Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Ứng dụng phân hệ sưu tập số của phần mềm Libol 6.0 tại Thư viện trường Đại học Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.47 MB, 78 trang )

Khóa luận – K55 Thông tin – thư viện
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian nghiên cứu đề tài, mặc dù đã rất cố gắng song khóa luận
chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy tôi rất mong nhận được sự
đóng góp chỉ bảo của các thầy cô, cán bộ thư viện và bạn bè để đề tài được hoàn
chỉnh hơn.
Qua đây tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Khoa Thông tin - Thư
viện Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội;
cảm ơn Ban Giám hiệu và các cán bộ tại Trung tâm TT-TV Trường Đại học Hà Nội
đã tạo điều kiện giúp tôi thực hiện khóa luận này.
Đặc biệt tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới ThS. Nguyễn Thị Thúy Hạnh giáo viên hướng dẫn đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu đề
tài, giúp tôi hoàn thành khóa luận này.

Nguyễn Thị Liên

Page 1


Khóa luận – K55 Thông tin – thư viện
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đề tài “Ứng dụng phân hệ sưu tập số của phần mềm Libol
6.0 tại Thư viện trường Đại học Hà Nội” là công trình nghiên cứu của riêng tôi với
sự hướng dẫn của Thạc sỹ Nguyễn Thị Thúy Hạnh. Đề tài này được tác giả độc lập
nghiên cứu trên cơ sở tham khảo tài liệu, khảo sát tại Thư viện Hà Nội và sự phân
tích, đánh giá tổng hợp của bản thân.
Hà Nội, ngày 05 tháng 03 năm 2014
Tác giả

Nguyễn Thị Liên

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


BST

Bộ sưu tập


Khóa luận – K55 Thông tin – thư viện
CSDL

Cơ sở dữ liệu

ĐHHN

Đại học Hà Nội

HTML

Ngôn ngữ đánh dấu siêu văn bản

ISSN

Chỉ số tiêu chuẩn quốc tế cho báo,
tạp chí

ISBN

Chỉ số tiêu chuẩn quốc tế cho sách

LIBOL

Thư viện trực tuyến


NDT

Người dùng tin

OPAC

Mục lục tra cứu trực tuyến

TLS

Tài liệu số

XML

Ngôn ngữ đánh dấu mở rộng

MỤC LỤC


Khóa luận – K55 Thông tin – thư viện

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Thông tin đóng vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống xã hội, nó thúc
đẩy tiến trình phát triển của mọi lĩnh vực. Thông tin làm nên những cuộc cách
mạng mang tính đột phá của nền văn minh nhân loại. Những lợi ích mà cách mạng
thông tin đem lại cho loài người là không thể đong đếm được, nó vô cùng to lớn và
hữu ích. Xã hội hóa thông tin là một trong những mục tiêu quan trọng của hoạt

động thông tin thư viện thời hiện đại. Cùng với đó, sự phát triển mạnh mẽ của khoa
học và công nghệ cùng với xu thế hội nhập là những đòi hỏi và thách thức cho
ngành Thông tin - Thư viện nói chung và cho thư viện đại học nói riêng. Thư viện
cần phải có những đổi mới hoạt động, bắt kịp những tiến bộ của thời đại phục vụ
đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đặc biệt, các thư
viện trên thế giới đang có xu hướng tự động hóa nghiệp vụ hoặc chuyển sang các
loại hình thư viện điện tử, thư viện số nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu tri thức và
thông tin không ngừng gia tăng nhanh chóng trong xã hội. Giờ đây các tài liệu
trong thư viện không chỉ đơn thuần là các tài liệu truyền thống như sách báo, tạp
chí mà còn bao gồm các loại tài liệu dạng số như: Cơ sở dữ liệu trên mạng, đĩa CD,
DVD,… Chính vì vậy mà công tác số hóa tài liệu và tổ chức khai thác nguồn tài
liệu số được các thư viện đặc biệt quan tâm và coi đây là vấn đề quan trọng quyết
định chất lượng và hiệu quả cung cấp thông tin tới người dùng tin.
Nhận thấy tầm quan trọng của nguồn tài liệu số,Trung tâm Thông tin - Thư
viện Trường đại học Hà Nội đã có sự đổi mới mạnh mẽ để đáp ứng được yêu cầu
phục vụ thông tin - tri thức, nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường. Giải pháp
xây dựng các Bộ sưu tập số trong thư viện là một bước đi cần thiết để góp phần

Nguyễn Thị Liên

Page 4


Khóa luận – K55 Thông tin – thư viện
giải quyết các vấn đề về đổi mới và nâng cao năng lực, chất lượng đào tạo của nhà
trường.
Hiểu được tầm quan trọng của việc xây dựng bộ sưu tập số tại Thư viện
trường Đại học Hà Nội tôi đã quyết định chọn đề tài: “Ứng dụng phân hệ sưu tập
số của phần mềm Libol 6.0 tại Thư viện trường Đại học Hà Nội ” làm đề tài
nghiên cứu cho mình. Thực hiện đề tài nghiên cứu nhằm tìm hiểu và bổ sung

những kiến thức thực tế cho bản thân và góp một phần nhỏ bé vào việc tìm ra giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài liệu số tại Trung tâm Thông tin – thư
viện, phục vụ công tác nghiên cứu, giáo dục, đào tại và các nhu cầu khác của người
dùng tin, góp phần vào sự nghiệp phát triển nền kinh tế tri thức của đất nước.
2. Mục đích nghiên cứu
2. 1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là khảo sát việc ứng dụng phân hệ Sưu tập
số của phần mềm Libol 6.0 và đưa ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khai thác
Bộ sưu tập số tại Thư viện trường Đại học Hà Nội. Qua việc khảo sát, khóa luận sẽ
trình bày rõ những ứng dụng cụ thể của phân hệ sưu tập số - Libol 6.0 tại Thư viện,
đồng thời đưa ra đánh giá, nhận xét và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả khai thác và sử dụng bộ sưu tập số.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để giải quyết được mục đích đề ra, nhiệm vụ của khóa luận là:
- Nêu được khái niệm, đặc điểm của tài liệu số và bộ sưu tập số, quy trình số
hóa và xây dựng bộ sưu tập số.
- Đặc điểm khái quát của Thư viện trường Đại học Hà Nội.

