các năng lực giáo dục bị coi
nhẹ ngay từ trong nội dung, chương trình, hình thức đào tạo của trường sư
phạm, đến việc phát triển và triển khai các năng lực này trong thực tiễn hoạt
động ở trường phổ thông.
Đối với nước ta, sự nghiệp đổi mới giáo dục đang được thực hiện. Khâu
đột phá của đổi mới giáo dục nói chung, đổi mới giáo dục phổ thông nói riêng
là đội ngũ giáo viên. Trong đó vấn đề nâng cao phẩm chất, năng lực dạy học
và giáo dục cho đội ngũ giáo viên hiện nay và đào tạo giáo viên trong tương
lai là một trong những vấn đề được đặc biệt quan tâm. Tuy nhiên, thực tế đặt

1



ra rất nhiều khó khăn, mâu thuẫn: mâu thuẫn giữa sự mất cân đối giữa dạy
chữ, hướng đến nguồn nhân lực trong giáo dục với dạy người, giáo dục đạo
đức, nhân cách cho học sinh; giữa hạn chế về năng lực sư phạm nói chung và
năng lực giáo dục nói riêng của đội ngũ giáo viên Trung học với nhu cầu về
năng lực của đội ngũ giáo viên này hiện nay và trong tương lai để đáp ứng
yêu cầu đổi mới; giữa nhu cầu phát triển và nâng cao năng lực giáo dục của
đội ngũ giáo viên Trung học với sự hạn chế của các dữ liệu khoa học và thực
tiễn, làm căn cứ cho việc đổi mới đào tạo, bồi dưỡng giáo viên cũng như căn
cứ cho việc hoạch định các chính sách về giáo viên Trung học…
Để góp phần giải quyết các mâu thuẫn, cần tiến hành nghiên cứu sâu sắc,
toàn diện thực trạng năng lực giáo dục của giáo viên Trung học; phân tích tìm
ra nguyên nhân; từ đó đề xuất biện pháp hữu hiệu nâng cao năng lực giáo dục
cho đội ngũ này.
Giáo dục Nghệ An là một trọng điểm giáo dục của miền Trung, góp phần
làm nên bộ mặt giáo dục của miền Trung và của cả nước. Nghiên cứu thực
trạng năng lực giáo dục, đề ra giải pháp hữu hiệu nâng cao năng lực giáo dục
cho đội ngũ giáo viên ở đây sẽ đóng góp phần nào vào việc cải thiện chất
lượng năng lực giáo dục vùng miền nói riêng và cho cả nước nói chung.
Chính vì vậy, chúng tôi chọn nơi này với đặc trưng năng lực giáo dục của
giáo viên THCS vùng núi Tây Bắc ở đó làm nghiên cứu cơ sở góp phần cho
kết quả nghiên cứu năng lực giáo dục chung.
Đó là lý do quyết định thực hiện đề tài “Năng lực giáo dục của giáo
viên THCS ở Tây Bắc Nghệ An hiện nay” được chúng tôi đưa ra.
2. Mục đích nghiên cứu
Xác định được thực trạng năng lực giáo dục của giáo viên THCS ở Tây
Bắc Nghệ An hiện nay và xác định được một số yếu tố tác động dẫn đến thực
trạng đó; từ đó đề xuất được các biện pháp nhằm nâng cao năng lực giáo dục
cho đội ngũ giáo viên THCS.

2



3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Năng lực giáo dục của người giáo viên THCS ở Tây Bắc Nghệ An.
3.2. Khách thể nghiên cứu
90 giáo viên và cán bộ quản lý của 3 trường THCS ở Tây Bắc Nghệ An.
4. Giả thuyết khoa học
Hiện nay giáo viên THCS ở Tây Bắc Nghệ An còn hạn chế về một số
năng lực giáo dục học sinh: năng lực giáo dục qua môn học, năng lực giáo
dục qua các hoạt động giáo dục... Có nhiều yếu tố ảnh hưởng dẫn đến thực
trạng đó như: yếu tố thuộc về phẩm chất tâm lý nghề dạy học của giáo viên
(tình yêu trẻ, lòng yêu nghề…), yếu tố thuộc về năng lực tâm lý liên quan trực
tiếp tới hoạt động giáo dục (hiểu đối tượng học sinh và môi trường giáo dục,
cảm hóa thuyết phục học sinh…), một số yếu tố từ phía nhà trường phổ thông
(lãnh đạo, quản lý, bồi dưỡng hoạt động giáo dục, năng lực giáo dục) và yếu
tố thuộc về bồi dưỡng, đào tạo của nhà trường sư phạm. Nếu có những biện
pháp tác động hiệu quả về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên; về cơ chế,
chính sách của Ngành, của Nhà nước đối với giáo viên và về công tác đào tạo
của các nhà trường sư phạm thì sẽ nâng cao được năng lực giáo dục cho giáo
viên THCS ở Tây Bắc Nghệ An.
5. Nhiệm vụ của đề tài
5.1. Hệ thống hóa lý luận về năng lực giáo dục của giáo viên THCS.
5.2. Khảo sát và phân tích thực trạng năng lực giáo dục của đội ngũ
giáo viên THCS ở Tây Bắc Nghệ An hiện nay.
5.3. Đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao năng lực giáo dục cho đội
ngũ giáo viên THCS trong giai đoạn hiện nay.

3



6. Các phương pháp nghiên cứu
6.1. Cách tiếp cận
+ Tiếp cận từ khoa học Tâm lí và Giáo dục
+ Tiếp cận hệ thống
+ Tiếp cận theo Chuẩn
+ Tiếp cận hoạt động
+ Tiếp cận lịch sử, thực tiễn
6.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
- Phương pháp phỏng vấn
- Phương pháp thống kê và xử lý số liệu (Sử dụng chương trình phần
mềm SPSS trong môi trường Windows phiên bản 16.0 để xử lý các số liệu).
7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, tài liệu tham khảo, luận văn
được dự kiến trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu
Chương 2: Tổ chức và phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Thực trạng năng lực giáo dục của đội ngũ giáo viên THCS ở
Tây Bắc Nghệ An

