Tải bản đầy đủ (.pdf) (198 trang)

Cái huyền ảo trong tiểu thuyết toni morrison

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.93 MB, 198 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN PHƯƠNG KHÁNH

CÁI HUYỀN ẢO TRONG TIỂU THUYẾT
TONI MORRISON

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

Hà Nội – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN PHƯƠNG KHÁNH

CÁI HUYỀN ẢO TRONG TIỂU THUYẾT
TONI MORRISON

Chuyên ngành:

Văn học Bắc Mỹ

Mã số:

62.22.30.20

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS ĐẶNG ANH ĐÀO

Hà Nội - 2015


MỤC LỤC

Trang
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU..............................................................................................

1

1.

Lý do chọn đề tài................................................................................... 1

2.

Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu......................................... 3

3.

Phương pháp nghiên cứu....................................................................... 4

4.

Đóng góp về mặt khoa học và thực tiễn................................................ 5


5.

Cấu trúc của luận án.............................................................................. 6
Chương 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU........................ 7

1.1.

Toni Morrison và những khuynh hướng tiếp cận............................ 7

1.1.1. Trên thế giới.......................................................................................... 7
1.1.2. Ở Việt Nam...........................................................................................
1.2.

17

Cái huyền ảo và văn học huyền ảo..................................................... 20

1.2.1. Đi tìm khái niệm “Cái huyền ảo” (the magical)................................... 20
1.2.2. Cái huyền ảo (the magical) – phương thức sáng tác hay tư duy nghệ
thuật.......................................................................................................

34

Chương 2. CỐT TRUYỆN VÀ CÁC MOTIF HUYỀN ẢO............ 42
2.1.

Kiểu cốt truyện và những dấu vết huyền thoại................................. 43

2.1.1. Huyền thoại gốc Monomyth..................................................................


44

2.1.2. Truy tìm Chén Thánh............................................................................

53

2.1.3. Huyền thoại chu kỳ...............................................................................

57

2.2.

Các motif huyền ảo – Những cổ mẫu biến hình................................ 61

2.2.1. Chết và Tái sinh..................................................................................... 63
2.2.2. Hiến tế và Cứu chuộc............................................................................ 67
2.2.3. Mẹ và Con gái.......................................................................................

72


3.1.

Chương 3. NHÂN VẬT HUYỀN ẢO................................................

77

Nhân vật huyễn hoặc..........................................................................


77

3.1.1. Hiện hữu ma ảo..................................................................................... 77
3.1.2. Người – ma tái sinh............................................................................... 81
3.2.

Nhân vật lưỡng phân........................................................................... 85

3.2.1. Sự chối từ thực tại.................................................................................

87

3.2.2. Ẩn ức và loạn tâm.................................................................................

90

3.3.

Nhân vật huyền thuật.......................................................................... 96

3.3.1. Sức mạnh tiên tri và trị liệu................................................................... 97
3.3.2. Sứ mệnh trợ giúp và dẫn đường............................................................ 102
Chương 4. DIỄN NGÔN HUYỀN ẢO – TỪ PHƯƠNG DIỆN
NGƯỜI KỂ CHUYỆN........................................................................

108

Người kể chuyện và diễn ngôn thực - ảo...........................................

111


4.1.1. Diễn ngôn người kể chuyện: lập lờ thực - ảo.......................................

111

4.1.

4.1.2. Đặc điểm kiểu diễn ngôn thực - ảo........................................................ 122
4.2.

Người kể chuyện và diễn ngôn xoay vòng......................................... 125

4.2.1. Ngôn ngữ lặp và cấu trúc xoay vòng..................................................... 126
4.2.2. Hiệu quả thẩm mỹ huyền ảo ................................................................. 131
4.3.

Người kể chuyện và diễn ngôn âm nhạc............................................ 134

4.3.1. “Tên gọi của âm thanh và âm thanh của tên gọi” ............................... 136
4.3.2. Diễn ngôn Jazz – những mật ngữ.......................................................... 141

KẾT LUẬN .........................................................................................

147

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN....................................................................... 151
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................

152


PHỤ LỤC ............................................................................................ 168


Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan: Luận án này là công trình nghiên cứu thực sự của cá
nhân, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS Đặng Anh Đào.
Những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận án là trung thực và
chưa từng được công bố dưới bất cứ hình thức nào.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Hà Nội, tháng 07 năm 2015
Tác giả luận án

Nguyễn Phương Khánh


MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Có cảm giác rằng, khi con người ngậm ngùi một cách thê thiết về một thời đại
vắng Chúa và gào kêu rằng nền văn minh đã trở thành cõi hồng hoang trong lòng
người thì người ta lại càng tin tưởng một cách chân thành và sùng kính phía bờ kia
của thực tại, dâng hiến chân lý cho cái siêu thực, kỳ ảo. Không còn đề cao lý tính,
con người “sục sạo” tận cõi sâu của cái tôi bí ẩn, lắng nghe cái vô thức, tiềm thức
chìm nổi và nhìn cuộc sống bằng con mắt đứa trẻ, vừa thơ ngây vừa mặc cảm, vừa
khao khát tìm kiếm lại đồng thời không biết đến ngày mai. Vì thế, đọc văn chương
thời này, người ta như lạc lối trong những không gian vô số ngả rẽ và thời gian
xuôi ngược lúc nén chặt trong một tiếng thở dài, lúc kéo dài vô tận hàng thế hệ.
Nhân vật và sự kiện trong đó có đầy đủ cơ sở để hiện diện, thậm chí cũng đầy đủ
“tổng hòa các mối quan hệ xã hội” (K.Marx), nhưng cái khác biệt với tư duy văn

học truyền thống là ở chỗ, những cơ sở ấy lý giải kiểu gì cũng được, hoặc không
quan tâm vì sao “nó lại như thế”. Đây cũng là biểu hiện của motif quy hồi (quá
trình quay về trung tâm được diễn đạt bằng đường xoắn ốc hướng vào tâm điểm)
trong biểu tượng văn hóa loài người. Giống như chẳng ai băn khoăn làm sao mẹ
Thánh Gióng ướm vào dấu chân khổng lồ mà thụ thai được, thì bạn đọc cũng thấy
bình thường trước sự kiện mưa hoa trong đám tang Hose Accadio Buendya (Trăm
năm cô đơn). Con người từng gán cho các vị thần trên đỉnh Olympus những đặc
điểm của loài người theo tư duy nguyên thủy đầy tính thần thoại, thì giờ đây họ
cũng biến những con ma thành người, người thành quái vật, đường sá được quy
hoạch thành mê cung, mặt phẳng thành không gian đa chiều và trái đất xanh tươi
thành một hố đen đậm tính khải huyền.
Văn chương huyền ảo (Magical Literature) có lẽ đã ra đời trên kiểu tư duy hiện
đại như thế. Không đam mê phản ánh hiện thực nghiêm ngặt theo chủ nghĩa hiện
thực thế kỷ XIX, cũng không thấy tính nổi loạn và lãng mạn là hấp dẫn, thiên niên
kỷ mới đón nhận sự trở về của cổ mẫu huyền thoại. Nếu văn học kỳ ảo (Fantastic
Literature) từng thịnh hành trong văn học Âu Mỹ cuối XIX, đầu XX đã mang lại
không khí Liêu Trai hiện đại, khiến con người sợ hãi và băn khoăn trước các yếu tố
siêu nhiên, dị thường thì văn học huyền ảo tô đậm cái thần kỳ, ma thuật trong một
cảm quan đầy chất thơ. Chính vì vậy, văn chương huyền ảo đã mở đường cho sự tái
1


sinh của nhiều cổ mẫu, biểu tượng huyền thoại, chất folklore sống động và cả âm
nhạc truyền thống được đan cài trong lối trần thuật biến hóa. Bút pháp huyền ảo
cũng sử dụng tất cả “hiệu ứng” kỹ thuật mà văn chương kỳ ảo đã tạo dựng, nhưng
những chi tiết phi thực lại không đưa người đọc ra khỏi bờ hiện thực, mà ngược lại
hiện thực lịch sử là phông nền cơ bản và đích nhắm đến của tất cả các phương tiện
truyện kể. Có thể quan niệm, văn học huyền ảo đã mở rộng biên giới của hiện thực
và khai phóng mọi khả năng sáng tạo.
Nhà văn nữ da đen người Mỹ - Toni Morrison được xếp vào xu hướng sáng tác