Nguyễn Thị Liên

Page 5


Khóa luận – K55 Thông tin – thư viện
- Trình bày thực trạng ứng dụng tính năng của phân hệ sưu tập số - Libol 6.0
trong xây dựng, quản lý và khai thác tài nguyên số tại Thư viện Đại học Hà Nội.
- Nhận xét,đánh giá và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng bộ
sưu tập số tại Thư viện Đại học Hà Nội.
3. Tình hình nghiên cứu theo hướng đề tài
Tính đến thời điểm hiện tại có một số công trình nghiên cứu và tìm hiểu về

các khía cạnh tại Thư viện Đại học Hà Nội:
- “Công tác tổ chức và khai thác nguồn tin tại Thư viện trường Đại học Hà
Nội – Thực trạng và giải pháp” của Đỗ Thị Thu Hà, khóa luận tốt nghiệp năm
2012.
- “Công tác tổ chức kho mở tại thư viện trường Đại học Hà Nội” của Dương
Thị Hương, khóa luận tốt nghiệp năm 2011.
- “Nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động của Thư viện trường Đại học Hà
Nội” của Nguyễn Thị Hương Chi, khóa luận tốt nghiệp hệ đào tạo tại chức năm
2011.
- “Tìm hiểu hoạt động đào tạo kiến thức thông tin dành cho sinh viên tại
Trung tâm Thông tin – Thư viện Đại học Hà Nội” của Phạm Thị Huyền Trang,
khóa luận tốt nghiệp năm 2010.
- “Tổ chức, quản lý và khai thác nguồn lực thông tin tại Trung tâm Thông tin
– Thư viện trường Đại học Hà Nội” của Lê Thị Anh Thư, khóa luận tốt nghiệp năm
2009.
- “Tìm hiểu công tác xử lý tài liệu tại Trung tâm Thông tin – Thư viện
trường Đại học Hà Nội”, của Đinh Thị Phương Thúy, khóa luận tốt nghiệp năm
2008.
Nguyễn Thị Liên

Page 6


Khóa luận – K55 Thông tin – thư viện
- “Tìm hiểu công tác tổ chức và khai thác nguồn tin tại Trung tâm Thông tin
– Thư viện trường Đại học Hà Nội” của Vũ Thị Lan Anh, khóa luận tốt nghiệp năm
2008.
Các đề tài khóa luận trước đó chỉ xoay quanh vấn đề tổ chức nguồn tin tại
thư viện mà chưa có đề tài đi sâu nghiên cứu những ứng dụng của phần mềm đang
sử dụng tại thư viện. Vấn đề tìm hiểu ứng dụng phân hệ sưu tập số của phần mềm

Libol 6.0 tại Thư viện Đại học Hà Nội là vấn đề mà tôi quyết định lựa chọn làm đề
tài khóa luận cho mình để bổ sung phong phú hơn vào các vấn đề nghiên cứu về
Thư viện Đại học Hà Nội. Đồng thời với việc tìm hiểu như vậy tôi muốn đem một
phần kiến thức nhỏ bé đã được tiếp nhận trong quá trình học tập tại trường vào
thực tế ngành học của mình. Từ đó đưa ra những nhận xét và giải pháp về vấn đề
mà tôi đã nghiên cứu, để có sự so sánh rõ ràng hơn về khoảng cách giữa lý thuyết
và thực tế, đúc rút kinh nghiệm cho bản thân về ngành nghề mà mình sẽ gắn bó lâu
dài trong tương lai.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là tìm hiểu việc ứng dụng tính năng
của phân hệ sưu tập số - libol 6.0 tại Thư viện Đại học Hà Nội.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn về mặt không gian và thời gian
là: “Thực trạng ứng dụng phân hệ sưu tập số của phần mềm Libol 6.0 và giải pháp
nâng cao hiệu quả sử dụng bộ sưu tập số tại Thư viện trường Đại học Hà Nội giai
đoạn hiện nay”
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận

Nguyễn Thị Liên

Page 7


Khóa luận – K55 Thông tin – thư viện
Khóa luận được viết trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của Triết học Mác – Lê nin.
* Phương pháp nghiên cứu
- Điều tra, khảo sát thực tế
- Trao đổi với cán bộ Thư viện
- Quan sát, ghi chép, thu thập. chọn lọc và tích hợp thông tin

- Thống kê dữ liệu
6. Ý nghĩa khoa học của đề tài
- Lý luận: Làm rõ nội hàm các khái niệm liên quan đến xây dựng bộ sưu tập
số: Tài liệu số hóa, bộ sưu tập số, hệ quản trị thư viện tích hợp Libol 6.0,…
- Thực tiễn: Trình bày ứng dụng phân hệ Sưu tập số - Libol 6.0 tại Thư viện
Đại học Hà Nội. Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng bộ Sưu tập số tại
Thư viện Đại học Hà Nội.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận,danh mục tài liệu tham khảo thì bố cục chính
được chia thành 3 chương:
Chương 1: Thư viện Đại học Hà Nội và vấn đề số hóa
Chương 2: Thực trạng ứng dụng Phân hệ Sưu tập số - Libol 6.0 tại Thư viện
Đại học Hà Nội.
Chương 3: Một số nhận xét và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
Bộ sưu tập số tại Thư viện Đại học Hà Nội.

