Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Trước tác của Phan Mạnh Danh trong bối cảnh hiện đại hóa văn học Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (511.35 KB, 23 trang )

Trước tác của Phan Mạnh Danh trong bối cảnh
hiện đại hóa văn học Việt Nam
Trương Thị Hải
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Luận văn Thạc sĩ ngành: Văn học Việt Nam; Mã số: 60 22 34
Người hướng dẫn: PGS.TS. Trần Ngọc Vương
Năm bảo vệ: 2012
Abstract. Làm rõ các vấn đề như: Nhìn nhận một cách khách quan và đầy đủ toàn
bộ cuộc đời và văn nghiệp của Phan Mạnh Danh. Chỉ rõ thế ứng xử của Phan Mạnh
Danh trong bối cảnh hiện đại hóa văn học Việt Nam. Hoạt động sáng tác văn chương
và biên soạn sách của ông lúc đó đều nhằm mục đích duy trì và bảo tồn những giá trị
văn hóa cổ truyền, nó khác xa với xu thế thời cuộc lúc bấy giờ. Chính sự khác biệt
này đã đưa ông trở thành một trong số ít ỏi những người đã có những nỗ lực xóa mờ
đi vết đứt gẫy sâu sắc giữa hai giai đoạn văn học. Trên cơ sở lí thuyết về loại hình
học tác giả tiến hành nhận định loại hình tác giả đối với Phan Mạnh Danh. Đánh giá
những công lao của Phan Mạnh Danh trong việc giữ gìn, bảo tồn, phục hưng nền
văn học văn hóa nước nhà.
Keywords. Văn học Việt Nam; Nghiên cứu văn học; Thơ
Content
A. Phần mở đầu:
1. Lí do chọn đề tài:
1.1. Để nhận diện những đặc trưng tiêu biểu của một giai đoạn văn học người nghiên
cứu thường tìm đến cách tiếp cận các tác giả lớn đại diện cho một tổ chức, một khuynh
hướng, một trào lưu văn học nào đó. Tuy nhiên, bên cạnh những cá nhân kiệt xuất, nổi bật đã
được đào sâu nghiên cứu vẫn còn tồn tại những hiện tượng văn học độc đáo khác ít nhiều
cũng góp phần vào tiến trình vận động của văn học Việt Nam thì ít hoặc hầu như chưa được
nghiên cứu. Nghiên cứu những trường hợp này là một cách để trả lại cho họ vị trí xứng đáng
trong nền văn học đồng thời là cách để khẳng định hay làm chính xác hóa hơn một hay một
vài đặc điểm của giai đoạn văn học mà tác giả đó tồn tại; cũng có khi nghiên cứu những tác
giả “vô tình bị bỏ quên” đó sẽ là sự bổ khuyết ở một phương diện nào đó cho những công
trình nghiên cứu trước đó. Bởi thế, tìm đến những vùng đất còn tương đối hoang sơ và mới


mẻ luôn là nhiệm vụ của người nghiên cứu khoa học.


1.2. Từ lâu trong giới nghiên cứu văn học, đa số đều thừa nhận trong tiến trình văn
học Việt Nam từ văn học trung đại sang văn học hiện đại có một sự đứt gẫy sâu sắc. Mặc dù,
giới nghiên cứu vẫn dành cho giai đoạn văn học này một danh xưng là: văn học cận đại, song
việc nghiên cứu các tác giả đại diện thuộc giai đoạn này chủ yếu hướng tới đặc điểm “văn
chương yêu nước”, đặc điểm “hiện đại hóa văn học” – dù đó là những đặc điểm nổi bật của
văn học giai đoạn này. Bên cạnh đó vẫn có những nhà nho âm thầm giữ gìn, bảo tồn vốn văn
hóa truyền thống của dân tộc bằng các sáng tác của mình. Và rất có thể chính những tác giả
này là những viên gạch lấp đầy vết đứt gẫy xưa nay vẫn tồn tại giữa hai giai đoạn văn học.
Nghiên cứu trường hợp Phan Mạnh Danh chúng tôi thấy ông có nhiều khả năng bổ khuyết
vào chỗ đứt gẫy này.
1.3. Từ cuối thế kỉ XIX Tân thư tân văn được truyền bá và gây ảnh hưởng rộng rãi
trên đất nước ta. Nhiều nho sinh của cửa Khổng sân Trình đã trở thành lực lượng đi tiên
phong trong việc bài xích nền cựu học truyền thống và chế độ khoa cử lỗi thời. Họ tìm đến
một lối văn chương mới lạ với ngôn ngữ, đề tài, cảm hứng, thể loại khác xa với văn học
truyền thống. Tân thư trở thành làn gió mới mẻ bao trùm lên đời sống xã hội, văn học lúc bấy
giờ. Như đứng ngoài sự ảnh hưởng đó,Phan Mạnh Danh vẫn tìm về với lối thơ văn cổ, dốc
tâm huyết để làm mới nó. Đứng ở góc độ khách quan, việc làm đó của.ông cần phải được
nhìn nhận và đánh giá như thế nào?
1.4. Ba thập niên đầu thế kỉ XX, trong các thành thị Việt Nam xuất hiện bộ phận văn
học mới phân biệt rõ rệt với bộ phận văn học truyền thống ở nông thôn. Văn học thành thị ra
đời đã làm thay đổi cả quan niệm văn học: văn học phải đi theo hướng cận, hiện đại của thế
giới; thay vì thói quen diễn đạt tư tưởng tình cảm bằng thơ ca văn vần như trước, văn xuôi
phát triển khá nhanh chóng đi gần với tiếng nói thông tục để phản ánh chân thực hiện thực
cuộc sống. Những thay đổi có tính chất bước ngoặt đó đưa văn học Việt Nam tiến nhanh vào
quỹ đạo hiện đại của thế giới, và văn học truyền thống ngày càng bị thu hẹp, mất vị trí trong
đời sống văn học đương thời. Trước những thay đổi chóng mặt đó một số nhà nho đã tỏ thái
độ nuối tiếc những giá trị văn hóa lâu đời của dân tộc, họ vẫn sáng tác bằng thứ ngôn ngữ cũ,

vẫn những lối văn cũ thậm chí còn có ý định phục hưng nền văn hóa, văn học cũ. Bên cạnh
những thành tựu của một nền văn học mới thì những sáng tác của họ không phải là không có
ý nghĩa tích cực làm nên tinh hoa của một giai đoạn văn học. Chúng tôi muốn minh chứng
điều đó qua nghiên cứu trường hợp Phan Mạnh Danh.
Vì những lí do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài Trước tác của Phan Mạnh Danh trong
bối cảnh hiện đại hóa văn học Việt Nam.
2.Lịch sử vấn đề:
Trong phần này chúng tôi điểm qua lại toàn bộ những công trình nghiên cứu, những
bài viết có liên quan đến con người, trước tác của Phan Mạnh Danh đã được công bố trong
khoảng từ khi tác giả qua đời cho đến nay. Có thể kể đến đó là:
2.1. Từ điển văn học Bộ mới (NXB Thế giới) và trong cuốn Các tác giả văn chương
Việt Nam, tập 2, NXB Văn hóa thông tin nhà nghiên cứu Đặng Thị Hảo và Trần Mạnh
Thường đã có một nghiên cứu toàn diện và khái quát về tiểu sử, trước tác của Phan Mạnh
Danh. Cả hai công trình này giống như một chiếc chìa khóa để mở ra nhiều cánh cửa cho
người nghiên cứu tiếp theo.
2.2. Năm 1942, Phạm Quỳnh đã viết lời tựa mở đầu cho cuốn Bút hoa. Tiếp sau đó là
bài diễn văn bằng tiếng Pháp Một nhà thơ cổ điển Việt Nam đọc tại phòng Hội nghị Huế


ngày 3/5/1943 do Nguyễn Tiên Lãng dịch ra tiếng Việt in trong cuốn Xuân mộng. Cả hai bài
viết Phạm Quỳnh đều muốn giới thiệu với đương thời một “nhà thơ cổ điển” sừng sững giữa
cơn bão táp văn học Á Âu.
2.3. Bài viết Thi văn tập của cụ Phan Mạnh Danh của tác giả Song Cối in trên tạp chí
Tri Tân số ra ngày 28/10/1942. Bài viết kể ra những ưu điểm, nhược điểm của Phan Mạnh
Danh trong thơ văn Hán, thơ văn dịch và thơ Nôm.
2.4. Tạp chí Hán Nôm tập 1 số 104 năm 2011 có đăng bài viết của PGS.TS Trần Thị
Băng Thanh với nhan đề Sức hấp dẫn của Truyện Kiều với danh sĩ Bắc Hà – Trường hợp
Phan Mạnh Danh, tác giả đã giới thiệu lại chân dung Phan Mạnh Danh - một tác giả văn học
vô tình bị quên lãng trong khoảng mấy mươi năm. Tác giả dành phần lớn bài viết của mình
giới thiệu về cuốn Bút hoa thơ tập cổ.

Như vậy, nhìn chung các công trình nghiên cứu trên đây chỉ mới dừng lại ở phạm vi
cá nhân con người hoặc liệt kê đánh giá sơ bộ hệ thống các sáng tác hoặc giới thiệu, phẩm
bình một trước tác của Phan Mạnh Danh mà chưa đặt ông vào trong tiến trình vận động của
nền văn học. Triển khai đề tài “Trước tác của Phan Mạnh Danh trong bối cảnh hiện đại hóa
văn học Việt Nam” chúng tôi sẽ cố gắng tạo dựng một cái nhìn toàn diện, đa chiều về con
người và trước tác của Phan Mạnh Danh trong tiến trình vận động văn học Việt Nam những
thập niên đầu thế kỷ XX.
3. Nhiệm vụ của đề tài:
Luận văn của chúng tôi hướng đến làm rõ các vấn đề sau:
- Nhìn nhận một cách khách quan và đầy đủ toàn bộ cuộc đời và văn nghiệp của Phan
Mạnh Danh.
- Chỉ rõ thế ứng xử của Phan Mạnh Danh trong bối cảnh hiện đại hóa văn học Việt
Nam.
- Trên cơ sở lí thuyết về loại hình học tác giả tiến hành nhận định loại hình tác giả đối
với Phan Mạnh Danh.
- Đánh giá những công lao của Phan Mạnh Danh trong việc giữ gìn, bảo tồn, phục
hưng nền văn học văn hóa nước nhà.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Để làm rõ đề tài, chúng tôi đặt mục tiêu khảo sát toàn bộ những tài liệu do nhà thơ
sáng tác và / hoặc biên tập, phiên dịch bao gồm: các tác phẩm thơ, thơ tập cổ; kịch bản tuồng
do chính Phan Mạnh Danh sáng tác; thơ văn dịch; biên tập điển tích văn học và thực dụng
thành ngữ; các công trình nghiên cứu, bài viết về tác giả Phan Mạnh Danh còn lại cho đến
nay.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Để nghiên cứu triển khai đề tài luận văn này chúng tôi sử dụng một số phương pháp
như: phương pháp đối chiếu, so sánh; phương pháp lịch đại; phương pháp thống kê; phương
pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp lịch sử cụ thể. Tùy từng vấn đề mà chúng tôi có sự
lựa chọn hay phối kết hợp nhiều phương pháp.
6. Đóng góp của luận văn:
Triển khai đề tài này chúng tôi mong muốn sẽ góp một tiếng nói xác lập lại vị trí của

tác giả Phan Mạnh Danh trong nền văn học; nhận định loại hình học tác giả nhà nho Phan
Mạnh Danh; đánh giá những công lao của ông trong việc phục hưng nền văn học, văn hóa
nước nhà.