huyền ảo hiện đại. Đọc tiểu thuyết Toni Morrison, người ta thấy những hồn ma tái
sinh, những phận người bị hiến tế, cuộc truy tìm cội rễ dòng họ và bản sắc cá
nhân… được chuyển tải bằng cốt truyện pha trộn màu sắc hiện thực và kỳ ảo,
huyền thoại. Lối viết của Morrison dẫn đến liên tưởng về cú bùng nổ với sức lan
tỏa mạnh mẽ của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mỹ Latinh trong thế kỷ XX. Tuy
nhiên, xét cho cùng, chỉ hiện thực đời sống đầy tính “huyền ảo” của người da đen
trên vùng đất của giấc mơ Mỹ là có sự gặp gỡ với đặc trưng lịch sử phong phú, chất
chồng huyền thoại dân gian của các dân tộc Mỹ Latinh, sự lý giải còn lại phải nằm
ở cá tính sáng tạo của một nhà văn nữ tài năng uyên áo. Bản thân huyền thoại đã là
chất thơ của lịch sử, dưới ngòi bút tinh tế của Toni Morrison, huyền thoại từ xa xưa
lại sống động trong đời thực, thấm đẫm giai điệu ngọt ngào của thơ ca dân gian,
của nhạc Blues, Jazz của người Mỹ gốc Phi và chất nữ tính vốn đã làm nên sinh
mệnh của một nhà văn tài năng trên bục giải thưởng Nobel.
Toni Morrison là nhà văn nữ có vị trí đặc biệt trong dòng chảy văn học Bắc Mỹ
đương đại. Tuy nhiên, trong khi những cây bút cổ điển và hiện đại quen thuộc như
Mark Twain, O’Henry, Jack London, đặc biệt là Ernest Hemingway, William
Faulkner… vẫn tiếp tục được giới thiệu và nghiên cứu phổ biến ở Việt Nam thì
những nhà văn đa sắc tộc khác ở Hoa Kỳ như Toni Morrison lại chưa được quan
tâm một cách đầy đủ. Xuất phát từ nhu cầu, mong muốn tìm hiểu và đánh giá toàn
diện hơn nền văn học Bắc Mỹ cuối thế kỷ XX đến nay, đồng thời khám phá sâu
hơn dòng văn chương huyền ảo hiện đại, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Cái huyền ảo
trong tiểu thuyết Toni Morrison”. Đặt trong thực tế tình hình và yêu cầu nghiên
cứu, giảng dạy về nhà văn Toni Morrison nói riêng và văn học Mỹ nói chung, khảo
sát tác phẩm của Morrison dưới góc độ văn chương huyền ảo, với chúng tôi, là một
con đường cần thiết để tiếp cận những đặc trưng của văn học hiện đại Hoa Kỳ.

2


2. MỤC ĐÍCH, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án nghiên cứu các biểu hiện và hiệu quả thẩm mỹ của Cái huyền ảo (the
magical) trong tiểu thuyết Toni Morrison.
Thông qua đó, luận án đi đến khám phá thế giới nghệ thuật của nhà văn Mỹ gốc
Phi – một cá tính sáng tạo độc đáo với những đặc trưng trữ tình nữ tính, thâm trầm
nhưng náo động nhạc Jazz và khốc liệt ám ảnh của hiện thực nô lệ trong khuôn
hình nền văn hóa đa trị Mỹ đương đại.
Bên cạnh đó, khái niệm Cái huyền ảo (the magical) cho đến nay vẫn chưa định
hình rõ nét trong nghiên cứu văn học ở Việt Nam. Do vậy, luận án cũng hướng đến
việc tạo dựng một cơ sở khoa học cho việc xây dựng khái niệm và đề ra một hướng
tiếp cận đối với tác phẩm của nữ văn sĩ da màu Toni Morrison từ góc độ của văn
chương huyền ảo.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung khảo sát thế giới nghệ thuật của Toni Morrison trong tiểu
thuyết trên các phương diện: cốt truyện và các motif huyền ảo; nhân vật huyền ảo;
diễn ngôn huyền ảo (giới hạn ở diễn ngôn người kể chuyện).
Chúng tôi xác định đây là những biểu hiện cơ bản và rõ nét nhất của tư duy
huyền ảo trong văn chương Toni Morrison, bộc lộ nét riêng trên con đường sáng
tạo của một nhà văn nữ da đen.
2.3. Phạm vi nghiên cứu
Luận án đi vào tìm hiểu toàn bộ tiểu thuyết (gồm 10 cuốn, ra đời từ năm 1970
đến 2012) của Toni Morrison(1). Trong đó chúng tôi tập trung phân tích 4 tác phẩm
tiêu biểu, khảo sát trên nguyên bản tiếng Anh, đó là:


The Bluest Eye (1970) (Mắt biếc, Phan Quang Định dịch, NXB Trẻ TP
Hồ Chí Minh 1995);




Song of Solomon (Bài ca Solomon, 1977);



Beloved (1987) (Người yêu dấu, Nguyễn Hải Hà, Nguyễn Thanh Tâm
dịch - NXB Văn học 2006);



Jazz (Jazz, 1992).

Toàn bộ tiểu thuyết của Toni Morrison đã được tác giả luận án giới thiệu, tóm tắt cốt truyện trong sách
tham khảo (viết riêng): Toni Morrison và tiểu thuyết, NXB Văn học 2012. Riêng tiểu thuyết mới nhất của
Toni Morrison xuất bản năm 2015 mang tên God Help the Child thì chúng tôi chưa có điều kiện tiếp cận.
(1)

3


Tiêu chí lựa chọn tác phẩm để khảo sát tập trung là: Thứ nhất, đây là những
cuốn tiểu thuyết giá trị, thành công, được đánh giá cao trong sự nghiệp sáng tác
hơn 40 năm của Toni Morrison với 10 tiểu thuyết và vô số tác phẩm thuộc nhiều
thể loại. Mắt biếc là tác phẩm đầu tay đưa người phụ nữ đã ngoài 30 tuổi đi qua đổ
vỡ hôn nhân đến với thế giới văn chương rộng lớn. Với Mắt biếc, Toni Morrison
muốn viết một cuốn sách có chính mình trong đấy và đã nhận được sự đồng cảm
của bạn đọc cũng như nhiều đánh giá cao của giới phê bình. Cuốn tiểu thuyết thứ 3
là Bài ca Solomon đánh dấu sự trưởng thành của cây bút nữ tài hoa khi nhận được
liên tiếp nhiều giải thưởng (giải thưởng của Hiệp hội Phê bình sách quốc gia
thường niên - The National Book Critic’s Circle Award; giải thưởng của Viện Hàn
lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ - The American Academy and Institute of Arts

and Letters Award). Người yêu dấu ra đời năm 1987, lập tức trở thành bestseller và
giành luôn giải thưởng Pulitzer trong năm đó. Cho đến nay, Người yêu dấu vẫn là
tác phẩm thu hút nhiều tình cảm và sự quan tâm của độc giả cũng như giới nghiên
cứu, là “cuốn sách hay nhất nước Mỹ trong vòng 25 năm qua” theo bình chọn của
tạp chí New York Times năm 2006. Jazz là tiểu thuyết tiếp sau Người yêu dấu trong
thời kỳ đỉnh cao của sự nghiệp văn chương Toni Morrison, góp phần khẳng định
giá trị nghệ thuật độc đáo của nhà văn da màu, để rồi ngay năm sau đó (1993), giải
thưởng Nobel danh giá đã được trao tặng cho bà.
Thứ hai, những tác phẩm kể trên đều chứa đựng các yếu tố huyền ảo và thi pháp
huyền ảo mang phong cách Toni Morrison với nhiều hình thức, mức độ khai thác
đậm nhạt khác nhau. Qua đó, có thể thấy tư duy nghệ thuật cùng với phương thức
sáng tác huyền ảo theo lối riêng được thể hiện khá nhất quán, xuyên suốt trong thế
giới văn chương của nhà văn. Đặt trong quan niệm về cái huyền ảo như đã nêu
trên, chúng tôi định hướng khai thác nghiêng về biểu hiện của cái “ảo” nhiều hơn là
chỉ ra các yếu tố hiện thực lịch sử in đậm trong tác phẩm Toni Morrison.
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi cố gắng liên hệ, so sánh đối chiếu
với các tác phẩm của nhiều nhà văn khác được xếp vào dòng văn chương huyền ảo
hiện đại (như Gabriel Garcia Marquez, Ben Okri, Murakami Haruki, …).
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện luận án, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thi pháp học lịch sử: Đây là phương pháp chủ đạo khi chúng tôi
nghiên cứu các tác phẩm của Toni Morrison để tìm ra đặc trưng bút pháp huyền ảo