Nguyễn Thị Liên

Page 8


Khóa luận – K55 Thông tin – thư viện
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: THƯ VIỆN ĐẠI HỌC HÀ NỘI VÀ VẤN ĐỀ SỐ HÓA
1.1. Tài liệu số hóa
1.1.1. Khái niệm
Ở Việt Nam cũng như trên thế giới, có rất nhiều định nghĩa về tài liệu số hóa
được đưa ra, điểm chung của các định nghĩa này đều cho rằng: “tài liệu số hóa là
tài liệu mà thông tin được mã hóa và được biểu diến dưới dạng nhị phân gồm hai
số 0 và 1, được lưu trữ, khai thác trên máy tính điện tử, với sự hỗ trợ của một hay

một vài thiết bị chuyên dụng và hệ thống mạng máy tính”.
Tiêu chuẩn GOST R 51141-98 của Nga: “Tài liệu điện tử là những tài liệu
được tạo lập do sử dụng các vật mang tin và các phương pháp ghi bảo đảm xử lý
thông tin của nó bằng máy tính điện tử.
Đối với một số tài liệu ở dạng truyền thống: sách, báo, luận văn… việc số
hóa tài liệu này có thể ở các cấp độ khác nhau: Số hóa thư mục, số hóa dữ kiện, dữ
kiện và số hóa toàn văn.
Tài liệu số hóa thư mục là tài liệu chỉ được số hóa phần thư mục. Trong đó
các yếu tố thư mục được đưa vào số hóa bao gồm một số hoặc tất cả các yếu tố
sau: Tác giả, tên tài liệu, nơi xuất bản, nhà xuất bản, năm xuất bản, khổ cỡ của tài
liệu, số trang, chỉ số ISBN hoặc ISSN… Ngoài ra còn một số các yếu tố khác là:
Ký hiệu phân loại tài liệu, ký hiệu xếp giá tài liệu, ký hiệu định chủ đề, các từ
khóa, bản tóm tắt nội dung tài liệu…
Tài liệu số hóa dữ kiện, dữ kiện là tài liệu ngoài phần số hóa thư mục còn có
thêm phần số hóa một số dữ kiện, dữ liệu của tài liệu gốc nhưng không phải là toàn
bộ các thông tin chứa đựng trong tài liệu gốc. Các dữ kiện, dữ liệu này có thể là
Nguyễn Thị Liên

Page 9


Khóa luận – K55 Thông tin – thư viện
thông tin lịch sử, số liệu thống kê, biểu đồ tăng trưởng, thành phần cấu tạo, một số
nhận định, phân tích và dự báo được nêu trong tài liệu gốc…
Tài liệu số hóa toàn văn có nội dung của tài liệu gốc đã được số hóa. Đây là
loại hình tài liệu số hóa trọn vẹn nhất, có giá trị sử dụng lớn nhất trong số các loại
hình tài liệu số hóa. Bởi giá trị thông tin nằm ngay ở chính nội dung được số hóa,
chứ không phải quy định bởi tên tác giả, tên tài liệu… hay một vài dòng xuất hiện
trong nguồn tin.
1.1.2. Đặc trưng của tài liệu số hóa

Đặc trưng của một tài liệu nhằm giúp cho người dùng tin có thể nhận biết và
sử dụng chúng một cách dễ dàng. Sự ra đời và phát triển nhanh chóng của tài liệu
điện tử là kết quả tất yếu của bùng nổ thông tin, của sự phát triển khoa học công
nghệ nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dùng tin về chất lượng cũng
như mức độ cập nhật thông tin. Như vậy, tài liệu số hóa có những đặc trưng sau:
Mật độ thông tin của tài liệu số hóa rất lớn. Nhờ sự phát triển của công nghệ
thông tin, đặc biệt là công nghệ lưu trữ, nén thông tin trên các vật mang tin dạng số
tạo điều kiện để tài liệu số hóa chứa đựng trong nó một khối lượng thông tin cực
lớn.
1.2. Bộ sưu tập số
1.2.1. Khái niệm
Theo từ điển giải nghĩa các thuật ngữ khoa học của Trường Đại học Bay
Lor: “ Bộ sưu tập số là bộ sưu tập của thư viện hoặc các tài liệu lưu trữ được
chuyển đổi sang định dạng thuật ngữ máy tính nhằm mục đích bảo quản hoặc phục
vụ truy cập điện tử”.

Nguyễn Thị Liên

Page 10


Khóa luận – K55 Thông tin – thư viện
Khái niệm về bộ Sưu tập số: Bộ sưu tập số là một tập hợp có tổ chức nhiều
tài liệu đã được số hoá dưới nhiều hình thức khác nhau (văn bản, hình ảnh, Audio,
Video…) về một chủ đề. Mặc dù mỗi loại hình tài liệu có sự khác nhau về cách thể
hiện, nhưng nó đều cung cấp một giao diện đồng nhất mà qua đó các tài liệu có thể
truy cập, tìm kiếm dễ dàng.
Ví dụ: bộ sưu tập số về chủ tịch Hồ Chí Minh gồm các văn bản, các tác
phẩm văn học, các văn kiện chính trị do Bác viết và do người khác viết về Bác;
Những bài hát, bản nhạc viết về Hồ chí Minh; những đoạn phim, những băng video

phản ánh cuộc đời và sự nghiệp hoạt động cách mạng của Người.
Như vậy, một Thư viện số có thể bao gồm nhiều bộ sưu tập theo các chủ đề
khác nhau, có thể do tập thể hoặc cá nhân tự xây dựng hoặc trao đổi, mua bán. Có
thể nằm trong lưu trữ của thư viện nhưng cũng có thể nằm ngoài thư viện thông
qua một kênh cung cấp từ phía đối tác.
Sự có mặt của các nguồn tin số hoá mở đầu một chiều hướng mới trong việc
quản lý các thư viện được tin học hoá, bởi vì cũng cần đảm bảo việc quản lý bản
thân các nguồn số hoá gắn liền với sự thông báo trong mục lục truyền thống. Như
vậy các thư viện số đã bổ sung vào hệ thống quản lý thư viện tích hợp một hệ
thống quản lý các nguồn số hoá trong quá trình xây dựng các sưu tập thông tin. Sự
hiện diện đồng thời dưới dạng số của một nguồn lực và hình thức mô tả nguồn đó
tác động đến sự tiến triển của các khổ mẫu dữ liệu.
Tóm lại, Bộ sưu tập số là một tập hợp có tổ chức nhiều tài liệu dưới dạng số
về một chủ đề nhất định được lưu giữ, quản lý và khai thác thống nhất bằng máy
tính thông qua một giao diện thống nhất.