7. Cấu trúc của luận văn
Luận văn của chúng tôi gồm 3 chương chính:
Chương 1: Tiểu sử và hành trạng
Chương 2: Trước tác của Phan Mạnh Danh
Chương 3: Phan Mạnh Danh – Nhà nho tài tử trong bối cảnh hiện đại hóa văn học Việt
Nam
Ngoài ra còn có phần phụ lục về một số bài viết và hình ảnh mà chúng tôi sưu tập được
sau khi Phan Mạnh Danh qua đời.
B. Phần nội dung
Chương 1: TIỂU SỬ VÀ HÀNH TRẠNG
Trong chương này, chúng tôi tập trung tạo dựng lại chân dung tác giả Phan Mạnh
Danh ở góc độ tiểu sử và những mốc thời gian quan trọng trong cuộc đời hoạt động văn học
của ông. Nội dung này được cụ thể hóa thành các giai đoạn sau:
1.1. Giai đoạn 1 (Từ năm 1866 đến năm 1887)
Phan Mạnh Danh sinh ngày 12/12/1866 (tức mùng 6 tháng 11 năm Bính Dần), tại
Nam Định.
Từ năm 1866 đến năm 1887 Phan Mạnh Danh còn nhỏ, sống chủ yếu ở Nam Định.
Thời gian này, ông trải qua quá trình đào tạo và tự đào tạo bài bản theo Nho giáo. Năm 20
tuổi, Phan Mạnh Danh bắt đầu có tác phẩm đầu tiên.
1.2. Giai đoạn 2 (Từ năm 1888 đến năm 1915)
Sau khi lập gia thất, Phan Mạnh Danh sống tại tỉnh lỵ Hưng Yên. Thời gian này ông
tham gia khá nhiều các hoạt động đàm đạo và sáng tác văn học được tổ chức tại Hưng Yên.
Các trước tác in dấu tài năng trong sự nghiệp văn học của ông cũng được hình thành trong
thời gian này như: Bút hoa thơ tập cổ, Xuân mộng…
1.3. Giai đoạn 3 (Từ năm 1916 đến năm 1942)

Đây là những năm cuối đời, Phan Mạnh Danh sống chủ yếu tại Nam Định. Thời gian
này ông có điều kiện để nghiên cứu về y học, trồng cây, chắp núi, uốn cảnh vẽ tranh và đi
thăm thú nhiều nơi. Những trước tác của ông giai đoạn này bộc lộ khá rõ ràng ý định lưu giữ,
bảo tồn các giá trị văn học truyền thống. Những hoạt động văn học tiêu biểu: viết Tuồng Hoa
tiên vừa Hán vừa Nôm, dịch Đa tình hận (Từ Chẩm Á) và Tình sử (Long Tử Do), viết tập
Xuân mộng bằng quốc văn [tức chữ Nôm – TTH], viết thơ đề vịnh bằng chữ Hán về những
nơi danh thắng đi qua, biên tập Điển cố, làm Thơ cổ tập Kiều và Thơ cổ tập truyện Nôm…
Ông ra đi vào lúc hơn 5 giờ sáng, ngày 26 tháng 4 năm Nhâm Ngọ (dương lịch ngày
9 tháng 6 năm 1942), thọ 77 tuổi.
Tiểu kết chương 1: Như vậy, ở chương 1 chúng tôi đã tiến hành dựng lại bức chân
dung con người của Phan Mạnh Danh trên cơ sở nguồn tư liệu về tiểu sử gia đình và những
sự kiện chính trong cuộc đời tác giả. Những thông tin này cung cấp một cái nhìn logic, ngọn
nguồn về những yếu tố cấu thành, tác động và ảnh hưởng đến việc hình thành thế giới quan,
tư tưởng của Phan Mạnh Danh sau này. Trong chương 1, chúng tôi cũng đã lần theo mốc thời
gian tái hiện lại những sự kiện quan trọng trong cuộc đời tác giả và những hoạt động văn học
tiêu biểu dẫn đến sự ra đời của một trước tác nào đó. Sự tái hiện này cũng chỉ có tính chất sơ
lược là điểm tên trước tác, còn việc thẩm bình, định giá giá trị của tác phẩm sẽ được triển
khai cụ thể ở chương 2.


Chương 2: TRƯỚC TÁC CỦA PHAN MẠNH DANH
Trong chương này chúng tôi tiến hành khảo sát toàn bộ trước tác của Phan Mạnh Danh bằng
việc đưa ra một niên biểu các trước tác của ông. Sau đó chúng tôi lựa chọn những trước tác
tiêu biểu tương ứng với các giai đoạn phát triển của văn học Việt Nam làm hệ quy chiếu để
thẩm bình và định giá giá trị của các trước tác. Cụ thể các giai đoạn đó như sau:
2.1. Giai đoạn trước năm 1900
2.1.1. Đời sống xã hội và văn học
Cuối thế kỷ XIX, các phong trào đấu tranh chống Pháp lần lượt thất bại, Pháp đã đặt
xong ách thống trị trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Chúng áp dụng hàng loạt các chính sách
đồng hóa văn hóa, mưu toan thay thế triệt để chữ Hán bằng chữ quốc ngữ theo mẫu tự La

tinh. Tuy nhiên, mọi sự cố gắng của chúng đều không được nhân dân ta chấp nhận. Việc học
chữ Hán và thi cử bằng chữ Hán vẫn được tổ chức theo định kỳ.
Sự kiện Pháp xâm lược đã làm xuất hiện trong văn học một trào lưu văn học yêu
nước. Văn học giai đoạn này thu hút được một lực lượng sáng tác đông đảo là các nho sĩ cần
bút chiến đấu như: Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Tư Giản, Nguyễn Xuân Ôn…
2.1.2. Những trước tác tiêu biểu của Phan Mạnh Danh
Tập văn Nôm lục bát và song thất lục bát Mấy bức tiên hoa được viết năm Phan Mạnh
Danh 20 tuổi (1885) là tác phẩm đầu tiên trong sự nghiệp sáng tác của ông. Với tập văn này
ông đã được đánh giá là “bậc cao Nôm”.
Từ năm 1896, Phan Mạnh Danh đã “nghĩ ra lối Kiều tập thơ cổ, theo điệu thơ thổng
của đào nương”. Sau hơn bốn năm, ông “đã làm ra được một tập hơn 60 bài liên cú và hơn
300 bài cách cú”, đặt nhan đề là Bút hoa thi thảo. Cuốn sách được in lần đầu vào đầu năm
1942. So với các cách tập Kiều của Lý Văn Phức, Thẩm Quỳnh, Nguyễn Khuyến, Phan Bội
Châu, Tản Đà, Hoàng Trung Thông, Nguyễn Quảng Tuân… Phan Mạnh Danh tập Kiều theo
một lối riêng, rất lạ lẫm. Phan Mạnh Danh đã tự tạo nên trăm nghìn cái khó cho mình khi
dùng Kiều tập thơ cổ rồi lại dùng thơ cổ tập Kiều.Trong khi Kiều tập thơ cổ, không tùy tiện
cắt xén, thêm bớt từ ngữ như lối tập Kiều thông thường mà tác giả lại nương theo lối thơ
thổng ả đào và lối thơ thổng mới. Chưa biết tỏ tường cách chơi nhưng đã thấy để tập được
một bài Kiều theo cách của Phan Mạnh Danh người tập ngoài việc thuộc Kiều còn phải thuộc
cơ man nào là thơ cổ (thơ Tàu và thơ ta), lại phải am tường nghệ thuật hát ả đào – thứ nghệ
thuật cũng lắm công phu, lắm lối lắm điệu.
Theo lối thơ thổng ả đào, tác giả giải thích cách làm như sau: “Theo lối thơ này thì lấy
trong các sách Tàu ra mỗi chỗ một câu thơ, rồi ghép lại thành một bài thơ tứ tuyệt đủ niêm
luật, bài thơ chữ ấy đọc vần xuống bốn câu Kiều liền, mà bốn câu liền lại hình như dịch
nghĩa những câu thơ chữ ấy ra. Dùng đủ ba mươi vần bằng từ vần nhất đông đến vần thập
ngũ hàm. Câu nào trích ở sách nào đều có chua ở bên cạnh”. Theo cách này Phan Mạnh Danh
đã tập được 46 bài thơ Hán (tương ứng với 184 câu thơ Hán) và chọn ra được 45 khổ thơ 4
câu Kiều liền (tương ứng với 180 câu lục bát) để “dịch” các bài Hán thi tập trên.
Theo lối thơ thổng mới, tác giả làm được 126 bài tập Kiều, với 252 cặp câu lục bát và
504 câu Hán thi tuyển. Tác giả giải thích cách làm như sau: “Theo lối này thì lấy trong các

sách Tầu ra mỗi chỗ một câu thơ, rồi đem hai câu ghép lại với nhau, đọc vần xuống hai câu
Kiều liền; kế đến hai câu thơ chữ lẩy nữa, lại đọc vần với hai câu Kiều liền nối theo. Câu thơ
nào trích trong sách nào đều có chua ở bên cạnh. Các bài Kiều xếp đặt trước sau theo thứ tự


trong Truyện Kiều”. Cách làm này có phần đơn giản hơn lối thơ thổng ả đào, bởi bốn câu thơ
chữ không cần ghép thành một bài tuyệt cú, chỉ cẩn câu thơ chữ thứ hai bắt vần với cặp Kiều
lẩy. Lại kế đến hai câu thơ chữ tiếp phải bắt vần với cặp Kiều lẩy tiếp theo. Hai cặp Kiều lẩy này
phải cùng trong một khổ Kiều liền 4 câu.
Sáng tạo ra một lối chơi Kiều công phu, độc đáo như trên là một sự đáng nể phục.
Song để tạo ra được “hơn 60 bài liên cú và hơn 300 bài cách cú” mà bài nào cũng hay như
nhau, cũng tài tình như nhau là một việc khó. Trong cuốn Bút hoa thi thảo, mặc dù tác giả đã
làm công việc tuyển chọn ra những bài hay nhất, chỉ giữ lại 46 bài liên cú và 126 bài cách cú,
nhưng đôi lúc, nếu tinh ý người đọc vẫn nhận ra những bài chưa thật hay về ý và hợp về vần.
Xét đến cùng thì đó cũng là một lẽ tất yếu, bởi trong bất cứ việc gì, nhất là sáng tạo thơ thì
càng đặt ra lắm lề thói, quy định, càng lắm mối buộc ràng (trong khi chất liệu làm ra nó có
hạn) thì càng dễ tạo ra những sản phẩm dập khuôn máy móc, mà nói hơi quá như tác giả
Song Cối trong bài viết Thi văn tập của cụ Phan Mạnh Danh là một tay “thợ thơ rất tinh
công”.
Tập văn Nôm song thất lục bát Hà Giang nhật trình (Nhật kí hành trình đi Hà Giang)
được viết năm 1897 khi tác giả đưa người em là Phan Như Xuyên lên Hà Giang nhận công
tác. Tử tấn Đào Sỹ Nhã nhận xét về tập văn Nôm:
“Trong tập văn ấy, có tả phong cảnh miền thượng du xứ Bắc Kỳ, chỉ rõ những đường
đi lối lại lúc bấy giờ, và thứ nhất là dặn dò những người chưa từng biết, phải giữ gìn khi đến
chốn ma thiêng nước độc. Cảnh tả như vẽ, việc thuật rõ ràng, lời văn lại chải chuốt nghe rất
du dương, như những câu:
Có non nước đâu mà không chủ,
Huống chi là thủy tú sơn thanh;
Hễ càng u uất càng linh,
Chớ rằng điếm cỏ lều gianh mà nhờn!”

Năm 1898, quan Tuần phủ Phạm Văn Toán có tổ chức cuộc thi thơ Nguyệt hồ bát
vịnh tại Hưng Yên. Cuộc thi thu hút nhiều danh sỹ tham gia. Phan Mạnh Danh đã làm tám bài
luật thi tập cổ và chiếm giải nhất. Hiện chỉ còn lại năm trong số tám bài in trong cuốn Bút
hoa. Về hình thức, cả năm bài tác giả đều dùng thể thơ thất ngôn bát cú đường luật, đảm bảo
được niêm luật và cách gieo vần. Về nội dung, Phan Mạnh Danh xuất phát từ chính cảnh
trong thực tế, khéo léo vận tình vào cảnh. Đọc các bài Hoa Dương cổ tự, Trần miếu hiểu
chung, Duyên đê lục thụ cũng đã có thể mường tượng ra: cảnh Nguyệt hồ ở bờ phía tây, theo
đường vòng cung, là một con đê, hai bên rìa có trồng hai rặng nhãn, lá xanh rậm rạp. Ở bờ
phía đông là một con đường đá chạy dài. Ngay bên đường, trông ra hồ, có đền thờ đức Trần
Hưng Đạo, quy mô rất là rộng rãi. Cách một quãng đến đền thờ bà Tống Hậu, của làng Mậu
Dương, cũng gọi là Hoa Dương, liên tiếp mấy tòa, ẩn hiện trong đám cây cổ thụ um tùm, như
trong tranh vẽ. Sau cùng là vọng cung với giếng nước, mà chung quanh có dinh thự của các
quan tỉnh chầu vào.
Năm 1898, sau một giấc mộng đêm xuân, ông viết tập thơ Xuân mộng bằng chữ Hán
dùng đủ 30 vần bằng trong sách Thi vận tập thành. Toàn bộ tập thơ vấn vương một chữ
“tình” của tác giả lúc tuổi đôi mươi với một người con gái tài sắc gồm hai. Phan Mạnh Danh
đã nương theo từng vần, mỗi vần làm một bài thơ chữ theo thể thất ngôn bát cú đường luật.
Tập thơ lấy Xuân mộng làm đề mục nên “từ chỉ, điển cố, thần thái, cảnh bạt đều phải hàm ý
mộng ở trong, mà phải tránh dùng đến chữ mộng; còn chữ xuân lại dùng trong khắp các bài”.