4


Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
1.1.1 Lịch sử nghiên cứu vấn đề ở nước ngoài
a) Các nghiên cứu về năng lực sư phạm, năng lực giáo dục của người

giáo viên
Năng lực sư phạm của người giáo viên được đề cập từ khá sớm trong
tâm lí học.
- Ngay từ những năm 60 của thế kỉ XX, trong hệ thống các chuyên ngành
của Tâm lí học được nghiên cứu và giảng dạy ở Liên Xô trước đây, có chuyên
ngành Tâm lí học người thầy giáo. Trong đó tập trung nghiên cứu các vấn đề tâm
lí liên quan trực tiếp hoạt động và nhân cách người giáo viên như: đặc trưng tâm
lý của hoạt động sư phạm, cấu trúc nhân cách nghề, năng lực dạy học, năng lực
giáo dục và các năng lực khác của người giáo viên. Những vấn đề này được đề
cập trong các tác phẩm Những cơ sở của tâm lí học sư phạm của V.A. Cruchetxki
[3], Tâm lí học lứa tuổi và tâm lí học sư phạm của V.A. Petrovxki [18].
Nghiên cứu nổi tiếng về năng lực sư phạm của người giáo viên là nghiên
cứu của Ph.N. Gônôbôlin. Trong các công trình của mình, ông đã đề cập và
nhấn mạnh tới các năng lực dạy học và năng lực giáo dục như: năng lực hiểu
học sinh, năng lực truyền đạt tài liệu học tập cho học sinh, năng lực thu hút
học sinh, năng lực thuyết phục, năng lực tổ chức, biết khéo léo ứng xử sư
phạm, năng lực thấy trước kết quả công tác của mình... [17]. Cùng với đó là
các công trình nghiên cứu về rèn luyện các năng lực sư phạm và hình thành,
phát triển các năng lực sư phạm của N.V. Cudơmina.
- Từ đó về sau, vấn đề năng lực sư phạm ngày càng được quan tâm nhiều
hơn. Đồng thời có sự chuyển động trong việc xác định năng lực của giáo viên.

5


Đặc biệt, thời gian gần đây - những năm đầu thế kỉ XXI, vấn đề năng lực sư
phạm của người giáo viên được chuyển dịch một bước quan trọng, từ năng
lực dạy học và giáo dục lên mức năng lực dạy học và giáo dục có hiệu quả
(người giáo viên có hiệu quả). Các nghiên cứu của Robert J. Marzano về quản
lý hiệu quả lớp học [21], về nghệ thuật và khoa học dạy học [22]; và Robert J.

Marzano cùng với Debra J. Pickering, Jane E. Pollock nghiên cứu về các
phương pháp dạy học hiệu quả [20]. Trong đó đã liệt kê hàng loạt hành động
của giáo viên để đem lại hiệu quả cao trong hoạt động dạy học. Giselle O.
Martin- Kniep nghiên cứu những đổi mới trong dạy học và giáo dục để trở
thành người giáo viên giỏi [5]; James H. Stronge nghiên cứu những phẩm
chất của người giáo viên hiệu quả [11], trong đó James H. Stronge đã chỉ ra
hệ thống kĩ năng dạy học và giáo dục đảm bảo hiệu quả bền vững về nghề
nghiệp của người giáo viên...
b) Các nghiên cứu về chuẩn năng lực giáo dục của người giáo viên
trong việc đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng và phát triển giáo viên
Xu thế hiện đại là việc chuẩn hóa đội ngũ giáo viên, vấn đề xây dựng bộ
chuẩn để làm cơ sở tham chiếu cho việc đánh giá năng lực hiện có của người
giáo viên và biện pháp đào tạo, bồi dưỡng giáo viên được đặt ra ở nhiều quốc
gia. Dưới đây là một số:
+ Tại Đức. Ngày 16/12/2004 Hội nghị Bộ trưởng Văn hoá Giáo dục
CHLB Đức (KMK) đã ký “Thoả thuận về Chuẩn đào tạo giáo viên - Khoa
học giáo dục”. Chuẩn đào tạo giáo viên trình bày những năng lực trong khoa
học giáo dục có ý nghĩa đặc biệt đối với đào tạo nghề nghiệp và cuộc sống
nghề nghiệp thường nhật và có thể kết nối với bồi dưỡng giáo viên. Chuẩn
đào tạo giáo viên được xây dựng dựa trên mô hình năng lực nghề nghiệp giáo
viên, trong đó bao gồm những lĩnh vực năng lực sau đây:
Lĩnh vực năng lực Dạy học: giáo viên là các chuyên gia về dạy và học

6


Năng lực 1: Giáo viên lập kế hoạch dạy học phù hợp với chuyên môn và
công việc và tiến hành nó khách quan và cụ thể về chuyên môn
Năng lực 2: Giáo viên hỗ trợ việc học của học sinh qua việc tổ chức các tình
huống học. Họ động viên học sinh và tạo cho chúng có năng lực thiết lập các

mối liên hệ và sử dụng cái đã học.
Năng lực 3: Giáo viên khuyến khích các khả năng tự quyết định học và làm
việc của học sinh
Lĩnh vực năng lực giáo dục: Giáo viên thực thi nhiệm vụ giáo dục của mình
Năng lực 4: Giáo viên biết các điều kiện sống về xã hội và văn hóa của học
sinh và tác động đến phát triển cá nhân của họ trong khuôn khổ nhà trường.
Năng lực 5: Giáo viên truyền đạt các giá trị và chuẩn mực và hỗ trợ việc
đánh giá và hành động tự quyết của học sinh.
Năng lực 6: Giáo viên tìm ra các tiếp cận giải pháp cho những khó khăn và
xung đột trong nhà trường và giờ học.
Lĩnh vực năng lực Đánh giá: Giáo viên thực thi nhiệm vụ đánh giá của
mình một cách công bằng và có ý thức trách nhiệm
Năng lực 7: Giáo viên chẩn đoán các tiền đề học và quá trình học của các học
sinh; khuyến khích học sinh có mục đích và tư vấn người học và cha mẹ học
sinh.
Năng lực 8: Giáo viên nắm bắt các thành tích của học sinh trên cơ sở các
thước đo đánh giá minh bạch
Lĩnh vực năng lực Đổi mới: Giáo viên liên tục phát triển tiếp tục các
năng lực của mình
Năng lực 9: Giáo viên ý thức được các yêu cầu đặc biệt của nghề giáo viên.
Họ hiểu nghề mình như là một chức trách công với trách nhiệm và nghĩa vụ
đặc biệt
Năng lực 10: Giáo viên hiểu nghề của mình như là nhiệm vụ học thường
xuyên.
Năng lực 11: Giáo viên tham gia vào việc lập kế hoạch và triển khai các dự
án, dự định của nhà trường
+ Tại Singapo. Singapo triển khai mô hình đào tạo giáo viên cho thế kỷ
21 (TE21), nhằm tạo ra một đội ngũ giáo viên mạnh, trên cơ sở một triết lý
mới về giáo viên. Đó là niềm tin rằng giáo viên thế kỷ 21 phải có hệ giá trị
mới (V3), kỹ năng mới (S), kiến thức mới (K). Triết lý V 3SK này là kim chỉ