Nguyễn Thị Liên

Page 11


Khóa luận – K55 Thông tin – thư viện
1.2.2. Đặc điểm của bộ sưu tập số
Bộ sưu tập số là lựa chọn tối ưu để bảo tồn được lâu dài các tài liệu quý
hiếm, ngăn chặn những rủi ro hủy hoại do thời gian, thiên tai, khí hậu và do tần
suất sử dụng. Vì vậy xây dựng bộ sưu tập số là vấn đề đáng được quan tâm ở nhiều
thư viện trên cả nước.
Bộ sưu tập số có những đặc tính nổi trội mà dịch vụ thư viện truyền thống
chưa có như:
- Bộ sưu tập số tạo ra một môi trường và cơ hội bình đẳng rộng mở cho tất

cả mọi người đều có cơ hội sử dụng nguồn tài liệu học tập bởi STS không bị giới
hạn về không gian và thời gian. Loại bỏ khoảng cách tri thức giữa người giàu và
người nghèo, giữa thành thị và nông thôn, giữa các quốc gia.
- Tính linh hoạt và khả năng đáp ứng của tài liệu số trong đào tạo thể hiện ở
chỗ một bản tài liệu số có thể cùng lúc phục vụ cho nhiều đối tượng khác nhau,
không phụ thuộc vào số lượng người dùng, thời gian và vị trí địa lý của người học.
- Tình hiệu quả của bộ sưu tập số là tiết kiệm thời gian và kinh phí: thư viện
đỡ tốn kinh phí xây dựng kho tàng, kinh phí bổ sung tài liệu, bảo quản và kinh phí
trả lương cho người phục vụ. Hơn hết là giúp cho người dùng tin được dễ dàng
thuận tiện, tiết kiệm được thời gian, tiền bạc trong việc tìm thông tin.
- Bộ sưu tập số kết hợp với phương thức thư viện truyền thống sẽ phục vụ có
hiệu quả hơn cho việc đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo, đặc biệt là đào tạo
theo tín chỉ, đào tạo trực tuyến của nhà trường. Giúp cho người học chủ động trong
việc sắp xếp thời gian học tập, họ không phải đến thư viện cũng có thể lấy được tài
liệu qua hệ thống mạng thông tin ở mọi lúc, mọi nơi.

Nguyễn Thị Liên

Page 12


Khóa luận – K55 Thông tin – thư viện
- Trong điều kiện còn thiếu nguồn tài liệu tham khảo học tập in giấy, thì việc
có thêm giải pháp tài liệu số hóa sẽ giúp cho người học có thêm nhiều lựa chọn để
phục vụ cho kế hoạch học tập của cá nhân.
- Bộ sưu tập số góp phần giải phóng kiến thức, mở rộng đối tượng phục vụ:
Phạm vi phục vụ các tài liệu của thư viện không bị bó hẹp trong khuôn viên của
nhà trường mà nó vươn tới các vị trí địa lý khác.
- Bộ sưu tập số là lựa chọn tối ưu để bảo tồn được lâu dài các tài liệu quý
hiếm, ngăn chặn những rủi ro hủy hoại do thời gian, thiên tai, khí hậu và tần suất

sử dụng.
1.3. Quy trình số hóa tài liệu, xây dựng bộ sưu tập số
Số hóa tài liệu là một quy trình đòi hỏi nhiều thời gian, do đó, trước khi xây
dựng dự án số hóa, các cơ quan thông tin - thư viện cần tự trả lời những câu hỏi
sau đây: tại sao cần số hóa tài liệu, số hóa để làm gì; đối tượng phục vụ là ai; số
lượng tài liệu cần số hóa; ai sở hữu tài liệu đó; bản quyền tài liệu thuộc về ai, thời
gian thực hiện dự án; ngân sách để tạo lập và duy trì; ai chịu trách nhiệm giải quyết
khó khăn của dự án (nếu có); số hóa tài liệu như thế nào; định dạng sản phẩm là gì
(ảnh / văn bản...); mô tả tài liệu như thế nào, dùng chuẩn biên mục gì; quy định các
chính sách truy cập tài liệu số (ai, mức độ truy cập, miễn phí hay có thu phí…);
bảo quản và duy trì phục vụ như thế nào...
Sưu tầm tài liệu
Đây là công đoạn đầu tiên trong quy trình số hóa tài liệu, bao gồm việc cân
nhắc, lựa chọn và xác định những đối tượng tài liệu nào được đưa vào số hóa. Các
thư viện cần đưa ra những tiêu chí cụ thể làm cơ sở và căn cứ cho việc lựa chọn
các tài liệu như:

Nguyễn Thị Liên

Page 13


Khóa luận – K55 Thông tin – thư viện
Vấn đề bản quyền: bản quyền cực kỳ quan trọng trong việc lựa chọn tài liệu,
vì tài liệu sau khi số hóa sẽ được đưa lên internet. Trước khi số hóa, thư viện phải
tuân thủ luật bản quyền tác giả của Việt Nam cũng như luật bản quyền quốc tế. Tuy
nhiên những ý thức về vấn đề bản quyền cũng như những quy định về vấn đề sở
hữu trí tuệ ở Việt Nam hiện nay chưa thực sự rõ ràng và còn thiếu các văn bản
pháp luật hướng dẫn và quy định cụ thể. Chính vì vậy, hiện nay nhiều thư viện ở
Việt Nam đang gặp khó khăn trong việc lựa chọn các tài liệu để số hóa. Nhiều thư

viện chọn cho mình một giải pháp trước mắt là tập trung tiến hành số hóa những
nguồn tài liệu đặc thù tại thư viện, đó là tài liệu nội sinh và tài liệu quý hiếm.
Nội dung tài liệu: căn cứ trên cơ sở xác định nhóm người dùng tin mục tiêu
mà thư viện quyết định lựa chọn các chủ đề tài liệu nào sẽ đưa vào số hóa.
Điều kiện bảo quản hiện tại: tùy tình hình cụ thể của từng thư viện trong tình
trạng điều kiện bảo quản kết hợp với nội dung tài liệu mà quyết định lựa chọn tài
liệu đưa vào. Ví dụ: ưu tiên cho các tài liệu in trên giấy giòn, dễ rách, có hóa chất
bảo quản...
Các loại tài liệu đặc biệt: tài liệu độc bản, tài liệu quý hiếm, thời gian xuất
bản (luận án tiến sĩ, tài liệu cổ, tài liệu cẩm nang chuyên ngành)...
Lựa chọn công nghệ
Lựa chọn công nghệ để tiến hành số hóa đóng vai trò rất quan trọng bởi đây
là công cụ đắc lực giúp cơ quan thông tin - thư viện thực hiện các công việc trong
quy trình tạo lập và vận hành bộ sưu tập số. Công nghệ để tiến hành số hóa cần đáp
ứng các yêu cầu sau: là công cụ, môi trường để đảm bảo các tài liệu số hóa sau khi
được tạo lập sẽ dễ dàng, thuận tiện cho người dùng tiếp cận; có đủ độ tin cậy cho
người quản trị và kỹ thuật viên trong quá trình tạo lập, bảo quản và cung cấp dữ
liệu trong quá trình hoạt động của bộ sưu tập; đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về chuẩn
nghiệp vụ thông tin - thư viện; dễ dàng trao đổi dữ liệu với các chuẩn khác, có
công cụ sao lưu an toàn dữ liệu.
Nguyễn Thị Liên

