1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh sâu răng và viêm lợi là một trong những bệnh răng miệng phổ
biến nhất ở nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới. Bệnh có ảnh hưởng
trực tiếp đến sức khỏe con người. Sâu răng tăng mạnh ở thế kỷ XX, hầu hết
các quốc gia, các dân tộc đều bị sâu răng, có nước 100% dân số, chi phí cho
việc chữa răng rất tốn kém và nó làm cho các nước không thể đáp ứng được
nhu cầu tài chính, nhân lực và thời gian.
Trong hơn 3 thập niên qua, khoa học đã đạt được nhiều tiến bộ trong
việc giải thích bệnh căn của sâu răng và nhiều nước đã triển khai nhiều biện
pháp phòng chống sâu răng thích hợp, nhờ đó mà các nước phát triển như
Canada, Thủy Điển, Đan Mạch, Anh, Mỹ và cả những nước trong khu vực
như Malaysia, Singapore, tỷ lệ sâu răng có xu hướng giảm dần. Trong khi tại
các nước đang phát triển như Iran, Lào, Campuchia, Triều Tiên, Bruney sâu
răng có khuynh hướng gia tăng [1], [2], [3], [4].
Ở nước ta, cùng với sự thay đổi và phát triển về điều kiện kinh tế xã hội
trong những năm gần đây là sự gia tăng chế độ dinh dưỡng, việc sử dụng
đường sữa, bánh kẹo nhiều hơn trong khi đó người dân chưa nhận thức đầy đủ
về tác hại của bệnh sâu răng, viêm lợi. Năm 1990, theo kết quả điều tra sức
khỏe răng miệng lần thứ nhất ở lứa tuổi 15 tỷ lệ sâu răng là 60,0%, viêm lợi là
95,6% [5]. Theo kết quả điều tra tình hình sức khỏe răng miệng toàn quốc lần
thứ 2 năm 2000 tỷ lệ sâu răng, viêm lợi ở các lứa tuổi đều còn cao. Sâu răng ở
lứa tuổi 15-17 ở thành thị là 78,4%, ở nông thôn là 65,8%, cao răng 83,4%,
chảy máu lợi 66,9% [6].
Để giải quyết tình trạng này nhiều năm qua ngành răng hàm mặt đã
thực hiện tích cực nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu, mà trọng tâm là công
2
tác NHĐ. Ở những nơi triển khai tốt công tác này đã mang lại hiệu quả cao,
tuy nhiên chương trình NHĐ chủ yếu được triển khai tại cấp 1 và 2 còn ở cấp
3 (PTTH) những hiểu biết về CSRM phần nhiều là được kế thừa lại ở các cấp
học trước. Đã có nhiều nghiên cứu về tình trạng sâu răng, viêm lợi và mối liên
quan với kiến thức, thái độ, hành vi CSRM của HS ở cấp tiểu học và trung
học cơ sở. Tuy nhiên những nghiên cứu này ở học sinh các trường PTTH chưa
nhiều. Với mong muốn đóng góp một phần số liệu để xây dựng bức tranh chung
về thực trạng sâu răng, viêm lợi cũng như mối liên quan với kiến thức, thái độ,
hành vi CSRM của học sinh PTTH. Chúng tôi tiến hành thực hiện nghiên cứu đề
tài “Thực trạng bệnh sâu răng, viêm lợi và mối liên quan với kiến thức, thái
độ hành vi chăm sóc răng miệng của học sinh PTTH Chu Văn An, Ba Đình
Hà Nội năm 2012” với 2 mục tiêu sau:
1. Mô tả thực trạng bệnh sâu răng, viêm lợi của học sinh PTTH
Chu Văn An, Ba Đình Hà Nội năm 2012.
2. Phân tích mối liên quan giữa kiến thức, thái độ, hành vi CSRM
với bệnh sâu răng, viêm lợi của nhóm học sinh trên.
3
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. BỆNH SÂU RĂNG – VIÊM LỢI
1.1.1. Bệnh sâu răng
Sâu răng là một bệnh nhiễm khuẩn tổ chức canxi hoá được đặc trưng
bởi sự huỷ khoáng của thành phần vô cơ và sự phá huỷ thành phần hữu cơ của
mô cứng [7].
1.1.1.1. Sinh bệnh học sâu răng [7], [8]
Người ta cho bệnh sâu răng là một bệnh do nhiều nguyên nhân, trong
đó vi khuẩn đóng vai trò quan trọng. Ngoài ra còn phải có các yếu tố thuận lợi
như chế độ ăn uống nhiều đường, VSRM không tốt, tình trạng sắp xếp của
răng khấp khểnh, chất lượng men răng kém và môi trường tự nhiên, nhất là
môi trường nước ăn uống có hàm lượng fluor thấp (hàm lượng fluor tối ưu là
0,8- 0,9 ppm/lít) đã tạo điều kiện cho sâu răng phát triển.
Trước năm 1970, người ta cho rằng bệnh căn của sâu răng là do chất
đường, vi khuẩn Streptococcus Mutans và giải thích nguyên nhân sâu răng
bằng sơ đồ Keys:
Hình 1.1. Sơ đồ Keys [8]
4
Sau năm 1975, đã tìm ra được nguyên nhân của sâu răng và được
giải thích bằng sơ đồ WHITE
thay thế một vòng tròn của sơ đồ KEYS chất
đường
bằng vòng tròn chất nền Substrate nhấn mạnh vai trò nước bọt chất
trung hoà - Buffers và pH của dòng chảy môi trường xung quanh răng.