Thêm nữa “bài nào cũng phải có chữ Hảo- tên người trong mộng”. Khảo sát 30 bài thơ chữ
chúng tôi thấy tất cả các bài đều đáp ứng đủ những yêu cầu đó.
Ý mộng được biểu hiện khá linh hoạt, mỗi bài mỗi vẻ.
Chữ xuân ở mỗi bài cũng được sử dụng với những dáng vẻ và cảnh huống khác nhau:
xuân tiêu (đêm xuân), xuân tín (tin tức mùa xuân), xuân dung (dung mạo mùa xuân), xuân
suy, xuân tàn (xuân hết); xuân sắc (cảnh sắc mùa xuân), đương xuân (đang độ mùa xuân),
xuân phong (gió xuân), xuân vụ tỏa (xuân khóa kín), xuân hận, xuân oán (nỗi hờn xuân);
xuân trào (sự chê cười của mùa xuân), Giang nam xuân (sắc xuân nơi Giang nam), xuân tư
(dáng vẻ mùa xuân), xuân dương (cảnh trời đất khi mùa xuân), xuân khuê (phòng xuân), xuân

chẩm (cái gối đêm xuân) …
Học cách làm thơ theo lối thơ tam thập vận của Nguyên Chẩn đời Đường (bài nào
cũng có chữ Oanh) nên bài nào tác giả cũng phải đưa chữ Hảo – tên người trong mộng vào.
Chữ hảo xuất hiện cũng rất sinh động, nhiều vẻ, mỗi bài đứng ở vị trí khác nhau.
Tập thơ Xuân mộng còn có cái hay ở chỗ, bên cạnh việc dùng chữ hảo và ý mộng
trong khắp các bài, thi sỹ còn có những bài thơ mỗi câu dùng tên một giống điểu, thú, ngư,
trùng, cũng có bài mỗi câu dùng tên một từ khúc, một vị thuốc bắc, một thứ chè tàu, một
người con gái có tiếng. Khảo sát trong 30 bài thơ chữ có 5 bài dùng theo lối này (Đắc ngư tự,
Đắc ngu tự, Đắc ca tự, Đắc hàn tự, Đắc nguôn tự).
Tập thơ đã được thi sỹ văn nhân đương thời đánh giá cao. Ưng Bình Thúc Giạ Thị đã
nói: “Trong tập thi ấy, nhiều bài hay, mà lại nhiều câu hay đến cực điểm”. Có những câu
“tình tứ rất thông thường, rất đúng với sự thiệt của đời người, mà thi gia xưa nay chưa từng
nói đến”
Sầu khả tửu tiêu nhưng hóa lệ
Tâm phi thạch chuyển tiện thành hôi
(Đắc khôi tự)
Buồn thì có thể lấy rượu mà tiêu buồn đi, song rượu lại hóa thành nước mắt
Lòng ta không phải là đá mà có thể xoay chuyển được, nhưng vì sầu não cho nên nó
nát ra tro.
Như vậy, trong giai đoạn này Phan Mạnh Danh chủ yếu vẫn dành nhiều thời gian cho
thú làm thơ và chơi thơ của mình, ý định “phục cổ” chưa bộc lộ ra một cách rõ ràng. Cuốn
Bút hoa thơ tập cổ và tập thơ Xuân mộng sau này trở thành dấu ấn trong sự nghiệp sáng tác
của ông.
2.2. Giai đoạn từ 1900 đến 1930
2.2.1. Đời sống xã hội và văn học
Sau khi thực dân Pháp đặt được ách thống trị trên đất nước ta, về hình thức, triều đình
phong kiến vẫn tồn tại nhưng mất đi tính chất tự chủ mà chịu sự ước thúc của thực dân Pháp.
Trong hàng ngũ quan lại xuất hiện những cách ứng xử khác nhau, trong đẳng cấp nhà Nho
nói chung cũng có một sự phân hóa mãnh liệt.
Năm 1905, Tân thư, Tân văn được truyền bá sâu rộng vào nước ta. Với tinh thần

chung là phê phán sự hủ bại của xã hội phong kiến, ca ngợi văn minh Âu – Mỹ, yêu cầu cải
cách đất nước về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội Tân thư có ảnh hưởng mạnh mẽ
tới các nhà nho lúc bấy giờ. Tuy nhiên, Tân thư ra đời không theo trình tự nội sinh mà xuất
hiện bị động do sức ép từ bên ngoài nên bản thân nó chưa được hoàn thiện đầy đủ và phù hợp
với môi trường xã hội nước ta. Những thay đổi của đời sống xã hội đã khiến cho “cái cũ mất


đi vai trò, ý nghĩa lịch sử của nó song cái mới vẫn chưa đủ trưởng thành để đáp ứng những
đòi hỏi của một tiến trình phát triển mạch lạc tiếp tục”.
Từ sau năm 1903, các nhà nho trí thức đã nhận thấy tính đa tiện ích của chữ quốc ngữ
nên đã phát động toàn dân học thứ chữ mới này. Từ đây chữ quốc ngữ đã chính thức có được
“trước bạ” để dần dần trở thành chữ viết của toàn dân tộc. Các nhà Nho truyền thống vốn
quen sử dụng chữ Hán, chữ Nôm nay đã sử dụng chữ quốc ngữ vào việc sáng tác văn
chương. Báo chí quốc ngữ xuất hiện dày đặc, và do đó bản thân báo chí lại trở thành “phương
tiện truyền bá và giáo dục chữ quốc ngữ có hiệu quả nhất”.
Ngay sau khi Pháp đặt ách đô hộ, mặc dù vẫn duy trì chế độ khoa cử như trước nhưng
trong tầng lớp danh sĩ đã xuất hiện tư tưởng “giã đám”. Một số vẫn đi thi như là để hoàn tất
trọn vẹn cái sự học của mình chứ không đặt cái đích “vinh danh”; một số có tài năng xuất
chúng đi thi, thi đỗ hoặc ra làm quan rồi lại cáo quan (Phan Châu Trinh) hoặc không chịu ra
làm quan (tiêu biểu là Phan Bội Châu đỗ thủ khoa – Giải nguyên trường Nghệ năm 1900;
Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng đậu tiến sĩ năm 1904)... Không chỉ tỏ thái độ ứng xử
chính trị, các nhà nho tiêu biểu nhất của lối văn cử tử còn dùng thơ văn để phê phán, bài xích,
khai tử cho chính nền cựu học đã đào tạo ra chính mình (bài Chí thành thông thánh và Lương
ngọc danh sơn phú của Bộ ba xứ Quảng). Vì thế, tất yếu, sớm muộn gì cũng xảy ra sự kiện:
năm 1915 khoa thi Hương cuối cùng đã diễn ra ở Bắc Kì và năm 1918 khoa thi Hội cuối cùng
đã diễn ra ở Nam Kì. Từ đây nước ta chấm dứt việc tuyển dụng quan lại thông qua khoa cử
Hán học. Chữ Hán đã không còn chiếm vị trí như trước nữa mà thay vào đó là chữ Quốc ngữ
và chữ Pháp. Tuy vậy, chữ Hán vẫn không vắng bóng hẳn, “việc tự học chữ Hán (và chữ
Nôm) vẫn tiếp tục diễn ra ở các tư gia, nhất là trong các gia đình vốn có truyền thống Nho
học”. Có thể nói: trong suốt vài chục năm đầu thế kỷ XX, chữ Hán vẫn lay lắt tồn tại, thơ văn

bằng chữ Hán vẫn được sáng tác, lưu truyền và in ấn.
Những năm đầu của thế kỉ XX, phong trào dịch đã xuất hiện ở nước ta, sớm nhất là ở
Nam Bộ dịch truyện cổ Trung Quốc. Sau phong trào dịch lan rộng và được nâng cao hơn ở
Bắc Bộ: dịch các sách Tàu, sách phương Tây (chủ yếu là sách Pháp) và sách Hán cổ của các
cụ cha ông ta thuở trước. Chính những tác phẩm dịch này đã góp phần thay đổi quan điểm,
thị hiếu của nhân dân ta (nhất là ở thành thị) và xây dựng quan điểm, thị hiếu thẩm mỹ mới.
Trong những sách dịch của nước ngoài chiếm phần đa là các “tiểu thuyết “ngôn tình, nhu
cảm” của Trung Quốc và Pháp, những tác phẩm của chủ nghĩa cổ điển, chủ nghĩa lãng mạn
và chủ nghĩa hiện thực phê phán Pháp”.
Như vậy, trong ba thập niên đầu thế kỷ XX đời sống kinh tế, chính trị, giáo dục, văn
học ở Việt Nam có sự thay đổi theo xu hướng một số giá trị cũ bị mất đi mãi mãi nhường chỗ
cho một số giá trị mới xuất hiện, hoặc thay đổi để phù hợp với sự đổi thay của xã hội. Điều
đó tác động đến văn học khiến cho văn học Việt Nam từ 1900 – 1930 có sự tồn tại song song
của hai nền văn học cũ và mới với hai lực lượng sáng tác, hai công chúng, hai quan niệm văn
học, hai loại ngôn từ văn học ở hai địa bàn khác nhau. Nền văn học mới đang dần ở thế thắng
lợi tiến tới thay thế cho nền văn học cũ, song nền văn học cũ tuy đang trên con đường suy tàn
nhưng hào quang của nó vẫn có tác dụng tích cực nhất định trong sự phát triển của văn học
dân tộc.
2.2.2. Trước tác của Phan Mạnh Danh từ năm 1900 đến năm 1930
Đây là giai đoạn Phan Mạnh Danh tham gia hoạt động sáng tác văn học nhiều nhất và
hầu hết các sáng tác đều hướng đến ý định lưu truyền lại những tinh hoa của văn học cổ trung


đại.
Do đặc điểm chữ ta và chữ Tàu đều là đơn âm ngữ nên các bậc thi gia xưa đã nghĩ ra
lối thơ thuận nghịch độc. Thuận nghịch độc hay hồi văn là bài thơ có thể đọc xuôi bình
thường từ câu đầu cho đến câu cuối, cũng vẫn bài thơ đó, nếu đọc ngược lên từ chữ cuối câu
cuối và chấm dứt bài thơ với chữ đầu của câu đầu bài thơ thì bài thơ vẫn đúng niêm luật, vần
điệu và có ý nghĩa. Đây là một lối thơ rất khó làm vì mỗi khi làm một câu thơ lại phải đọc
xuôi, đọc ngược làm sao cho cả hai cách đọc xuôi, đọc ngược đều phải có ý nghĩa và hợp vận

luật. Phần nhiều đọc xuôi hay đọc ngược đều thành hai bài Nôm hoặc hai bài chữ. Song, do
đặc điểm chữ Nôm có những chữ được cấu tạo là nguyên chữ Hán hoặc đọc cùng âm, hoặc
đọc khác âm nên có thể làm ra một bài đọc xuôi thành thơ chữ, đọc ngược thành thơ Nôm
được. Cú pháp trong Việt văn và trong Hán văn có nhiều chỗ khác nhau nên dùng chữ và đặt
câu có phần công phu hơn là làm những bài thơ thuận nghịch độc toàn Nôm hoặc toàn chữ.
Tìm trong số những sáng tác của Phan Mạnh Danh còn lưu lại được có 4 bài thơ làm
theo lối thuận nghịch độc, trong đó có một bài Hán thi đọc xuôi đọc ngược đều thành thơ chữ
(Trung tiêu đạo biệt) và 3 bài thơ đọc xuôi thành thơ chữ và đọc ngược thành thơ Nôm (Liễu
âm tống biệt, Tích biệt – kỳ nhất, kỳ nhị). Ở đây ta khoan xét đến bài thơ chữ Trung tiêu đạo
biệt. Chỉ ba bài thơ thuận nghịch độc sau đã thấy thi nhân là một bậc kì tài. Hầu hết cả ba bài
đều đảm bảo được vận luật của một bài thơ thất ngôn bát cú đường luật (Trừ bài Tích biệt Kỳ nhất, thơ Nôm đọc ngược từ bài chữ là không hợp vần). Về ý nghĩa, giữa bài đọc xuôi và
đọc ngược có bài đúng nghĩa nhau (Tích biệt – kỳ nhị), có bài khác nhau ở một số câu (Tích
biệt – kỳ nhất), có bài tạo ra sự độc đáo, khác biệt từ cách lí giải sự tình ở câu đầu hay câu
cuối (Liễu âm tống biệt).
Năm 1905, Tổng đốc Lê Hoan có tổ chức cuộc thi thơ ĐỀ THANH TÂM TÀI NHÂN
LỤC tại tỉnh lỵ Hưng Yên. Ban chấm thi gồm có Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến và
Giải nguyên Dương Lâm là các vị danh sĩ đương thời. Phan Mạnh Danh cũng tham gia cuộc
thi này. Ông làm một bài tựa chữ Hán, 21 bài thơ chữ Hán, 21 bài thơ Nôm phỏng theo
những bài chữ. Kết quả cuộc thi: Chu Mạnh Trinh nhất thơ chữ Nôm, Chu Thấp Hy nhất thơ
chữ Hán. Không giành giải nhất nhưng bài thi của Phan Mạnh Danh cũng có nhiều điều thú
vị, hấp dẫn.
Với yêu cầu thứ nhất, Phan Mạnh Danh làm một bài tựa. Bài tựa kể những duyên do,
sự tình khiến cho truyện của Thanh Tâm Tài Nhân được viết ra, ấy là: phong lưu oan nghiệt,
chữ mệnh vì chữ tài mà chịu ghen ghét, chữ tình vì chữ sắc mà phải vương mang. Tác giả vừa
kể chuyện vừa bình luận sử dụng những điển tích để thâu tóm lời văn ngắn gọn đồng thời tái
tạo lại không khí mới cho câu chuyện thêm phần hấp dẫn lạ lẫm mà vẫn không làm thay đổi
cốt truyện. Không dừng lại đó, tác giả bộc lộ quan niệm của mình để thương tiếc cho phận
má hồng nói chung: Than ôi! Kẻ có tài sắc tuyệt vời thường mắc phải nửa đời lưu lạc, là bởi
nợ yên hoa ác nghiệt, gốc ở nơi hồng tuyết nguyên do. Chớ bảo rằng: nhi nữ chuyện thường,
nhi nữ nghìn thu còn để tiếng, nếu nhi nữ lại nhận mình là tri kỉ, cũng đủ thôi hờn. Nếu kiếp