7


nam cho việc thiết kế, cung ứng và hoàn thiện các chương trình đào tạo giáo
viên. Điều đó được cụ thể hóa bằng Khung năng lực của giáo sinh tốt nghiệp.
Khung này gồm 3 nhóm với 7 năng lực cốt lõi (NIE 2009):
Nhóm năng lực trong lĩnh vực thực hành nghề nghiệp:
1. Nuôi dưỡng sự phát triển toàn vẹn của đứa trẻ;
2. Đem lại cho các em việc học có chất lượng;
3. Đem lại cho các em việc học có chất lượng thông qua các hoạt động
liên môn;
4. Trau dồi tri thức với việc: nắm vững môn học; tư duy hồi cứu; tư duy
phê phán; canh tân; tư duy sáng tạo; hướng đến tương lai.
Nhóm năng lực trong lĩnh vực lãnh đạo và quản lý:
1. Chinh phục được các khối óc và trái tim: i) hiểu về môi trường dạy và
học; ii) hỗ trợ đồng nghiệp;
2. Làm việc với người khác: i) xây dựng quan hệ đối tác với phụ huynh;
ii) làm việc nhóm trong và ngoài trường.
Nhóm năng lực liên quan đến hiệu quả cá nhân:
Biết người và biết ta: i) nhìn nhận bản thân; ii) hành động liêm chính và
thực thi trách nhiệm pháp lý; iii) hiểu và tôn trọng người khác; iv) thích ứng
và nhẫn nại.
+ Tại Thái Lan. Hội đồng giáo viên Thái Lan đã ban hành các chuẩn
nghề nghiệp giáo viên. Các chuẩn nghề nghiệp này bao gồm 4 lĩnh vực
(Pilanthananond 2007):
Chuẩn về tri thức của giáo viên: giáo viên phải có tối thiểu bằng cử nhân
giáo dục hoặc tương đương, với tri thức trong các lĩnh vực sau: ngôn ngữ và
công nghệ đối với giáo viên, xây dựng chương trình, quản lý học tập, tâm lý học
giành cho giáo viên, đo lường và đánh giá giáo dục, quản lý lớp học, nghiên cứu

giáo dục, công nghệ thông tin và canh tân giáo dục tinh thần nhà giáo.

8


Chuẩn về kinh nghiệm của giáo viên: giáo viên đã hoàn thành nhiệm vụ
dạy học ở cơ sở giáo dục ít nhất là một năm và đạt dược các tiêu chí đánh giá
theo quy định.
Chuẩn về thực thi công việc giáo viên: Giáo viên phải thường xuyên
trau dồi chuyên môn, nghiệp vụ; phát triển đầy đủ tiềm năng người học;
xây dựng kế hoạch dạy học hiệu quả; làm gương với học sinh; tạo cơ hội
cho người học được học trong mọi hoàn cảnh; hợp tác với đồng nghiệp và
các đối tác khác trong cộng đồng.
Chuẩn về đạo đức: đạo đức cá nhân, đạo đức nghề nghiệp, đạo đức lấy
khách hàng làm trung tâm (client-centered ethics), đạo đức đồng nghiệp, đạo
đức xã hội.
1.1.2 Lịch sử nghiên cứu vấn đề ở Việt Nam
a) Những nghiên cứu về năng lực sư phạm và năng lực giáo dục của
giáo viên
- Ở Việt Nam, ngay từ những năm 1970 trong hệ thống các chuyên
ngành tâm lí học được nghiên cứu và giảng dạy ở các trường đạo tạo giáo
viên đã hình thành chuyên ngành hẹp: Tâm lí học nhân cách người thầy giáo,
được giới thiệu trong các giáo trình Tâm lí học của Phạm Minh Hạc [6]; Giáo
dục học của Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt [19]; Tâm lí học lứa tuổi và sư
phạm của Lê Văn Hồng, Nguyễn Văn Thàng, Lê Ngọc Lan [9]; Vấn đề giáo
viên - Những nghiên cứu lí luận và thực tiễn của Trần Bá Hoành [8],…
- Tuy nhiên, so với các lĩnh vực khác trong Tâm lí học, Giáo dục học,
các vấn đề về năng lực sư phạm, đặc biệt là vấn đề năng lực giáo dục của
người giáo viên còn ít được nghiên cứu. Những năm gần đây, do yêu cầu của
sự nghiệp phát triển giáo dục, vấn đề năng lực sư phạm của người thầy giáo

được chú ý hơn, đặc biệt là vấn đề kĩ năng sư phạm.
+ Phạm Trung Thanh, trong tài liệu biên soạn về thực tập sư phạm cho
sinh viên [26] đã xác định khá rõ ràng và cụ thể các yêu cầu, nội dung và quy

9


trình hình thành và rèn luyện tri thức, thái độ và kĩ năng tiến hành các hoạt
động dạy học và giáo dục trong nhà trường, đặc biệt là các kĩ năng giáo dục.
+ Các Hội thảo khoa học về nghiệp vụ sư phạm, về các năng lực dạy học
và giáo dục của giáo viên thu hút sự tham gia của đông đảo nhà Tâm lí học và
Giáo dục học. Năm 2006 đến nay đã có tới 8 Hội nghị, Hội thảo khoa học về
chủ đề trên tại Đại học Sư phạm Hà Nội, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí
Minh, Đại học Giáo Dục - Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Sư phạm - Đại
học Thái Nguyên, Đại học Vinh, Đại học Sư phạm - Đại học Huế. Đó là chưa
kể đến nhiều Hội nghị do Bộ giáo dục và Đào tạo tổ chức.
+ Một hướng nghiên cứu thu hút khá nhiều nhà khoa học và đạt được
nhiều thành tựu là các nghiên cứu về hoạt động giáo dục của các giáo viên
chủ nhiệm lớp và các năng lực giáo dục tương ứng của các giáo viên này:
Phạm Nhật Thăng, Nguyễn Dục Quang [23,24], Nguyễn Thanh Bình [1],
Nguyễn Thị Kim Dung [4]. Trong các công trình này, các hoạt động giáo dục
và yêu cầu về năng lực giáo dục của giáo viên đã được đề cập, phân tích khá
rõ ràng, cụ thể và có thể thao tác trong thực tiễn.
+ Năng lực giao tiếp, ứng xử sư phạm của giáo viên với học sinh và với
đồng nghiệp..., năng lực xử lí, giải quyết các tình huống sư phạm là hướng
được nhiều nhà Tâm lí học quan tâm nghiên cứu: Bùi Văn Huệ, Nguyễn Trí,
Nguyễn Trọng Hoàn, Hoàng Thị Xuân Hoa [10]; Trịnh Trúc Lâm, Nguyễn
Văn Hộ [12]; Bùi Thị Mùi [15] và nhiều người khác.
b) Các nghiên cứu về chuẩn năng lực giáo dục của người giáo viên và
đánh giá, bồi dưỡng năng lực giáo dục theo chuẩn

- Nghiên cứu về chuẩn năng lực giáo viên Trung học
Từ những năm đầu thế kỉ XXI, theo xu thế chung của thế giới, tiến tới nền
giáo dục được tổ chức hoạt động theo hướng chuẩn hóa, ở nước ta cũng dần hình