Page 14


Khóa luận – K55 Thông tin – thư viện
Để bộ sưu tập số phát huy được hết tác dụng, thư viện khi thực hiện tạo lập
bộ sưu tập số cần phải có cơ sở hạ tầng sau: hệ thống mạng intranet được kết nối
internet với đường truyền đủ đáp ứng cho số người dùng tối thiểu của thư viện; hệ
thống máy chủ đủ mạnh để đáp ứng việc lưu trữ, bảo quản, cung cấp dữ liệu và

quản lý người dùng và các phần mềm hệ thống có bản quyền; trang web đăng tải
và là cổng truy cập của người dùng vào bộ sưu tập; phần mềm quản lý tài liệu số.
Phần mềm quản lý tài liệu số phải đáp ứng các yêu cầu như: tạo siêu dữ liệu theo 3
dạng (siêu dữ liệu mô tả: mô tả các thông tin về tài liệu, siêu dữ liệu cấu trúc: mô
tả các liên kết giữa các đối tượng thông tin liên quan của tài liệu như mục lục,
chương, phần, trang sách, hình ảnh minh họa, phụ lục... giúp người dùng dễ dàng
di chuyển đến các thành phần của tài liệu, siêu dữ liệu quản trị: gồm tạo kích cỡ tập
tin, định dạng tài liệu (PDF), đặc tính sử dụng và tình trạng của tài liệu); mô tả dữ
liệu (theo một trong các chuẩn siêu dữ liệu MARC, Dublin Core, MODS, METS,
ISO 2709 trong đó chuẩn Dublin Core tương đối phổ biến vì có khả năng tùy biến
cho các tiêu chuẩn khác với 15 trường biên mục); vận hành liên kết (tạo ra một
giao diện tra cứu tích hợp cho người dùng trên nhiều bộ sưu tập cùng một lúc dựa
trên các điểm truy cập nhất quán như tác giả, nhan đề tài liệu, từ khóa, tiêu đề chủ
đề, chỉ mục quốc gia... ); quản lý các nguồn dữ liệu truy cập được cho phép, phần
này chưa có trong các phần mềm nguồn mở, theo đó chỉ có các thành viên đã được
đăng ký mới được quyền truy cập vào tài liệu hoặc quản lý chế độ download của
tài liệu; xuất - nhập dữ liệu để trao đổi với các hệ thống khác theo các chuẩn
chung.
Số hóa nguồn tài liệu
Đây là công đoạn đòi hỏi đầu tư nhiều công sức, kinh phí nhưng lại là khâu
dễ dàng thực hiện nhất, bởi hiện nay công nghệ số hóa tài liệu đã tiến bộ rất nhiều.
Trước đây, muốn số hóa một cuốn sách khoảng 2000 trang thì phải mất vài ngày để
quét từng trang sách. Nhưng hiện nay cũng với cuốn sách đó chỉ mất vài giờ là cho
Nguyễn Thị Liên

Page 15


Khóa luận – K55 Thông tin – thư viện
ra một sản phẩm tài liệu số đảm bảo chất lượng tốt, sắc nét, hình ảnh đẹp, giống

100% bản gốc và đặc biệt còn cho phép tự động tạo các siêu dữ liệu mô tả và siêu
dữ liệu cấu trúc của tài liệu ở định dạng XML.
Hiện nay ở Việt Nam đã có các thiết bị số hóa tài liệu của công nghệ
KIRTAS APT 1200, công nghệ này cùng với thiết bị BookScan APT 1200 có thể
giúp các thư viện có thể số hóa nguồn tài liệu với số lượng lớn, giá cả hợp lý và
đảm bảo chất lượng, không làm hư hỏng tài liệu gốc do không phải tháo gáy tài
liệu đối với tài liệu có độ dày trang khi thực hiện scan. Đặc biệt, công nghệ
KIRTAS APT 1200 có phần mềm biên tập BookScan Editor cho phép tự động biên
tập, tạo siêu dữ liệu theo yêu cầu.
Biên mục tài liệu (tạo siêu dữ liệu)
Siêu dữ liệu (metadata) dùng để mô tả một tài nguyên thông tin được chia sẻ
trên internet. Một bản ghi siêu dữ liệu bao gồm một tập hợp các thuộc tính hoặc tập
các phần tử cần thiết để mô tả các tài nguyên theo yêu cầu.
Có nhiều chuẩn biên mục mang tính chất siêu dữ liệu khá thông dụng như:
MARC 21/ UNIMARC, Dublin Core Metadata, XML… Các dữ liệu này thường
được gắn vào phần đầu cho mỗi tài liệu điện tử đặt trên website và rất thích hợp
cho các máy tìm kiếm, lọc ra thông tin để tổ chức thành kho dữ liệu mà không cần
dùng đến hệ quản trị cơ sở dữ liệu truyền thống.
Dublin Core Metadata là chuẩn dùng mô tả nội dung của biểu ghi và dữ liệu.
Nó đơn giản hơn MARC Format vì chỉ có 15 trường: nhan đề, tác giả, chủ đề, mô
tả, nhà xuất bản, tác giả phụ, ngày tháng, loại tài liệu, mô tả vật lý, định danh,
nguồn gốc, ngôn ngữ, liên kết, bao quát, bản quyền (trong khi MARC có đến hơn
200 trường, khá phức tạp).
Vận hành, bảo quản và cung cấp dữ liệu

