Tải bản đầy đủ (.docx) (56 trang)

Thực trạng bệnh vùng quanh răng, nhu cầu điều trị và mối liên quan với kiến thức,thái độ, hành vi chăm sóc răng miệng của người cao tuổi tại thành phố cần thơ, năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (712.98 KB, 56 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh quanh răng là một trong những răng miệng phổ biến nhất ở Việt
Nam và nhiều nước trên thế giới. Tỷ lệ người có bệnh quanh răng ở nước ta
rất cao, lên tới 96,7% [1], theo điều tra sức khỏe răng miệng toàn quốc năm
2001 của Trần Văn Trường và cộng sự. Đặc biệt bệnh có tỷ lệ mắc tăng dần
theo tuổi: Số người trên 45 tuổi có ít nhất 3 vùng lục phân lành mạnh chỉ
chiếm có 5% [1]. Khi mà cuộc sống được nâng cao, tuổi thọ tăng thì nước ta
đang có xu hướng già hóa dân nhanh chóng thì rất cần thiết phải quan tâm tới
căn bệnh này đặc biệt là đối với đối tượng người cao tuổi (NCT) thật sự vô
cùng đáng quan tâm.
Bệnh vùng quanh răng ảnh hưởng rất nhiều tới chất lượng cuộc sống
như hôi miệng, viêm lợi, chảy máu chân răng lung lay răng,...và đặc biệt là
nguyên nhân hàng đầu gây mất răng ở người cao tuổi. Không những ảnh
hưởng đến chức năng ăn nhai, thẩm mỹ, phát âm mà còn có thể gây nhiều
biến chứng nặng nề tại chỗ hay toàn thân, thậm chí còn ảnh hưởng đến tính
mạng của người cao tuổi, qua đó làm ảnh hưởng đến sức khoẻ và chất lượng
cuộc sống cũng như kinh tế của người bệnh.
Cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội, tuổi thọ của con người ngày
một nâng cao, lực lượng NCT ngày một tăng chiếm một lực lượng không hề
nhỏ 8 triệu NCT chiếm 9,4% dân số tính tới cuối năm 2010. NCT là vốn quý
của xã hội, chăm sóc tốt NCT không chỉ là trách nhiệm mà còn thể hiện đạo lý
“Ăn quả nhớ kẻ người trồng cây”, “Uống nước nhớ nguồn” của toàn xã hội nói
chung cũng như với mỗi cá nhân, gia đình nói riêng. Nhưng thực tế thì người
cao tuổi thường ít quan tâm tới vấn đề răng miệng hơn so với người trẻ, ở nông
thôn kém hơn thành thị. Theo kết quả điều tra sức khoẻ răng miệng toàn quốc
năm 2000 trên 999 người 45 tuổi trở lên thì có tới 55% chưa đi khám răng miệng
lần nào [1]. Theo Phạm Văn Việt và cộng sự nghiên cứu năm 2004 cho biết tỷ lệ



2

sâu răng của người cao tuổi tại Hà Nội là 55,1%, tỷ lệ mắc bệnh quanh răng là
96,1% [2]. Chính vì vậy không những chúng ta cần phải chữa, phòng, tránh
bệnh vùng quanh răng mà xa hơn chúng ta cần phải nâng cao nhận thức, thái
độ, hànhvi của chính đối tượng cũng như của cộng đồng xung quanh thì việc
chăm sóc sức khỏe răng miệng sẽ hiệu quả hơn.
Thành Phố Cần Thơ là một thành phố trực thuộc trung ương nằm bên
hữu ngạn sông Hậu thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long. Theo tổng cục
thống kê năm 2013 dân số có 1.222.400 người. Tính cho tới nay, tại đây chưa
có một nghiên cứu nào về bệnh vùng quanh răng ở người cao tuổi.
Xuất phát từ những vấn đề đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Thực trạng bệnh vùng quanh răng, nhu cầu điều trị và mối liên quan với
kiến thức, thái độ, hành vi chăm sóc răng miệng của người cao tuổi tại
Thành Phố Cần Thơ, năm 2015”, với các mục tiêu sau đây:
1.

Mô tả thực trạng bệnh vùng quanh răng, nhu cầu điều trị của người cao
tuổi tại Thành phố Cần Thơ, năm 2015.

2.

Phân tích một số mối liên quan giữa thực trạng bệnh vùng quanh răng với
kiến thức, thái độ, hành vi chăm sóc răng miệng ở đối tượng trên.


3

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Đặc điểm giải phẫu vùng quanh răng
1.1.1. Giải phẫu vùng quanh răng
Rãnh lợi
Viền lợi
Lợi tự do
Lõm dưới lợi tự do
Xương răng
Dây chằng quanh răng

Lợi dính

Xương ổ răng
Ranh giới lợi – niêm mạc
Niêm mạc di động

Hình 1.1: Giải phẫu răng và vùng quanh răng [3]
Vùng quanh răng lập thành một bộ phận hình thái và chức năng, cùng với
răng tạo nên một cơ quan chức năng trong cơ thể, nó bao gồm toàn bộ tổ chức bao
bọc quanh răng: Lợi, dây chằng quanh răng, xương răng, xương ổ răng, tuần
hoàn và thần kinh vùng quanh răng.
Vai trò:
- Nâng đỡ, lưu giữ, dinh dưỡng và cảm giác cho răng.
- Là một phần của hệ thống nhai, góp phần vào thực hiện chức năng: ăn
nhai, phát âm, thẩm mỹ.
1.1.1.1. Lợi
Lợi được chia thành 2 phần: lợi dính và lợi tự do [4]:


4


* Lợi tự do: Gồm nhú lợi và đường viền lợi.
Nhú lợi là phần lợi che kín các kẽ răng. Có một nhú phía ngoài, một
nhú phía trong, giữa hai nhú là một vùng lõm.
Đường viền lợi ôm sát cổ răng, và cùng với cổ răng tạo nên một khe
gọi là rãnh lợi bình thường rãnh sâu 0,5-2mm.
Hình thể của nhú lợi và đường viền lợi phụ thuộc hình thể của chân
răng và xương ổ răng, nó còn phụ thuộc vào sự liên quan giữa các răng và vị
trí của răng trên xương hàm.
* Lợi dính: là phần lợi bám dính vào chân răng và xương ổ răng. Bề
rộng của lợi dính có ý nghĩa quan trọng đối với việc giữ cho vùng quanh răng
bình thường.
- Tổ chức lợi: bao gồm biểu mô và tổ chức đệm.
Phủ bề mặt lợi dính và mặt ngoài viền lợi là lớp biểu bì sừng hoá. Từ
sâu ra nông gồm 4 lớp tế bào: TB đáy, TB gai, TB hạt và TB sừng hoá.
Phủ mặt trong rãnh lợi là biểu mô không sừng hoá, liên tiếp với phía
trên bởi biểu mô sừng hoá của lợi tự do và phía dưới bởi biểu mô bám dính.
Biểu mô bám dính là biểu mô ở đáy rãnh lợi bám dính vào răng. Lớp biểu mô
này không sừng hoá, không có các lồi ăn sâu vào tổ chức đệm ở dưới, và bám
vào men răng, xương răng bởi các bán Desmosom. Tổ chức đệm: là tổ chức
liên kết nhiều sợi keo ít sợi chun. Những sợi keo xếp thành những bó sợi lớn
tạo nên hệ thống sợi của lợi, trong đó đáng chú ý là các nhóm sợi răng- lợi,
xương ổ răng- lợi và nhóm sợi vòng.
1.1.1.2. Dây chằng QR
Dây chằng quanh răng là mô liên kết nối liền răng với xương ổ răng.
Dây chằng quanh răng bao gồm các tế bào, sợi liên kết, chất căn bản và mạch
máu, thần kinh [12].


5


Nó giữ răng trong ổ răng và đảm bảo sự liên quan sinh lý giữa răng và
ổ răng nhờ những TB liên kết đặc biệt trong tổ chức dây chằng. Bề rộng của
dây chằng quanh răng khoảng 0,15- 0,21mm. Tuỳ theo sự sắp xếp và hướng
đi của các bó sợi mà người ta phân ra thành 5 nhóm sau:
*

Nhóm cổ răng (hay nhóm mào ổ răng): Gồm những bó sợi đi từ mào xương ổ

răng đến xương răng gần cổ răng.
* Nhóm ngang: Gồm những sợi đi từ xương răng ở chân răng thẳng góc với trục
của răng đến xương ổ răng.
* Nhóm chéo: Gồm những bó sợi đi từ xương ổ răng chếch xuống dưới phía
chân răng, bám vào xương răng. Nhóm này chiếm số lượng nhiều nhất trong
dây chằng QR.
* Nhóm cuống răng: Gồm những bó sợi đi từ xương răng ở cuống răng, toả
hình nan quạt để đến bám vào xương ổ răng vùng cuống răng.
* Nhóm giữa các chân răng: Đối với răng nhiều chân còn có các bó sợi đi từ kẽ
giữa 2 hay 3 chân răng đến bám vào vách xương ổ răng.
Trong tổ chức liên kết của dây chằng thường thấy có 3 thành phần là:
TB chất tựa, sợi, chất nền. Dây chằng QR cấu tạo bởi những sợi Collagen,
những sợi đó lồng vào trong xương răng, chùm lên chân răng giải phẫu và
từ đó chạy vào lá đáy của túi lợi, màng xương phủ huyệt răng và xương ổ
răng, xương răng của răng bên cạnh, quan trọng nhất là trực tiếp vào trong
xương ổ răng riêng biệt.
1.1.1.3. Xương ổ răng
Xương ổ răng là một phần của xương hàm để giữ chân răng gồm có:
* Bản xương: có cấu tạo là xương đặc. Bản xương ngoài là xương vỏ ở mặt ngoài và
mặt trong của xương ổ răng, được màng xương che phủ. Còn bản xương trong ( gọi
là lá sàng ) nằm liền kề với chân răng, có nhiều lỗ thủng (lỗ sàng).
* Xương xốp: nằm giữa hai bản xương trên và giữa các lá sàng [4].



6

1.1.1.4. Xương răng
Xương răng được hình thành trong quá trình hình thành chân răng, bọc
phần ngà răng ở chân răng. Là một dạng đặc biệt của xương, trong đó thành
phần vô cơ và hữu cơ chiếm tỷ lệ ngang nhau, nhưng không có hệ thống
Havers và mạch máu [4].
Xương răng bao phủ chân răng và đi qua phần men răng, phủ trên bề
mặt men ở cổ răng. Bề dày của xương răng thay đổi theo tuổi, tuỳ vùng và
chức năng, dày nhất là vùng cuống răng, mỏng nhất là vùng cổ răng. Zander
nghiên cứu và đo bề dày xương răng giữa các vùng khác nhau của chân răng,
giữa người già và người trẻ cho thấy: sự đắp dày thêm của xương răng xảy ra
từ từ và đều đặn theo tuổi. Ngoài ra còn do các yếu tố khác như: kích thích
của quá trình viêm, hoá chất vùng cuống răng và do chuyển hoá.
Về cấu trúc, xương răng gồm 2 loại: Xương răng không có tế bào và
xương răng có tế bào. Xương răng không có tế bào là lớp đầu tiên được tạo ra
trong quá trình tạo ngà ở chân răng, phủ lên chân răng bởi xương răng thứ
phát (hay xương răng có tế bào). Quá trình tạo xương răng có tế bào nhanh,
những tế bào tạo xương răng non bám chắc và giữ lại tới lúc phát sinh lớp
xương răng mới và tế bào xương răng được trưởng thành. Sự bồi đắp xương
răng liên tục, suốt đời, ở cuống răng thì nhanh hơn ở cổ răng, những lớp được
bồi đắp tạo điều kiện cho sự bám chắc của những dây chằng mới giữ cho bề
rộng vùng QR, xương răng không bị tiêu sinh lý và thay đổi cấu trúc như
xương. Về mặt chức phận, xương răng tham gia vào sự hình thành hệ thống
cơ học nối liền răng với xương răng, cùng với xương ổ răng giữ bề rộng cần
thiết cho vùng QR, bảo vệ ngà răng và tham gia sửa chữa ở một số trường hợp
tổn thương ngà chân răng.