4


của nhà văn thông qua việc khảo sát cốt truyện, motif, nhân vật…
- Phương pháp loại hình: Chúng tôi xếp Toni Morrison vào khuynh hướng sáng
tác huyền ảo hiện đại; vì vậy, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi luôn cố gắng
phát hiện các yếu tố nghệ thuật dưới góc độ nghiên cứu loại hình.

- Phương pháp xã hội học: tiếp cận từ góc độ văn hóa – xã hội của người Mỹ
gốc Phi, tiểu sử nhà văn để giải mã thêm các tầng ý nghĩa của văn bản cũng như
hiệu quả thẩm mỹ của cái huyền ảo trong văn chương Toni Morrison.
- Phương pháp phê bình huyền thoại: được sử dụng để tìm hiểu các yếu tố
huyền thoại, cổ mẫu mà nhà văn khảm chìm trong tác phẩm (đặc biệt phương pháp
này được vận dụng chủ đạo khi tiến hành chương 2).
Ngoài ra, chúng tôi còn vận dụng các phương pháp nghiên cứu khác nhưng ở
mức độ thao tác để làm rõ hơn đề tài như phương pháp so sánh (vận dụng khi liên
hệ so sánh, đối chiếu với bút pháp huyền ảo của một số nhà văn khác), phương
pháp tâm lý học (vận dụng phương pháp phê bình phân tâm học Freud và Jung khi
phân tích một số khía cạnh của hình tượng nhân vật cũng như yếu tố huyền thoại,
folklore mang dấu ấn vô thức tập thể được sử dụng trong tiểu thuyết Toni
Morrison); vận dụng lý thuyết của mỹ học tiếp nhận (khác với lối viết của nhiều tác
giả khác, tác phẩm của Toni Morrison và hướng nghiên cứu của đề tài đòi hỏi phải
triển khai theo hướng tiếp cận từ lý thuyết tiếp nhận để làm sáng tỏ thêm khía cạnh
mối quan hệ người kể chuyện – nhân vật – độc giả)...
4. ĐÓNG GÓP VỀ MẶT KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN
4.1. Luận án đi vào khám phá sâu nghệ thuật tiểu thuyết của Toni Morrison, tập
trung vào đặc điểm huyền ảo như là khía cạnh đặc sắc nhất trong bút pháp của nhà
văn nữ da đen. Đây là điểm trọng tâm có thể đóng góp cho việc nghiên cứu văn học
Mỹ nói chung và các tác giả lớn đạt giải Nobel nói riêng. Ngoài 2 cuốn tiểu thuyết
của Toni Morrison đã được dịch sang tiếng Việt và một số nghiên cứu tìm hiểu của
một số tác giả khác (dưới hình thức các bài báo khoa học, công trình luận văn, luận
án), tình hình tiếp nhận Toni Morrison trong nước còn khá mờ nhạt. Chúng tôi
mang đến những tiếp cận mới (ở góc độ văn học huyền ảo) đối với các tác phẩm
khác của nhà văn hiện nay vẫn chưa được dịch và tìm hiểu nhiều ở Việt Nam (như
Bài ca Solomon hay Jazz).
4.2. Luận án xây dựng một quan niệm cụ thể và đầy đủ hơn về khái niệm Cái
huyền ảo, hướng tới việc khẳng định sự tồn tại và xu hướng phát triển của văn học


5


huyền ảo thời hiện đại. Thông qua việc khảo sát biểu hiện và giá trị thẩm mỹ của
bút pháp huyền ảo trong một hiện tượng văn học tiêu biểu – nhà văn Toni
Morrison, luận án đóng góp một số kết quả cho việc nghiên cứu văn chương bằng
lý thuyết hiện đại.
4.3. Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ mang lại thêm những kiến thức cần thiết
bổ sung cho việc dạy và học văn học nước ngoài, đặc biệt là văn học Mỹ, ở bậc Đại
học (và có thể ở các bậc khác). Hiện nay, ở bậc Đại học, văn học Mỹ được đưa vào
tất cả chương trình với dung lượng không nhỏ (khoảng 30 - 45 tiết). Trong khi đó
văn học Mỹ chủ yếu quen thuộc với độc giả và những nhà nghiên cứu Việt Nam
qua các tên tuổi Mark Twain, O’Henry, Jack London, Ernest Hemingway, William
Faulkner… Tuy nhiên, những thành tựu văn chương Mỹ hiện đại và hậu hiện đại
(cuối thế kỷ XX đến nay) vẫn chưa thật sự được quan tâm một cách đầy đủ, đặc
biệt đối với văn học của các nhà văn Mỹ gốc Phi, Mỹ da đỏ, Mỹ gốc châu Á... Vì
thế, về mặt thực tiễn, luận án mong muốn đóng góp những kết quả thiết thực cho
bản thân trong nghề nghiệp và những người bạn đồng hành.
5. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN
Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục các công trình khoa học đã công bố có liên
quan đến luận án, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 4 chương với cấu trúc
như sau:
Chương 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Chương 2. CỐT TRUYỆN VÀ CÁC MOTIF HUYỀN ẢO
Chương 3. NHÂN VẬT HUYỀN ẢO
Chương 4. DIỄN NGÔN HUYỀN ẢO – TỪ PHƯƠNG DIỆN NGƯỜI KỂ
CHUYỆN

6



Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1.

Toni Morrison và những khuynh hướng tiếp cận

1.1.1.

Trên thế giới

Toni Morrison đem đến một kiểu văn chương huyền ảo tràn trề trí tưởng tượng
mãnh liệt và thấm đẫm chất thơ, khả năng khám phá và tái tạo hiện thực sắc sảo,
đặc biệt là việc sử dụng hòa trộn nhiều chất liệu lịch sử, huyền thoại, folklore của
văn hóa da đen để khắc họa hiện thực khốc liệt, đau thương của người Mỹ gốc Phi.
Những tác phẩm của Toni Morrison đã đặt ra rất nhiều vấn đề liên quan đến hiện
thực lịch sử, văn hóa của người Mỹ gốc Phi, vấn đề nữ quyền, tâm lý cộng đồng…
và qua đó hướng đến những giá trị cao đẹp của tình người, tình yêu, đề cao phẩm
chất của người phụ nữ, khát vọng gìn giữ cá tính văn hóa truyền thống của người
da đen, đòi hỏi sự công bằng và phê phán sự phân biệt chủng tộc, giới tính, giai
cấp… Sáng tác của bà thật sự để lại nhiều ấn tượng sâu sắc và được đánh giá cao
qua hàng loạt giải thưởng danh giá. Chính vì vậy, những khám phá về tác phẩm
Toni Morrison cho đến nay vô cùng phong phú. Qua lược khảo nhiều tài liệu
nghiên cứu về Toni Morrison trên thế giới, có thể thấy rằng các học giả tiếp cận
sáng tác của nhà văn da màu này dưới nhiều góc độ, rõ nhất là 4 khuynh hướng mà
chúng tôi sẽ liệt kê dưới đây.
Thứ nhất, khuynh hướng khai thác các khía cạnh nội dung liên quan đến vấn đề
chủng tộc, giới tính, cộng đồng, bản sắc, dấu ấn nô lệ, tình trạng bạo lực, tình mẫu
tử… Nhìn chung, những công trình đi sâu phân tích các chủ đề nổi bật trên đã chạm
đến giá trị cốt lõi mà Toni Morrison muốn hướng đến và đã khắc họa thật tinh tế,