Người ta cũng thấy rõ hơn tác dụng của Fluor khi gặp Hydroxyapatite của
răng kết hợp thành Fluorapatit rắn chắc, chống được sự phân huỷ của axít
tạo thành thương tổn sâu răng:
Chất nền
Vi khuẩn
Răng
SR
Hình 1.2. Sơ đồ WHITE [8]
Răng: Tuổi, fluoride, dinh dưỡng vv
Vi khuẩn: Streptococcus mutans.
Chất nền: VSRM có sử dụng fluor. pH vùng quanh răng. Khả năng
trung hoà của nước bọt.
5
Cơ chế sinh bệnh học sâu răng được thể hiện bằng hai quá trình huỷ
khoáng và tái khoáng. Nếu quá trình huỷ khoáng lớn hơn quá trình tái khoáng
thì sẽ gây sâu răng.
Tóm tắt cơ chế sâu răng [7].
Sâu răng = Huỷ khoáng > Tái khoáng cơ chế hoá học và vật lý sinh học
6
Các yếu tố bảo vệ:
+ Nước bọt
+ Khả năng kháng acid của men
+ Fluor có ở bề mặt men răng
+ Trám bít hố rãnh
+ Độ Ca
2+
, PO
4
3-
quanh răng
+ pH > 5,5
+ Vệ sinh răng miệng tốt
Các yếu tố gây mất ổn định làm sâu răng:
+ Mảng bám vi khuẩn
+ Chế độ ăn đường nhiều lần
+ Thiếu nước bọt hay nước bọt acid
+ Acid từ dạ dày tràn lên miệng
+ pH< 5
+ Vệ sinh răng miệng kém
Hình 1.3. Sơ đồ tóm tắt cơ chế sâu răng
Với sự hiểu biết nhiều hơn về sinh bệnh học quá trình sâu răng nên hơn hai
thập kỷ qua loài người đã đạt được nhiều thành tựu lớn trong dự phòng sâu răng.
1.1.1.2. Tiến triển của bệnh sâu răng
Sâu răng được chia làm nhiều mức độ tuỳ theo thời gian tiến triển. Nếu ở mức
độ nhẹ không điều trị sẽ tiến triển thành mức độ tiếp theo nặng hơn từ sâu men thành
sâu ngà, đến viêm tuỷ, tuỷ hoại tử, viêm quanh cuống, viêm xương hàm.
1.1.1.3. Phân loại sâu răng [7], [9], [10], [11], [12]
Tùy theo tác giả mà có các cách phân loại như phân loại theo vị trí của
lỗ sâu trên răng của Black được chia thành 5 loại. Phân loại theo diễn biến của
sâu răng, sâu răng cấp tính và sâu răng mạn tính. Ngày nay, với sự tiến bộ của
chất hàn mới người ta cũng có cách phân loại khác nhau mức độ, tính chất,
nghề nghiệp, dựa theo chất hàn mới. Cách phân loại được nhiều người ứng
dụng là phân loại theo cách điều trị hoặc mức độ tổn thương [9].
7
* Phân loại theo cách điều trị [9].
- Sâu men (S1): Tổn thương mới ở phần men chưa có dấu hiệu lâm
sàng rõ, theo Darling khi thấy chấm trắng trên lâm sàng thì sâu răng đã tới
đường men ngà.
- Sâu ngà: Khi nhìn thấy lỗ sâu trên lâm sàng thì chắc chắn là sâu ngà,
người ta chia làm 2 loại:
+ Sâu ngà nông
+ Sâu ngà sâu
* Phân loại theo mức độ tổn thương [9].
- Sâu men
- Sâu ngà nông, sâu ngà sâu
- Sâu răng có kèm theo tổn thương tủy
- Sâu răng làm chết tủy và gây các biến chứng ở chóp răng
* Theo mức độ tiến triển [9].
- Sâu răng cấp tính: Lỗ vào nhỏ, bên dưới phá hủy rộng, có nhiều ngà
mềm màu vàng, cảm giác ê buốt nhiều thường gặp ở người trẻ, bệnh tiến triển
nhanh dễ dẫn tới bệnh lý tủy.
- Sâu răng tiến triển
- Sâu răng mạn tính: ngà mủn ít, sẫm màu, cảm giác kém
- Sâu răng ổn định: Đáy cứng, không đau
* Sâu răng ở những đối tượng đặc biệt [9].
- Những người tiếp xúc nhiều với đường, tinh bột
- Sâu răng ở những người làm trong các nhà máy hóa chất
- Sâu răng ở người được điều trị tia X
* Phân loại theo vị trí lỗ sâu [9].
Được chia làm 5 loại
- Loại 1: Sâu mặt nhai các răng hàm lớn và nhỏ.
8
- Loại 2: Lỗ sâu ở mặt bên các răng hàm lớn và răng hàm nhỏ.
- Loại 3: Lỗ sâu mặt bên các răng cửa trên và dưới chưa ảnh hưởng
đến rìa cắn.
- Loại 4: Lỗ sâu mặt bên các răng cửa trên và dưới ảnh hưởng đến rìa cắn.
- Loại 5: Lỗ sâu ở cổ răng.
* Phân loại sâu răng theo tuổi [9].
- Sâu răng ở trẻ em
- Sâu răng ở người trưởng thành
- Sâu răng ở người có tuổi
* Sâu răng theo vị trí tổn thương [9].
- Sâu răng vùng hố rãnh
- Sâu răng ở mặt nhẵn
- Sâu cổ răng hay là sâu xương răng.
* Phân loại theo các lỗ sâu đã được trám [9].
- Sâu răng thứ phát, có thêm lỗ sâu mới trên răng đã trám
- Sâu răng tái phát, tại lỗ sâu đã được hàn tiếp tục phát triển theo rìa
lỗ hàn cũ.
* Phân loại theo vị trí và kích thước [7].