tái sinh ở giữa đời này, ta có thấy cũng sinh lòng yêu mến”. Tác giả lại tự nhận mình là người
đồng đạo, tri âm với Thanh Tâm Tài Nhân và cụ Tiên Điền, lại chỉ tưởng tượng đến người
(tức Thúy Kiều) nên mới “vẽ vợi ra bức sông thu đem treo đây” mà kể lể một trường xuân
mộng. Bài tựa gồm toàn những câu đối, các câu đối lại được xếp đặt theo niêm luật, số chữ
trong một câu luôn thay đổi, âm thanh khi bổng khi trầm như đã nói ở trên nên đã làm mất đi
cái vẻ thô sáp của một tiểu thuyết chương hồi, cùng với đó là tấm lòng của tác giả được bộc bạch


tri âm với Nguyễn Du và kiệt tác Truyện Kiều.
Với yêu cầu thứ hai, Phan Mạnh Danh làm một bài đề từ (bài tổng vịnh) Hán họa lại
bài của cụ Phạm Lập Trai và một bài đề từ Nôm. Cái hay của hai bài này là “tác giả đã đem
tinh thần của tự gia mà hóa đề từ thành điểm nhãn” (Tôn Thất Lương chú giải) nghĩa là ông
đã tóm lược cả hai mươi hồi của Thanh Tâm Tài Nhân lục (tên gọi của tác phẩm ghi lại
truyện của Thanh Tâm Tài Nhân bằng chữ Hán lưu hành trong xã hội ta thuở ấy) để vẽ nên
bức họa một mĩ nhân bằng các nét điểm bút, có cốt cách tinh thần.
Với yêu cầu thứ ba, Phan Mạnh Danh đã làm “dôi” ra so với yêu cầu của cuộc thi:
ông làm đủ 20 bài Hán và 20 bài Nôm tương ứng với 20 hồi trong Thanh Tâm Tài Nhân lục,
và “tác giả dường như bắt đầu làm tập thơ chữ” rồi mới “nương theo thơ chữ mà dịch ra
Nôm”. So với 20 bài Nôm của Chu Mạnh Trinh phần thơ Nôm của Phan Mạnh Danh có phần
thiếu đi sự bay bổng, vẻ sinh động. Song với cách làm bài thi như thế chỉ có thể cắt nghĩa bởi
chữ “ngông”. Vì ngông nên mới “không làm đủ” theo yêu cầu của cuộc thi mà biến cuộc thi
trở thành chốn để khoe tài; hoặc Phan Mạnh Danh không coi trọng đến yêu cầu của cuộc thi
mà xem cuộc thi là nơi mình thỏa sức bộc lộ niềm yêu thích, say mê Truyện Kiều của mình.
Năm 1917, Phan Mạnh Danh dựa vào truyện Nôm Hoa tiên viết Tuồng Hoa tiên vừa
Nôm vừa chữ “câu văn điệu hát đều rất công phu và tỏ rõ được cái tài của thi gia sành về âm
nhạc”.
Những năm đầu thế kỷ XX, nhờ có chữ quốc ngữ mà phong trào dịch ngày càng phát triển.
Mới đầu là những trí thức Tây học thông thạo chữ Pháp như Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh
đem dịch các tác phẩm chữ Pháp ra tiếng Nam với đủ các lối văn. Sau là các nhà nho cuối
mùa còn sót lại từ thế kỷ trước, tự cho mình là không hợp với phong trào Thái tây thì “hoặc

vì kế sinh nhai, hoặc vì buồn không có việc đem các tiểu thuyết Tàu dịch ra quốc ngữ”. Cũng
có những nhà nho gửi gắm trong bản dịch của mình những ưu tư về tiền đồ của dân tộc,
mong muốn dịch phẩm của mình ít nhiều có tác động đến nhân tình thế thái lúc bấy giờ.
Trường hợp Phan Mạnh Danh với bản dịch Đa tình hận (1919) của Từ Chẩm Á và Tình sử
(1920) của Long Tử Do là một ví dụ. Khi dịch hai truyện này, Phan Mạnh Danh đều hướng
tới cái đích “cảnh tỉnh mê tình”: “Ở đời người con giai con gái, phần nhiều nhầm về một chữ
tình, nào là trộm gương dòm ngọc, nào là bẻ liễu vin hoa, ngày ngày cái án phong lưu thường
thường vẫn có. Sách này riêng về kẻ dụng tình ấy làm gương, để khỏi phải sa nơi bể khổ, mà
người làm sách cũng hiểu được tình lý ấy, cho nên muốn dẹp sóng cuồng. Trong sách này tả
những giai gái tình si, dụng tình lắm mối, và gồm đủ cả tình ái, tình diễm, tình si, tình ảo, tình
đố, tình hiệp, tình kỳ, tình ai, tình khổ, mọi loại tình, thành ra một bộ tình sử nhỏ, thực là có
thể đánh thức những người si nam oán nữ đang trong giấc mộng say mê”, hoặc “chuyên răn
kẻ nhầm mắc lưới tình, phải biết dụng tình cho chính đáng […] việc tuy phần nhiều thuộc về
giai gái, nhưng mối thì là tình, mà văn thì là sử, cũng quyền trứ bút, cũng ý thải phong, điều
thiện có thể khuyên người ta làm, điều ác có thể khiến người ta tránh”.
Năm 1825 khi vừa tròn 60 tuổi, Phan Mạnh Danh làm “một tập Xuân mộng bằng quốc
văn” gồm một bài Tình trường kí, một bài Thoại mộng hành và 30 bài luật thi đủ 30 vần bằng
như tập Hán văn”.
So với 30 bài thơ chữ, làm thơ Nôm tác giả cũng “ít được công phu bằng”. Vì thế,
cũng có khi đem ý xuân để thay vào chữ xuân , chữ hảo cũng chỉ lác đác. Khảo sát tổng số 30
bài thơ Nôm chỉ có 4 bài có chữ hảo, 7 bài có chữ xuân. Tuy nhiên, do không đặt yêu cầu quá
cao ở chỗ buộc phải xuất hiện từ xuân, hảo nên lời thơ có phần uyển chuyển, mượt mà hơn.


Thêm nữa, cái ý mộng lại được biểu đạt dạt dào hơn. Ta thấy ở nhiều bài xuất hiện những từ
như: hình, bóng, mây, khói, giấc, hồn, ảo, chân, tơ tưởng, phảng phất, thấp thoáng, mơ
màng… và các điển cố: non Giáp, Lũng hữu, Nam kha… Có nhiều bài từ từ ngữ đến điển cố,
từ thần thái đến cảnh bạt đều biểu hiện được cái ý mộng ở trong (Vần nhất đông, Vần nhị
đông, Vần bát tề, Vần cửu giai, Vần thập nhất chân, Vần cửu thanh, Vần thập chưng, Vần
thập nhất vưu…).

Tập thơ Xuân mộng còn có cái hay ở chỗ, bên cạnh việc dùng chữ hảo và ý mộng
trong khắp các bài, thi sỹ còn có những bài thơ mỗi câu dùng tên một giống điểu, thú, ngư,
trùng, cũng có bài mỗi câu dùng tên một từ khúc, một vị thuốc bắc, một thứ chè tàu, một
người con gái có tiếng. Những bài như thế này ở thơ chữ xuất hiện đều đặn, phong phú hơn
thơ Nôm. Khảo sát trong 30 bài thơ Nôm có 2 bài dùng theo lối này (Vần ngũ vi, Vần lục
ngư).
Như vậy, đây là giai đoạn Phan Mạnh Danh tham gia nhiều hoạt động văn học và
sáng tác văn học nhất. Hệ thống trước tác của Phan Mạnh Danh gian đoạn này bắt đầu xuất
hiện những dấu hiệu thể hiện ý đồ sàng lọc, lựa chọn, lưu truyền cho hậu thế những lối làm
văn, chơi thơ tinh tế của thơ văn cổ trung đại. Giai đoạn này, Phan Mạnh Danh cũng đã chú ý
đến việc phiên dịch các tác phẩm văn học Trung Quốc sang chữ Nôm. Các tác phẩm được
phiên dịch phần nhiều đều nói đến chữ “tình”, song ông dùng chữ “tình” để đề cao những giá
trị đạo đức truyền thống.
2.3. Giai đoạn từ năm 1930 đến năm 1942
2.3.1. Đời sống xã hội và văn học
Từ sau năm 1930 thực dân Pháp ngày càng điên cuồng thực hiện các chính sách đàn
áp về quân sự, chuyên chế về chính trị, bóc lột về kinh tế và đầu độc về văn hóa. Trong lĩnh
vực văn học diễn ra cuộc đấu tranh, cũng là sự tác động qua lại giữa văn học cách mạng, văn
học hiện thực phê phán và văn học lãng mạn. Từ 1930 đến 1935 có hàng loạt các cuộc tranh
luận lớn nhỏ: cuộc tranh luận về Nho giáo, cuộc tranh luận xung quanh vấn đề “Thơ mới”,
cuộc tranh luận về vấn đề mới và cũ, hôn nhân và gia đình trên các báo Phong hóa và Phụ nữ
tân văn. Tất cả các cuộc tranh luận đó phản ánh cuộc đấu tranh chống lễ giáo phong kiến, ủng
hộ chủ nghĩa cá nhân, bênh vực tình yêu lứa đôi; chống những khuôn khổ gò bó, lối suy nghĩ
và ngôn ngữ khuôn sáo trong thơ ca của một lớp người đã lỗi thời, đã tàn tạ. Sang thời kỳ
Mặt trận Dân chủ (1936 – 1939) dòng văn học cách mạng và văn học hiện thực phê phán đã
chiếm ưu thế. Văn học cách mạng thời kì này đã có những chuyển biến về chất, bên cạnh thể
loại thơ ca cách mạng đã xuất hiện thể loại tiểu thuyết, truyện kí, lí luận phê bình (Hải Triều,
Hải Thanh, Bùi Công Trừng, Sơn Trà…). Hàng loạt các cuốn tiểu thuyết của dòng văn học
hiện thực phê phán đã ra đời, và lần đầu tiên văn học hiện thực phê phán xây dựng được
những tính cách điển hình trong những hoàn cảnh điển hình (chị Dậu trong Tắt đèn, Nghị

Hách trong Giông tố, Xuân tóc đỏ trong Số đỏ…). Văn học lãng mạn cũng trực tiếp hoặc gián
tiếp chịu ảnh hưởng, tác động của hai dòng văn học trên nên có những phân hóa theo hướng
tiến bộ. Một số nhà văn lãng mạn có tác phẩm thiên hẳn về khuynh hướng hiện thực (Gió
lạnh đầu mùa của Thạch Lam, Con trâu của Trần Tiêu, Lầm than của Lan Khai). Trong địa
hạt thơ ca, người ta bắt đầu đề xuất xóa bỏ hai chữ “Thơ mới” bởi lẽ “hai chữ thơ mới là biểu
hiện một cuộc cách mệnh đương bồng bột” mà “cuộc cách mệnh về thi ca ngày nay đã yên
lặng như mặt nước hồ thu”, nghĩa là sự toàn thắng của thơ mới tới năm 1936 là quá rõ rệt
khiến người ta không cần phải bàn cãi, tranh luận nữa. Thơ mới đã giành được quyền sống.