7

1.1.2. Tuần hoàn quanh răng
Răng, dây chằng QR và xương ổ răng thường có một mạch máu nuôi
dưỡng. Mỗi răng và khe QR được nuôi dưỡng bởi một động mạch nhỏ là một
nhánh của động mạch chính trong xương tới lỗ cuống răng, trước khi vào lỗ
cuống răng nó tách ra các nhánh vào trong xương ổ răng, một nhánh vào khe
QR nuôi các dây chằng QR. Nhánh chính đi vào tuỷ răng qua lỗ cuống răng,
động mạch tuỷ răng không có nhánh nối với bên ngoài. Còn trong xương ổ răng
thì có nhiều mạng nối chằng chịt với nhau, ở vùng dây chằng QR cũng vậy, có
những nhánh xuyên qua bản xương thành trong huyệt răng nối với mạng lưới
tuần hoàn trong khe QR. Tĩnh mạch đi song song với động mạch và đặc biệt là
mạng lưới nối tĩnh mạch ở vùng QR tập trung quanh lỗ cuống răng.
1.1.3. Thần kinh vùng quanh răng: Có hai loại:
- Các sợi giao cảm chạy song song với mạch máu, điều hoà máu chảy
trong các mao mạch.
- Các sợi cảm giác hầu hết là các nhánh có Myelin của nhánh II hoặc
nhánh III của dây thần kinh tam thoa.Vùng dây chằng QR giàu mạng lưới
mạch máu và cũng giàu các sợi cảm giác. Người ta tìm thấy có hai loại thần
kinh tận cùng: là có vỏ bọc và không có vỏ bọc ở đầu tận cùng. Nhánh tận
đầu tự do đáp ứng với cảm giác đau, trong khi đó đầu có vỏ bọc đáp ứng với
thay đổi áp lực; ở những đầu có vỏ bọc cấu trúc phức tạp hơn nhiều so với ở
da và niêm mạc miệng, hơn nữa phần lớn nó đáp ứng với khả năng nhạy cảm
của dây chằng quanh răng.
1.2. Một số đặc điểm biến đổi sinh lý, bệnh lý vùng quanh răng ở người
cao tuổi
1.2.1. Định nghĩa người cao tuổi
Người cao tuổi (NCT) là người từ 60 tuổi trở lên theo quy ước chung của
Liên Hợp Quốc và theo luật người cao tuổi của nước ta (được Quốc hội khóa



8

XII thông qua ngày 23/11/2009, có hiệu lực từ ngày 1/7/2010). Dân số NCT
đã trở thành một trong những vấn đề được coi là quan trọng ở nhiều nước
trong những thập niên qua. Tính tới cuối năm 2010, Việt Nam đã có hơn 8
triệu NCT (chiếm 9,4% dân số). Số lượng NCT đã tăng lên nhanh chóng,
trong khi tỷ lệ hỗ trợ tiềm năng, tỷ lệ giữa dân số độ tuổi lao động và những
NCT đang giảm đáng kể. Thời gian để Việt Nam chuyển từ giai đoạn “lão
hóa” sang một cơ cấu dân số “già” sẽ ngắn hơn và nhanh hơn nhiều so với
nhiều nước phát triển: giai đoạn này khoảng 85 năm ở Thụy Điển, 22 năm ở
Thái Lan, trong khi dự kiến có chỉ 20 năm cho Việt Nam , từ năm 2011 Việt
Nam đã chính thức bước vào giai đoạn già hóa dân số. Như vậy cùng với việc
nâng cao sức khỏe nói chung thì việc chăm sóc sức khỏe răng miệng cho
người cao tuổi rất cần được quan tâm.Trong đó công tác chăm sóc phòng
ngừa bệnh vùng quanh răng cho người cao tuổi của ngành Răng Hàm Mặt nói
riêng là một nhiệm vụ rất quan trọng.
1.2.2. Biến đổi sinh lý chung
Lão hóa đưa đến những thoái triển biến đổi dần và không phục hồi về
hình thái và chức năng ở các cơ quan, khả năng thích nghi với những biến đổi
của môi trường xung quanh ngày càng bị rối loạn [11],[12],[13].
Lão hóa bắt đầu từ da: Da cứng và nhăn nheo, tăng lớp mỡ dưới da ở
bụng, ngực, đùi, mông.
Tóc chuyển bạc, trước ít và chậm sau nhiều và nhanh hơn.
Mắt điều tiết kém đi gây lão hóa và thị lực giảm. Thính lực kém đi.
Hoạt động chức năng các cơ quan, phủ tạng giảm dần, bài tiết dịch vị
kém ăn uống kém ngon và chậm tiêu, hoạt động chức năng gan, thận cũng
giảm dần, hệ thống nội tiết yếu đi.
Sự thích ứng với những thay đổi ngoại cảnh kém dần như thời tiết

nóng, lạnh. Chức năng hô hấp giảm, chức năng tim mạch kém thích ứng với
lao động nặng.


9

Giảm khả năng làm việc trí óc, nhanh mệt, tư duy nghèo dần, liên
tưởng kém, trí nhớ giảm hay quên, kém nhạy bén, chậm chạp.
Thời gian phục hồi vết thương kéo dài, xương dễ gãy do chứng loãng
xương. Khả năng đáp ứng của cơ thể trước các kháng nguyên ngoại lai, vi khuẩn
giảm dễ dẫn đến nhiễm trùng và nổi lên là hiện tượng tự miễn [12].
Tất cả những lão hóa đó là nguyên nhân làm cho sức khỏe người cao
tuổi giảm sút và hay mắc các bệnh mãn tính và cấp tính.
1.2.3. Ảnh hưởng của lão hóa tới mô niêm mạc miệng
* Niêm mạc miệng:
Biểu mô phủ và mô liên kết ở khoang miệng teo và mỏng, giảm mối
liên kết giữa các protein và Mucoprotein theo tuổi. Tăng số lượng tương bào
và hậu quả là giảm tính đàn hồi và tăng sự nhạy cảm của mô đối với sang
chấn. Tổ chức niêm mạc phủ khoang miệng ở người cao tuổi có những biến
đổi dạng phù nề, các nhú biểu mô mất dần làm cho vùng tiếp giáp giữa biểu
mô và mô liên kết bị xẹp xuống làm cho lớp biểu mô dễ bị bong trước.Thời
gian thay thế tế bào biểu mô kéo dài số lượng tế bào Langerhans ít đi. Vì các
biến đổi nêu trên, nên bề mặt của niêm mạc miệng kém chịu đựng trước các
kích thích như nóng, lạnh, sức đề kháng với nhiễm trùng giảm đi, niêm mạc
dễ bị tổn thương và khi bị tổn thương thì cũng lâu lành.
* Niêm mạc lưỡi:
Các nghiên cứu cho thấy các gai lưỡi có hiện tượng giảm và teo. Số gai
hình dây của lưỡi giảm làm cho lưỡi có vẻ trơn láng, gai lưỡi hình đài bị teo
nhiều nhất với số lượng giảm hoặc mất dần các nụ vị giác gây ra những rối loạn
vị giác với các chất ngọt, chua, mặn….Nói chung, niêm mạc lưỡi miệng nhợt

nhạt, teo mỏng do giảm chất gian bào, giảm khả năng tăng sinh tế bào và giảm
đáp ứng miễn dịch tại chỗ cũng như toàn thân thường thấy ở người cao tuổi.