10


thành các chuẩn nghề nghiệp cho các loại hình giáo viên. Lĩnh vực này thu hút
nhiều nhà khoa học tham gia: Trần Bá Hoành, Đinh Quang Báo, Phạm Hồng
Quang, Nguyễn Thanh Bình và nhiều người khác. Trên cơ sở đó, năm 2009, Bộ
Giáo dục - Đào tạo đã ban hành Chuẩn nghề nghiệp giáo viên Trung học.
Bộ Chuẩn nghề nghiệp giáo viên Trung học về bản chất, xác lập
khung năng lực mà giáo viên Trung học Việt Nam cần đạt trong quá trình
phát triển nghề nghiệp. Khung năng lực này có một số đặc trưng sau đây:
* Cách tiếp cận trong việc xây dựng chuẩn giáo viên Trung học được xây
dựng theo đúng tiếp cận năng lực, trong đó giáo viên được quan niệm là một
nhà chuyên nghiệp trong dạy học và giáo dục, có vai trò không chỉ giới hạn
trong việc truyền thụ kiến thức và có nhiệm vụ phát triển nghề nghiệp liên tục.
* Chuẩn này đều có thể dùng làm cơ sở để xây dựng và phát triển
chương trình đào tạo, bồi dưỡng giáo viên.
* Chuẩn này được xây dựng trong quan hệ tương thích với những yêu
cầu đổi mới chương trình giáo dục phổ thông theo Nghị quyết 40/ 2000/ QH10
của Quốc hội.
* Nội dung của Chuẩn nghề nghiệp giáo viên Trung học có 6 tiêu chuẩn
với 25 tiêu chí:
- Tiêu chuẩn 1: Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống - 5 tiêu chí;
- Tiêu chuẩn 2: Năng lực tìm hiểu đối tượng và môi trường giáo dục 2 tiêu chí;
- Tiêu chuẩn 3: Năng lực dạy học - 8 tiêu chí;
- Tiêu chuẩn 4: Năng lực giáo dục - 6 tiêu chí;
- Tiêu chuẩn 5: Năng lực hoạt động chính trị xã hội - 2 tiêu chí;

- Tiêu chuẩn 6: Năng lực phát triển nghề nghiệp - 2 tiêu chí
Nhìn chung, các Chuẩn nghề nghiệp giáo viên Trung học được xây dựng
công phu, khoa học, đã được đưa vào thực tế nghề dạy học từ vài năm nay và

11


đang được sử dụng làm căn cứ đánh giá xây dựng chuẩn đầu ra cho sinh viên
tốt nghiệp hệ sư phạm; các chuẩn đầu ra này về cơ bản là hệ thống năng lực
mà giáo sinh phải có và chứng tỏ được khi tốt nghiệp.
- Nghiên cứu, đánh giá năng lực giáo viên Trung học theo Chuẩn
Từ năm 2010, nhiều tổ chức và cá nhân nhà nghiên cứu đã sử dụng
Chuẩn nghề nghiệp giáo viên Trung học làm chuẩn để đánh giá các năng lực
sư phạm của giáo viên Trung học. Bước đầu cho thấy nhiều phẩm chất nghề
nghiệp chưa đạt yêu cầu đáp ứng mục tiêu giáo dục phổ thông. Còn có sự hạn
chế như ở các năng lực:
+ Tìm hiểu đối tượng giáo dục/ dạy học.
+ Lập kế hoạch giáo dục/ dạy học.
+ Triển khai kế hoạch giáo dục/ dạy học.
+ Kĩ năng giáo dục kĩ năng sống, tư vấn tâm lí cho học sinh.
+ Kĩ năng nghiên cứu giáo dục.
+ Năng lực phát triển nghề nghiệp của giáo viên.
+ Kĩ năng hoạt động công tác xã hội.
Tóm lại, đã sớm có nhiều công trình nghiên cứu về năng lực sư phạm,
năng lực giáo dục của giáo viên ở trong nước và nước ngoài. Đặc biệt, vấn đề
càng được quan tâm chú trọng hơn trong những năm gần đây khi yêu cầu xã
hội đặt ra ngày một cao hơn. Có sự chuẩn hóa năng lực nghề nghiệp, năng lực
giáo dục của giáo viên ở nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới trong
những năm trở lại đây. Các chuẩn đó được sử dụng làm căn cứ đánh giá năng
lực sư phạm, năng lực giáo dục cho đội ngũ giáo viên.

1.2. Khái niệm năng lực giáo dục của người giáo viên
1.2.1 Hoạt động sư phạm và nhân cách của người giáo viên

12


1.2.1.1. Hoạt động sư phạm
Quá trình sư phạm là quá trình tái tạo có tính chất xã hội bản chất người
trong mỗi con người. Trong quá trình sư phạm, dưới sự hướng dẫn của người
dạy, mỗi cá nhân người học chiếm lĩnh một cách đầy đủ nhất nền văn hóa xã
hội mà loài người đã đúc kết, biến chúng thành kinh nghiệm riêng của bản
thân. Thông qua hoạt động sư phạm, người học chiếm lĩnh được đối tượng,
phương tiện hoạt động, chuẩn mực và phương thức hoạt động, đồng thời phát
triển nhân cách một cách toàn diện. Hoạt động sư phạm là hoạt động chung
của cả hai chủ thể. Người thầy với tư cách là chủ thể của hoạt động dạy,
người trò với tư cách là chủ thể của hoạt động học. Hai hoạt động này có mối
quan hệ biện chứng với nhau, thường xuyên tác động với nhau và gắn bó mật
thiết. Nói cách khác, quá trình sư phạm là quá trình được thể hiện thông qua
mối quan hệ giữa chủ thể giáo dục và đối tượng giáo dục.
Hoạt động sư phạm là dạng hoạt động nghề nghiệp đặc biệt với đối
tượng là con người. Sản phẩm của hoạt động sư phạm được thể hiện trong bộ
mặt tinh thần, tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, trong ý chí và trong các nét tính cách
của học sinh. Nói cách khác, sản phẩm của nghề dạy học là nhân cách phát
triển toàn diện của người học sinh. Do đó, công cụ chủ yếu của người thầy
giáo là nhân cách của họ. Nhân cách của người thầy giáo tác động một cách
tự nhiên và mạnh mẽ tới sự hình thành, phát triển nhân cách của người học
sinh. Nhà giáo dục Nga vĩ đại, K.Đ. Usinxki, đã từng nhấn mạnh rằng “Trong
việc giáo dục tất cả đều phải dựa vào nhân cách của người giáo viên, vì sức
mạnh của giáo dục chỉ bắt nguồn từ nhân cách của con người. Không một
điều lệ và chương trình nào, không một cơ quan giáo dục nào, dù được nghĩ

ra một cách khôn khéo đến đâu, cũng không thể thay thế được nhân cách của
con người trong sự nghiệp giáo dục”.