Trên văn đàn văn học, trong hàng ngũ đông đảo thanh niên chịu ảnh hưởng của thơ văn
Pháp nhiều người lại quay về với thơ Đường. Vẫn phê phán cái học khoa cử, những bài thơ
vô nghĩa cứ học đi học lại nhưng “nhiều thiếu niên Tây học vẫn có người xem sách nho”, “họ
chỉ cốt tìm một nguồn sống tinh thần”, “họ đi tới thơ Đường với một tấm lòng trong sạch và
mới mẻ, điều kiện cần thiết để hiểu thơ” cho nên nhiều người trong số họ đã “hiểu thơ Đường
hơn nhiều tay khoa bảng”. Thơ Đường vắng bóng đã lâu, nay (năm 1934) lại trở về trong thơ
của J.Leiba, sau đó là Thái Can, Đỗ Huy Nhiệm, Vân Đài, Lưu Kỳ Linh, Phan Khắc Khoan,
Thâm Tâm… Đặc biệt phải kể đến Hàn Mặc Tử và Quách Tấn đều có chung một quan niệm
“Thơ không có mới cũ, chỉ có thơ dở và thơ hay”, nghĩa là với họ, quan niệm về thơ “bao
hàm ý nghĩa mỹ học riêng, nghiêng về chất lượng nghệ thuật của thi ca và tài thơ của thi
nhân”. Bước vào khuôn khổ nghiêm ngặt của thơ Đường, Hàn Mặc Tử có Lệ Thanh thi tập
(chưa xuất bản), Quách Tấn có Một tấm lòng (1939) và Mùa cổ điển (1941). Tuy nhiên, chỉ
có thơ Quách Tấn là “cảm được người đàn bà khó chiều kia” – tức thơ cũ theo cách nói của
tác giả Thi nhân Việt Nam. Bích Khê sau khi đọc xong bản thảo Mùa cổ điển có nhận xét:
“chỉ bài Đêm thu nghe tiếng quạ kêu cũng đã dành cho anh một địa vị xứng đáng trong làng
thơ đất Việt, huống hồ Mùa cổ điển còn bao “kỳ cú, cao tình”” và từ đây Bích Khê “không
làm thơ Đường nữa vì đã có anh rồi”; Yến Lan lại bình thơ Quách Tấn: “Tình tuôn ra lệ, lệ
đọng thành châu, từng hàng từng hàng trên mặt nhung tuyết trải”.
Như vậy, “mối lương duyên” (chữ dùng của tác giả Thi nhân Việt Nam) từ Một tấm
lòng đến Mùa cổ điển của Quách Tấn đã nhen lên một làn gió phục cổ vào đầu những năm 40

khiến cho “thiếu niên nước nhà lại chú ý đến sách vở của nhà nho ngày trước”. Thế nhưng
những bài thơ của Quách Tấn dù được hoan nghênh cũng khó lòng làm sống lại hệ thống thi
pháp của thơ cổ phương Đông với những niêm, luật, vần, đối… vốn được quy định chặt chẽ.
Không khí văn chương giai đoạn này nghiêng hẳn về phía những cái mới, những cái cũ có
chăng cũng chỉ lóe lên như ánh hào quang của một thời kỳ đương sắp sửa tàn.
2.3.2. Trước tác tiêu biểu của Phan Mạnh Danh từ năm 1930 đến năm 1942
Năm 1930, Phan Mạnh Danh đã vào tuổi 65. Trong số những người con cũng đã có
người thành tài, gia tư bắt đầu thư thái, ông có nhiều thời gian dành cho việc đi ngao du ngắm
cảnh hưởng thú vui tuổi già. Đi tới đâu ông cũng có thơ đề vịnh đến đó. Hiện nay, trong cuốn
Thi văn tập trích lục còn in lại 29 bài thơ Hán (đã trừ 5 bài Nguyệt hồ bát vịnh đã nói ở phần
2.1) trong đó phần lớn là thơ vịnh cảnh: khi đến chùa Hương ông đã làm một chùm 6 bài thơ
về quần thể di tích chùa Hương: Hương tích tuyền độ, Xả chu đăng ngạn, Đề giải oan tự,
Thiên trù tự, Hương tích thạch động, Tiên sơn tự; đến vịnh Hạ Long ông có làm bốn bài thơ:
Hỏa huyền trung Hạ Long loan diểu vọng, Phiếm chu du Hạ Long loan, Đề Hạ Long kì quan
động, Đề Đào nương hác; vào kinh thành Huế ông có làm ba bài thơ: Yến lịch đại đế vương
lăng cảm tác, Kinh thành duyệt lãm cảm hoài, Phiếm chu du Hương Giang; trên đường từ
Huế vào Đà Nẵng ông lại có dịp dừng chân ngắm cảnh đèo Hải Vân và tham quan động
Huyền Không: Hải Vân quan diểu vọng, Thủy sơn Huyền Không động… ngoài ra còn có các
địa danh khác được lưu dấu trong thơ ông: Xuân trọng du Yên Tử sơn ngẫu chiếm, Chapa
chấn nạp lương… Những bài thơ này đều không đề năm sáng tác, do vậy khi soi chiếu vào
hành trạng của tác giả trong cuộc đời chúng tôi phỏng đoán rằng những bài thơ này được làm
trong khoảng từ năm 1930 đến 1935 – thời gian tác giả cùng các con đi du ngoạn các danh
thắng nhiều nhất. Trong số những bài thơ vịnh danh lam thắng cảnh ấy có nhiều bài không
chỉ miêu tả cảnh mà còn ẩn chứa cả những suy ngẫm, triết lí nhân sinh của tác giả về cuộc


đời.
Từ năm 1935 đến 1940 khi đã ngoài 70 tuổi, Phan Mạnh Danh lại lựa chọn trong
nhiều tập thơ cổ và một ít văn cổ để đem dịch ra quốc văn, theo nguyên điệu. Cuốn sách có
tên Cổ thi trích dịch (Hán – Sở, Đường, Ngũ Đại, Tống – Nguyên, Minh, Thanh) in lần đầu

năm 1953. Trong sách này, tác giả họ Phan cũng trích dịch nhiều truyện và thơ ca trong Tình
sử loại lược của Long Tử Do, xem ra chữ “tình” cũng vấn vít và hầu như chưa bao giờ buông
tha học giả đạo Khổng. Cũng dịch nhiều truyện trong Tình sử loại lược nhưng khác với cuốn
Tình sử dịch hồi năm 1920, lần này dịch giả tập trung hơn vào dịch thơ của những tài tử giai
nhân hơn là kể tình tiết các câu chuyện tình. Điều này hoàn toàn phù hợp với nhan đề của
cuốn sách là Cổ thi trích dịch. Còn xét về tài dịch, chúng tôi xin mượn lời của Tử tấn Đào Sỹ
Nhã: “Tiên sinh [tức Phan Mạnh Danh] chẳng những đã lột hết được tinh thần của nguyên
tác, mà lời văn chải chuốt thanh tao, cú điệu tự nhiên, khiến người đọc quên cả là thơ văn
dịch.”
Trong làn gió phục cổ vào đầu những năm 1940, mặc dù đã tuổi già sức yếu, Phan
Mạnh Danh vẫn muốn góp một phần sức lực của mình để dóm lại lò văn xưa kia, vì vậy, ông
lại “cặm cụi với bút nghiên trong thư phòng nhỏ tại Bút hoa trang Nam Định”, ông tìm “chép
lại những bài văn Nôm đã làm trong mấy chục năm trước, và biên soạn thêm nhiều bài mới”.
Những bài này sau được tập hợp in trong cuốn Thi văn tập trích lục.
Đầu năm 1941, Phan Mạnh Danh cùng với các con biên soạn một bộ Điển cố do chính
cổ nhân ghi chép để làm tư liệu cho đời sau học tập thơ văn cổ. Khởi thảo cuốn sách chẳng
được bao lâu thì Phan Mạnh Danh thấy trong người đã suy nhược nhiều, cần phải nghỉ ngơi.
Sau Phan Thế Roanh đã phải cùng với một số nhà biên soạn khác cũng ưa chuộng thơ văn cổ
tiếp tục công việc. Đến khi vừa đủ 80 điển, sắp xếp theo trình tự A B C thì vì cuộc chiến
tranh mà công việc bị bỏ dở và bản thảo cũng bị thất lạc nhiều. Vì thế, vào năm 1953, khi
cuốn Điển cố truyện và thơ thường dùng làm văn liệu được in chỉ có 3 truyện do Phan Mạnh
Danh dịch, đó là: Hứa Tuấn – Liễu Chương đài, Vu Liên Súy – Khách qua đường, Vân Anh –
Cầu Lam; và ý định sắp xếp bộ Điển cố theo trật tự A B C cũng không thực hiện được.
Cuối năm 1941 đầu năm 1942, khi sức khỏe đã suy sụp nhiều, Phan Mạnh Danh vẫn
cố gắng làm phần Thơ cổ tập Kiều và Thơ cổ tập truyện Nôm để bổ sung thêm vào cuốn Bút
hoa. Vẫn một lối chơi thơ tài hoa, tài tử của 40 năm trước Phan Mạnh Danh làm 10 bài Thơ
cổ tập Kiều theo Lối thơ thổng ả đào. Tác giả giải thích lối chơi này như sau: “Theo lối này
thì chọn lấy nguyên một bài thơ cổ thất ngôn tứ tuyệt trong sách Tàu, đọc vần xuống bốn câu
Kiều lảy, mà những câu Kiều lẩy ấy lại dùng để phiên dịch bài thơ cổ kia. Bài thơ cổ nào, của
thi sĩ nào và trích ở sách nào đều có chua rõ.” Theo lối này thì đúng là tác giả đã “dùng Kiều

để dịch thơ cổ”. Các bài thơ cổ được “dịch” cũng phải lựa chọn nội dung na ná như những
câu Kiều. Bài Tích trung tác (Sầm Tham – Đường thi) được PGS.TS Trần Thị Băng Thanh
đánh giá là hay nhất trong số 10 bài Thơ cổ tập Kiều.
Phan Mạnh Danh cũng lựa chọn trong số 21 truyện Nôm có tiếng của ta như: Bích câu
kì ngộ, Cung oán, Chinh phụ ngâm, Hoa tiên, Hoàng Trừu, Lục Vân Tiên, Tống Trân, Ngọc
Hoa, Thạch Sanh… để viết thành mười bài Thơ cổ tập truyện Nôm. Cách làm lối thơ này
cũng giống như làm Thơ cổ tập Kiều. Có thể là do số lượng truyện Nôm dùng vào để “dịch”
thơ cổ phong phú hơn việc chỉ dùng một tác phẩm Truyện Kiều để “dịch” thơ cổ nên hầu hết
cả mười bài Thơ cổ tập truyện Nôm “đều đạt độ tín nhã” về ý và lời.
Như vậy, đây là khoảng hơn mười năm cuối đời trong cuộc đời Phan Mạnh Danh.


Thời gian này in dấu những cố gắng cuối cùng của ông vì mục đích “đem cổ học để mở
đường tiến hóa”. Những lí do khách quan của đời sống xã hội lúc này cũng đã cho phép Phan
Mạnh Danh phát biểu trực tiếp tâm nguyện giữ gìn, phục hưng tinh hoa văn học cổ truyền.
Những hoạt động phiên dịch, biên tập điển cố, tập cổ, đề thơ Hán ở các nơi danh thắng đi
qua… không chỉ là để thỏa thú vui văn chương của bản thân tác giả mà còn là để làm một
việc cho muôn đời mà khi đó ít ai biết được.
Tiểu kết chương 2: Trong chương 2, chúng tôi đã hệ thống hóa lại toàn bộ những
trước tác tiêu biểu, đặc sắc của Phan Mạnh Danh tương ứng với ba giai đoạn lịch sử văn học
Việt Nam mà các nhà nghiên cứu đã phân chia. Trên cơ sở đó chúng tôi nhận thấy rằng: Phan
Mạnh Danh có một quá trình hoạt động văn học liên tục không mệt mỏi ngay từ những trước
tác đầu tiên cho đến trước tác cuối cùng; những trước tác của ông mang đậm đặc đặc điểm
của lối văn chương truyền thống, đặc biệt đối với ông việc làm thơ cũng là một cách để chơi
thơ nên mỗi khi đặt bút ông thường tìm đến một lối làm thơ kì thú, độc đáo (làm một tập 60
bài thơ vừa Hán vừa Nôm trong tập Xuân mộng, vịnh 20 hồi trong Truyện Kiều bằng 20 bài
Hán và 20 bài Nôm, làm thơ thuận nghịch độc, làm thơ theo lối liên hoàn của Tô Đông
Pha…); càng về cuối đời Phan Mạnh Danh càng tỏ rõ mong muốn lưu truyền lại cho đời sau
nét đẹp của văn chương cổ truyền thống.
Chương 3:

PHAN MẠNH DANH – NHÀ NHO TÀI TỬ
TRONG BỐI CẢNH HIỆN ĐẠI HÓA VĂN HỌC VIỆT NAM
3.1. Nhìn chung về đặc điểm của lớp nhà nho tài tử trong văn học Việt Nam
3.1.1. Nhà nho tài tử và sự phát triển của văn học Việt Nam thế kỉ XVIII – XIX
Bước sang thế kỷ XVIII, bên cạnh nhà nho hành đạo và nhà nho ẩn dật đã hoàn thiện
đến trình độ cổ điển xuất hiện một loại hình nhà nho mới – nhà nho tài tử. Xét về đặc điểm,
nhà nho tài tử vẫn có những đặc điểm chung giống với nhà nho hành đạo và nhà nho ẩn dật,
song cũng có những đặc điểm riêng, đặc trưng khu biệt với hai loại nhà nho hành đạo và ẩn
dật.
Nhà nho tài tử trước hết vẫn là nhà nho kể từ nguồn gốc xuất thân, học vấn, nhân sinh
quan, thế giới quan. Sự khác biệt của người tài tử so với người ẩn dật và người hành đạo
thường là khi đã trưởng thành, trực tiếp nếm trải một môi trường sống mới buộc họ phải dần
dần tự phát và biến đổi những cảm quan nhận thức đời sống. Những phẩm chất thiên phú
thuộc tính trội được người tài tử nhận thức, nắm bắt và sử dụng như là một vũ khí để chơi
ngông với đời.
Người tài tử rất coi trọng “tài” và “tình”. Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa người tài
tử với người hành đạo và người ẩn dật. Người tài tử quan niệm “tài” theo nhiều cách. Có thể
là tài kinh luân, tài cầm quân đánh giặc, tài học vấn nhưng vẫn phải có thêm tài văn chương
“nhả ngọc phun châu”, tài cầm kì thi họa, những thứ nghệ thuật tài hoa, và phải gắn bó với
với “tình” nữa mới là người tài tử. Người tài tử có tài và biết mình có tài, có ý thức về tài nên
rất hay khoe tài, họ đòi hỏi phải có sự đãi ngộ xứng đáng với cái tài của họ. Người tài tử có
tài, muốn có sự nghiệp xứng đáng với cái tài của họ; người tài tử cũng “đa tình” và muốn có
mĩ nhân để xứng đáng với cái tình của họ. Người tài tử không quan niệm “đa tình” là say mê
sắc đẹp, mà là dễ xúc động và có nhiều tình cảm, họ lại dễ bị lôi cuốn vì sắc đẹp và có nhiều
xúc động với thân phận những người tài sắc.