10

1.2.4. Ảnh hưởng của lão hóa tới vùng quanh răng
1.2.4.1. Biểu mô lợi
Nhiều nghiên cứu cho thấy sự mỏng đi và giảm sừng hóa của biểu mô lợi
theo tuổi, vì vậy làm tính thấm của biểu mô với kháng nguyên vi khuẩn và
giảm sức đề kháng với các sang chấn chức năng có thể ảnh hưởng lâu dài đến
vùng quanh răng. Ngoài ra, còn có một số thay đổi khác liên quan đến lão hóa
như các gai biểu bì phẳng hơn và thay đổi mật độ tế bào biểu mô.
Tụt lợi: đây có thể là hậu quả tích lũy của quá trình viêm hoặc chấn thương
mô quanh răng. Cùng với sự tụt lợi, chiều rộng của lợi dính sẽ giảm theo tuổi.
Ngoài ra, sự di chuyển của biểu mô nối về phía chóp có thể là hậu quả của sự
mọc răng liên tục qua biểu mô lợi trong nỗ lực duy trì mặt phẳng cắn với răng
đối diện để thích nghi với sự mòn răng (sự mọc răng thụ động).
1.2.4.2. Mô liên kết lợi
Mô liên kết lợi ngày càng thô hơn và dày đặc hơn theo tuổi, ngoài ra
còn có sự thay đổi về số lượng và chất lượng sợi collagen. Những thay đổi
này bao gồm sự tăng tỷ lệ chuyển đổi từ collagen hoàn thành collagen không
hoàn toàn, tăng sức mạnh cơ học và tăng nhiệt độ làm biến tính collagen.
Như vậy, có sự tăng tính ổn định của collagen do những thay đổi trong cấu
trúc phân tử.
Tuy nhiên, tỷ lệ collagen được tổng hợp lại giảm đi theo tuổi.
1.2.4.3. Dây chằng nha chu
Những thay đổi trong dây chằng nha chu do lão hóa bao gồm giảm số
lượng nguyên bào sợi và tăng bất thường cấu trúc. Ngoài ra, có sự giảm sản
xuất các chất hữu cơ căn bản, ngừng hoạt động các tế bào biểu mô và tăng số

lượng sợi đàn hồi. Nhiều kết quả trái chiều đã được ghi nhận về sự thay đổi
chiều rộng của dây chằng nha chu theo tuổi trong các mẫu vật của người và
động vật. Một điều chắc chắn là chiều rộng của khoảng quanh răng sẽ giảm


11

nếu răng không được nhai đến (giảm chức năng) hoặc chịu lực nhai quá mức.
Cả hai tình huống trên đều dẫn đến sự mất răng sớm.
1.2.4.4. Xương răng
Có sự gia tăng chiều dày xương răng theo tuổi do sự bồi đắp liên tục sau
khi mọc răng. Sự gia tăng chiều dày này nhiều hơn ở vùng chóp và mặt lưỡi.
Khả năng sửa chữa xương răng là hạn chế, những bất thường trên bề mặt xương
răng như những hõm tiêu xương răng xuất hiện ngày càng nhiều theo tuổi.
1.2.4.5. Xương ổ răng
Hình thái lá cứng xương ổ răng thay đổi liên quan với tuổi, có ngày
càng nhiều bất thường trên bề mặt xương ổ răng và giảm số lượng kết nối bất
thường với sợi collagen. Ngoài ra, có sự giảm mạch máu trong xương, giảm
trao đổi chất và khả năng tự sữa chữa, tăng quá trình hủy xương và giảm tái
tạo xương. Trong ghép xương đồng loại đông khô khử khoáng, nếu sử dụng
vật liệu ghép từ người cho trên 50 tuổi thì khả năng tạo mô xương ít hơn so
với vật liệu lấy từ người cho trẻ hơn.
Tuy nhiên, tỷ lệ lành xương (can xương) của xương vùng ổ răng đã nhổ
không liên quan tới tuổi tác. Thật vậy, những thành công trong tích hợp
xương trong cấy ghép nha khoa dựa trên đáp ứng lành thương ở mọi mô
xương lành, không liên quan với tuổi tác.
1.2.4.6. Mảng bám vi khuẩn
Sự tích tụ mảng bám ở lợi-răng được cho là tụt lợi làm tăng diện tích bề
mặt mô cứng lộ ra và đặc điểm bề mặt chân răng bị lộ khác so với men răng.
Đối với mảng bám trên lợi, không có sự khác biệt thực sự về chất lượng

các thành phần mảng bám. Đối với mảng bám dưới lợi, một số nghiên cứu cho
thấy có sự gia tăng số lượng trực khuẩn đường ruột và pseudomonas ở người
lớn tuổi. Tuy nhiên, cần thận trọng trong việc giải thích kết quả này do sự gia
tăng của những chủng loại vi khuẩn trên trong miệng của những người lớn tuổi.


12

Có sự thay đổi một số tác nhân gây bênh nha chu với tuổi tác, đặc biệt là
vai trò ngày càng tăng của Porphyromonas ginggivalis và vai trò ngày càng giảm
của Actinobacillus actinomycetemcomitans. Tuy nhiên, tác động của lão hóa lên
sự thay đổi sinh thái học vi khuẩn quanh răng vẫn còn chưa thực sự rõ ràng.
1.2.5. Ảnh hưởng quá trình lão hóa lên sự tiến triển của bệnh nha chu
Sự nhạy cảm của bệnh nha chu tăng theo tuổi. Trong một nghiên cứu
thực nghiệm kinh điển về viêm lợi, đối tượng nghiên cứu được loại trừ hoàn
toàn mảng bám và viêm bằng các phương pháp làm sạch và điều trị chuyên
biệt. Sau đó đối tượng không thực hiện bất kỳ biện pháp vệ sinh răng miệng
nào trong thời gian 3 tuần để tạo điều kiện cho viêm lợi phát triển. So sánh sự
phát triển viêm lợi giữa các cá thể trẻ tuổi và lớn tuổi đã được chứng minh
phản ứng viêm mạnh hơn ở những đối tượng nghiên cứu lớn tuổi hơn, kể cả
người và chó. Trong nhóm người lớn tuổi hơn (từ 65 đến 80 tuổi), người ta
nhận thấy khoảng mô liên kết bị thâm nhiễm lớn hơn, gia tăng dịch rỉ viêm và
tăng chỉ số lợi. Ngay cả khi các đối tượng đều có tình trạng lợi hoàn toàn bình
thường trước thử nghiệm, sự khác biệt vẫn có thể tồn tại giữa các nhóm tuổi
trong đó những người càng lớn tuổi thì tình trạng viêm càng nhiều. Ở người
cao tuổi, bệnh viêm lợi thường tiến triển thầm lặng dẫn tới viêm quanh răng
và hậu quả là tiêu xương và mất răng.
Rõ ràng khi tuổi cao sẽ không tránh khỏi việc gia tăng sự mất mô
liên kết bám dính. Tuy nhiên điều này còn phụ thuộc vào sự phơi nhiễm
với một số yếu tố gây phá hủy tổ chức quanh răng như: mảng bám, sang

chấn cơ học mạn tính do đánh răng, những tác động không mong muốn do
thầy thuốc gây ra trong phục hình răng, lấy cao răng, kiểm soát bề mặt
chân răng. Ảnh hưởng của những phơi nhiễm này đi theo một hướng duy
nhất là làm gia tăng mất bám dính.