2 yếu tố đó là vị trí và kích thước (giai đoạn, mức độ) của lỗ sâu
Vị trí
Vị trí 1: tổn thương ở hố rãnh và các mặt nhẵn
Vị trí 2: tổn thương kết hợp với mặt tiếp giáp
Vị trí 3: sâu cổ răng và chân răng
Kích thước
1: Tổn thương nhỏ, vừa mới ở ngà răng cần điều trị phục hồi, không thể
tái khoáng
9
2: Tổn thương mức độ trung bình, liên quan đến ngà răng, thành lỗ sâu
còn đủ, cần tạo lỗ hàn
3: Tổn thương rộng, thành không đủ hoặc nguy cơ vỡ, cần phải có các
phương tiện lưu giữ cơ sinh học
4: Tổn thương rất rộng làm mất cấu trúc răng, cần có các phương tiện lưu
giữ cơ học hoặc phục hình
Để đáp ứng nhu cầu dự phòng cá nhân Brique và Droz đã bổ sung
thêm cỡ 0, là những tổn thương có thể chẩn đoán được và có khả năng tái
khoáng hoá được.
* Phân loại theo Pitts [10].
D1: + Tổn thương chỉ có thể phát hiện được bằng các phương tiện hiện
đại (Lazer) hoặc trong tương lai.
+ Tổn thương có thể phát hiện được trên lâm sàng, bề mặt men
răng còn nguyên vẹn.
D2: Tổn thương có thể phát hiện được trên lâm sàng, lỗ sâu giới hạn ở men răng.
D3: Tổn thương ở ngà, có thể phát hiện được trên lâm sàng (lỗ sâu mở hoặc đóng).
D4: Tổn thương vào đến tủy răng.
10
Hình 1.4. Sơ đồ phân loại của Pitts [10]
* Phân loại theo ICDAS II (International Caries Detection and
Assessment System) [11], [12].
Bảng 1.1.Tiêu chuẩn phát hiện sâu thân răng nguyên phát theo ICDAS
(International Caries Detection and Assessment System)
Mã số Mô tả
0 Lành mạnh, không có dấu hiệu sâu răng
1 Thay đổi nhìn thấy sau khi thổi khô hoặc thay đổi giới hạn ở hố rãnh
2 Thay đổi được nhìn rõ trên men răng ướt và lan rộng qua hố rãnh
3 Mất chất khu trú ở men (không lộ ngà)
4 Có bóng đen bên dưới từ ngà răng ánh qua bề mặt men liên tục
5 Có lỗ sâu lộ ngà răng
6 Có lỗ sâu lớn lộ ngà răng >1/2 mặt răng
1.1.2. Sinh bệnh học viêm lợi
11
Bệnh quanh răng là bệnh rất phổ biến, tỷ lệ mắc rất cao, ở trẻ em chủ yếu
là bệnh viêm lợi.
Bệnh quanh răng do nhiều nguyên nhân như thiếu sinh tố, sang chấn
khớp cắn, vi khuẩn và VSRM kém trong đó vi khuẩn và VSRM kém tạo nên
cặn bám răng là nguyên nhân chính.
Cặn bám răng hình thành trên bề mặt răng ngay sau khi ăn. Cặn bám
răng được hình thành và phát triển khi môi trường trong miệng giàu chất dinh
dưỡng, nhất là đường Saccharose. Lúc đầu cặn bám là vô khuẩn, về sau vi
khuẩn xâm nhập và phát triển thành mảng bám vi khuẩn sau 2 giờ. Ở giai
đoạn này, các cặn bám dễ dàng được làm sạch bằng cách chải răng. Thành
phần trong cặn bám răng: vi khuẩn chiếm chủ yếu đến 70% trọng lượng, còn
30% là chất tựa hữu cơ. Các vi khuẩn này xâm nhập vùng quanh răng gây
viêm, phá hủy tổ chức. Tác động của chúng có thể là trực tiếp do hoạt động
của vi khuẩn sản sinh ra các men, nội độc tố, các sản phẩm đào thải, hoặc gián
tiếp do vai trò kháng nguyên của chúng.
Viêm lợi xuất hiện rất sớm khi cặn bám răng hình thành được 7 ngày.
Hình 1.5. Hình ảnh minh họa viêm lợi
1.2. THỰC TRẠNG BỆNH SÂU RĂNG - VIÊM LỢI Ở TRẺ EM
12
1.2.1. Thực trạng sâu răng - viêm lợi trên thế giới
1.2.1.1. Bệnh sâu răng
Tại hội nghị Alma Ata 1978, WHO đã công bố có hơn 90% dân số thế
giới mắc bệnh sâu răng và phát động chương trình hành động vì sức khỏe
răng miệng cho con người đến năm 2000 đồng thời có chương trình giúp đỡ
tất cả các nước trên thế giới triển khai chương trình này. Qua hơn hai thập kỷ
chương trình đã phát huy được hiệu quả to lớn ở nhiều quốc gia. Song do việc
triển khai chương trình phòng bệnh răng miệng phụ thuộc rất nhiều vào điều
kiện kinh tế, xã hội riêng của mỗi nước nên kết quả thực hiện chương trình
này ở các nước trên thế giới còn ở nhiều mức độ khác nhau. Bệnh răng miệng
trên thế giới ngày nay có hai khuynh hướng rõ rệt.
Ở các nước phát triển: Từ những năm 1940 – 1960 tình hình sâu răng rất
nghiêm trọng, trung bình mỗi trẻ em 12 tuổi có từ 8 – 10 răng sâu hoặc răng bị
mất do sâu. Chỉ số SMT của Na uy lên tới mức 12,0 năm 1940. Những năm
1980 chỉ số SMT của nước này giảm xuống mức từ 2,0 – 4,0 và tới năm 1993
thì chỉ số SMT tuổi 12 tại hầu hết các nước công nghiệp hóa đã giảm xuống
mức từ 1,2 – 2,6. Như vậy, nhìn từ những năm cuối của thập kỷ 1970 tới nay,
tình hình sâu răng tại các nước phát triển có xu hướng giảm dần, chỉ số SMT
tuổi 12 tại hầu hết các nước này ở mức thấp và rất thấp [2], [3].