thấm đẫm ngọt ngào lẫn cay đắng trong những câu chuyện đầy bi kịch nhân thế.
Các nhà nghiên cứu sử dụng phương pháp phê bình tiểu sử, xã hội học, văn hóa
học, phương pháp thực chứng… để soi sáng các tác phẩm nổi bật.
Chẳng hạn, nhà nghiên cứu Peter Conn (với cuốn sách Văn học châu Mỹ- Lịch
sử được minh họa, 1989) đã tìm hiểu tính chất có thực, yếu tố lịch sử trong hàng
loạt tiểu thuyết Mỹ, trong đó có tiểu thuyết của các nhà văn da màu như Toni
Morrison, Alice Waker… Về tiểu thuyết Người yêu dấu, tác giả nhận định: “Với
việc chọc thủng bức tường tưởng như vô cùng rắn chắc chia cắt sự thực và cái kỳ

7


ảo, tiểu thuyết của Morrison tạo một điểm tựa để đi đến tận cùng mà ở đó có thể
xem xét bao quát và làm chủ được lịch sử “ [122,515].
Viết về sự phát triển của dòng văn học Mỹ da đen, những gốc rễ từ truyền
thống và những sáng tạo mới, cuốn Tiểu thuyết của người Mỹ gốc Phi và những
truyền thống (1989) của Bernard W. Bell đã cung cấp nhiều thông tin có ý nghĩa
trong việc tìm hiểu bản sắc Phi châu trong tác phẩm của khá nhiều nhà văn da màu
Mỹ. Phân tích tiểu thuyết Mỹ da đen đương đại, tác giả phân ra 2 mục là Chủ nghĩa
hiện thực mới (Neorealism) và Chủ nghĩa hiện đại và hậu hiện đại (Modernism and
Postmodernism). Trong mục Neorealism có hẳn một phần cho tác giả Toni
Morrison mà tác giả đánh giá là tiêu biểu cho “chủ nghĩa hiện thực thi vị” (Poetic
Realism) và truyện ngụ ngôn theo kiểu Gothic (the Gothic Fable) [107,269].
Barbara Hill Rigney với bài viết “Một câu chuyện để lan truyền: Ma quái và sự
biểu đạt lịch sử trong tiểu thuyết Người yêu dấu của nhà văn Toni Morrison” trong
cuốn Ám ảnh của tiểu thuyết: Những phương diện nữ quyền trong truyện ma của
các nhà văn nữ người Mỹ (Lynette Carpentier & Wendy K. Kolman, 1991) tìm
hiểu nhiều hơn về khía cạnh lịch sử xác thực trong tiểu thuyết Người yêu dấu. Bà
giải thích ý nghĩa của tính lịch sử trong tác phẩm chính là hiện thực của người nô
lệ. Nỗ lực phục hồi ký ức (rememories) đã đưa đến bản liệt kê tổng quát tình trạng

bạo lực (a gross catalogue of atrocities), sự xâm hại giới tính (gross sexual
indignities), sự phủ nhận nhân quyền (a denial of human rights) trên nhiều phương
diện [119,229-235].
Nhiều bài nghiên cứu trong cuốn Tìm hiểu tác phẩm Người yêu dấu và Sula:
Tuyển tập tiểu luận và phê bình tác phẩm của các nhà văn đoạt giải Nobel [151]
cũng đã chỉ ra các khía cạnh nội dung trong tiểu thuyết Toni Morrison khi quan tâm
đến vấn đề màu da, chủng tộc, giới tính, lịch sử người Mỹ gốc Phi, tình trạng bạo
lực… và gọi tác phẩm của Morrison là truyện kể nô lệ (slavery narrative) hoặc tiểu
thuyết lịch sử (historical novel).
Lorraine Liscio với bài viết Truyện kể của Beloved: Viết về dòng sữa mẹ [161]
đề cập đến tính nữ, tình mẹ gắn với vấn đề chủng tộc trong tác phẩm Người yêu
dấu của Toni Morrison. Còn Barbara Schapiro trong Xiềng xích của tình yêu và
ranh giới của cái Tôi trong tiểu thuyết ‘Người yêu dấu’ của Toni Morrison [202]
thì đi vào nỗi đau nô lệ, tình yêu và bản thể của người phụ nữ da đen đau khổ trong
tác phẩm tiêu biểu Người yêu dấu. George Shulman với cuốn Lời tiên tri của người

8


Mỹ: Vấn đề chủng tộc và Sự cứu chuộc trong nền văn hóa chính trị Mỹ (2008)
[206] lại phân tích Người yêu dấu và phản ánh điểm nhìn của Toni Morrison trong
sáng tác liên quan đến vấn đề chính trị, văn hóa, sắc tộc.
Thứ hai, phê bình tác phẩm Toni Morrison dưới góc độ nữ quyền cũng là một
cách thức tiếp cận khá phổ biến. Cuốn Những giọng nói của Toni Morrison
(Barbara Hill Rigney, 1991) [195] đã soi chiếu tác phẩm của Morrison dưới góc
nhìn của chủ nghĩa nữ quyền hiện đại để diễn giải lịch sử, ngôn ngữ, bản sắc, khát
vọng thiên tính nữ… Tác giả của cuốn sách đặt tiểu thuyết Morrison trong mỹ học
nữ quyền da đen (black feminine/ feminist aesthetics) và nhấn mạnh tính đối kháng
mạnh mẽ khi Toni Morrison khắc họa phẩm chất của màu da và giới tính: “black”
và “female” trong bối cảnh nền văn hóa đa trị Mỹ hiện đại.

Ngoài ra, các bài viết khác như: Thế giới đảo nghịch trong ‘Mắt biếc’ và ‘Sula’
của Toni Morrison (Jacqueline de Weever, 1979) [220]; Những thất bại của tình
yêu, sự khởi đầu của giới nữ trong tiểu thuyết của Toni Morrison (J.S. Bakerman,
1981) [102]; Thay đổi lịch sử thông qua viễn cảnh về giới: Việc đọc tiểu thuyết
‘Người yêu dấu’ của Toni Morrison dưới góc độ chủ nghĩa nữ quyền hậu hiện đại
(Barbara Frey Waxman, 1993) [222]; Tiểu thuyết ‘Người yêu dấu’ của Toni
Morrison: Những cái xác tái sinh, cuộc thăm viếng của Chủ nghĩa hiện đại
(Cynthia Dobbs, 1998) [127]… cũng hướng đến cái nhìn của nữ văn sĩ đối với vấn
đề phụ nữ, tình trạng áp bức, bạo lực về giới trong xã hội Mỹ và đặt ra những khát
vọng nữ quyền trước thời đại.
Thứ ba, khai thác tiểu thuyết Toni Morrison dưới góc nhìn phân tâm học là
hướng nghiên cứu thu hút khá nhiều học giả. Việc vận dụng lý thuyết phân tâm học
về cái libido, ẩn ức cá nhân của Freud, cái vô thức tập thể của Carl Jung và phân
tâm học cấu trúc của Lacan dẫn tới khá nhiều kết quả thú vị. Theo khảo sát của
chúng tôi, các học giả trên thế giới đều nhận thấy dấu ấn sâu nặng của những chấn
thương tinh thần đã khoét mòn tâm hồn, thể xác của từng nhân vật. Chính vì thế,
đào sâu vào thế giới nội tâm đầy dồn nén với đa tầng vô thức, tiềm thức ám ảnh
giúp lý giải nhiều hơn những góc khuất bên trong mỗi nhân vật và thẩm mỹ của
nhà văn. Emma Parker (2001) với bài Hội chứng “Hystery” mới: Lịch sử và chứng
cuồng loạn trong tiểu thuyết ‘Người yêu dấu’ cuả Toni Morrison [185] tìm hiểu
chứng Hysteria theo biện giải của nhà phân tâm học người Áo S.Freud, cho rằng
trong cuốn Người yêu dấu, nhân vật Sethe và Beloved đã mắc hội chứng này. Theo