13

Một số nghiên cứu đã được thiết kế để loại bỏ những yếu tố nhiễu và
hướng tới làm rõ câu hỏi tuổi cao có phải là yếu tố nguy cơ của bệnh nha chu
(yếu tố nguy cơ được định nghĩa là một phơi nhiễm hoặc tác nhân làm tăng
xác suất xảy ra bệnh). Những nghiên cứu này đều cho thấy tác động của tuổi
tác là không tồn tại hoặc ít có ý nghĩa lâm sàng làm gia tăng sự mất bảo vệ
vùng nha chu: tỷ suất chênh cuẩ tình trạng vệ sinh răng miệng kém đối với
viêm quanh răng là 20,52 trong khi tỷ suất chênh của tuổi tác chỉ là 1,24. Như
vậy, có thể nói tuổi cao không phải là một yêu tố nguy cơ thực sự nhưng là
nền tảng hoặc một yếu tố kết hợp của sự phát triển viêm quanh răng.
1.3. Phân loại bệnh quanh răng
1.3.1. Phân loại của tổ chức y tế thế giới (WHO) năm 1961
• Viêm Lợi:
-

Thể cấp tính:
 Viêm lợi loét hoại tử cấp (bệnh vincent)
 Viêm lợi cấp không đặc hiệu
-

Thể mãn tính:
 Viêm lợi mãn tính
 Viêm lợi mãn tính phì đại


• Viêm quanh răng:
- Viêm quanh răng cấp tính:
 Abces quanh răng
 Viêm quanh răng loét
- Viêm quanh răng mãn tính:
 Viêm quanh răng đơn giản: Tiêu xương
ngang mào xương ổ răng
 Viêm quanh răng phức tạp: Tiêu xương
không đồng đều


14

1.3.2. Phân loại bệnh quanh răng theo hội nghị quốc tế năm 1999, bao gồm
8 nhóm bệnh dưới đây









Các bệnh lợi.
Viêm quanh răng mạn.
Viêm quanh răng phá hủy.
Viêm quanh răng là biểu lộ các bệnh toàn thân.
Các bệnh quanh răng hoại tử.

Các apxe vùng quanh răng.
Viêm quanh răng do các tổn thương nội nha.
Các biến dạng và tình trạng mắc phải hay trong quá trình phát triển.
1.4. Hành vi chăm sóc sức khỏe răng miệng
1.4.1. Hành vi sức khỏe
Hành vi sức khỏe bao gồm nhiều hành động chịu ảnh hưởng bởi những
yếu tố như di truyền, môi trường kinh tế - xã hội và chính trị. Hành vi sức
khỏe có một vai trò vô cùng quan trọng để tạo lập cho sức khỏe mỗi cá nhân
và cộng đồng.
Các yếu tố quyết định nên hành vi con người có thể tóm tắt như sau:
Kiến thức
K

Thái độ
A

Hành vi
P

Knowledge
Attitude
Practice
Sự hiểu biết phụ thuộc vào yếu Tư duy, lập trường, Các hoạt động
tố văn hóa, xã hội, kinh tế.
quan điểm.
của con người.
1.4.2. Kiến thức (Knowledge)
Kiến thức là sự hiểu biết của con người thường khác nhau và thường bắt
nguồn từ kinh nghiệm, vốn sống hoặc của người khác truyền lại. Hiểu biết rất
khó thay đổi khi hiểu biết sai và trở thành định kiến bởi đó là của chủ thể. Vì

vậy rất cần sự cập nhật về kiến thức sức khỏe răng miệng một cách đúng đắn
để đánh giá trình độ nhận thức của chủ thể với kiến thức chuẩn. Kiến thức
phòng bệnh răng rất cần thiết trong phòng tránh bệnh răng miệng.


15

1.4.3. Thái độ (Attitude)
Là tư duy, lập trường, quan điểm của đối tượng đối với một vấn đề. Nó
có thể bị ảnh hưởng bởi trình độ văn hóa, điều kiện kinh tế, xã hội, gia đình,
khu vực sinh sống. Chính vì thái độ ảnh hưởng bởi tính cách của đối tượng
nên rất cần sự quan tâm cuẩ cộng đồng đoàn thể và gia đình mới có kết quả
tốt trong việc thực hiện chăm sóc sức khỏe một cách tốt nhất được.
1.4.4. Hành vi (Practice)
Xuất phát từ những hiểu biết, có kiến thức và thái độ dẫn đến những
hành động của đối tượng. Kiến thức và thái độ đúng sẽ có hành động đúng và
ngược lại.
1.5. Vấn đề kiến thức, thái độ và hành vi sức khỏe răng miệng ở người
cao tuổi
Chăm sóc sức khỏe người cao tuổi đã được đặc biệt quan tâm ở nước ta
cũng như nhiều quốc gia trên thế giới, song với việc chăm sóc sức khỏe răng
miệng nói riêng ở người cao tuổi còn ít được quan tâm và triển khai một cách
hệ thống. Do sinh ra trong thời gian sự nhận thức về sức khỏe răng miệng còn
hạn hẹp nên những người cao tuổi thường thiếu những thông tin cần thiết để
tự chăm sóc bảo vệ sức khỏe răng miệng, bản thân họ cũng không tích cực
trong việc thực hiện các biện pháp vệ sinh răng miệng như: ít chải răng, hay
thực hiện các thói quen không tốt cho răng miệng như xỉa tăm, đánh cau khô,
ăn trầu, hút thuốc và đặc biệt rất ít khi kiểm tra răng miệng thường xuyên.
Khi gặp các vấn đề về răng miệng họ cũng ít đi khám nha sĩ hơn những
người trẻ, họ mặc nhiên chấp nhận và chịu đựng đau, hay khó chịu ở vùng

răng miệng…Cũng vì vậy, nguyện vọng của họ thường rất thấp so với nhu
cầu thực tế cần được chăm sóc, điều trị. Đối với một bộ phận những người có
sức khỏe yếu hay khuyết tật không độc lập trong sinh hoạt cá nhân thì các vấn
đề trên càng trở nên nặng nề.