Nguyễn Thị Liên

Page 16



Khóa luận – K55 Thông tin – thư viện
Trước khi vận hành thật các công đoạn: quét (scan), biên mục tài liệu, tải tài
liệu lên mạng,... thư viện sẽ thực hiện giai đoạn thử nghiệm bằng cách cho scan
khoảng 10 đơn vị tài liệu với đủ các loại hình: sách, tạp chí, bản thảo, tài liệu hành
chính, tranh ảnh,… và cho lưu trữ cũng như vận hành thử trên website để kiểm tra
về chất lượng, bao gồm kích cỡ của hình ảnh, vấn đề xử lý chung, dạng tập tin,
chiều sâu của bit, vùng sáng, vùng tối, giá trị âm thanh, độ sáng, độ tương phản, độ
phân giải, sự nhiễu, sự định hướng, tiếng động, sự điều chỉnh kênh màu, sự mất
văn bản, sự điều chỉnh hình ảnh, sựu mất đường truyền hay mất hình ảnh, sự sống
động, chất lượng truy cập, hình thức ngắn gọn, rõ ràng của văn bản…
Trong quá trình quét tài liệu, tạo sản phẩm số cho đến biên mục tài liệu số
nên được sao lưu, cất giữ bảo quản ở các dạng: bộ nhớ lớn của máy chủ, trên CDROM, trên ổ cứng di động...
Cung cấp, tải dữ liệu lên mạng là khâu cuối cùng của tiến trình số hóa, bao
gồm việc đưa bộ sưu tập lên mạng của thư viện để phục vụ trực tuyến và thiết kế
giao diện với người dùng: tạo ra các công cụ sử dụng, chính sách khai thác đối với
người dùng, ý kiến đóng góp, đánh giá của người sử dụng, xây dựng các ứng dụng
tùy biến, chính sách phát triển nguồn tài liệu… Tất cả các kết quả này cần được
thông qua trước hội đồng số hóa để hoàn chỉnh lần cuối trước khi công bố kết quả
bộ sưu tập đối với người dùng tin.
Xây dựng bộ sưu tập số là một xu thế tất yếu của các thư viện hiện nay nhằm
giải quyết vấn đề lưu trữ tài liệu, chia sẻ tài nguyên và cải thiện dịch vụ cung cấp
cho người dùng tin. Để làm được điều này, ngoài những nỗ lực của đội ngũ cán bộ
ngành thông tin - thư viện, cần phải có sự định hướng và quan tâm chỉ đạo từ các
cấp lãnh đạo nhằm thống nhất nhận thức cũng như hành động.

Nguyễn Thị Liên

Page 17



Khóa luận – K55 Thông tin – thư viện
1.4. Khái quát về Thư viện Trường Đại học Hà Nội
1.4. 1. Lịch sử hình thành và phát triển
Trường Đại học Hà Nội (Đại học Ngoại ngữ trước đây) được thành lập năm
1959 là cơ sở đào tạo, nghiên cứu ngoại ngữ lớn nhất Việt Nam. Hiện tại, trường
có nhiệm vụ đào tạo và nghiên cứu nhiều ngôn ngữ như: tiếng Anh, tiếng Pháp,
tiếng Nga, tiếng Trung Quốc, tiếng Hàn Quốc, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Đức, tiếng
Ý… Ngoài đào tạo về ngoại ngữ, trường Đại học Hà Nội còn đào tạo các ngành
học khác như: Quản trị kinh doanh, Khoa học máy tính, Du lịch học, Quốc tế học,
Tài chính ngân hàng…
Thư viện Đại học Hà Nội có lịch sử hình thành và phát triển cùng với lịch
sử hình thành và phát triển của trường Đại học Hà Nội trong suốt 54 năm qua.
Thời kỳ mới thành lập Thư viện hoạt động trên cơ sở là một tổ công tác phục
vụ tư liệu cho trường trực thuộc phòng giáo vụ, hoạt động thư viện bó hẹp, nghèo
nàn. Tài liệu chủ yếu là sách giáo trình, sách tham khảo chuyên ngành như: tiếng
Nga và ngôn ngữ các nước Đông Âu (tiếng Ba Lan, tiếng Tiệp Khắc, tiếng
Bungari…). Nguồn tài liệu chủ yếu là sách tài trợ, tặng biếu của các nước trong hệ
thống xã hội chủ nghĩa.
Năm 1967, trước yêu cầu mở rộng quy mô đào tạo và nâng cao chất lượng
giảng dạy, trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội đã mở them một số chuyên ngành
như: tiếng Anh, tiếng Pháp. Cùng với sự thành lập của một số khoa và bộ môn, vốn
tư liệu tăng lên đáng kể, tổ công tác phục vụ thông tin tư liệu không thể đáp ứng
được nhu cầu tin và không còn phù hợp. Đến năm 1984, lãnh đạo nhà trường quyết
định tách tổ tư liệu ra khỏi phòng giáo vụ thành một độc lập với tên gọi là: “Thư
viện trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội”. Sau khi tách thành đơn vị độc lập, năm
1994 Thư viện đã xây dựng mới được toà nhà 2 tầng, vốn tài liệu ngày càng nhiều
phần nào đáp ứng được yêu cầu về tư liệu cho công tác đào tạo của trường. Trong
Nguyễn Thị Liên