13


Hoạt động sư phạm là hoạt động đa dạng, phức tạp, có tính khoa học,
tính sáng tạo cao do đó nó đòi hỏi người giáo viên phải thực sự có năng lực,
đồng thời phải có các kỹ năng, kỹ xảo tương ứng. Mặt khác họ phải có tính
sáng tạo trong hoạt động của mình.
Đặc biệt, hoạt động sư phạm đòi hỏi người giáo viên phải có lòng yêu
nghề, yêu trẻ cũng như tinh thần trách nhiệm trong công việc. Họ cần biết
chấp nhận những gì có ở người học cũng như sự khoan dung độ lượng để sửa
chữa, uốn nắn và thúc đẩy nó theo định hướng giáo dục.
1.2.1.2 Cấu trúc hoạt động sư phạm
Hoạt động sư phạm được diễn ra chủ yếu trong môi trường sư phạm,
trong đó có sự tác động, chi phối của hai chủ thể: giáo viên và học sinh. Dựa
trên cơ sở hình thành năng lực sư phạm, có thể đưa ra các cấu trúc của hoạt
động sư phạm. Có nhiều quan điểm khác nhau về cấu trúc của hoạt động sư
phạm. Một vài quan điểm nổi bật như:
Quan điểm của Ph.N. Gônôbôlin cho rằng công tác của người thầy giáo
có thể phân ra làm hai mặt cơ bản: giảng dạy và giáo dục. Hai mặt hoạt động
sư phạm này liên hệ chặt chẽ với nhau, thâm nhập vào nhau và là một quá
trình thống nhất. Trong khi dạy trẻ, người giáo viên cũng đồng thời giáo dục
các em; trong khi giáo dục các em, người giáo viên cung cấp cho các em
những kiến thức mới, làm giàu tri thức cho các em, không chỉ dạy cho các em
cách sống mà còn truyền thụ cho các em kinh nghiệm và các kỹ xảo, tức là
dạy cho các em học. Tuy hai mặt công tác cơ bản đó của người giáo viên gắn
bó với nhau hết sức chặt chẽ, không tách rời nhau, nhưng giữa chúng vẫn có
những khác biệt cả về nội dung lẫn phương pháp [17, tập 2, tr.70].

Quan điểm của Lê Văn Hồng cho rằng hoạt động sư phạm bao gồm:
+ Hoạt động dạy học

14


+ Hoạt động giáo dục
+ Hoạt động tổ chức (các hoạt động sư phạm).
Trong ba hoạt động này thì dạy học và giáo dục là hai hoạt động đặc
trưng. Sự tách biệt các hoạt động nêu trên hoàn toàn không có nghĩa là sự tồn
tại độc lập của từng hoạt động. Dĩ nhiên, giữa chúng luôn có sự đan xen, ghép
và phối hợp lẫn nhau. Hoạt động dạy học với mục đích chính là hình thành tri
thức, kỹ năng, kỹ xảo cho học sinh. Thông qua hoạt động dạy học để giáo dục
học sinh là một vấn đề rất quan trọng và có ý nghĩa. Tuy nhiên, nếu chỉ như
vậy hoạt động giáo dục sẽ không mang tính chuyên biệt và do đó nhiều khi nó
không đạt được kết quả theo ý muốn hoặc người dạy cũng như người học
không ý thức về kết quả của nó. Hoạt động giáo dục với mục đích chính là xây
dựng ở học sinh niềm tin, thế giới quan, lý tưởng cũng như các phẩm chất cần
có của người công dân tương lai. Hoạt động giáo dục mang tính đặc thù, khác
hẳn với quá trình dạy học ở chỗ nó phải tiến hành bền bỉ, kiên nhẫn và đặc biệt
đòi hỏi ở nhà giáo dục một sự hiểu biết tinh tế về tâm lý học sinh. Sự hiểu biết
tới từng cá nhân học sinh sẽ giúp họ có được những tác động hiệu quả, theo
mục đích giáo dục.
Theo một số nghiên cứu gần đây, hoạt động sư phạm được coi là hoạt
động có 4 thành phần, bao gồm:
- Hoạt động dạy học
- Hoạt động giáo dục
- Hoạt động tổ chức các hoạt động sư phạm
- Hoạt động nghiên cứu (khoa học chuyên ngành và khoa học giáo dục).
Các hoạt động nêu trên luôn tồn tại với vai trò được thể hiện rõ rệt. Chúng

không tách rời nhau mà tác động qua lại, chi phối lẫn nhau. Hai hoạt động mang
tính chủ đạo của hoạt động sư phạm là hoạt động dạy học và giáo dục. Nếu như
điểm đặc biệt của hoạt động dạy học là giáo viên cần có trước tiên là vốn tri thức

15


sâu sắc, cơ bản, hiện đại thì yêu cầu không thể thiếu đối với hoạt động giáo dục
là lòng yêu nghề, sự hiểu biết và khả năng thâm nhập vào thế giới nội tâm của
đối tượng giáo dục. Từ các hoạt động thành phần nêu trên, hoạt động sư phạm
đòi hỏi người giáo viên phải có các năng lực tương ứng, đáp ứng được yêu cầu
các hoạt động đó.
Như vậy, dù nghiên cứu đó là ở thời này hay thời trước, trong nước hay nước
ngoài thì tất cả đều có sự thống nhất với nhau khi nói đến cấu trúc của hoạt động sư
phạm là không thể vắng mặt 2 thành phần chính yếu: hoạt động dạy học và hoạt
động giáo dục. Đó là 2 hoạt động mang tính chủ đạo, đặc trưng và cơ bản.
1.2.1.3 Hoạt động giáo dục
Quá trình giáo dục là một bộ phận của quá trình sư phạm toàn vẹn, chức
năng trội của nó là xây dựng ý thức và hành vi xã hội mang tính chuẩn mực,
phù hợp với yêu cầu của xã hội hiện đại. Còn chức năng trội của dạy học cũng với tư cách là một bộ phận của quá trình sư phạm toàn vẹn, là vũ trang
cho học sinh những tri thức khoa học có hệ thống và phát triển những năng
lực nhận thức và thực hành. Trong nhà trường, cả hai quá trình này thống nhất
với nhau, gắn bó chặt chẽ, tác động ảnh hưởng lẫn nhau.
Quá trình giáo dục, với tư cách là một bộ phận của quá trình sư phạm,
nhất thiết mang những đặc trưng chủ yếu của quá trình sư phạm. Đây chính là
hoạt động tổ chức cuộc sống thực sự phong phú và sôi động của thanh niên,
học sinh, làm cho cuộc sống của họ gắn liền với thực tế. Giáo dục học sinh là
tổ chức và lãnh đạo các loại hình hoạt động phong phú của họ, là tổ chức và
lãnh đạo các mối quan hệ nhiều mặt của họ với người khác, với thế giới xung
quanh, là tổ chức và lãnh đạo các dạng giao lưu đa dạng giữa học sinh với

nhau và giữa học sinh với những người lớn tuổi khác. Giáo dục học sinh còn
bao gồm tác động chuyên biệt của nhà giáo dục đến lý trí và tình cảm của