16

1.5.1. Đặc điểm chung
Sức khỏe là biểu hiện của nhiều yếu tố tác động, trong đó vấn đề kiến
thức, thái độ và thực hành sức khỏe đóng vai trò cực kì quan trọng, nó có thể
thúc đẩy tình trạng sức khỏe tốt lên hay xấu đi.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng: Kiến thức về chăm sóc sức khỏe răng
miệng ở người cao tuổi chủ yếu là kinh nghiệm tích lũy của bản thân hoặc do
người khác truyền lại, mà trên thực tế theo quan điểm y học hiện đại thì các
kinh nghiệm đó đôi khi đi ngược lại và có thể làm cho tình trạng sức khỏe răng
miệng xấu đi. Hơn nữa, kiến thức chăm sóc răng miệng ở người cao tuổi cũng
phụ thuộc nhiều yếu tố như: Trình độ văn hóa, nghề nghiệp, mức sống, khu vực
sinh sống, sự tự tìm hiểu của từng cá nhân…Thông thường ý niệm về bệnh tật
chỉ được quan tâm khi có cảm giác đau, thẩm mỹ bị ảnh hưởng, giao tiếp xã
hội bị hạn chế. Đây là những nhận biết có thể có ở hầu hết người cao tuổi.
Nhưng nếu để hiểu nguyên nhân, hậu quả và các biện pháp phòng chống bệnh
thì đa số tỏ ra không biết hoặc hiểu sai các kiến thức cơ bản, thông thường.
Thực tiễn này đặt ra trách nhiệm cho vấn đề giáo dục nha khoa trong chương
trình nâng cao hiểu biết đối với sức khỏe răng miệng cho người cao tuổi.
Trên cơ sở nhận thức và thái độ có nhiều hạn chế nên thực hành chăm sóc
sức khỏe răng miệng của người cao tuổi đã thể hiện nhiều yếu tố tiêu cực: Cách
thức vệ sinh răng miệng không tốt, biểu hiện bằng việc ít chải răng và kỹ thuật
chải răng không tốt. Họ sử dụng nhiều biện pháp vệ sinh răng miệng không cơ
bản và có nhiều thói quen không tốt cho sức khỏe răng miệng. Rất ít người có

thói quen đi khám răng miệng định kì để phát hiện và điều trị sớm [21],[14].
1.5.2. Các yếu tố tác động đến kiến thức, thái độ và hành vi chăm sóc sức
khỏe răng miệng ở người cao tuổi
Sức khỏe răng miệng người cao tuổi chịu sự tác động của nhiều yếu tố.
Nguy cơ ảnh hưởng tới sức khoẻ răng miệng có thể bắt nguồn từ những nguy


17

cơ nội tại do sự ngấm vôi kém ở men răng, răng mọc lệch lạc, chen chúc…
Nguy cơ cũng đến từ các thói quen có hại: Hút thuốc, uống rượu, ăn trầu…
Các yếu tố ảnh hưởng khác có thể do trình độ học vấn, mức thu nhập không
cao, sức khỏe chung yếu, tập quán văn hóa và nhất là yếu tố không được
chăm sóc bởi các dịch vụ nha khoa. Các yếu tố này liên quan chặt chẽ với
nhau và cần được tìm hiểu để đưa ra giải pháp can thiệp hợp lý. Nhằm tăng
cường nhận thức, thay đổi thái độ, hành vi sức khỏe người cao tuổi, chúng ta
cần giúp họ loại bỏ những thói quen có hại, giáo dục các đối tượng tự chăm sóc
sức khỏe răng miệng có khoa học và có ý thức thăm khám răng định kì tại các cơ
sở nha khoa. Đây là một quá trình cần có sự tác động nhiều mặt, nhưng ý thức
bản thân luôn luôn là một yếu tốt quyết định quan trọng nhất [22].
1.6. Nghiên cứu về bệnh quanh răng ở người cao tuổi trên Thế Giới và
Việt Nam
* Ở Việt Nam:
Tại Việt Nam, từ năm 1960 đến nay đã có nhiều công trình điều tra về
bệnh quanh răng ở một số địa phương. Các kết quả điều tra đều cho thấy bệnh
quanh răng chiếm tỷ lệ cao và ở mức báo động. Trần Văn Trường và Lâm
Ngọc Ấn đã tiến hành điều tra sức khỏe răng miệng toàn quốc qua 2 đợt thì
nhận thấy rằng qua 2 lần tỷ lệ bệnh quanh răng của nhóm tuổi >45 tuổi không
biến đổi nhiều, đều trên 90% [1].
Về tình hình bệnh tổ chức quanh răng, theo điều tra cơ bản tại khu vực

Hà Nội của Nguyễn Đức Thắng [26] với lứa tuổi 45-64 và cỡ mẫu (n=150) thì
có CPITN 1 tỉ lệ là 1,33% và CPITN 2 chiếm tỷ lệ cao nhất 64,67%. Nguyễn
Văn Cát và Renneberg T và cs (1992) khám 181 người từ 44 đến 64 tuổi
không thấy người nào có mô quanh răng lành mạnh, chỉ số CPITN 1 tỉ lệ là
1,2 cao nhất là chỉ số 3 có tỉ lệ 45,8. Theo tác giả Dương Thị Hoài Giang năm


18

2009 khám trên 303 người từ 60 tuổi trở lên tại Hoàng Mai – Hà Nội thấy tỷ lệ
người mắc bệnh quanh răng là 93,1% [17].

* Trên thế giới:
Bảng 1.1: Tình trạng túi lợi ở người cao tuổi của các nghiên cứu trên thế giới
Quốc gia, tác giả
Bergman J.D và Cs,
Australian [27]
Galan D. và Cs,
Canada [28]
Miyazaky H. và Cs,
Japan [18]
Trần Văn Trường, Việt
Nam [29]

Túi lợi
Trung Trung
Túi lợi
nông
bình cao bình túi
sâu (%)