9


đó, Hysteria xuất phát từ những chấn thương mang tính lịch sử - xã hội (social –
historical trauma) mà nhân vật đã trải qua, chịu đựng. Căn bệnh cuồng loạn còn
liên quan đến phức cảm nổi tiếng trong lý thuyết của Freud, đó là phức cảm
Oedipus (Oedipal complex). Tuy nhiên, Emma Parker cho rằng, đây phải là phức

cảm “tiền – Oedipus” (pre - Oedipal), gắn với tình trạng thiếu vắng người đàn ông
trong cuộc đời nhân vật (người cha Halle) và “khát vọng tình dục đồng giới”
(homosexual desire) đối với người mẹ mới là phẩm chất đặc trưng của chứng bệnh
này. Quan điểm của Emma Parker cũng tương tự như Barbara Frey Waxman trong
bài viết Thay đổi lịch sử thông qua viễn cảnh về giới: Việc đọc tiểu thuyết ‘Người
yêu dấu’ của Toni Morrison dưới góc độ chủ nghĩa nữ quyền hậu hiện đại [222]
khi nói đến mối quan hệ giữa mẹ và con gái với lý thuyết về homosexual. Barbara
Christian (1993) với bài viết Ấn định hệ phương pháp: tiểu thuyết ‘Người yêu dấu’
[120] cũng đề cập đến khái niệm pre-Oedipal complex trong liên hệ hình tượng mẹ
và con gái trong tác phẩm Người yêu dấu.
Eleanor Branch (1995) cũng áp dụng phân tâm học Freud khi nghiên cứu Bài ca
Solomon và xem nhân vật chính Milkman như một hiện tượng rõ nét của phức cảm
Oedipus trong bài viết Xuyên qua mê lộ của Oedipus: Cuộc tìm kiếm bản thể của
Milkman trong tiểu thuyết ‘Bài ca Solomon’ [114].
Phân tâm học cấu trúc của Lacan được vận dụng để khám phá tác phẩm của
Toni Morrison như Jennifer S. Conway (2007) với luận văn Thạc sĩ Cuộc tìm kiếm
bản sắc văn hóa: Khám phá thế giới nghệ thuật của Toni Morrison (University of
North Texas). Trong đó, khi phân tích cấu trúc của bản sắc Mỹ gốc Phi, tác giả đã
sử dụng lý thuyết của Lacan và dành riêng một chương để trình bày về vấn đề “Sự
phủ nhận của Toni Morrison đối với lý thuyết về chủ thể của Lacan” [124].
Đi vào cụ thể những cuốn tiểu thuyết khác nhau của nữ văn sĩ, các nhà nghiên
cứu cũng sử dụng phân tâm học cấu trúc như phương pháp chính để giải mã tác
phẩm. Chẳng hạn Jean Wyatt (1993) trong bài Trao hữu thể cho ngôn từ: Biểu
tượng về tình mẫu tử trong tiểu thuyết ‘Người yêu dấu’ của Toni Morrison [227] đã
tìm thấy ở hình tượng đứa trẻ bị cắt cổ và hồi sinh dưới hình hài cô gái trẻ chính là
“bản sắc cộng đồng” (a collective identity), tác phẩm như một “cuộc truy tầm tính
nữ một cách rõ ràng” (speciafically female quest) và thuộc thể loại truyện ma
(ghost story). Cũng thông qua lý thuyết này, Evelyn Jaffe Schreiber (1996) tìm hiểu
Người đọc, văn bản và cái chủ thể: Tiểu thuyết ‘Người yêu dấu’ của Toni Morrison


10


với tư cách là đối tượng nghiên cứu của Lacan [203]. Soheila Poorali Mansour
Kandi (2011) thì sử dụng phân tâm học Lacan để khám phá cuốn Mắt biếc (Cuộc
tìm kiếm chủ thể nữ trong tiểu thuyết ‘Mắt biếc’ của Toni Morrison) [153]...
Thứ tư là khuynh hướng tiếp cận tác phẩm của Toni Morrison dưới góc độ
folklore, nghi lễ, thi pháp huyền thoại, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo. Đây là phần
chúng tôi tập trung khảo sát kỹ nhất, và nhận thấy rằng các nghiên cứu đã chỉ ra
(với mức độ khác nhau) các yếu tố huyền ảo (magical), kỳ ảo (fantastic), huyền
thoại (myth)... hòa lẫn trong thế giới hiện thực (reality).
Đầu tiên có thể thấy, trong những công trình nghiên cứu này, các tác giả đều
công nhận và khẳng định sự tồn tại của các phương diện kỳ ảo, huyền ảo, huyền
thoại trong thế giới nghệ thuật của nhà văn Toni Morrison. Marilyn Sanders
Mobley (1991) tìm hiểu chức năng văn hóa (cultural function) của truyện kể và
khám phá gốc rễ folklore, huyền thoại trong tiểu thuyết Sarah Orne Jewett và Toni
Morrison (Những gốc rễ dân gian và đôi cánh huyền thoại trong văn chương của
Sarah Orne Jewett và Toni Morrison). Tác giả chỉ ra rằng: “suối nguồn văn hóa có
gốc rễ trong huyền thoại và văn hóa dân gian mà cả hai cùng đưa đến những hiểu
biết và biến đổi nhận thức của người đọc” [166, 2-3]. Tính chất ma thuật, huyền ảo
(magic) của Toni Morrison cũng được quan niệm “có nguồn gốc từ thế giới thực”
[166, 20-21].
Philip Page (1992) với bài viết Sự xoay vòng trong tiểu thuyết ‘Người yêu dấu’
của Toni Morrison [184] cũng đề cập đến các yếu tố như huyền ảo thần kỳ (magic),
giấc mơ (dreams), điềm báo (omens) và sự mê tín (superstitions) tồn tại nổi bật
trong tác phẩm và có một ý nghĩa hết sức quan trọng đối với toàn bộ cấu trúc
truyện kể.
Các bài viết như Văn chương hư cấu và văn hóa dân gian: Tiểu thuyết của Toni
Morrison (Trudier Harris, 1991) [145] hay “Câu chuyện tiếp tục được lan truyền”:
Cái kỳ ảo, nghệ thuật tự sự và liên văn bản trong tiểu thuyết ‘Người yêu dấu’ và

‘Jazz’ của Toni Morrison (Martha J. Cutter, 2000) [125]... cũng chỉ ra tính chất
folklore, kỳ ảo, liên văn bản, đường biên giữa hiện thực và hư cấu, giữa tính xác
thực và huyền thoại vốn hiện diện đầy ắp trong thế giới nghệ thuật Toni Morrison.
Geoff Ward (1997) trong cuốn Văn chương Mỹ [218] đề cập đến nhà văn Toni
Morrison như một trong những đại diện tiêu biểu cho phong cách văn chương Mỹ
thập niên 80 của thế kỷ XX. Trong đó tác giả nhận định Toni Morrison đã sử dụng