16


người học, bao gồm cả việc thúc đẩy quá trình tự giáo dục của họ và cả việc
ngăn chặn hoặc vô hiệu hóa những tác động tiêu cực ảnh hưởng đến họ.
Nói đến hoạt động giáo dục chúng ta có thể thấy đó là một công việc
thực sự khó khăn, phức tạp, bao gồm các tác động của rất nhiều nhân tố:
khách quan và chủ quan, bên ngoài và bên trong… Quá trình giáo dục đòi hỏi
thời gian lâu dài mới có được kết quả, và do kết quả khó nhận thấy ngay, nên
công tác giáo dục phải được tiến hành bền bỉ, liên tục, theo một kế hoạch xây
dựng trong một thời gian lâu dài và cũng phải tạo cho được những nỗ lực tự
giáo dục một cách bền bỉ và có hệ thống của người học. Ngoài ra, quá trình
giáo dục cũng mang tính cụ thể, biến dạng theo từng cá nhân người được giáo
dục và theo từng tình huống giáo dục riêng biệt. Muốn đạt được thành công
trong hoạt động này nhất thiết phải tính đến những đặc điểm của đối tượng và
của hoàn cảnh, và phải vận dụng những quy luật, nguyên tắc, phương pháp
giáo dục cho phù hợp với những điều kiện cụ thể đó, cần phải có những sáng
tạo trong lao động. Mặt khác, quá trình giáo dục cũng mang tính biện chứng rất
cao, đó là một quá trình không ngừng giải quyết các mâu thuẫn đang nảy sinh
trong sự phát triển nhân cách người học. Nhà giáo dục trong quá trình đó cần
đúng đắn khi lựa chọn nội dung, sử dụng phương pháp, hình thức tổ chức, khéo
léo phối kết hợp những mặt khác nhau trong các giải pháp.
Như vậy, so với hoạt động dạy học, giáo dục là một hoạt động phức tạp và
khó khăn, đòi hỏi nhà giáo dục phải có những phẩm chất cao về trí tuệ và ý chí,
phải có những tình cảm nhân hậu, vị tha, phải có những tri thức khoa học hiện
đại và những kinh nghiệm thực tiễn sinh động để thực hiện tốt hoạt động này.
Quá trình giáo dục là một dạng hoạt động chuyên biệt, có ý nghĩa đặc

biệt quan trọng. Không thể coi rằng chỉ cần thông qua dạy chữ là dạy người
mà cần tiến hành hoạt động giáo dục song song, đồng thời và có liên hệ mật
thiết với quá trình dạy học.

17


Dựa trên cơ sở hình thành năng lực giáo dục, dựa trên nghiên cứu Chuẩn
nghề nghiệp giáo viên Trung học và một số công trình nghiên cứu khác, có
thể đưa ra cấu trúc của hoạt động giáo dục bao gồm những hoạt động cụ thể,
cơ bản đó là: xây dựng kế hoạch các hoạt động giáo dục, hoạt động giáo dục
qua môn học, giáo dục qua các hoạt động giáo dục cho học sinh, giáo dục qua
tổ chức các hoạt động trong cộng đồng cho học sinh, vận dụng nguyên tắc phương pháp - hình thức tổ chức giáo dục và đánh giá kết quả rèn luyện đạo
đức của học sinh.
1.2.1.4. Cấu trúc nhân cách người giáo viên
Nói đến nhân cách là nói đến tổng thể những phẩm chất và năng lực tạo
nên bản sắc (nét đặc trưng) và giá trị tình thần (giá trị làm người) của mỗi
người. Cấu trúc nhân cách của người giáo viên chính là những phẩm chất và
năng lực sư phạm.
Phẩm chất chính là hệ thống thái độ của con người đối với hiện thực. Nó
bao gồm những thuộc tính tâm lý biểu hiện các mối quan hệ xã hội cụ thể của
con người. Các mối quan hệ cụ thể đó thường được thể hiện ra hành động,
hành vi và cách xử sự đối với người khác, đối với công việc và đối với chính
bản thân. Người giáo viên với chức năng dạy học và giáo dục có thế giới quan
khoa học, lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ, lòng yêu nghề, lòng yêu trẻ và các phẩm
chất đạo đức phù hợp với hoạt động của họ. Thế giới quan khoa học là một
yếu tố quan trọng trong nhân cách người giáo viên. Nó quyết định toàn bộ
hành vi, niềm tin chính trị, cuộc sống và có ảnh hưởng, tác động tới thế hệ trẻ.
Lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ của người giáo viên biểu hiện ra ngoài bằng niềm
say mê nghề nghiệp, lòng yêu trẻ, lương tâm nghề nghiệp, sự tận tụy hy sinh

vì công việc. Tất cả những điều ấy tạo nên dấu ấn trong trẻ. Nó có tác dụng
hướng dẫn, điều khiển quá trình hình thành và phát triển nhân cách trẻ. Lòng
yêu trẻ là một đặc trưng trong nhân cách của người giáo viên. V. A.

18


Xukhômlinxki, bằng sự trải nghiệm của mình đã viết: “Tôi nghĩ rằng đối với
một nhà giáo dục, điều chủ yếu là tình người. Đó là một nhu cầu sâu sắc trong
con người…”. Lòng yêu trẻ được thể hiện là sự quan tâm học sinh của người
giáo viên. Nó còn được thể hiện ở chỗ người giáo viên luôn nghĩ đến sự cống
hiến cho sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ.
Bên cạnh các phẩm chất nhân cách, năng lực có vai trò đặc biệt quan
trọng. Đó là các năng lực trí tuệ, tình cảm trí tuệ, hành động trí tuệ. Mặt khác,
nói đến năng lực cũng là nói đến mặt hiệu quả của tác động, tác động vào con
người, vào sự việc như thế nào và đem lại hiệu quả gì? Các năng lực cơ bản
như năng lực chế biến tài liệu, tri thức và tầm hiểu biết, năng lực hiểu học
sinh… Mỗi giáo viên thường chỉ có một vài năng lực nào đó hoặc cũng không
có năng lực nào. Tuy nhiên có thể hình thành được chúng bằng sự nỗ lực phấn
đấu và rèn luyện bản thân. Có thể nhận thấy tất cả đều xuất phát từ lòng yêu
nghề, yêu trẻ và sự đồng cảm, thấu hiểu cuộc sống tâm hồn của các em.
Cả phẩm chất và năng lực làm thành một hệ thống, chúng hòa quyện vào
nhau, chi phối lẫn nhau và tạo nên một cấu trúc - một thể thống nhất toàn vẹn.
Nhìn chung chúng đều là tổ chức của ba yếu tố tâm lý cơ bản: nhận thức, tình
cảm, ý chí. Sự phân chia phẩm chất và năng lực chỉ là tương đối vì đôi khi
năng lực cũng là một biểu hiện của phẩm chất. Nghề dạy học đòi hỏi ở người
giáo viên cần có sự hòa quyện cả hai thành phần: phẩm chất và năng lực những thành phần tạo nên bộ mặt nhân cách của giáo viên trở thành tấm
gương cho thế hệ trẻ noi theo.
1.2.2. Năng lực sư phạm
1.2.2.1. Năng lực

a. Năng lực là gì?
Lý luận về năng lực đã chỉ rõ: Mỗi hoạt động muốn đạt kết quả tốt thì
đòi hỏi phải có một số năng lực tương ứng. Chẳng hạn như người giáo viên