(%)
răng
lợi

Năm

Tuổi

Người

1990

60-69

303

15,2

1993

≥ 60

54

37,0

49,0

1994


65-74

60,0

2000

≥ 45

35,7

999

2,00

1,60

10,0

2,70

1,10

10,5

2,86

1,83

Một số điều tra khác như; theo điều tra sức khỏe quốc gia 1971-1974 của
Mỹ, tình hình bệnh nha chu theo độ tuổi như sau: với độ tuổi 55-64 (có nam

bệnh nha chu chiếm 46,9%, còn nữ chiếm 35,8%). Theo điều tra của P. D.
Barnard năm 1988 ở Astraulia [31] thì số trung bình lục phân có số CPITN
cao nhất ở lứa tuổi từ 65 tuổi trở lên thì thấy tỷ lệ CPITN 4 chiếm tới 70%.
Theo Brown và cộng sự 1981 ở Mỹ 65% người lứa tuổi từ 19-65 có túi lợi sâu
≥ 3 mm, 28% có túi lợi sâu 4-6 mm và 8% có túi lợi sâu > 6 mm.
1.7. Nghiên cứu về kiến thức, thái độ và hành vi chăm sóc sức khỏe răng
miệng ở người cao tuổi
Qua một số nghiên cứu trong và ngoài nước đã chỉ ra rằng: Những người
cao tuổi thường không có hiểu biết nhiều về răng miệng. Vì vậy, mà việc tự
chăm sóc sức khỏe răng miệng ở họ cũng có rất nhiều hạn chế. Schwarz E và
Lo E. C (1994) phỏng vấn 559 đối tượng tuổi 65-74 ở Hồng Kông cho thấy có
tỉ lệ rất cao về số người không hiểu rõ về sâu răng, viêm lợi [19]. Smith J. M và
Cs điều tra tại Anh năm 1980 cho thấy 22% người cao tuổi có từ 1-5 năm và


19

26% có từ 6-20 năm không đi khám răng miệng. Theo Strayer M. S (1993) tại
Mỹ đã có 60% các bang có chương trình giáo dục sức khỏe răng miệng cho
người cao tuổi. Hầu hết các nghiên cứu đều cho nhận xét là bệnh răng miệng ở
người cao tuổi thường cao hơn các lứa tuổi khác và kiến thức, thái độ và thực
hành của họ cũng rất hạn chế. Theo điều tra của Rademakers L (tại Hà Lan
năm 2008), Carter G và cộng sự (tại Christchurch năm 2004) và Sweeney MP
và cộng sự (tại Glasgow năm 2007) cho kết quả tương tự là người cao tuổi ít
quan tâm tới việc chăm sóc răng miệng. Thêm vào đó, số lần chăm sóc răng
miệng của người cao tuổi lại không phụ thuộc vào tuổi mà phụ thuộc vào số
răng hiện có (theo nghiên cứu của Niessen LC tại Mỹ năm 2002). Bệnh răng
miệng của người cao tuổi không phải do cảm nhiễm (susceptibility) mà do quá
trình tích lũy bệnh tật theo thời gian sống của họ. Người cao tuổi ở vùng nông
thôn và từ 70 tuổi trở lên thường ít quan tâm tới nhu cầu chăm sóc răng miệng

so với nhu cầu thực tế [16].
Ở Việt Nam, theo điều tra của Phạm Văn Việt (1999) tại Hà Nội, trong
556 người ≥ 60 tuổi có gần 90% không hiểu hoặc chỉ biết một phần về vai trò,
chức năng răng miệng cũng như bệnh sâu răng và viêm quanh răng, chỉ có
một tỉ lệ rất nhỏ biết về nguy cơ lây nhiễm HIV khi nhổ răng. Khi răng miệng
có vấn đề, chỉ có 26,7% tìm đến nha sĩ, chỉ có 20,2% người mất răng có
nguyện vọng làm răng giả để thay thế.
Tại Việt nam, theo điều tra sức khỏe răng miệng toàn quốc năm 2000 thì
tỷ lệ sâu răng ở người trên 45 tuổi là 89,7%, cao nhất trong tất cả các lứa tuổi
[13]. Kết quả một số nghiên cứu trước đó cho thấy người cao tuổi có hiểu biết
hạn chế và ít quan tâm tới việc chăm sóc răng miệng. Ví dụ như nghiên cứu
của Phạm văn Việt tại Hà Nội cho kết quả 90% người cao tuổi (từ 60 trở lên)
trong diện nghiên cứu không hiểu biết hoặc chỉ hiểu biết một phần về vai trò,
chức năng răng miệng cũng như bệnh sâu răng và viêm quanh răng. Kết quả


20

điều tra SKRM toàn quốc năm 2000 trên 999 người độ tuổi từ 45 trở lên có
tới 55% chưa đi khám răng miệng lần nào và 12,7% đi khám răng lần cuối
cùng trước đó 5 năm.
Các bệnh răng miệng không những làm ảnh hưởng tới chức năng ăn nhai,
thẩm mỹ mà còn ảnh hưởng tới sức khỏe toàn thân, thậm chí nếu không điều trị
kịp thời nó còn có thể gây nhiều biến chứng nặng nề tại chỗ hoặc toàn thân.
1.8. Một số đặc điểm sinh thái của Thành phố Cần Thơ
Cần Thơ là một thành phố trực thuộc trung ương, nằm bên hữu ngạn
của sông Hậu, thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long. Đây là một trong
5 thành phố trực thuộc trung ương của Việt Nam.
Do nằm cạnh sông lớn, nên Cần Thơ có mạng lưới sông, kênh, rạch khá
chằng chịt. Vùng tứ giác Long Xuyên, thấp trũng, chịu ảnh hưởng lũ trực tiếp

hàng năm. Đồng bằng châu thổ chịu ảnh hưởng triều cùng lũ cuối vụ.
Cần Thơ nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, ít bão, quanh năm
nóng ẩm, không có mùa lạnh. Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đếntháng 11, mùa
khô từ tháng 12 tới tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 28 °C,
số giờ nắng trung bình cả năm khoảng 2.249,2h, lượng mưa trung bình năm
đạt 1600mm. Độ ẩm trung bình năm dao động từ 82% - 87%. Do chịu ảnh
hưởng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có lợi thế về nền nhiệt độ, chế độ bức xạ
nhiệt, chế độ nắng cao và ổn định theo hai mùa trong năm.


21

Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn
Những người có độ tuổi từ 60 trở lên tại thời điểm điều tra và có khả
năng tham gia vào nghiên cứu (trả lời được phỏng vấn và tham gia vào khám
răng miệng).
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
*

Những người dưới 60 tuổi tại thời điểm điều tra.

*

Mất răng toàn bộ.

*


Những người từ 60 tuổi trở lên tại thời điểm điều tra nhưng không trả
lời được phỏng vấn, đang mắc bệnh toàn thân cấp tính hoặc có rối loạn tâm
thần tại thời điểm điều tra.

*

Những người đến sinh sống tạm thời trong thời gian ngắn ở địa bàn
điều tra.