Ở các nước đang phát triển: Ở thời điểm những năm 1960 tình hình sâu
răng ở mức thấp hơn nhiều so với các nước phát triển. Chỉ số SMT ở tuổi 12
thời kỳ này nói chung là từ 1,0 – 3,0 thậm chí một số nước dưới mức 1,0 như
Thái Lan, Uganda, Zaire. Đến thập kỷ 1970 và 1980 chỉ số này lại tăng lên ở
mức 3,0 – 5,0 và một số nước còn cao hơn như Chile là 6,3. Tình trạng sâu
răng của các nước đang phát triển đều có xu hướng tăng [2], [3].
1.2.1.2. Bệnh viêm lợi
13
Theo kết quả nghiên cứu của một số tác giả nước ngoài, tỷ lệ trẻ em bị
viêm lợi ở hầu hết các nước trên thế giới đều cao, có những quốc gia tỷ lệ này
lên tới trên 90%.
Tuy nhiên bệnh quanh răng ở trẻ em thường được biểu
hiện là
viêm lợi, tỷ lệ viêm lợi khác nhau theo tuổi [13].
Theo WHO, năm 1978 bình quân trên thế giới có 80% trẻ em dưới 12
tuổi và 100% trẻ em 14 tuổi bị viêm lợi mãn. Sau 14 tuổi, mức độ viêm lợi
giảm dần và có sự khác nhau giữa nam và nữ [14].
Theo Enrique Bimstein điều tra năm 1999 tỷ lệ viêm lợi chung cao nhất
ở khoảng 9-14 tuổi, trùng với lứa tuổi dậy thì và trước dậy thì [15].
Addy đã nghiên cứu trẻ em 11-12 tuổi ở Anh thấy có mối liên hệ rõ giữa
chỉ số mảng bám răng với chỉ số lợi, đồng thời thấy toàn bộ số trẻ em được
khám có viêm lợi và một vài chỗ chảy máu lợi khi thăm khám [14].
1.2.2. Thực trạng sâu răng - viêm lợi tại Việt Nam
1.2.2.1. Bệnh sâu răng
Cũng như nhiều nước đang phát triển, bệnh sâu răng là bệnh gặp phổ
biến ở nước ta, nhu cầu cần được chăm sóc và điều trị rất cao.
Theo điều tra cơ bản sức khỏe răng miệng ở Việt Nam năm 1990 của
Nguyễn Dương Hồng và cộng sự, tỷ lệ sâu răng của trẻ 12 tuổi là 55,69% và
tỷ lệ sâu răng ở trẻ 15 tuổi là 60,33% [16].
Năm 1993 Lê Đình Giáp và cộng sự cho biết 75,85% trẻ 12 tuổi thuộc 4
tỉnh đồng bằng sông Cửu Long mắc sâu răng vĩnh viễn [17].
Năm 2000 theo nghiên cứu của Vũ Mạnh Tuấn tại thị xã Hoà Bình cho
thấy, tỷ lệ sâu răng vĩnh viễn ở trẻ 12 tuổi là 62% [18].
14
Theo điều tra sức khỏe răng miệng ở Việt Nam năm 2000, tỷ lệ sâu răng ở
lứa tuổi 12-14 là 64,1%, chỉ số SMT là 1,96 và ở lứa tuổi 15 -17 là 68,6%, chỉ
số SMT là 2,12 [6].
Như vậy sau 10 năm Việt Nam thực hiện điều tra răng miệng toàn quốc
lần thứ 2, kết quả cho thấy bệnh sâu răng của trẻ em Việt Nam có xu hướng
tăng lên.
Bảng 1.2. Thực trạng sâu răng trẻ em toàn quốc năm 2001 [6]
Tuổi
Răng sữa Răng vĩnh viễn
% sâu răng Chỉ số smt % sâu răng Chỉ số SMT
6 - 8 84,9 5,40 25,4 0,48
9 - 11 56,3 1,96 54,6 1,19
12 - 14 64,1 2,05
15 - 17 68,6 2,40
Theo nghiên cứu của Nguyễn Đăng Nhỡn năm 2004 tại huyện Yên Sơn, tỉnh
Tuyên Quang, cho thấy tỷ lệ sâu răng vĩnh viễn ở lứa tuổi 12 là 64,06% [19].
Nghiên cứu của tác giả Lê Huy Nguyên tại Hoài Đức, Hà Tây năm 2007
tỷ lệ sâu răng của HS khối lớp 5 là 58,48% [20].
Theo nghiên cứu của Trương Mạnh Dũng (2009) ở trẻ 11-14 tuổi tại trường
Trung học cơ sở Hoàng Liệt, Hoàng Mai, Hà Nội tỷ lệ sâu răng vĩnh viễn chung
cho giới và độ tuổi nghiên cứu là 57,18%, chỉ số SMT là 1,58 [21].
Nghiên cứu của Đào Thị Dung (2012), ở học sinh PTTH tại Hà Nội sau
khi sát nhập có tỷ lệ sâu răng vĩnh viễn là 14,2% [22].
Trong những năm gần đây việc áp dụng cách ghi nhận, đánh giá sâu răng
sớm theo ICDAS được coi là toàn diện về tổn thương sâu răng đưa ra cho thấy
tỷ lệ sâu răng đều cao.