Những đặc điểm trên là tiêu chí quan trọng để nhận diện nhà nho tài tử trong tiến trình
vận động của văn học Việt Nam. Dù điều kiện xã hội và văn học có nhiều thay đổi, “tài” và
“tình” có mỗi cách thể hiện khác nhau nhưng về cơ bản nhà nho tài tử vẫn mang những đặc

điểm chủ yếu trên.
3.1.2. Tản Đà – Nhà nho tài tử “kiểu mới”, mô hình nhà nho thích ứng với môi trường
hiện đại hóa văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX
Trước khi đi vào vấn đề chúng tôi muốn chỉ rõ khái niệm nhà nho tài tử “kiểu mới”
được dùng ở trên. Về cơ bản, nội hàm khái niệm nhà nho tài tử không thay đổi, nghĩa là vẫn
theo quan niệm của các nhà nghiên cứu đi trước đã được khái quát thành đặc điểm được trình
bày ở mục trên. Từ “kiểu mới” chỉ có tác dụng nhấn mạnh sự thay đổi trong cách thể hiện các
đặc điểm của người tài tử để thích ứng với điều kiện xã hội mới. Tương tự, ở mục sau chúng
tôi sẽ dùng khái niệm nhà nho tài tử “kiểu cũ” để chỉ sự duy trì các đặc điểm của nhà nho tài
tử truyền thống trong điều kiện xã hội mới. Như vậy, khái niệm “kiểu cũ” hay “kiểu mới” chỉ
có tác dụng khu biệt hai cách thể hiện các đặc điểm của nhà nho tài tử trong môi trường xã
hội Âu hóa.
Tản Đà (1889 – 1939) sinh ra trong gia đình thế nho, cha mất sớm, mẹ làm nghề đào
nương. Trong khoảng 18 năm (từ lúc 5 tuổi về học với anh ở Nam Định cho đến khi thi hỏng
năm 1912) Khắc Hiếu theo đòi Nho học. Chính nguồn gốc xuất thân đã nghiễm nhiên đào tạo
Khắc Hiếu trước hết trở thành một nhà nho.
Năm 1914, Tản Đà lập gia thất. Từ đây Tản Đà viết nhiều bài đăng báo để lấy nhuận
bút lo cho gia đình nhỏ của mình. Có thể nói, điểm khác biệt của nhà nho Tản Đà so với các
nhà nho trước là ở chỗ: Tản Đà là người sớm nhất đưa văn chương nhập thế, coi việc viết văn
là một nghề để kiếm sống.
Không trở thành nhà nho duy tân, cũng không lui về ẩn dật, lánh đời, Trong đời sống và trong
tác phẩm của ông có nhiều chứng cứ biểu hiện cho phẩm chất “thị tài” và “đa tình” của một
nhà nho tài tử.
Không có được khoa danh để “giương oai” với đời, Tản Đà “Tự trào” tuyên bố “ngông” một
cách công khai “Bán áo mà mua giấy viết ngông”.
Khác với các nhà nho thuở trước sáng tác văn chương chỉ để lưu vào thi tập văn tập,
Tản Đà đã mạnh dạn dùng tài văn chương ấy để mưu sinh chống lại cái sự nghèo. Đây là nét
“thị tài” theo xu hướng nhập cuộc với thời thế mà vẫn dương dương tự đắc “Rủ nhau quang
gánh với đời, mà cho thiên hạ chê cười cũng hay”. Chỉ sau chưa đầy nửa năm nhập cuộc
“đổi lông ra sắt”, “đem văn chương bán phố phường” Tản Đà đã “bước thẳng một bước từ

bóng tối tuyệt đối ra đứng giữa vầng hào quang văn chương sáng rực”. Trong khung cảnh
“Thi tàn, học cũng tàn theo” thì đó là cái tài cũng đáng nể trọng.
Ngay từ thuở còn là một nho sinh, Tản Đà đã tự đem thân mình vướng vào vòng tình
ái để đến nỗi cái đích vinh danh cũng bị buộc ràng với “lễ vật cầu hôn”. Thoát được bể tình
nơi trần thế, Tản Đà lại đem chữ “tình” “hành lạc” vào trong thơ. Những ý trung nhân, những
bóng hồng nhan tri kỉ trong thơ ông không ai là người trần mắt thịt, họ là những tình nhân
không quen biết, hay có quen, nhưng “từ kiếp trước”, thuở ông vẫn còn là một trong số “chư
tiên”.
Như vậy, dù là một nhà nho, Tản Đà đã chọn một bước đi phá cách lấy văn chương
làm giấy thông hành để bước vào đời, trước Tản Đà chưa có tiền lệ. Chính nét “thị tài” và
biết mình có tài mới khiến ông mạnh dạn đem tài để đương đầu với sự sống “nôm na phá


nghiệp kiếm ăn xoàng” hay dùng văn chương như một thứ sản phẩm “bán phố phường”. Tuy
nhiên, xét trong cả sự nghiệp sáng tác của mình chưa lúc nào ông không mong muốn dùng
văn chương để “truyền bá thiên lương”, “tỏa bóng mây hơi nước đến dân, xã”. Thích nghi
với thời cuộc, ông đã lựa chọn cho mình con đường đi vừa là văn sĩ, vừa là kí giả. Với tất cả
những nét “thị tài” và “đa tình” nêu trên, Tản Đà xứng đáng là “đại diện lỗi lạc cuối cùng
của loại nhà nho tài tử trong xã hội tư sản hóa”. Môi trường xã hội có những thay đổi to lớn
khiến nhà nho tài tử Tản Đà không thể bộc lộ những cách ứng xử giống với những bậc tài tử
tiền bối, điều này thể hiện một sự thích ứng cao độ giữa tính cách và hoàn cảnh. Trong văn
chương, trên cơ sở cái cũ, Tản Đà cũng vạch cho mình những lối đi táo bạo, mới mẻ xứng
đáng trở thành “nhịp cầu nối hai hệ hình văn học”, thành “con người của hai thế kỉ”.
3.2. Phan Mạnh Danh – Nhà nho tài tử “kiểu cũ”, mô hình nhà nho đề kháng với môi
trường hiện đại hóa văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX, những cống hiến của ông trong
việc phục hưng nền văn học văn hóa truyền thống
3.2.1. Phan Mạnh Danh – Nhà nho tài tử “kiểu cũ”, mô hình nhà nho đề kháng với môi
trường hiện đại hóa văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX
Theo gia phả dòng họ Phan còn lưu lại ở xã Phù Ủng, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên
thì đây cũng là một dòng họ lớn có nề nếp khoa bảng. Chính vì thế, ngay từ thuở bé, Phan

Mạnh Danh đã được học tập bài bản lối văn cử nghiệp từ chính những người cậu, người anh
họ và những bậc danh tiếng trong làng. Dù không thi đỗ, không làm quan nhưng xét quá trình
đào tạo và tự đào tạo của Phan Mạnh Danh cũng đủ khẳng định ông là nhà nho, hay Phạm
Quỳnh đã trân trọng gọi ông là “nhà nho thuần nho”.
Thông thường, những nho sinh của Khổng môn đi thi, thi không đỗ thường trở về quê
hương làm các loại thầy (nho, y, lý, số) và cuối cùng trở thành người ẩn dật ở chốn quê nhà.
Trong suốt cuộc đời mình, Phan Mạnh Danh cũng có quãng thời gian khoảng gần 10 năm làm
nghề dạy học, và một thời gian làm lương y bốc thuốc cứu người nhưng rốt cục hoàn cảnh
vẫn không đưa ông trở thành nhà nho ẩn dật “mũ ni che tai” mà lánh đời.
Ở vị trí con người cùng đồng hành với phong trào Âu hóa, với công cuộc hiện đại hóa
văn học những năm đầu thế kỉ XX, Phạm Quỳnh coi Phan Mạnh Danh là thế hệ “bậc đàn
anh”, “vì không đương nổi cái trào lưu của thời đại nó xô đẩy quá sức mình, mà đặt mình
trong giấc mộng thi văn, để mượn cái thú ngâm nga mà giữ trọn lấy tấm lòng cao thượng, cho
khỏi những nông nỗi đau thương xung đột với đời”.
Trong cuộc đời dành trọn cho thú văn chương, dù không nhập thế coi văn chương là
kế sinh nhai như Tản Đà và nhiều văn nhân, kí giả đương thời, Phan Mạnh Danh cũng để lại
nhiều tác phẩm có giá trị xứng đáng ghi danh tên tuổi vào nền văn học Việt Nam. Vẫn duy trì
quan niệm của các nhà nho xưa, cho đến năm 75 tuổi, ông chưa hề xuất bản văn thơ, thơ của
ông chỉ rất ít những người bạn thân được biết. Mãi đến năm cuối đời, con trai của ông là Phan
Thế Roanh cố nài xin mãi ông mới cho xuất bản cuốn thì tuyển có tựa đề là Bút hoa thi thảo;
các cuốn sách khác đều được xuất bản sau khi ông đã qua đời.
Sống trong cơn triều cường của phong trào thơ Mới, trong bầu không khí bài cũ phù
mới của đời sống xã hội và văn học, lò văn cũ đã hầu như “than vạc gio tàn”, các bậc lão
thành của lối thi văn cổ chỉ còn lại như “sao Mai lác đác”, Phan Mạnh Danh vẫn âm thầm
làm công việc “dóm lại lò văn xưa”. Ông tuân thủ một cách gần như tuyệt đối khuôn mẫu,
công thức của các thể loại văn học trung đại; đặc biệt có sở trường ở thể thơ thất ngôn bát cú
Đường luật; ông cũng lựa chọn những phép làm thơ hay trong thơ văn cổ (Lối thơ thuận


nghịch độc, Lối thơ liên hoàn của Tô Đông Pha…), tuy không nhiều, mỗi lối chỉ một vài bài

và có thể cũng chưa đến độ xuất sắc được như thơ của các bậc tiền bối tên tuổi trước đó
nhưng nó thể hiện một thái độ tích cực trong việc lưu giữ, bảo tồn tinh hoa của nền văn học
cũ.
Trước mỗi lối làm thơ cổ, Phan Mạnh Danh đều có giải thích cách làm. Hành động
ấy chứng tỏ đối tượng độc giả mà Phan Mạnh Danh hướng tới không phải là những người
sinh trưởng trong nền Hán học. Đối tượng độc giả ông hướng tới là những trí thức Tây học,
những thế hệ “sinh sau” yêu thích thơ cổ nhưng không có cơ hội để được đào tạo bài bản mà
phải tự tìm hiểu. Như vậy, tác giả đã đứng trên cương vị là một học giả của nền văn hóa cũ
bắc nhịp cầu nối với thế hệ mai sau. Có lẽ hơn ai hết, Phan Mạnh Danh hiểu được rằng: dẫu
có tránh những “nông nỗi đau thương xung đột với đời” thì những tác động của cuộc thiên
diễn “gió Á mưa Âu” đang ngày càng dữ dội ắt hẳn, sớm muộn gì cũng làm phôi pha đi tinh
hoa văn hóa văn học của hàng nghìn năm kết tụ.
Sinh trưởng trong cổ học, Phan Mạnh Danh tích lũy cho mình một vốn thơ Đường
phong phú, hiểu thơ Đường ở mức độ uyên thâm ông đã chắt lọc lựa chọn trong hàng nghìn
bài thơ Đường những câu thơ hay đưa vào tập Bút hoa. Không kể đến mục đích chơi thơ của
một khách chơi thơ sành sỏi, ở đây tác giả còn gửi gắm tâm huyết lưu giữ, khôi phục lại
truyền thống mỹ học trong văn học cổ.
Một trong những thú vui hưởng thụ của người tài tử là nghệ thuật hát ả đào. Trong số
tư liệu của Phan Mạnh Danh chúng tôi thu thập được, có thể sơ bộ đưa ra mấy nhận định sau:
Thứ nhất, Phan Mạnh Danh ắt hẳn cũng là một trong những tao nhân mặc khách ưa thích và
có hiểu biết uyên thâm về nghệ thuật hát ả đào. Bởi lẽ trong số những trước tác mà ông để lại
có một số đề cập đến lối chơi này: các cách tập Kiều trong cuốn Bút hoa có kể đến lối thơ
thổng ả đào và lối thơ thổng mới, trong cuốn Thi văn tập trích lục có trích in ba bài làm theo
điệu xẩm ả đào (Đàm thiên, Vấn nguyệt, Vọng dương); ngoài ra trong cuốn Lịch sử và nghệ
thuật ca trù: Khảo sát nguồn tư liệu tại Viện nghiên cứu Hán Nôm, Nguyễn Xuân Diện có
nói: đến thế kỉ XX ( theo chúng tôi là khoảng những năm 20 theo nhiều tài liệu khác), nghề
kinh doanh ca quán phát đạt, ca quán có mặt ở khắp mọi nơi. Tiếp đến tác giả lại liệt kê
những tỉnh thành ở miền Trung và miền Bắc có hoạt động ca quán phát triển mạnh. Ở miền
Bắc chỉ có Hà Nội và Nam Định là được nhắc tới: “ở Nam Định trước cô đầu mở nhà hát ở
phố Hàng Thao, sau thiên xuống Ngã Sáu”. Đây cũng là thời gian Phan Mạnh Danh sống với