11


huyền thoại và chất thơ trong cốt truyện mang tính dồn nén và mặc dù với chất liệu
cơ bản là hiện thực lịch sử và phương pháp hiện thực xã hội, tiểu thuyết của bà đã
vượt ra khỏi ranh giới của thể loại. Tác giả còn cho rằng tác phẩm của Morrison
làm sống lại không khí Gothic với những biểu tượng và yếu tố kỳ ảo như là phương
tiện chuyển tải các vấn đề bạo lực và bản sắc Mỹ.
Bài giới thiệu Toni Morrison trong cuốn The Oxford Encyclopedia of American
Literature (volume 3, Oxford University Press 2004) cho rằng một đặc điểm quan
trọng trong tiểu thuyết Toni Morrison là việc sử dụng những yếu tố siêu nhiên
(supernatural elements), những khía cạnh kinh dị (horror respects)… và “xây dựng
một thế giới mà khả năng ngoại cảm là quá bình thường, ma quái là có thực, và
không gian chứa đầy những năng lực mãnh liệt tiềm tàng” [186,176].
Những đánh giá tương tự như thế cho thấy đặc trưng nghệ thuật tiểu thuyết giàu
tính huyền ảo Mỹ gốc Phi và những nhận thức mang tính hậu hiện đại của Toni
Morrison về vấn đề thuộc cá nhân và cộng đồng. Chính vì vậy, nhiều nhà nghiên
cứu đã xếp Toni Morrison vào khuynh hướng sáng tác huyền thoại hiện đại, hoặc
chủ nghĩa hiện thực huyền ảo.
Ở khuynh hướng thứ nhất, A. Leslie Harris (1980) trong bài Huyền thoại như là
cấu trúc trong tiểu thuyết ‘Bài ca Solomon’ của Toni Morrison [144] đề cập đến
vấn đề huyền thoại và cách thức sử dụng huyền thoại trong nghệ thuật kể chuyện
của Toni Morrison. Karla F.C. Holloway (1990) với bài viết ‘Người yêu dấu’: Bài

thánh ca(2) [149] đánh giá Toni Morrison là người tạo dựng huyền thoại (mythmaker), tác phẩm của bà đầy ắp huyền thoại, ngân vang lên từ một thứ văn xuôi
giàu nhạc điệu. Tác giả cũng nhận thấy hiện thực mà Morrison phản ánh trong tiểu
thuyết là một thứ hiện hữu đan trộn tính sử và ma ảo (the ghostly/historical
presence). Kathleen Elizabeth Morelock (1996) xếp Toni Morrison vào dòng văn
chương huyền thoại thế kỷ XX (mà tác giả gọi là mythopoetic novels) cùng với
nhiều nhà văn châu Mỹ khác như Jose Maria Arguedas, Leslie Marmon Silko,
Wilson Harris, Gabriel Garcia Marquez, và Walker Percy [168]. Hoặc Rudee
Devon Boan (2000) thông qua khảo sát văn học Mỹ gốc Phi với 5 nhà văn tiêu biểu
là Henry Dumas, Jean Toomer, Darryl Pinkney, Toni Morrison và August Wilson
đã phân loại 4 dạng (types) văn chương dưới ánh sáng lý thuyết tương tác giữa tác
(2)

Tên bài viết là Beloved: A Spiritual. A Spiritual cũng như Negro spiritual, là dân ca tôn giáo do những
người nô lệ da đen ở châu Mỹ hát trước tiên.

12


giả và độc giả (nhưng ở đây Rudee Devon Boan lại dùng khái niệm khán giả audience). Bốn dạng đề xuất trong bài viết gồm có:
-

The literature of inversion (1) – Văn chương của phép nghịch đảo

-

The literature of subversion (2) – Văn chương của sự lật đổ

-

The literature of vivification (3) - Văn chương của sự hồi sinh


-

The literature of mythification (4) – Văn chương của huyền thoại hóa [113].

Và tác phẩm Beloved của Toni Morrison được xếp vào dạng thứ 4.
Năm 2002, Larry Schwartz cũng như nhiều nhà nghiên cứu khác khi tìm hiểu
Toni Morrison thường đặt cái nhìn so sánh với bậc tiền bối William Faulkner, đại
văn hào Mỹ đã nhận giải Nobel trước Toni Morrison nửa thế kỷ. Tuy nhiên Larry
Schwartz khẳng định được những tiến bộ và đóng góp mới của Morrison so với bậc
thầy văn chương dòng ý thức Faulkner. Trong bài viết, một điểm quan trọng đáng
chú ý là Schwartz cũng mệnh danh nữ văn sĩ là myth-maker, hoặc Griot (tức những
nhạc sĩ rong ở Tây Phi, có khả năng sáng tác, kể chuyện, ca hát, là kho văn chương
truyền khẩu của dân tộc) và folklorist (nhà nghiên cứu văn hóa dân gian). “Thế giới
nghệ thuật của Morrison là những truyện kể phức tạp đầy ắp huyền thoại, truyền
thuyết về những con người bình thường đã sống sót và phát triển mạnh mẽ trong sự
phi thường và gần như diệu kỳ bên trong cơn lốc xoáy của tình trạng phân biệt
chủng tộc và phân biệt giới tính ở Mỹ”; “Nói một cách ngắn gọn, tác phẩm của bà
là sự kết nối với thế giới thực trong khi vẫn đang vượt lên trên nó – huyền thoại
(mythic) là cách thức văn chương xứng đáng dành cho chúng” [204].
Trong khi đó, theo khuynh hướng thứ hai, hàng loạt công trình nghiên cứu khác
lại xác lập Toni Morrison như là một đại diện cho chủ nghĩa hiện thực huyền ảo
(magical realism), một dòng chảy văn chương phát triển mạnh mẽ và đạt được
nhiều thành tựu trong thế kỷ XX ở châu Mỹ, đặc biệt Mỹ Latinh.
Cuốn sách về lịch sử nền tiểu thuyết Mỹ của Đại học Columbia ấn hành năm
1991, The Columbia History of the American Novel [130], trình bày xu hướng văn
học hiện thực huyền ảo ở châu Mỹ mà đại diện là các nhà văn Alejo Carpentier,
Carlos Fuentes, Gabriel Garcia Marquez, Manuel Puig và tiếp đến là Isabel Allende,
cùng với những ảnh hưởng tới những nhà văn da màu của văn học Mỹ đương đại
như: Toni Morrison, Arturo Islas, Maxine Hong Kingston, Helena Maria, Roberto

Rios… Như vậy, theo tác giả, nhà văn Toni Morrison cũng nằm trong số các nhà
văn có những đặc trưng của trào lưu văn học hiện thực huyền ảo đã phát triển đỉnh

13


cao ở châu Mỹ Latinh, nhưng theo sự dịch chuyển của thời gian và không gian, tất
nhiên, màu sắc hiện thực huyền ảo trong tiểu thuyết của các nhà văn Mỹ này cũng
có những cách thức thể hiện độc đáo riêng biệt.
Cuốn The Toni Morrison Encyclopedia (2003) cung cấp tất cả mục từ liên quan
đến Toni Morrison và các tiểu thuyết của bà. Trong đó cuốn sách khẳng định sự tồn
tại chủ nghĩa hiện thực huyền ảo và các huyền thoại trong các tác phẩm. Huyền
thoại được xem như một “phông nền quan trọng” (important backdrop) của tác
phẩm, giúp người đọc tiếp cận với những giá trị văn hóa và lịch sử dân tộc [106,1].
Thực tế, Toni Morrison chưa bao giờ thừa nhận mình là một nhà văn hiện thực
huyền ảo, nhưng bà vẫn chấp nhận quan điểm đánh giá cho rằng tác phẩm của bà
sử dụng phổ biến các yếu tố siêu nhiên, huyền thoại, kỳ ảo tồn tại thản nhiên giữa
các sự kiện đời thường, hiện thực. Chính vì vậy, Christopher Warnes (2005) vẫn
xếp Toni Morrison và đặc biệt là cuốn sách Người yêu dấu vào dòng chảy văn học
hiện thực huyền ảo cùng với rất nhiều những tác giả tiêu biểu khác như G.Marquez
với tiểu thuyết Trăm năm cô đơn, Isabel Allende và Ngôi nhà của những hồn ma,
Salman Rushdie với Những đứa trẻ lúc nửa đêm, Angela Carter và Nửa đêm ở rạp
xiếc, hay Ben Okri với Con đường đói khổ... Trong đó, tác giả đề cập đến đặc điểm
cơ bản của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo là cách thức trần thuật “cố gắng bình
thường hóa cái siêu nhiên” [220], và cho rằng đây là tư duy trần thuật hậu hiện đại.
Jessica Jorgenson (bài Cụ già với đôi cánh khổng lồ: Một cách dạy về Chủ
nghĩa hiện thực huyền ảo thông qua Gabriel Garcia Marquez [152]) tập trung
nghiên cứu chủ nghĩa hiện thực huyền ảo của Marquez nhưng cũng đề cập đến
Toni Morrison như một đại diện của các nhà văn Mỹ có sử dụng lối viết này. Tác
giả cho rằng Morrison vận dụng chủ nghĩa hiện thực huyền ảo để thể hiện sức