Theo nghiên cứu của Nguyễn Quốc Trung (2011) tại Trường Tiểu học Đông
15
Ngạc A, Từ Liêm – Hà Nội tỷ lệ sâu răng vĩnh viễn ở lứa tuổi 7-11 là 57,14% [23].
Nghiên cứu của Vũ Mạnh Tuấn và cộng sự năm 2009 ở HS 7-8 tuổi tỷ lệ
sâu răng vĩnh viễn 78,8% [24].
Nghiên cứu của Trần Đức Thành và cộng sự năm 2009 ở trẻ em 12 tuổi
trường Trung học cơ sở An Lạc, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh cho
thấy tỷ lệ trẻ có sâu răng là 95,1% [25].
1.2.2.2. Bệnh viêm lợi
Theo nghiên cứu của một số tác giả nước ngoài, tỷ lệ trẻ em bị viêm lợi
ở các nước trên thế giới đều cao, có nơi tỷ lệ này là trên 90%.
Tại Việt Nam cũng đã có nhiều nghiên cứu về bệnh quanh răng và đưa
ra nhận xét bệnh quanh răng là bệnh phổ biến, tỷ lệ mắc cao.
Theo kết quả điều tra bệnh răng miệng toàn quốc lần thứ 1năm 1990 thì
tỷ lệ HS viêm lợi ở lứa tuổi 12 là 95% trong đó Hà Nội là 84%, Thành phố Hồ
Chí Minh 100%, Hải Hưng 100%, Cao Bằng 88% [16].
Năm 2000, theo điều tra sức khỏe răng miệng toàn quốc lần 2 cho thấy tỷ
lệ bệnh viêm lợi rất cao [6].
Bảng 1.3. Thực trạng bệnh quanh răng ở trẻ em toàn quốc
Tuổi
Chảy máu lợi
%
Cao răng %
6-8 42,7 25,5
9-11 69,2 56,8
12-14 71,4 78,4
15-17 66,9 83,4
1.3. DIỄN BIỄN BỆNH SÂU RĂNG, VIÊM LỢI THEO THỜI GIAN
Từ những năm của thập kỷ 60 đến 90 đã có những nghiên cứu tình trạng
16
sâu
răng ở Việt Nam nói chung và ở trẻ em nói riêng cho thấy tỷ lệ bệnh
răng miệng tăng
dần theo lứa tuổi và tăng dần theo thời gian.
So sánh kết quả điều tra sức khỏe răng miệng toàn quốc năm 2000 với lần
1 năm 1990 tỷ lệ sâu răng vĩnh viễn ở trẻ em vẫn ở mức cao và gia tăng theo tuổi,
tỷ lệ sâu răng là 54,6% ở lứa tuổi 9-11 và 68,6% ở lứa tuổi 15 – 17 [6].
Viện Răng Hàm Mặt Hà Nội đã điều tra bệnh răng miệng ở Việt Nam
trong 3 năm 2002 - 2005 cho thấy tỷ lệ sâu răng và chỉ số SMT của răng vĩnh
viễn tăng dần theo lứa tuổi [26].
Năm 2012, Nguyễn Thị Mai nghiên cứu thực trạng sâu răng của học sinh
7 – 11 tuổi tại Trường tiểu học Đền Lừ, Hoàng Mai, Hà Nội cũng cho thấy tỷ lệ
sâu răng và chỉ số SMT của răng vĩnh viễn cũng tăng dần theo lứa tuổi [27].
1.4. KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ HÀNH VI VỀ CSRM CỦA HỌC SINH
1.4.1. Khái quát về thuật ngữ [28], [29]
Hành vi sức khỏe, trong đó hành vi CSRM là một trong nhiều khái
niệm liên quan đến hành vi con người. Hành vi sức khỏe là những hành vi của
con người có ảnh hưởng tốt hoặc xấu đến sức khỏe của bản thân họ, của
những người xung quanh và của cộng đồng. Theo ảnh hưởng của hành vi,
chúng ta thấy có hai loại hành vi sức khỏe, đó là các hành vi có lợi cho sức
khỏe và các hành vi có hại cho sức khỏe. Người ta cho rằng hành vi con
người là một phức hợp của nhiều hành động chịu ảnh hưởng bởi những yếu tố
di truyền, môi trường, kinh tế - xã hội và chính trị.
Kiến thức (Knowledge), Thái độ (Attitude) và Hành vi (Practice) nói
chung là tập tính, thói quen, cách sống, cách suy nghĩ, hành động của con
người đối với môi trường bên ngoài, đối với bệnh tật.
Các yếu tố quy định nên hành vi con người có thể tóm tắt như sau:
Kiến thức Thái độ Hành vi
17
K A P
(Knowledge) (Attitude) (Practice)
Sự hiểu biết phụ
thuộc vào yếu tố văn
hóa, xã hội, kinh tế
Tư duy, lập
trường,
quan điểm
Các hoạt động
của con người
• Kiến thức.
Kiến thức hay hiểu biết của con người được tích lũy dần qua quá trình
học tập và kinh nghiệm thu được trong cuộc sống. Kiến thức là một trong các
yếu tố quan trọng giúp con người có suy nghĩ, tình cảm đúng đắn, từ đó dẫn
đến hành vi phù hợp trước mỗi sự việc.
Kiến thức phòng bệnh răng rất cần thiết trong phòng tránh bệnh răng
miệng, kiến thức, thực hành CSRM của HS bị ảnh hưởng rất nhiều của hoạt
động NHĐ trong đó đặc biệt quan trọng là giáo dục CSRM, đây là nội dung
được các nước trên thế giới cũng như chương trình NHĐ Việt Nam ưu tiên
hàng đầu.
• Thái độ.