con trai cả là Phan Thế Roanh đang là giáo sư trường Thành Chung - Nam Định (từ năm
1927). Lúc này gia tư cũng bắt đầu thư thái có lẽ gia đình cũng mời các nghệ nhân về hát tại
gia đình (khả năng Phan Mạnh Danh đến các ca quán là ít bởi ở các ca quán bên cạnh cô đầu
hát mới xuất hiện cô đầu rượu – đây là nguyên nhân nảy sinh nhiều lời dị nghị về thú chơi hát
ả đào, mà lúc này Phan Thế Roanh đang là giáo sư của một trường học có tiếng). Thứ hai, lối
hát ả đào mà Phan Mạnh Danh chơi đã có sự pha tạp giữa cũ và mới nên mới có lối xẩm ả
đào, hay lối thơ thổng mới (để phân biệt với lối thổng ả đào). Thứ ba, Phan Mạnh Danh là
người có hiểu biết về lối làm văn trong nghệ thuật hát ả đào chứ không có thú chơi hát ả đào,
vì không tài liệu nào nhắc tới việc Phan Mạnh Danh tham gia hát ả đào ở ca quán cũng như ở
gia tư. Song, xuất phát từ đặc điểm của nghệ thuật hát ả đào là: cái thú vị nhất của nghệ thuật
ca trù (lối hát phổ biến nhất trong hát ả đào) là quá trình văn nhân sáng tạo, thể nghiệm và
thưởng thức các tác phẩm của mình nên nhận định thứ ba là không thể có.
Phan Mạnh Danh cũng là một khách “đa tình” không kém bất cứ người tài tử nào. Khi


20 tuổi, bắt đầu “xiêu lòng” trước một thiếu nữ tài sắc tuyệt vời, cũng là khi Phan Mạnh Danh
bắt đầu có những sáng tác đầu tiên. Đọc những câu thơ trong tập Xuân mộng mới thấy học
giả đạo Khổng những tưởng là người vô tình, người mà ái tình khó lòng lay chuyển nay cũng
yêu thương, cũng đau đớn vì tương tư như bao kẻ khác trong nhân loại:
Nỗi tình dan díu, nỗi phân ly,
Vóc kém, xương gầy sá kể chi.
Ngoảnh mặt trông hoa càng bóng thẹn,
Cầm lòng nương gối lại hồn si.
Bi hoan từ trước âu là thế,
Hảo hợp về sau họa có khi.
Vầng nguyệt hoa đèn soi có thấu,
Tình riêng đêm ấy hỏi đêm gì?
Chỉ với tập thơ Xuân mộng, nhà nghiên cứu Đặng Thị Hảo đã đánh giá Phan Mạnh
Danh là “nhà thơ tình cuối cùng của thơ ca trung đại”, “người khép cánh cửa mười thế kỉ
văn chương phong kiến, gửi tiếng vọng vào thơ tình thế hệ mới với một sự kì tài, độc đáo

hiếm có”.
Ngoài mối tình có thực nhưng đến nay đã trở thành giấc mộng, Phan Mạnh Danh
cũng dễ cảm thông với những khách hồng nhan, những người bạc mệnh. Ta bắt gặp trong
hàng loạt trước tác của ông những bóng hồng nhan nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc như:
Ngu Cơ, Tiểu Thái, Dương Quý Phi, Lương Ý Lương, Ngọc Lan, Giả Vân Hoa, Hồng Kiều,
Tiểu Thanh… Đặc biệt là trong câu chuyện về cuộc đời các mỹ nhân ấy đều có liên quan đến
chữ “tình”, sống khổ vì tình và chết thảm thương vì tình. Truyện Kiều cũng trở thành niềm
say mê, đeo đẳng ông trong suốt hơn bốn mươi năm mà chứng tích còn lại chính là sự ra đời
của cuốn Bút hoa, tập thơ Đề Thanh Tâm Tài Nhân lục vịnh hai mươi hồi trong Truyện Kiều.
Trong số các bản dịch được công bố toàn bộ hoặc một phần thì bản dịch nào cũng liên quan
đến chữ “tình” (Đa tình hận, Tình sử, Cổ thi trích dịch).
Ở trên chúng tôi đã xét theo những tiêu chí về đặc điểm của loại hình nhà nho tài tử
để đi đến nhận định về nhà nho tác giả Phan Mạnh Danh. Ở ông, ngoài con người “nhà nho
thuần nho” như nhận định của Phạm Quỳnh còn có nhiều đặc điểm, tiêu biểu là “thị tài” và
“đa tình” giống như nhiều nhà nho tài tử tiền bối. Sống trong xã hội Âu hóa, lẽ ra bản thân
con người sẽ bị nhào nặn, thay đổi ít nhiều theo quy luật tất yếu “con người là sản phẩm của
hoàn cảnh”, song ở Phan Mạnh Danh những thay đổi đó là hiếm có nếu không muốn nói một
cách tuyệt đối. Ông vẫn khéo léo, âm thầm đi tiếp con đường mình đã chọn, hơn thế còn dày
công chắt lọc những tinh hoa văn hóa truyền thống để lưu giữ và bảo tồn. Chính vì thế, chúng
tôi cho rằng ông là một đại biểu hiếm hoi, một nhà nho tài tử “kiểu cũ” sống trong môi
trường hiện đại hóa văn học những năm đầu thế kỉ XX diễn ra như vũ bão nhưng lại đề
kháng một cách khéo léo tránh mọi tác động và ảnh hưởng của nó.
3.2.2. Những cống hiến của Phan Mạnh Danh trong việc phục hưng nền văn học văn hóa
truyền thống
Từ sau năm 1919, cái thân cử nghiệp đã chia tay với người Việt Nam, nhà nho gặp
thời ách vận, chữ Hán đến buổi lụi tàn. Nhưng theo nhà nghiên cứu Phạm Văn Khoái thì
“Chính trong giai đoạn này, trong khoảng hơn 20 năm, người ta lại bàn nhiều đến chữ Hán
nhất so với bất kỳ giai đoạn nào trước đó, số sách dạy chữ Hán soạn và xuất bản nhiều nhất.
Chữ Hán với hình bóng nhà nho văn chương cử nghiệp thì suy tàn nhưng chữ Hán với văn



hóa Việt Nam thì còn mãi”. Có lẽ, chính vào giữa lúc giao tranh giữa cái cũ và cái mới mà cơ
hồ cái cũ có xu hướng bị mất đi mãi mãi người ta mới bắt đầu suy ngẫm cái được, cái mất,và
nhận thấy cần phải giữ gìn những tinh hoa văn hóa được tạo thành từ chữ Hán. Không ngoài
mục đích chính trị, cũng không hoàn toàn là mục đích chính trị,Thái Tử Thiếu Bảo lãnh Lại
Bộ Thượng Thư Phạm Quỳnh đã dành một bài diễn văn 16 trang bằng tiếng Pháp để nói về
Phan Mạnh Danh – một nhà thơ cổ điển Việt Nam đọc trước mặt Hoàng thượng và các
quan khách tại phòng Hội nghị Huế ngày 3/5/1943. Trong bài viết này, trước sự ra đi của tác
giả họ Phan âm thầm và lặng lẽ như bao bậc nho gia khác, Phạm Quỳnh đã tỏ cái mong muốn
níu giữ, kế tục và phát huy những giá trị cổ truyền, bảo vệ nó trước những tác động mạnh mẽ
của thời cuộc. Bằng lí lẽ, Phạm Quỳnh đã cố gắng tạo một sợi dây liên kết giữa hai thế hệ rất
gần mà lại như không có liên hệ gì với nhau: “Nếu cuộc đời của một xã hội, là ở trong sự kế
tiếp liền nhau, thì bọn ta bây giờ không có quyền bỏ mất sự liên lạc với các thế hệ người đi
trước chúng ta. Dù những thế hệ ấy chia cách nhau bằng những tính tình tư tưởng khác nhau
đến thế nào, nhưng linh hồn của người xưa cũng vẫn còn là linh hồn của chúng ta, bởi vì
những giấc mộng đã làm cho người xưa say mê cũng chính là những giấc mộng đã ru hồn cho
chúng ta từ khi chúng ta chưa oe oe tiếng khóc ra đời” để cuối cùng ông kêu gọi mọi người
hãy mau mau “thu thập những dấu vết thừa của một thế hệ đã tàn và một thời kì đã hết, còn
lại tới nay, trước khi mai một đi hẳn, ở trong bóng mờ của lịch sử”.
Kể từ năm 938, sau khi đất nước giành được quyền độc lập tự chủ, các triều đại trong
lịch sử nước ta đã chủ động tiếp thu có chọn lọc một cách khá triệt để thứ văn hóa đến từ
phương Bắc – thứ văn hóa đã từng đề kháng trước đây. Chính vì thế trong suốt mười thế kỷ
đã hình thành ở nước ta một bề dày văn hóa văn học với những đặc điểm cơ bản như văn hóa
văn học Trung Quốc. Sau khi thực dân Pháp xâm lược, đặc biệt là khi chúng hoàn toàn đặt
được ách đô hộ trên đất nước ta, chúng đã mang đến một thứ văn hóa mới mẻ du nhập từ
phương Tây. Chính trong cuộc tiếp xúc văn hóa này đã làm nảy sinh sự so sánh, đòi hỏi nhận
thức lại những giá trị văn hóa cổ truyền. Khi công việc đó còn chưa ngã ngũ thì sự thắng lợi
hầu như đã ngả về phía những cái mới. Phan Mạnh Danh có lẽ cũng tự lượng sức mình không
thể đương đầu nổi với xu thế tân trào nên đã lánh mình vào thú văn chương, lặng lẽ, âm thầm
viết lại “chúc thư” của cả một thế hệ, một lớp người đã tàn. “Chúc thư” ấy chính là những kết

tinh tinh hoa của một nền văn hóa cũ đang bị mai một và dần mất đi mãi mãi.
Từ đầu thế kỉ XX, khi chữ Quốc ngữ chính thức có được “giấy thông hành”, phổ cập
trên toàn cõi Việt Nam thì đồng thời với nó chữ Hán, chữ Nôm chính thức mất đi vị trí trong
đời sống người Việt Nam. Chữ Hán bị hạn chế, cấm đoán trong các nhà trường Pháp – Việt
mà chỉ lưu hành chủ yếu ở nông thôn, trong các tư gia nhất là trong các gia đình vốn có
truyền thống Nho học. Sự thay thế hoàn toàn bằng một thứ ngôn ngữ văn tự mới đã vô tình
“chôn vùi” đi hàng chục thế kỉ văn chương văn hóa ở Việt Nam mà không có lấy một sự thừa
tiếp. Công chúng văn học lúc này không cùng chung tiếng nói, hay nói cách khác là “lệch pha
về nặt tiếp nhận” với đội ngũ tác giả của hàng hàng nghìn năm trước. Bản thân những người
vốn là học trò chốn nho môn là những người lên tiếng có hiệu quả nhất trong việc bài xích
nền cổ học, và cũng chính bản thân những nhà nho chính gốc ấy lại là người cất lên tiếng nói
xót xa nhất về sự ra đi nhanh chóng của những tinh hoa văn hóa cổ truyền “Những người
muôn năm cũ – Hồn ở đâu bây giờ” (Ông đồ - Vũ Đình Liên).
Cả cuộc đời Phan Mạnh Danh đã kiên trì làm công việc “cứu vãn” văn hóa của hàng
nghìn năm trước. Ông lánh mình vào trong thú văn chương, tìm đến những cách làm thơ,


chơi thơ độc đáo, hiếm có là tinh hoa kết tụ của mười thế kỉ văn học những mong lưu giữ lại
một chút cho đời. Những hoạt động phiên dịch, biên tập điển cố, từ điển Thực dụng thành
ngữ, soạn sách Hán ngữ dạy cho học sinh đều để thỏa một ước nguyện bắc nhịp cầu nối với
thế hệ mai sau. Tuy nhiên, đương thời ý định ấy của ông mấy ai hiểu được.
Như vậy, ở trên chúng tôi đã trình bay khá ngắn gọn những đóng góp của nhà nho, tác
giả Phan Mạnh Danh không chỉ trong lĩnh vực văn học mà rộng hơn là những cống hiến âm
thầm, lặng lẽ của tác giả trong việc lưu giữ, bảo tồn, phục hưng nền văn hóa nước nhà.
Đương nhiên, để làm được điều đó bản thân tác giả phải là người có vốn tri thức uyên bác, có
nhãn quan thẩm mỹ nhạy bén. Phan Mạnh Danh xứng đáng trở thành “người thủ thành cho
một truyền thống mỹ học”.
Tiểu kết chương 3: Tóm lại, trong chương 3 dựa trên cơ sở về đặc điểm của ba loại
hình nhà nho trong văn học Việt Nam, chúng tôi đã tiến hành nhận định loại hình tác giả nhà
nho đối với Phan Mạnh Danh. Trong cả đời sống và trong văn học, Phan Mạnh Danh đều có