19


muốn hoàn thành tốt công tác dạy học và giáo dục của mình thì cần phải có
những năng lực cần thiết, cơ bản như: năng lực tổ chức, năng lực điều chỉnh,
điều khiển, năng lực dạy học, năng lực giáo dục, năng lực hiểu học sinh…
Hay một người lãnh đạo sản xuất muốn lãnh đạo được tập thể sản xuất thì
phải có năng lực tổ chức, năng lực điều chỉnh, điều khiển, năng lực quan sát
và khả năng biết nhìn người giao việc…
Nói đến năng lực tức là nói đến khả năng hoàn thành nhiệm vụ một
cách nhanh chóng và đạt kết quả cao với một hoạt động cụ thể. Năng lực ở
mỗi người được hình thành phát triển trong cuộc sống, trong thực tiễn học
tập, công tác, chiến đấu, trong hoạt động tích cực của con người. Hay nói
một cách khác, năng lực của con người chỉ phát triển khi con người tham
gia vào quá trình hoạt động. Con người càng tham gia nhiều hoạt động và
tích cực trong hoạt động thì càng có điều kiện phát huy năng lực và năng
lực càng trở nên phong phú. Chính vì vậy mà có những con người mà trong
họ tồn tại nhiều năng lực, chẳng hạn như Lêôna đơ Vanhxi- nhà sáng chế,
họa sĩ tài năng; Chủ tịch Hồ Chí Minh- nhà lãnh tụ thiên tài, nhà văn, nhà
thơ xuất chúng…
Năng lực trong nhân cách của con người phản ánh được sở trường, tay
nghề của cá nhân khi tham gia hoạt động nào đó. Thói quen làm việc, kỹ
năng, kỹ xảo cũng được phản ánh trong một năng lực nhất định.
Mỗi nhiệm vụ bất kỳ được hoàn thành nhanh chóng và có chất lượng
cao, không phải chỉ phụ thuộc vào một phẩm chất tâm lý riêng rẽ, mà phụ
thuộc vào sự tác động tổng hợp của toàn bộ các phẩm chất tâm lý của người

đó. Người có năng lực về một hoạt động thường biểu hiện ở chỗ nhanh chóng
thành thạo công việc, nhanh chóng hình thành bản lĩnh nghề nghiệp. Đặc
trưng của năng lực là sự lĩnh hội và vận dụng thành thạo đến mức nào đó
trong hoạt động thực tiễn. Khi nói đến năng lực, bao giờ người ta cũng nói

20


đến năng lực về một hoạt động (năng lực về hoạt động chính trị - xã hội, năng
lực về hoạt động khoa học - kỹ thuật, năng lực về hoạt động nghệ thuật…).
Mỗi hoạt động riêng biệt đòi hỏi nhân cách những thuộc tính tâm lý (như
là điều kiện để tiến hành hoạt động có kết quả) nhất định phù hợp với nó. Khi
nói đến một tổ hợp những thuộc tính tâm lý phù hợp với những yêu cầu của
một hoạt động, đảm bảo cho hoạt động đó diễn ra có kết quả, là nói đến năng
lực của con người trong lĩnh vực hoạt động ấy.
Thông qua hoạt động, người ta có thể chủ động tạo ra năng lực trong một
lĩnh vực hoạt động nào đó.
Năng lực người của các thế hệ trước được kết tinh lại trên các sản phẩm
do họ làm ra. Muốn trở thành người, bằng hoạt động của mình, thế hệ sau phải
lấy lại những năng lực ấy và biến nó thành năng lực riêng của mỗi người.
Cách tiếp cận và đưa ra khái niệm về năng lực bên trên tương đối đầy đủ,
được nhiều người sử dụng. Chúng tôi cũng đồng ý với cách lý giải trên, tuy
nhiên, theo chúng tôi, cách tiếp cận đó là chủ yếu khai thác dưới góc độ tiềm
năng tâm lí, nó có phần hơi cũ và cần phải điều chỉnh một chút. Bởi hiện nay,
chiều hướng mới hơn là xem xét năng lực gắn liền với hoạt động, là sự vận
dụng tri thức, sự tỏ rõ thái độ, kỹ năng thực hiện hành động vào việc triển
khai một hoạt động nào đó, mang lại kết quả cao. Có nghĩa, hiểu một cách
thông thường nhất: Năng lực chính là tổ hợp các kiến thức, thái độ và kỹ
năng thực hiện hoạt động của cá nhân phù hợp với những yêu cầu đặc trưng
của một hoạt động nhất định, nhằm đảm bảo cho hoạt động đó diễn ra có kết

quả.
Như vậy, năng lực không còn đơn thuần khai thác ở tiềm năng tâm
lý mà đó chính là bao gồm những hiểu biết, với thái độ, kỹ năng thực
hiện hoạt động nào đó. Và cũng vậy, hiểu biết về hoạt động, thái độ đối
với hoạt động và kỹ năng thực hiện hoạt động đó phù hợp những yêu cầu

21


của hoạt động, giúp đảm bảo cho hoạt động đó diễn ra đạt kết quả cao.
Đó chính là sự thể hiện năng lực.
b. Cấu trúc tâm lý năng lực
Khi nói đến cấu trúc tâm lý của năng lực, chúng tôi đề cập đến 3 mặt:
hiểu biết (nhận thức), thái độ và kỹ năng thực hiện.
Như vậy, năng lực của một người về một hoạt động cụ thể nào đó thể
hiện từ nhận thức đến thái độ và kỹ năng thực hiện hoạt động đó của họ.
Nhận thức là khâu đầu tiên trong cấu trúc tâm lý năng lực. Khi đứng trước
một vấn đề, trước một hoạt động, con người ta sẽ hình thành những tri
thức hiểu biết ban đầu, tức là những hình ảnh đầu tiên về vấn đề, về hoạt
động, và nó sẽ phát triển lên cao dần. Đó chính là những kiến thức về nội
dung, vai trò, ý nghĩa... của hoạt động. Từ nhận thức, con người thể hiện
thái độ đối với hoạt động đó, là những tình cảm yêu thích, hứng thú, coi
trọng hay ngược lại là ghét bỏ, không hứng thú, không coi trọng… Và
cuối cùng là thực hiện hành động, biết hay không biết làm, làm tốt hay
làm không tốt, thành thạo hay không thành thạo.
Ba mặt nhận thức, thái độ và hành động có mối tương quan, liên hệ mật
thiết với nhau và ảnh hưởng chi phối lẫn nhau. Nhận thức ảnh hưởng đến thái
độ, tác động lên kỹ năng thực hiện. Ngược lại thái độ cũng có ảnh hưởng đến
hành động, và hành động quay trở lại tác động làm rõ thêm cho nhận thức...
Như vậy, khi đánh giá năng lực của một người nào đó trong một hoạt động cụ

thể cần thiết xem xét trên cả ba khâu nhận thức, thái độ lẫn kỹ năng thực hiện.
1.2.2.2. Năng lực sư phạm
a. Khái niệm
Có nhiều nghiên cứu đưa ra quan điểm bàn về năng lực sư phạm:

22


Theo Ph.N.Gônôbôlin, năng lực sư phạm là một loại năng khiếu đặc biệt.
Nó bao gồm một số yếu tố của năng lực chung và năng lực chuyên môn nhằm
đảm bảo hoàn thành tốt công tác giáo dục [17, tập 1, tr.77].
Năng lực sư phạm liên quan chặt chẽ với năng lực chung như đặc điểm
trí tuệ, ngôn ngữ, tưởng tượng với những nét tính cách, xúc cảm của người
giáo viên và với các năng lực chuyên biệt khác. Năng lực sư phạm được thể
hiện rõ ràng ở người giáo viên chủ yếu là các phẩm chất trí tuệ như tính quan
sát và sự sáng tạo, các phẩm chất ngôn ngữ như tính thuyết phục, tính nghiêm
túc, tính logic của ngôn ngữ, và đặc biệt là khả năng biết đặt mình vào vị trí
của học sinh và hiểu họ.
Năng lực sư phạm liên quan chặt chẽ với các năng lực chuyên môn khác
như năng lực âm nhạc, hội họa, kỹ thuật... Nhà sư phạm tài năng thường bị lôi
cuốn bởi sự sáng tạo khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật. Các năng lực chuyên
môn khác thâm nhập vào cấu trúc hoạt động của người giáo viên và góp phần
cho việc sáng tạo sư phạm chỉ khi người giáo viên đó có năng lực và xu
hướng sư phạm.
Năng lực sư phạm gắn bó với các đặc điểm về tính cách của người giáo
viên. Những nét tính cách quan trọng nhất đối với người cán bộ giảng dạy tài
năng là sự lôi cuốn bởi công việc của mình, tính yêu cầu cao, tính công bằng,
tính chú ý tới mỗi người học, tính tự kiểm tra. Nét điển hình của khí chất là
tính cân bằng.
Như vậy, yêu cầu nhà sư phạm phải có tài năng chung biểu hiện trong

các năng lực chung cũng như các năng lực chuyên biệt, thể hiện ở đặc điểm
ngôn ngữ, tư duy, tưởng tượng, biểu hiện trong các nét ý chí, tính cách của
người giáo viên và bị lôi cuốn bởi các loại hoạt động chuyên môn khác nhau.

23


Theo A.V. Petrovski, các năng lực hoạt động sư phạm là một tổ hợp
xác định các phẩm chất tâm lý của nhân cách, những phẩm chất này là
điều kiện để đạt được những kết quả cao trong việc dạy học và giáo dục
trẻ em [18, tập 2, tr.226].
Việc đạt được trình độ tài nghệ cao trong dạy học và giáo dục trẻ em phụ
thuộc nhiều vào những phẩm chất nhân cách của giáo viên, mà trước hết
chính là phụ thuộc vào các năng lực sư phạm của họ.
Việc nghiên cứu nội dung và cấu trúc hoạt động sư phạm của các giáo
viên giảng dạy các môn học ở các trường phổ thông đã chứng minh một cách
trực quan rằng, sự phát triển của các năng lực sư phạm gắn liền hữu cơ với
các kỹ năng và kỹ xảo sư phạm. Các năng lực sư phạm, với tư cách là những
cấu thành nhân cách (trọn vẹn) đảm bảo cho hoạt động của người giáo viên nhà giáo dục thu được kết quả, được bộc lộ, được phát triển và được hình
thành trong quá trình nắm vững và vận dụng những kỹ năng và kỹ xảo đó vào
các tình huống khác nhau.
Có thể kết luận trên cơ sở nghiên cứu hoạt động của người giáo viên
rằng: các năng lực sư phạm là những hình ảnh phản chiếu của những nét nhân
cách nhất định đáp ứng các yêu cầu của việc dạy học và giáo dục.
Phạm Minh Hạc đã tổng hợp các ý kiến của tác giả đi trước và đưa ra
một nhận định của riêng mình: năng lực sư phạm là tổ hợp những đặc điểm
tâm lý cá nhân của nhân cách đáp ứng các yêu cầu của hoạt động sư phạm và
quyết định sự thành công trong việc nắm vững hoạt động ấy. Năng lực sư
phạm tựa như là “hình chiếu của hoạt động sư phạm ở nhân cách” [6, tr.230].
Trong sự nghiệp dạy học và giáo dục, muốn đạt được thành công đòi hỏi

người thầy giáo phải có thế giới quan tiên tiến, những phẩm chất đạo đức cao
quý, trình độ tri thức, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp cao, trình độ văn hóa
chung và xu hướng sư phạm cao. Tuy nhiên, chỉ có thế không thôi thì hoàn

24


toàn là chưa đủ. Còn cần phải có một số đặc điểm tâm lý đặc trưng của nhân
cách về mặt trí tuệ, tình cảm và ý chí nữa. Chúng có liên quan mật thiết với
nhau tạo thành một thể thống nhất. Những đặc điểm đó phù hợp với những
yêu cầu của hoạt động sư phạm, do đó có ảnh hưởng đến kết quả của hoạt
động đó. Năng lực sư phạm là thuộc tính, là đặc điểm của nhân cách nên nó
khác với kỹ năng sư phạm - là những hành động riêng lẻ của hoạt động sư
phạm do con người thực hiện.
Năng lực sư phạm là một bộ phận không thể thiếu được trong cấu trúc
nhân cách của nhà sư phạm. Sự hình thành và phát triển năng lực sư phạm
trước hết phải dựa trên nền tảng nhân cách chung của người thầy giáo.
Qua tìm hiểu, tổng hợp, khai thác từ những nghiên cứu nêu trên, đồng
thời qua nghiên cứu Chuẩn nghề nghiệp giáo viên Trung học và dựa trên cơ
sở định nghĩa theo hướng mới về năng lực gắn liền với hoạt động, chúng tôi
rút ra khái niệm về năng lực sư phạm:
Năng lực sư phạm chính là tổ hợp các kiến thức, thái độ, kỹ năng thực
hiện hoạt động sư phạm (hoạt động dạy học, hoạt động giáo dục,...) của cá
nhân nhà sư phạm, đáp ứng các yêu cầu của hoạt động sư phạm và quyết
định sự thành công trong việc nắm vững hoạt động ấy.
b. Cấu trúc năng lực sư phạm
Từ lâu, vấn đề cấu trúc năng lực sư phạm đã được các nhà nghiên cứu
nói chung, đặc biệt là các nhà tâm lý học tập trung nghiên cứu. Thực chất vấn
đề này còn chưa có sự thống nhất. Có tác giả sắp xếp các năng lực sư phạm
dựa vào các yếu tố chủ đạo, hỗ trợ, điểm tựa và từ đó chia thành nhóm các

năng lực sư phạm giữ vai trò chủ đạo, nhóm các năng lực giữ vai trò hỗ trợ,
nhóm các năng lực giữ vai trò điểm tựa. Một số tác giả lại nêu ra một số các
năng lực điển hình của hoạt động sư phạm. Cũng có tác giả dựa vào chức
năng đặc trưng của người thầy giáo là dạy học và giáo dục để xác định cấu

25


×