*

Những người không hợp tác để khám hoặc phỏng vấn điều tra.
2.2. Địa điểm nghiên cứu
Thành Phố Cần Thơ.
2.3. Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 9/2015 tới tháng 10/2016.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
2.4.2. Cỡ mẫu và chọn mẫu

* Cỡ mẫu:


22

n = Z12−α / 2 ×

p(1 − p)
× DE

2
d

Cỡ mẫu trong nghiên cứu này được tính

theo công thức:
* Trong đó:
n: Cỡ mẫu nghiên cứu cần có.
p: Tỉ lệ người có bệnh ở người cao tuổi, lấy p = 78%.(theo đề tài cấp bộ)
ε: Mức chính xác tương đối, lấy bằng 0,05 của p.
α: Mức ý nghĩa thống kê; lấy α = 0,05, nên Z1-α/2= 1,96
DE: Hệ số thiết kế mẫu nghiên cứu, (DE = 1,5).
Áp dụng công thức này, tính được cỡ mẫu cần có trong nghiên cứu là
1350 người.
Cách chọn mẫu:
Bước 1: Thành phố Cần Thơ, chọn 30 chùm ngẫu nhiên, mỗi chùm là 1
xã (phường).
Bước 2: Chọn đối tượng nghiên cứu: Lên danh sách người cao tuổi trong
xã (phường), chọn ngẫu nhiên đơn khoảng 45 người cao tuổi từ danh sách đó.
2.4.3. Kỹ thuật thu thập số liệu
Nghiên cứu sẽ thu thập thông tin qua các kỹ thuật:
* Dụng cụ thăm khám: ở từng đối tượng nghiên cứu, chủ yếu là quan
sát bởi các giác quan bằng nhìn, sờ, gõ răng. Thăm khám với sự trợ giúp của
các dụng cụ thăm khám như gương, kẹp nha khoa, thám châm, khay khám và
sonde khám nha chu do tổ chức y tế thế giới (WHO) quy định.
- Sonde khám nha chu (Periodontal Probe) của WHO:
Đây là dụng cụ thăm khám quanh răng đặc biệt của tổ chức y tế thế
giới. Mục đích đo độ sâu của túi lợi, phát hiện cao răng dưới lợi, chảy máu
trong và sau khi thăm khám.
Cây thăm dò có tay cầm mảnh, nặng 30 gam, đầu cây thăm dò có hình

cầu đường kính 0,5 mm, có đánh dấu vạch màu đen, giới hạn dưới của vạch


23

đen cách đầu tận cùng của cây thăm dò 3,5 mm, giới hạn trên của vạch màu
đen cách đầu tận cùng của cây thăm dò 5,5 mm.

Hình 2.1: Sonde khám nha chu của WHO [33]

Hình 2.2: Phần đầu của sonde khám nha chu [33]
 Cách sử dụng cây thăm dò:
- Cầm cây thăm dò sao cho trục của cây thăm dò song song với trục của
răng được khám, đưa đầu cây thăm dò nhẹ nhàng vào trong túi lợi (giữa
khoảng cách răng và lợi) tới độ sâu nhất định cảm giác được.
- Túi quanh răng:
+ Xác định vị trí của túi quanh răng: Dùng cây thăm dò quanh răng của
WHO thăm ở mặt ngoài và mặt trong của các răng.
+ Đo độ sâu túi quanh răng: Là khoảng cách từ bờ của đường viền lợi
tới đáy của túi quanh răng. Thăm túi quanh răng ở các mặt răng để xác định vị
trí của túi đồng thời đo và ghi lại chiều sâu của túi. Lấy giá trị đo được ở vị trí


24

sâu nhất của túi tương ứng với mỗi mặt răng. Mỗi răng đo 2 mặt (trong và
ngoài), đo ở tất cả các răng (trừ răng 8).
- Mức mất bám dính quanh răng: Được tính từ chỗ nối men- xương
răng tới đáy túi quanh răng. Đo ở mặt trong và mặt ngoài của răng và lấy số
liệu ở vị trí sâu nhất cho mỗi mặt răng.

- Theo dõi hiện tượng chảy máu lợi trong vòng khoảng 10 giây.
* Các bước tiến hành:
- Bước 1: Liên hệ với chính quyền địa phương, trạm Y tế xã để lấy danh
sách số đối tượng điều tra được chọn ngẫu nhiên trong xã
- Bước 2: Thiết kế phiếu điều tra và phiếu khám về các thông tin cần thu
thập (dựa theo mẫu đề tài cấp Bộ)
- Bước 3: Tập huấn cán bộ điều tra về cách thức phỏng vấn, cách ghi
phiếu và khám sâu răng. Có 38 bác sĩ được tập huấn tại trường đại học y Hà
Nội để đảm bảo tính thống nhất.
- Bước 4: Tổ chức phỏng vấn và khám lâm sàng
• Chào hỏi, làm quen nhằm tạo không khí cởi mở, gần gũi
• Lắng nghe
• Phỏng vấn theo bộ câu hỏi của phiếu điều tra
• Khám dưới ánh sáng tự nhiên hoặc đèn điện kết hợp dụng cụ khám,
gương có đèn
2.4.4. Chỉ số nghiên cứu chính
a. Thông tin chung của bệnh nhân: giới (nam/nữ), nhóm tuổi (60-64,
65-74 và 75+) [40], hiện sống với ai, điều kiện kinh tế, trình độ học vấn.
b. Các chỉ số chính:
Các tiêu chí được đánh giá, thực hiện theo mẫu điều tra sức khỏe răng
miệng cộng đồng của tổ chức y tế thế giới năm 1997 nhưng đi sâu vào các chỉ
số về thực trạng bệnh vùng quanh răng.


25

 Chỉ số quanh răng cộng đồng CPITN (Community Periodontal Index
of Treatment Needs).
Để đánh giá 3 tiêu chí là: chảy máu lợi, cao răng và túi lợi.
Dựa trên cơ sở miệng với hai cung răng được chia thành 6 phần

(sextant) lục phân. Một vùng chỉ được tính khi còn ≥ 2 răng và các răng này
không có chỉ định nhổ.
2

1

3

6

4

5

Hình 2.3: Biểu diễn cách chia vùng lục phân [34]
Các răng chỉ định để đánh giá tình trạng viêm nhiễm và mất bám dính
quanh răng như sau:
17 /16
47 /46

11
31

26/ 27
36/ 37

* Tiêu chuẩn:
Mã số 0: Lành mạnh
Mã số 1: Chảy máu lợi trực tiếp hay ngay sau khi thăm khám.
Mã số 2: Cao răng trên và dưới lợi phát hiện được trong khi thăm dò

nhưng toàn bộ vạch đen của cây thăm dò túi lợi còn nhìn thấy.


×