Page 18



Khóa luận – K55 Thông tin – thư viện
quá trình hoạt động, Thư viện đã không ngừng nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật,
đổi mới hoàn thiện tổ chức và hoạt động, từng bước ứng dụng công nghệ thông tin
vào hoạt động nghiệp vụ.
Năm 2000 với chương trình đổi mới phương pháp giảng dạy, nâng cao chất
lượng đào tạo ngoại ngữ ở nước ta trong thời kỳ đổi mới, Ban Giám hiệu trường
quyết định sát nhập Thư viện với phòng Thông tin và đổi tên thành “Trung tâm
Thông tin – Thư viện Trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội”. Trung tâm thực hiện dự
án nâng cấp hiện đại theo hướng mở, bằng nguồn vốn vay của Ngân hàng thế giới
WB (World Bank) mức A vốn đầu tư 500.000 USD để đầu tư nâng cấp cơ sở vật
chất - kỹ thuật trụ sở, trang thiết bị.
Ngày 5/12/2003 Trung tâm đã đi vào hoạt động tại trụ sở mới và không
ngừng hoàn thiện cơ sở vật chất, trang thiết bị. Đặc biệt, năm 2005 Trung tâm đã
ứng dụng và triển khai phần mềm quản trị thư viện điện tử Libol để nâng cao hiệu
quả hoạt động thông tin thư viện.
Năm 2010 đổi tên thành “Thư viện Đại học Hà Nội”. Và hiện nay thư viện
Đại học Hà Nội đang đi vào hoạt động ổn định và từng bước hiện đại, ngày càng
đóng góp vào sự nghiệp giáo dục của trường Đại học Hà Nội nói riêng và của
ngành đào tạo của nước ta nói chung.
1.4.2. Chức năng, nhiệm vụ của thư viện
Thư viện Đại học Hà Nội có 4 chức năng cơ bản, đó là:
- Chức năng thông tin
- Chức năng văn hoá
- Chức năng giáo dục
- Chức năng nghiên cứu

Nguyễn Thị Liên


Page 19


Khóa luận – K55 Thông tin – thư viện
Trong đó, chức năng giáo dục là chức năng chủ yếu. Ngoài ra, Thư viện còn
có chức năng thu thập, xử lý, bảo quản, cung cấp và phổ biến thông tin tư liệu bằng
nhiều hình thức khác nhau.
Nhiệm vụ của Thư viện Trường Đại học Hà Nội cũng giống như thư viện
các trường đại học khác, đó là:
- Tham gia đóng góp ý kiến cho Ban Giám hiệu về công tác thông tin, tư liệu
phục vụ cho quá trình đào tạo, giảng dạy và nghiên cứu khoa học của trường.
- Thu thập, bổ sung, trao đổi thông tin tư liệu cần thiết, tiến hành xử lý, cập
nhật dữ liệu đưa vào hệ thống quản lý và tìm tin tự động. Tổ chức cơ sở hạ tầng
thông tin.
- Phục vụ thông tin tư liệu cho bạn đọc là cán bộ, giảng viên, sinh viên trong
công tác giảng dạy, nghiên cứu và học tập.
- Hướng dẫn giúp người dùng tin tiếp cận cơ sở dữ liệu và khai thác các
nguồn tin trên mạng.
- Kết hợp với các đơn vị chức năng trong trường hoàn thành tốt quản lý, sử
dụng có hiệu quả cơ sở vật chất kỹ thuật, vốn tài liệu của Trung tâm.
Trong suốt quá trình hoạt động, Thư viện luôn xác định rõ chức năng, nhiệm
vụ để từ đó đề ra các kế hoạch cụ thể nhằm hoàn thành tốt các công việc được
giao, góp phần không nhỏ vào sự nghiệp đào tạo và nghiên cứu khoa học của
trường.
1.4.3. Cơ cấu tổ chức
Cơ cấu tổ chức của một cơ quan thông tin – thư viện gồm các bộ phận, có
chức năng và nhiệm vụ riêng, nhưng luôn thống nhất, nhằm đảm bảo hiệu quả hoạt
động của cơ quan. Để nâng cao công tác quản lý các hoạt động thì các bộ phận
phải có sự phân công rõ rệt.
Nguyễn Thị Liên


Page 20


Khóa luận – K55 Thông tin – thư viện
Căn cứ quyết định số 668/QĐ ngày 14/07/1986 của Bộ trưởng Bộ Đại học
và trung học chuyên nghiệp về quy chế tổ chức và hoạt động của Thư viện đại học,
căn cứ vào chức năng và nhiệm vụ tổ chức và hoạt động của Thư viện Đại học Hà
Nội, Thư viện được tổ chức theo sơ đồ sau:

BAN
GIÁM
ĐỐC

Tổ
Kĩ thuật

Tổ Nghiệp
vụ

Tổ
Dịch vụ và
Marketing

Tổ Tập
huấn và
giải đáp
thông tin

Tổ

An ninh

Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức tại Thư viện trường Đại học Hà Nội
Hiện nay, tổng số cán bộ của Thư viện gồm có 22 cán bộ, trong đó có 1
nghiên cứu sinh, 10 thạc sĩ chuyên ngành Thông tin – Thư viện và 01 người đang
theo học thạc sĩ, 04 cử nhân chuyên ngành thư viện, 4 cán bộ tốt nghiệp công nghệ
thông tin và điện tử viễn thông (kỹ thuật viên), 2 bảo vệ.Thư viện với một đội ngũ
cán bộ trẻ nhiệt tình, có trình độ nghiệp vụ, tin học, ngoại ngữ tốt, tạo điều kiện
thuận lợi cho việc hiện đại hoá Thư viện. Đây là một thuận lợi song cũng là một
thách thức trong việc tổ chức các hoạt động như đội ngũ cán bộ trẻ còn thiếu kinh
nghiệm trong công việc, để nâng cao hiệu quả hoạt động Thư viện cần khắc phục
khó khăn và phát huy thế mạnh.
1.4.4. Đặc điểm vốn tài liệu
“ Nguồn lực thông tin gồm các dữ liệu thể hiện dưới dạng văn bản, số, hình
ảnh hoặc âm thanh được ghi lại trên các phương tiện theo quy ước và không theo
Nguyễn Thị Liên

Page 21


Khóa luận – K55 Thông tin – thư viện
quy ước các sưu tập, những kiến thức của con người, những kiến thức của tổ chức
có thể truy cập và có giá trị cho người sử dụng”( 2005).Trong hoạt động thư viện,
nguồn lực thông tin hay tài nguyên thông tin là yếu tố quan trọng làm nên mọi hoạt
động thông tin. Thư viện ĐHHN có nguồn tài nguyên thông tin khá phong phú, đa
phần là các tài liệu ngôn ngữ hoặc hỗ trợ giảng dạy ngôn ngữ, vì giảng dạy và học
tập ngoại ngữ là đặc thù của trường.
Thư viện trường Đại học Hà Nội hiện có các nguồn tư liệu phục vụ bạn đọc
như sau:






Thư viện trung tâm
Tủ sách các Khoa
Tủ sách Phòng, Ban
Thư viện trung tâm

+ Tài liệu Tiếng Việt.
+ Tài liệu tra cứu: từ điển bách khoa, từ điển chuyên ngành, từ điển ngôn
ngữ, almanach, số liệu thống kê...
+ Báo và tạp chí in, tạp chí điện tử online.
+ Tài liệu nghiên cứu khoa học: Luận án, luận văn, công trình nghiên cứu
khoa học.
+ Tài liệu tự chọn: Sách nhiều thứ tiếng đã xử lý an ninh nhưng chưa biên
mục, được trung bày để bạn đọc tự chọn, nhằm đáp ứng nhanh nhất yêu cầu bạn
đọc và tiết kiệm không gian tư liệu.
+ Tài liệu tiếng nước ngoài (Anh, Nga, Pháp, Trung Quốc, Nhật Bản, Đức...)
+ Tài liệu nghe nhìn.
+ Tài liệu trực tuyến.
+ Cơ sở dữ liệu trực tuyến
Nguyễn Thị Liên

Page 22


Khóa luận – K55 Thông tin – thư viện
+ Bộ sưu tập số hóa tài liệu điện tử: Luận văn, file mp3, sách điện tử...
+ Các phần mềm dạy và học tiếng Anh trực tuyến qua mạng.

Theo số liệu thống kê tháng 12/2013:
STT

Loại tài liệu

Tổng tên sách

Tổng số bản sách

1

Tiếng việt

4521

7286

2

Ngoại văn

11067

16315

3

Báo, Tạp chí

210


14974

Luận án, Luận

1108

2710

4

văn, Khóa luận
Bảng 1.1: Nguồn tài liệu truyền thống của TVĐHHN

Ngoài ra do quá trình bùng nổ thông tin và xu thế phát triển nguồn tài liệu
điện tử, Thư viện cũng đã và đang từng bước chuyển đổi nguồn tài liệu truyền
thống sang bổ sung tài liệu điện tử nhằm tiết kiệm vật chất, trang thiết bị lưu trữ,
bên cạnh đó lại đáp ứng nhu cầu của người dùng tin về chất lượng cũng như thói
quen sử dụng tài liệu của thư viện ở bất cứ nơi đâu, bất cứ thời gian nào, như: Cơ
sở dữ liệu (CSDL) ProQuest - Central, CSDL Emerald, và một số CSDL miễn phí
khác: CSDL chuyên ngành y - sinh học: Hinari; CSDL Ebsco - Host…

STT

Cơ sở dữ liệu

Số biểu ghi

1


Sách

29754

2

Báo, Tạp chí

210

3

Luận án, luận văn, khóa luận

1108

4

Các loại băng từ

753

Bảng 1.2: Nguồn tài liệu điện tử của TVĐHHN
Nguyễn Thị Liên

Page 23


Khóa luận – K55 Thông tin – thư viện
• Tủ sách các Khoa


Thư viện trường Đại học Hà Nội đã xây dựng được một số tủ sách các Khoa:
+ Tủ sách khoa Hàn Quốc
+ Tủ sách khoa tiếng Pháp
+ Tủ sách khoa tiếng Italia
+ Tủ sách khoa Giáo dục chính trị
+ Tủ sách khoa tiếng Đức
• Tủ sách Phòng, Ban

+ Tủ sách phòng Tổ chức Hành chính
+ Tủ sách phòng tài vụ
+ Tủ sách Y tế dự phòng
Đây là sự cố gắng không ngừng của thư viện và nhà trường nhằm tăng vốn
tài nguyên thư viện, đáp ứng nhu cầu phát triển của nhà trường và xã hội.
1.4.5. Đặc điểm người dùng tin và nhu cầu tin
Có thể khái quát các nhóm người dùng tin chủ yếu của Thư viện như sau:
Nhóm 1: Sinh viên chính qui
Nhóm 2: Cán bộ, giảng viên
Nhóm 3: Học viên dự án
Nhóm 4: Học viên cao học
Nhóm 1: Sinh viên chính qui
Đây là nhóm người dùng tin đông đảo của Trung tâm, nhu cầu thông tin của
họ là rất lớn. Họ thường sử dụng thư viện với cường độ cao, đặc biệt vào dịp chuẩn
Nguyễn Thị Liên

Page 24


Khóa luận – K55 Thông tin – thư viện
bị làm đề tài, thực hiện các công tình nghiên cứu khoa học, bảo vệ khóa luận. Lúc

này nhu cầu tin của họ là tài liệu chuyên sâu về chủ đề, tài liệu mang tính thời sự.
Trong giai đoạn hiện nay, việc đổi mới phương pháp giảng dạy với quan
điểm lấy người học làm trung tâm, nâng cao tính tích cực, chủ động của người học
đã khiến nhóm người dùng tin này ngày càng có nhiều biến chuyển về phương
pháp học tập. Lúc này thư viện được xem là “giảng đường thứ hai”, là kênh thông
tin quan trọng giúp người học nắm bắt và làm chủ tri thức. Nhu cầu tự học, tự
nghiên cứu đã và đang thu hút được sự quan tâm của sinh viên. Từ đây cũng đặt ra
cho Trung tâm nhiệm vụ và yêu cầu mới.
Nhóm 2: Cán bộ, giảng viên
Là những người thường xuyên cung cấp thông tin qua hệ thống bài giảng,
bài tập và các đề xuất kiến nghị. Đặc điểm nhu cầu tin của họ là vừa mang tính
chuyên sâu, vừa mang tính mới.
Nhóm 3: Học viên dự án
Đây là nhóm người dùng tin không thường xuyên của Trung tâm, tuỳ theo
các khoá đào tạo ngắn hạn của nhà trường.
Nhóm 4: Học viên cao học
Học viên cao học là những người đã tốt nghiệp đại học, vì vậy ít nhiều có
kinh nghiệm. Thông tin dành cho họ có tính chất chuyên sâu, phù hợp với chương
trình đào tạo của họ.

Nguyễn Thị Liên

Page 25


×