Là tư duy, lập trường, quan điểm của đối tượng đối với một vấn đề. Ở
lứa tuổi HS PTTH khi được tiếp thu những kiến thức đúng trong việc phòng
và điều trị bệnh răng miệng các em sẽ có quan điểm đúng đắn về CSRM.
Trong CSRM các em chịu ảnh hưởng rất nhiều từ môi trường giáo dục của
nhà trường, các phương tiện thông tin đại chúng, bạn bè. Khi có quan điểm
đúng, thái độ tích cực thì chính các em có thể tác động lại đến gia đình, bạn
bè, người thân. Tuy nhiên điều kiện kinh tế xã hội, gia đình, môi trường giáo
dục có thể tác động tiêu cực đến tư duy, thái độ của các em.
18
• Hành vi.
Xuất phát từ những hiểu biết, có kiến thức và thái độ dẫn đến những
hành động của đối tượng. Kiến thức và thái độ đúng sẽ có hành động đúng
và ngược lại.
Tìm hiểu về kiến thức, thái độ, hành vi về VSRM của HS PTTH là việc
làm cần thiết, đặc biệt là đánh giá mối liên quan với bệnh sâu răng, viêm lợi.
Qua đó giúp cho chúng ta tìm được biện pháp can thiệp đúng đắn, thích hợp.
1.4.2. Thực trạng thực hành chăm sóc răng miệng trên thế giới
Mahmoud K. Al-miri và cộng sự (2006) nghiên cứu ở 557 HS độ tuổi
trung bình là 13,5 ở một trường học phía bắc Jordan, báo cáo cho thấy
83,1% HS có sử dụng bàn chải và kem đánh răng để VSRM; 36,4% đánh
răng vào buổi sáng, 52,6% đánh răng vào buổi tối trước khi đi ngủ và
17,6% đánh răng cả buổi sáng và buổi tối trước khi đi ngủ. Có 66% HS đi
khám răng miệng định kỳ, 46,9% chỉ đến nha sĩ khi đau và 20,1% ít khi
hoặc không bao giờ đến nha sỹ [30].
Zhu L (2003) nghiên cứu 4400 HS từ 12 - 18 tuổi ở Trung Quốc cho
thấy có 44% HS chải răng ít nhất 2 lần/ngày nhưng chỉ có 17% có sử dụng
thuốc đánh răng có flour, 29% HS 12 tuổi chỉ đến khám bác sỹ răng khi răng
đã bị đau [31].
Rao và cộng sự tiến hành nghiên cứu tại Ấn Độ cho biết có tới 59,2 -
62% HS có chải răng ít nhất 1 lần/ngày nhưng chỉ có 5,7 - 13,6% sử dụng
thuốc đánh răng và 21,1% dùng tro và than để đánh răng hàng ngày [32].
Theo Petersen và cộng sự nghiên cứu ở Thái Lan năm 2001, tỷ lệ trẻ
em sử dụng đồ ngọt hàng ngày rất cao như sữa đường, chè đường, nước ngọt
19
và liên quan đến tỷ lệ sâu răng rất cao 70 - 96,3% tùy từng độ tuổi, tỷ lệ HS
chải răng 1 lần/ngày là 88% [33].
David và cộng sự (2005) nghiên cứu ở Ấn Độ, cho rằng trẻ không sử
dụng bàn chải răng thì có nguy cơ sâu răng cao gấp 1,9 lần những trẻ khác [34].
1.4.3. Thực trạng thực hành chăm sóc răng miệng ở Việt Nam
Theo nghiên cứu của tác giả Chu Thị Vân Ngọc (2008) ở HS 11 - 14
tuổi cũng cho thấy: có 84,64% đạt điểm kiến thức phòng bệnh loại khá, HS
nữ đạt điểm giỏi cao hơn HS nam, tất cả HS đều có bàn chải riêng và sử dụng
thuốc đánh răng, có 85,64% HS chải răng thường xuyên vào buổi sáng và
buổi tối trước khi đi ngủ, 63,44% HS chải từ 1 - 3 phút, 18,89% HS chải trên
3 phút và có 94,2% HS chải răng từ 2 lần trở lên mỗi ngày [35].
Theo kết quả nghiên cứu của Đào Thị Ngọc Lan tại Yên Bái năm 2003
thì khi được hỏi về thói quen VSRM thế nào sau khi ăn thì chỉ có 10,37% HS
đánh răng, 19,51% dùng tăm xỉa răng, 26,52% xúc miệng và có tới 43,6%
không vệ sinh răng miệng sau khi ăn, 30,49% số HS đánh răng ngày 2 lần,
15,85% HS đánh răng ngày 1 lần, tỷ lệ HS thỉnh thoảng là 9,45% và 44,21%
HS không đánh răng [28].
Kết quả của Nguyễn Đăng Nhỡn tại Yên Sơn - Tuyên Quang năm 2004
ở HS 12 tuổi cho thấy 32,71% biết mình bị sâu răng. Khi được hỏi về thói
quen thực hành đánh răng thì có 28,04% HS không đánh răng. 45,79% đánh
răng ngày 1 lần và 26,17% đánh răng ít nhất 2 lần/ngày, 65,42% chưa đi khám
răng lần nào [19].
Trong nghiên cứu của Ngô Thị Hoa Sen năm 2004 tại Gia Lâm, Hà Nội
70% cha mẹ có kiến thức về phòng chống bệnh răng miệng chưa đạt yêu cầu và
86,1% thực hành phòng chống bệnh răng miệng cho con chưa đạt yêu cầu [36].