những đặc điểm “thị tài” và “đa tình” của một nhà nho tài tử. Cùng với Tản Đà, Phan Mạnh
Danh cũng gánh trên mình sứ mệnh của người nối hai thời đại văn học lớn trong lịch sử văn
học dân tộc. Tuy nhiên, khác với Tản Đà – người có sự thích ứng cao độ với những biến
chuyển của công cuộc hiện đại hóa văn học nói riêng và của đời sống xã hội những năm đầu
thế kỷ nói chung thì Phan Mạnh Danh lại là người có sự đề kháng khéo léo với công cuộc
hiện đại hóa văn học đó. Ông đã âm thầm viết lại “chúc thư” của một thế hệ đã tàn, gạn lọc
lấy những tinh hoa văn hóa của một thời đang dần mất đi mãi mãi.
C. Phần kết luận
Trong khuôn khổ của một luận văn chúng tôi đã tạo dựng lại chân dung tác giả văn
học Phan Mạnh Danh – một tác giả đã bị lãng quên trong khoảng hơn nửa thế kỷ nay. Những
nét tiêu biểu trong tiểu sử cuộc đời, những trước tác quan trọng còn lại đến nay là bằng chứng
chân thực cho chặng đường hoạt động văn học của ông. Với hàng loạt các trước tác có giá trị
trên nhiều lĩnh vực: sáng tác văn học, phiên dịch, biên tập… Phan Mạnh Danh xứng đáng trở
thành một tác giả, dịch giả văn học có công lao đáng được ghi nhận trong nền văn học Việt
Nam.
Xét trong cả quá trình đào tạo và tự đào tạo, trong cả cuộc đời “không có tham dự một
chút nào vào cuộc đời chính trị ở trong nước” có thể khẳng định Phan Mạnh Danh là “nhà
nho thuần nho”. Tuy nhiên, những đặc điểm “thị tài” và “đa tình” trong đời sống và trong văn
học lại khu biệt ông trở thành nhà nho tài tử. Nối dài thêm danh sách những nhà nho tài tử
trong văn học Việt Nam nhưng sống trong bối cảnh “gió Á mưa Âu” của đời sống xã hội
Phan Mạnh Danh đã có lối ứng xử đề kháng với công cuộc hiện đại hóa văn học đang diễn ra
như vũ bão vào đầu thế kỷ XX. Những hoạt động văn học và những trước tác của ông giai
đoạn này đều đi đến mục đích lưu giữ, làm sống lại tinh hoa của một nền văn học đã hình thành
trong suốt mười thế kỷ.
Sáng tác của Phan Mạnh Danh mang đậm đặc đặc điểm của hệ thống thi pháp văn học
trung đại đặc biệt là thể loại và ngôn ngữ. Về thể loại, Phan Mạnh Danh am tường và sáng tác
trên hầu hết các thể loại thơ văn trung đại như: thơ Đường, ký, hành, phú, kinh nghĩa, văn
sách, văn tế, tựa… trong đó thể loại thơ Đường được ông sử dụng thuần thục nhất. Về ngôn
ngữ, Phan Mạnh Danh vẫn kiên trì sử dụng song song hai lại ngôn ngữ văn tự chữ Hán và
chữ Nôm; ông vận dụng hoạt bát, tinh tế những điển tích điển cố trong văn học cổ phương



Đông. Điều này khiến ngôn ngữ của ông trở nên quan phương không thể đại chúng hóa.
Hoạt động văn học của Phan Mạnh Danh kéo dài từ những năm cuối thế kỷ XIX sang
hơn bốn thập niên đầu thế kỷ XX –một thời kỳ phức tạp và nhạy cảm trong cả đời sống lẫn
văn học. Trong thời gian này, Phan Mạnh Danh đã khéo léo bắc nhịp cầu nối, làm mờ đi vết
đứt gẫy giữa hai giai đoạn văn học bằng hàng loạt các trước tác của mình.
Ở phương diện văn hóa, Phan Mạnh Danh đã bằng các hoạt động sáng tác, biên tập và
phiên dịch đem đến cho thế hệ sau một con đường để tự “tìm về với truyền thống”. Với ông,
chữ Quốc ngữ dầu có thay thế được chữ Hán và chữ Nôm trong đời sống sinh hoạt thì chữ
Hán và chữ Nôm vẫn có những giá trị tự trong bản thân mà không một thứ ngôn ngữ văn tự
khác nào thay thế được. Hệ thống những trước tác của ông, có thể nói là những kết tinh độc
đáo của tinh hoa văn hóa văn học của hàng nghìn năm Nho học ươm mầm, bén rễ và phát
triển ở Việt Nam.
Bên cạnh rất nhiều những mặt tích cực trong trước tác của Phan Mạnh Danh đã được
đề cập ở trên vẫn không thể phủ nhận những hạn chế vẫn còn tồn tại trong một vài trước tác
của ông. Song những hạn chế đó vẫn không làm mờ đi những cống hiến của ông đối với nền
văn học văn hóa nước nhà. Đó chính là cái mục đích mà luận văn hướng tới để đưa Phan
Mạnh Danh trở về với tấm chân dung đích thực của một tác giả văn học.
Mặc dù đã cố gắng nhưng trong khuôn khổ một luận văn, do giới hạn thời gian chắc
hẳn có những vấn đề chúng tôi chưa kịp đề cập đến, hoặc mới điểm qua sơ lược, chúng tôi sẽ
cố gắng để hoàn thiện hơn trong một nghiên cứu khác.

References
1. Đào Duy Anh (2007), Từ điển Truyện Kiều, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
2. Phan Văn Các (2003), Từ điển Từ Hán Việt, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, TP Hồ Chí
Minh.
3. Thiều Chửu (2005), Hán Việt tự điển, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
4. Phan Mạnh Danh, Hồng Kiều, Nxb Phan Phong Linh,7 Rue Marché Nang tinh, Nam
Định.

5. Phan Mạnh Danh (1942), Bút hoa thi thảo, Nxb Nam Định.
6. Phan Mạnh Danh (1953), Bút hoa thơ tập cổ, Nxb Trí đức thư xã, Hà Nội.
7. Phan Mạnh Danh (2007), Xuân mộng (Tôn Thất Lương chú giải), Nxb Thanh Hoa thư
xã,Hà Nội.
8. Phan Mạnh Danh (phiên dịch), Tình sử (của Long Tử Do), Nxb Nhà in Phạm Văn
Sơn, Sài Gòn.
9. Phan Mạnh Danh (phiên dịch) (1953), Tình sử (của Long Tử Do), Nxb Thanh Hoa thư
xã, Hà Nội.
10. Phan Mạnh Danh (1953), Cổ thi trích dịch, Nxb Thanh Hoa thư xã, Hà Nội.
11. Phan Mạnh Danh (1942), Thi văn tập trích lục, Nxb Nguyễn Trung Khác, Nam Định.
12. Nguyễn Xuân Diện (2007), Lịch sử và nghệ thuật ca trù: Khảo sát nguồn tư liệu tại
Viện nghiên cứu Hán Nôm, Nxb Thế giới, Hà Nội.
13. Nguyễn Du (2004), Truyện Kiều, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
14. Phạm Văn Duyệt (1928), Hát ả đào, Nxb Kim Đức Giang, Hà Nội.


15. Thúc Ngọc Trần Văn Giáp (1942), Lược khảo tiểu thuyết Tàu, Thanh Nghị, số 11,
tr.14.
16. Phan Cự Đệ (1993), Hàn Mặc Tử: Tác phẩm phê bình và tưởng niệm, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
17. Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu, Nguyễn Trác, Nguyễn Hoành Khung, Lê Trí Dũng,
Hà Văn Đức (2005), Văn học Việt Nam (1900 – 1945), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
18. Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Đức Mậu (Tuyển chọn và giới thiệu) (2007), Tản Đà về tác
gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
19. Dương Quảng Hàm (2005), Việt Nam văn học sử yếu, Nxb Trẻ, Hà Nội.
20. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2004), Từ điển thuật
ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
21. Đặng Thị Hảo (2003), Thơ tình cổ trung đại Việt Nam, Luận án Tiến sĩ, Thư viện
Quốc gia Việt Nam.
22. Nguyễn Quang Hồng (2008), Khái luận văn tự học chữ Nôm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

23. Hội đồng tác giả (2004), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế giới, Hà Nội.
24. Phạm Văn Khoái (2001), Một số vấn đề chữ Hán thế kỷ XX, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội.
25. Phan Phong Linh, Thắng cảnh Việt Nam qua thi ca, Nxb Tủ sách văn nghệ.
26. Nguyễn Lộc (2004), Văn học Việt Nam (nửa cuối thế kỉ XVIII đến hết thế kỉ XIX),
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
27. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam 1930 – 1945, Nxb
Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
28. Nguyễn Đăng Na (2007), Con đường giải mã văn học trung đại Việt Nam, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
29. Nguyễn Nam, “Tình sử loại lược” lưu truyền và ảnh hưởng ở Việt Nam,

30. Nguyễn Nam, Phụ nữ tự sát – Lỗi tại tiểu thuyết,
31. Đỗ Văn Ninh (2002), Từ điển chức quan Việt Nam, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
32. Phan Ngọc (1985), Tìm hiểu phong cách của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Nxb
KHXH, Hà Nội.
33. Thanh Tâm Tài Nhân (2006), Kim Vân Kiều truyện, Nxb Văn học, Hà Nội.
34. Đào Đức Nhuận, Tản mạn về thơ thuận nghịch độc, ngày 18 /
11 / 2011.
35. Phạm Đan Quế (2002), Bình Kiều, vịnh Kiều, bói Kiều, Nxb Thanh Niên, Thành phố
Hồ Chí Minh.
36. Phạn Đan Quế (2002), Thú chơi tập Kiều, Nxb Văn học, Thành phố Hồ Chí Minh.
37. Phạm Quỳnh, (1923), Văn chương trong lối hát ả đào, Tạp chí Nam Phong, tập 12 (số
69), tr.171-188.
38. Phan Thế Roanh (1953), Điển cố truyện và thơ thường dùng làm văn liệu, Nxb Nam
Sơn, Hà Nội.
39. Phan Thế Roanh sao lục, Phan Mạnh Danh thi văn tập (Lời chú giải của thi sĩ Tôn
Thất Lương), Nxb Thanh Hoa thư xã, Hà Nội.
40. Phan Thế Roanh (1964), Hán văn lược khảo, Nxb Chin Hoa thư cục, Sài Gòn.
41. Lê Văn Siêu(2006), Văn học sử Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.



42. Lưu Hồng Sơn, Mối quan hệ giữa thơ ca và hội họa từ Trung Quốc đến Việt Nam,

43. Trần Đình Sử (2008), Lý luận và phê bình văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
44. Trần Đình Sử (2007), Thi pháp Truyện Kiều, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
45. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, NXB Giáo
dục, Hà Nội.
46. Quách Tấn (1960), Mùa cổ điển, Nxb Tân Việt.
47. Quách Tấn (Quách Giao sưu tầm và biên soạn) (2000), Bóng ngày qua (Bàn Thành tứ
hữu), Nxb Văn nghệ, thành phố Hồ Chí Minh.
48. Hoài Thanh, Hoài Chân (2003), Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.
49. Trần Thị Băng Thanh (2011), Sức hấp dẫn của Truyện Kiều với danh sĩ Bắc Hà –
Trường hợp Phan Mạnh Danh, Tạp chí Hán Nôm, tập 1 (số 104), tr. 33-42.
50. Nguyễn Toàn Thắng (2011), Hàn Mặc Tử, Quách Tấn và Bích Khê trong không gian
văn hóa Đường thi, ngày 25/7/2011.
51. Chương Thâu, Trần Ngọc Vương (Giới thiệu và tuyển chọn), Phan Bội Châu về tác
gia và tác phẩm (2003), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
52. Trần Nho Thìn (2008), Văn học trung đại Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
53. Tạp chí Tri Tân 1941 – 1945, Phê bình văn học (sưu tầm tư liệu), Nxb Hội nhà văn.
54. Nguyễn Huy Tự (1950), Truyện Hoa tiên (Vân Bình Tôn Thất Lương dẫn giải và chú
thích), Nxb Tân Việt, Sài Gòn.
55. Nguyễn Quảng Tuân (2002), Tập Kiều vịnh Kiều, Nxb Văn học, Hà Nội.
56. Trần Ngọc Vương (2007), Văn học Việt Nam thế kỉ X – XIX những vấn đề lý luận và
lịch sử, NXB Giáo dục.
57. Trần Ngọc Vương (1999), Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung, Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
58. Trần Ngọc Vương (1995), Loại hình học tác giả văn học: Nhà nho tài tử và văn học
Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
59. Trần Ngọc Vương (2010), Thực thể Việt nhìn từ các tọa độ chữ, Nxb Tri thức, Hà

Nội.
60. Trần Ngọc Vương (2010), Giáo trình Văn học Việt Nam ba mươi năm đầu thế kỉ XX,
Nxb ĐH Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
61. Nguyễn Văn Y (sưu tập) (1973), Thơ vịnh Kiều, NXB Lạc Việt.



×