mạnh tinh thần của người phụ nữ, bởi đặc trưng của trào lưu này là khai thác các
yếu tố huyền ảo để tô đậm những khía cạnh gai góc phức tạp nhất trong đời sống
hiện thực mỗi dân tộc.
Encyclopaedia Britannica giới thiệu Toni Morrison như một nhà văn có vị trí
nổi bật trong nền văn học Mỹ đương đại. Tác phẩm của bà đi vào thế giới người
Mỹ da đen với cuộc đấu tranh để tìm kiếm chính mình và bản sắc văn hoá dân tộc
mình. Trong các tác phẩm Mắt biếc, Sula, Bài ca Solomon, Người yêu dấu, Jazz,
“Morrison đã tạo nên loại tiểu thuyết cực kỳ độc đáo thể hiện những điểm khác
nhau từ những hồi ức đầy chất trữ tình đến chủ nghĩa hiện thực huyền ảo” [133].

14


Như vậy, Encyclopaedia Britannica cũng nhìn nhận tác phẩm của Morrison đi theo
khuynh hướng sáng tác hiện thực huyền ảo vốn rất đình đám trong thế kỷ XX.
Nói đến chủ nghĩa hiện thực huyền ảo trong văn chương Toni Morrison không
thể không liên hệ so sánh với các nhà văn nổi tiếng của khuynh hướng này ở Mỹ
Latinh. Vì thế, hai bài viết Những câu chuyện chép trên quá khứ: Lịch sử và hiện
thực huyền ảo, Morrison và Allende của P.Gabrielle Foreman (1992) [136] và Ký
ức và cuộc tìm kiếm lịch sử dòng họ trong Trăm năm cô đơn và Bài ca Solomon
(Susana Vega-González, 2001) đã hướng vào việc khám phá những nét gặp gỡ giữa
Toni Morrison qua tiểu thuyết Bài ca Solomon với Isabel Allende trong Ngôi nhà
của những hồn ma và Garcia Marquez trong Trăm năm cô đơn. Hai bài viết đều nói
đến vấn đề “viết lại lịch sử” (rewriting history), ký ức dòng tộc và bản thể cá nhân;
đồng thời cho rằng thực tại trong các tác phẩm trên là một thực tại huyền ảo
(magically real) dưới sự ám ảnh của bóng ma chế độ nô lệ, hoặc thực dân, độc tài,
thuộc địa. Chính vì vậy cấu trúc trần thuật phá vỡ trật tự tuyến tính bằng cách “chất
chồng những ký ức quá vãng”, “niềm tin vào cái siêu nhiên và chấp nhận tính lai
ghép” [214].
Một số bài viết khác đi vào phân tích khá kỹ các đặc trưng huyền ảo trong bút

pháp sáng tạo của Toni Morrison như: bài Tiểu thuyết ‘Bài ca Solomon’ của Toni
Morrison: Khắc họa kinh nghiệm nhận thức như là kỹ thuật của chủ nghĩa hiện
thực huyền ảo của David Pendery [187] khám phá những kỹ thuật văn chương của
chủ nghĩa hiện thực huyền ảo được Toni Morrison sử dụng trong tiểu thuyết Bài ca
Solomon. Trong đó tác giả khẳng định tiểu thuyết Bài ca Solomon là một trong
những cuốn sách điển hình nằm trong dòng chảy của văn chương hiện thực huyền
ảo, một nhánh chính của chủ nghĩa hiện thực. Tiểu thuyết của Morrison đòi hỏi
người đọc phải vận dụng trí tưởng tượng và chấp nhận những điều vượt ra ngoài,
vượt lên trên hiện thực bình thường. Và như thế, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo
cũng kêu gọi người đọc nhìn nhận các yếu tố siêu nhiên như một phần của “hiện
thực dung tục” (prosaic reality).
Bài viết khác đáng chú ý là của Jakub Ženíšek (2007) cho rằng tính chất hiện
thực huyền ảo của Toni Morrison đi trên lằn ranh giữa hiện thực đầy ma thuật
(magic reality) và chất folklore nhuốm màu huyền thoại (mythical folklore). Trong
nghiên cứu này, Jakub Ženíšek nói đến cái huyền ảo của Toni Morrison (mà tác giả
đặt cho một cách nói khác là “woodoo”) có đặc điểm như sau: “mọi thứ gần như là

15


ma thuật đen, y học cơ bản, lòng tin tà thuật, ma thuật cây cối, sùng bái cây cối, các
thầy tư tế thời cổ đại (druid), nhưng tất cả đều được đặt trong bối cảnh hiện thực”
[231]. Cụ thể hơn, Ženíšek liệt kê 5 đặc điểm nổi bật của bút pháp hiện thực huyền
ảo Toni Morrison:
 phát triển truyện từ sự xuất hiện của cái chết hoặc như là ma quái;
 khả năng chữa trị phi thường;
 sự hỗ trợ, người giúp đỡ thần thánh, siêu nhiên;
 những điều kỳ quái không giải thích được;
 sự kết hợp các yếu tố dân gian và huyền thoại [231].
Nhà nghiên cứu Carl.D.Malngren với bài viết “Sự hoà trộn các thể loại và logic

của tình trạng nô lệ trong tiểu thuyết Người yêu dấu của Toni Morrison” trong cuốn
Tìm hiểu tác phẩm ‘Người yêu dấu’ và ‘Sula’: Tuyển tập tiểu luận và phê bình tác
phẩm của các nhà văn đoạt giải Nobel [151], thì đánh giá về kỹ thuật tự sự thuộc
chủ nghĩa hiện thực huyền ảo của Toni Morrison trong tiểu thuyết Người yêu dấu
như sau: “Trong bản thể tự sự của tiểu thuyết, người ta phải thừa nhận sự tồn tại
của hồn ma. Thực tế thì cuốn Người yêu dấu là ví dụ cụ thể cho lý thuyết về văn
học kỳ ảo của Torodov, một hình thức tự sự gọi mời và hợp thức hoá cả cách đọc
về cái tự nhiên và siêu nhiên, những hiện tượng phi thường” [151,194]. Tác giả
cũng cho rằng cuốn Người yêu dấu là sự hoà trộn cả truyện ma (ghost story) và tiểu
thuyết lịch sử (historical novel).
Ngoài những hướng tiếp cận trên, tiểu thuyết Toni Morrison cũng gọi mời nhiều
khả năng nghiên cứu khác, chẳng hạn vận dụng góc nhìn của chủ nghĩa hậu hiện đại
để phân tích kỹ thuật viết mang tính mảnh vỡ, liên văn bản, dòng ý thức... của
Morrison; hoặc chủ nghĩa giải cấu trúc (sử dụng lý thuyết của Foucault, Derrida hay
Kristeva).v.v... để làm rõ thi pháp sáng tác độc đáo của nhà văn. Đặc biệt là sự phát
hiện nhạc tính, chất Jazz có cội rễ từ văn hóa Mỹ gốc Phi trong văn phong tràn trề
nữ tính của nhà văn cũng góp phần khẳng định đây chính là nét cá tính sáng tạo độc
đáo của Toni Morrison trong mạch nguồn văn hóa đẫm dân tộc tính và giới tính.
Chúng tôi cũng khảo sát được khá nhiều tài liệu cung cấp thông tin về cuộc đời,
sự nghiệp cũng như một số khía cạnh thi pháp tiểu thuyết Toni Morrison. Chẳng
hạn: Những tiếng nói đa văn hóa: Nhà văn Mỹ gốc Phi [207] là cuốn sách nằm
trong bộ sách viết về những cây bút Mỹ có nguồn gốc thuộc nhiều nền văn hóa
khác nhau (như người Mỹ gốc châu Á, Mỹ gốc Ả Rập và người Hồi giáo, người