20
Theo kết quả của Nguyễn Văn Thành, nghiên cứu tại thị xã Hưng Yên
năm 2007 ở HS 6 tuổi cho thấy: Tỷ lệ HS đánh răng ngày 1 lần là 61,01%, 2 lần
là 38,99%. 41,01% chỉ đánh răng vào buổi sáng, 23,03% chỉ đánh răng buổi tối
trước khi đi ngủ và 35,96% đánh cả 2 thời điểm trên, 64,44% chưa đi khám răng
bao giờ và 100% chải ngang răng khi đánh răng [37].
Nghiên cứu của Lê Huy Nguyên tại Hoài Đức, Hà Tây năm 2007 cho
thấy tỷ lệ HS có kiến thức đạt là 40%, 20% HS thực hành phòng chống sâu
răng đạt yêu cầu [20].
Kết quả nghiên cứu ở Diên Khánh, Khánh Hòa năm 2008 cho thấy
đa
số HS được hỏi đều chải
răng từ hai lần trở lên 50% và số HS chỉ chải răng
duy nhất một lần trong ngày chiếm 17% trong tổng số. Tỉ lệ HS có thực hành
chải răng trên ba lần trong một ngày chiếm tỉ lệ thấp nhất 2%. Thời điểm chải
răng phổ biến của các em HS là buổi tối trước khi đi ngủ và buổi sáng sau khi
thức dậy, chiếm tỉ lệ tương ứng là 84% và 95%. Tỉ lệ HS có thực hành chải
răng ngay sau khi ăn thấp nhất 9%.
- Phương pháp đánh răng bằng cách chà ngang được sử dụng phổ biến
nhất 32%. Tỉ lệ HS thực hành phương pháp Bass còn rất hạn chế 2%. Kết quả
nghiên cứu còn cho thấy có khoảng 38% số HS không có cách chải răng cố định.
Tỷ lệ HS có thực hành chung đúng về chải răng chỉ chiếm 1% do số HS có thực
hành đúng về phương pháp chải răng khá khiêm tốn, chiếm 2% tổng số.
- Về thói quen đi khám răng định kỳ, s
ố HS có đến nha sĩ trong sáu
tháng gần đây chiếm tỉ lệ cao nhất
34%, đáng chú ý là có 23% tổng số cho
biết chưa bao giờ đi khám răng. Số HS có thực hành khám răng định kỳ từ một
lần trở lên trong một năm còn chiếm 20% trong tổng số; đáng chú ý là có đến
72% số HS không bao giờ khám răng định kỳ.
- Thói quen sử dụng thực phẩm có đường giữa các bữa ăn chính khá phổ
21
biến; 48% số HS được khảo sát dùng các thức ăn có đường từ một đến hai lần
trong ngày, 22% số này dùng hơn hai lần và 30% HS sử dụng thực phẩm có
đường giữa các bữa ăn chính. Tần suất sử dụng thức uống có đường có thấp
hơn so với các thức ăn ngọt, tỉ lệ HS dùng thức uống có đường dưới một lần
trong ngày chiếm đa số 51%, giữa các bữa ăn chính là 52%, sử dụng thức uống
có axit giữa các bữa ăn chính là 75% [38].
Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Hữu Tước ở HS khối lớp 6 tại trường
THCS Hoàn Sơn, Tiên Du, Bắc Ninh cho thấy.
- Về số lần đánh răng trong ngày của HS: Chiếm tỷ lệ cao nhất là HS
chỉ đánh răng 1 lần trong ngày với 50,6%. HS đánh răng 2 lần trong ngày
chiếm tỷ lệ 34,4%. Không đánh răng chiếm tỷ lệ cũng khá cao là 11,1%. Và tỷ
lệ thấp nhất là đánh răng 3 lần trong ngày chỉ chiếm 3,9%.
- Trong đó số HS đánh răng vào buổi sáng chiếm 36,5%, đánh răng vào
buổi tối chiếm 20,4%, chỉ có 38,7% các em đánh răng cả sáng và tối, và 4,4%
các em đánh răng ngày 3 lần.
- Thực hành đánh răng: Phần lớn các em thực hành đánh răng không
đúng cách, 89,6% các em đưa bàn chải ngang thân răng khi đánh răng và
33,8% các em khi đánh răng chỉ chải mặt ngoài.
- Thời gian đánh răng chiếm tỷ lệ cao nhất là các em đánh răng từ 1- 2
phút với 42,2%, tiếp đến là đánh răng 2-3 phút với 16,9%, có 12,4% đánh
răng dưới 1 phút, chỉ có 7,1% đánh răng từ 3 phút trở lên và có 21,4% các em
không rõ thường đánh răng trong bao lâu.
- Thói quen ăn quà vặt: Thỉnh thoảng HS ăn quà vặt chiếm tỷ lệ cao
nhất với 63,6%. Mức độ thường xuyên chiếm tỷ lệ 20,8%, hiếm khi chiếm
11,7%. Tỷ lệ thấp nhất là không bao giờ chỉ chiếm 3,9%.
22
- Số lần đi khám răng trong năm: HS không đi khám răng chiếm tỷ lệ cao
nhất trong số 154 HS được phỏng vấn với tỷ lệ là 82,5%. Đi khám 1 lần chiếm
11,7 %. Đi khám từ 2 lần trở lên chiếm tỷ lệ thấp chỉ đạt 5,8% [39].
Theo nghiên cứu của Đào Thị Dung năm 2007 tỷ lệ HS không đạt kiến
thức về VSRM 43,76%, 52,26% HS hiểu sai về nguyên nhân gây sâu răng,
55,45% chưa đạt về thực hành chăm sóc răng miệng. Tỷ lệ HS đánh răng
không đúng phương pháp và thời điểm là 57,4% và 56,24% [40].
Theo nghiên cứu của Trần Ngọc Thành, Ngô Văn Toàn năm 2005 tại
Trường Tiểu học Khương Thượng, Đống Đa, Hà Nội cho thấy tỷ lệ HS có ăn
đồ ngọt vào buổi tối chiếm 27,4%. Có sử dụng đồ uống có ga là 18,3%. HS
đánh răng buổi sáng chiếm 92%, đánh răng buổi tối chiếm 89,7%, đánh răng
ngay sau khi ăn chỉ chiếm 39,3% và tỷ lệ đánh răng 3 lần/ngày chỉ có 21%.
Trong đó tỷ lệ HS đánh răng đúng là 63,9% [41].
Nghiên cứu của Trần Anh Thắng ở học sinh PTTH tại Hòa Bình năm
2011, có 83,4% HS đánh răng ít nhất 2 lần một ngày trở lên, có 64,5% HS
đánh răng > 2 phút mỗi lần và có 68,6% HS đánh răng xoay tròn và chải lên
xuống [42].
1.5. VÀI NÉT VỀ TRƯỜNG PTTH CHU VĂN AN
Trường PTTH Chu Văn An là trường phổ thông trung học công lập ở
Hà Nội được thành lập từ năm 1908, đây là một trong những ngôi trường lâu
đời và giàu truyền thống giáo dục nhất của Việt Nam.
Là một trong các trường PTTH có tiếng ở Đông Dương khi xưa và Việt
Nam hiện nay, trường Bưởi - Chu Văn An là nơi đào tạo các thế hệ trí thức có
tinh thần dân tộc cao, trong đó có các nhân vật nổi tiếng của Việt Nam trên nhiều
lĩnh vực như Phạm Văn Đồng, Nguyễn Khắc Viện, và đặc biệt đây là nơi cố
23
Bác sỹ Tôn Thất Tùng, người thầy thuốc ngoại khoa đầu nghành ở Việt Nam và
trên thế giới đã từng học.
Chương trình NHĐ đã được triển khai ở nước ta từ năm 1980, Hà Nội
là một trong những địa phương đầu tiên triển khai, đến nay chương trình
NHĐ vẫn chưa được phủ kín các quận huyện. Công tác NHĐ thực hiện vẫn
chưa thực sự có chất lượng ở những trường đã được triển khai. Đó cũng là
nguyên nhân khiến tỷ lệ mắc bệnh sâu răng và viêm lợi của HS các trường,
các cấp học nói chung và cấp PTTH nói riêng là khá cao. Từ kết quả của
nghiên cứu này chúng tôi mong muốn đóng góp một phần cơ sở dữ liệu xây
dựng bức tranh chung về bệnh sâu răng, viêm lợi, từ đó có những khuyến
nghị phù hợp trong quá trình triển khai hoạt động NHĐ tại trường nhằm làm
giảm tỷ lệ mắc sâu răng, viêm lợi của HS.
24
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƯỢNG, ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
* Tiêu chuẩn lựa chọn:
- Là HS lớp 10, 11, 12 nằm trong độ tuổi 15 - 17, đang học tại trường
PTTH Chu Văn An năm học 2012 – 2013.
- HS đồng ý hợp tác.
* Tiêu chuẩn loại trừ:
- Học sinh không điền đầy đủ phiếu thu thập thông tin.
- Học sinh đang điều trị chỉnh nha bằng mắc cài cố định.
- Không có sự đồng ý và tự nguyện tham gia nghiên cứu, của cả HS và
phụ huynh học sinh.
- Là những HS không nằm trong độ tuổi từ 15 – 17.
2.1.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
* Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 10/2012 – 11/2013
* Địa điểm nghiên cứu: Trường PTTH Chu Văn An – Quận Ba Đình – Hà Nội.
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU [1], [43]
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang
2.2.2. Mẫu
* Cỡ mẫu:
Ước tính một tỷ lệ trong quần thể [43].
n = Z²(1-α/2)
p(1-p)
∆
2
Trong đó:
- Z(1-α/2): Độ tin cậy ở mức xác xuất 95% (≈ 1,96).
- p: Tỷ lệ mắc bệnh răng miệng của cộng đồng.
- 1- p: Tỷ lệ không mắc bệnh răng miệng của cộng đồng.
- ∆: Khoảng sai lệch mong muốn của kết quả nghiên cứu từ mẫu so
với quần thể.
- p = 0,68 (Theo kết quả điều tra của Trần Văn Trường năm 2000)
25
- ∆ = 0,05
Sau khi tính toán chúng tôi được n = 334.
Trên thực tế chúng tôi thu thập được số mẫu là 368.
* Kỹ thuật chọn mẫu: Mẫu ngẫu nhiên
Trường có 3 khối là 10, 11, 12. Chọn ngẫu nhiên 4 lớp mỗi khối, khám
và phỏng vấn cho tất cả các em HS trong 12 lớp.
2.2.3. Các bước tiến hành thu thập thông tin lâm sàng
* Công cụ thu thập số liệu:
Số liệu được thu thập thông qua phiếu điều tra răng miệng cho HS, có
kết hợp giữa phỏng vấn và khám lâm sàng với nội dung theo phiếu in sẵn.
Phiếu điều tra răng miệng gồm 2 phần: phiếu phỏng vấn và phiếu
khám răng miệng.
- Phiếu phỏng vấn bao gồm các nội dung: thông tin chung, kiến thức, thái độ
hành vi chăm sóc răng miệng của HS.
- Phiếu khám răng miệng
Khám lâm sàng và các dụng cụ sử dụng để khám. Cụ thể như sau:
Bộ khay khám răng: khay quả đậu, gương, thám trâm, gắp
Cây thăm dò nha chu của WHO.
Dụng cụ để khử khuẩn.
Các dụng cụ khác như: Đèn pin, gương nha khoa có đèn, thám châm có đèn,
bông, cồn, găng tay.