16


Mỹ bản địa, người Mỹ gốc Hispanic – Tây Ban Nha). Trong tác phẩm này, tác giả
đã giới thiệu 8 tác giả người Mỹ da đen, đó là: Maya Angelou, Toni Morrison,
Ernest J.Gaines, Walter Dean Myers, Alice Walker, August Wilson, Charles

Johnson và Gloria Naylor. Hầu hết những tên tuổi này đều xa lạ đối với độc giả
Việt Nam, trừ Toni Morrison.
Cuốn Phác thảo văn học Mỹ của Kathryn Vanspanckeren giới thiệu nhà văn
Toni Morrison và đề cập tới tiểu thuyết Người yêu dấu với nhận định sơ lược:
“Cuốn tiểu thuyết sử dụng những kỹ thuật như trong một giấc mơ của chủ nghĩa
hiện thực huyền bí trong việc phác hoạ một nhân vật huyễn hoặc, Beloved, cô gái
trở lại sống với người mẹ đã cắt cổ mình” [92,280].
Bài nghiên cứu Giới thiệu tiểu thuyết hậu hiện đại Hoa Kỳ (dịch giả: Phan Tấn
Hải, 1998) nhiều lần đề cập và trích dẫn tác giả Toni Morrison. Tác giả phân tích
về việc sử dụng một tiếng nói khác để thể hiện các vấn đề trong tác phẩm hậu hiện
đại (như tiểu thuyết Người yêu dấu sử dụng tiếng nói của hồn ma trẻ em để kể lại
lịch sử chế độ nô lệ). Bài viết còn tìm hiểu về “kỹ thuật dòng ý thức và thay đổi
điểm nhìn của Beloved”, việc kết hợp nhân vật và sự kiện lịch sử vào tác phẩm, sự
hoà trộn hiện thực trong những cách tân mới mẻ về hình thức nghệ thuật trong
Beloved… [34].
Luận án tiến sĩ của Alyce R. Baker với đề tài “Sự hiện diện, vai trò và chức
năng của cái nghịch dị trong tiểu thuyết Toni Morrison” [101] tại Đại học Indiana
University of Pennsylvania tháng 5 năm 2009 cũng đáng chú ý. Trong luận án của
mình, Baker tập trung phân tích tính grotesque (nghịch dị) trong tiểu thuyết của
Toni Morrison, cách thức sử dụng cái nghịch dị như là yếu tố có tính thẩm mỹ xã
hội và chính trị của nhà văn.
1.1.2.

Ở Việt Nam

Ở trong nước, tình hình nghiên cứu về Toni Morrison còn khá rải rác. Hầu hết
đều dừng lại ở việc giới thiệu tên tuổi, tác phẩm hoặc có đề cập ở mức độ sơ giản
đặc điểm thi pháp, yếu tố huyền thoại, huyền ảo... trong tiểu thuyết của nhà văn da
màu này. Có công trình nghiên cứu chuyên sâu (như luận văn, luận án) thì chọn góc
độ khảo sát là bút pháp mảnh vỡ (góc nhìn hậu hiện đại) hoặc chỉ khai thác 1 tác

phẩm đã dịch của Toni Morrison (cuốn Người yêu dấu).
Hồ sơ văn hoá Mỹ của Hữu Ngọc – cuộc dạo chơi vườn văn Mỹ - dành một
phần để giới thiệu tác giả Toni Morrison, nhà văn nữ da đen đầu tiên được giải

17


Nobel, có vị trí nổi bật trong nền văn học Mỹ. Bài viết Di sản văn hoá da đen: nhà
văn nữ Toni Morrison có nhắc đến chất trữ tình và tính huyền thoại trên nền hiện
thực của các tiểu thuyết Toni Morrison: “Chất người xuyên qua những tiểu thuyết
trữ tình lớn ấy bay bổng trên những bể khơi và lục địa, đắm chìm trong những
truyền thuyết và hiện thực của tâm hồn da đen Mỹ…” [62,612].
Bài viết Đối kháng giai cấp trong văn xuôi Mỹ da đen đương đại (Nicole King)
trong cuốn Tiếp cận đương đại văn hoá Mỹ [47,127] có đề cập đến nhà văn Toni
Morrison và cuốn Người yêu dấu của bà. Song tác giả chỉ khai thác tác phẩm về
vấn đề đẳng cấp trong nội bộ chủng tộc và nói chung chưa phân tích gì ở góc độ
nghệ thuật tiểu thuyết.
Nguyễn Liên với công trình nghiên cứu về Văn học Mỹ: Nhà văn, tác phẩm, thi
pháp và kỹ thuật đã giới thiệu nhà văn nữ da màu này như một đại diện tiêu biểu
cho những xu hướng nghệ thuật nổi bật trong nền văn học Mỹ nửa sau thế kỷ XX.
Tác giả đã phân tích tiểu thuyết Thiên đường, cho đây là tác phẩm mẫu mực của
chủ nghĩa hiện thực mới.
Những cuốn sách mang tính giáo trình, làm tư liệu quan trọng cho nghiên cứu
và giảng dạy văn học Mỹ như Văn học Mỹ - quá khứ và hiện tại của Viện Khoa học
Xã hội, Văn học Mỹ của Lê Huy Bắc, Lịch sử văn học Mỹ, Tác giả văn học Mỹ (thế
kỷ XVIII-XX) của Lê Đình Cúc đều chưa thấy đề cập, giới thiệu tên tuổi của Toni
Morrison. Gần đây có công trình dày dặn của Lê Huy Bắc, Lịch sử văn học Hoa
Kỳ, khắc họa diện mạo văn học Mỹ qua các thời kỳ phát triển và giới thiệu 30
gương mặt tiêu biểu của nền văn học Mỹ, trong đó có Toni Morrison.
Giáo sư Lê Huy Bắc gần như là người đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ

thống về chủ nghĩa hiện thực huyền ảo trong tác phẩm của nhà văn Mỹ Latinh nổi
tiếng – Garcia Marquez và nhiều nhà văn khác có sáng tác biểu hiện theo khuynh
hướng này như Toni Morrison,… Công trình Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo và
Gabriel Garcia Marquez tuy trọng tâm nghiên cứu là nhà văn Columbia nhưng
cũng dành một dung lượng đáng kể cho việc tìm hiểu tác giả Toni Morrison (gần
20 trang) trong hệ thống luận điểm khảo sát một số tác giả tiêu biểu viết theo xu
hướng huyền ảo trong văn học thế giới thế kỷ XX.
Tạp chí Văn học số 9 ra tháng 9/2003 có bài viết của tác giả Nguyễn Thị Hiếu
Thiện về: Toni Morrison - nhà văn của người Mỹ da đen. Bài viết nói chung mang
tính chất cung cấp thông tin về tiểu sử và tác phẩm nổi bật của Toni Morrison.

18


Trong đó tác giả có nhấn mạnh đến các vấn đề chủng tộc, giai cấp, người nô lệ,
người da đen trong các sáng tác của Morrison. Tác phẩm Toni Morrison được xếp
vào trường phái hiện đại (Mắt biếc, Sula, Bài ca Solomon) và hậu hiện đại (Tar
Baby, Người yêu dấu, Jazz).
Bài giới thiệu Toni Morrison của Phạm Văn Tuấn có những nhận xét liên quan
đến vấn đề chúng tôi quan tâm như: “…tác giả đã khéo léo pha trộn hai loại hiện
thực và siêu thực để khám phá ra những yếu tố ma thuật (magical elements) của đời
sống hằng ngày”; “…sử dụng các yếu tố siêu nhiên (supernatural elements) trong
một số câu chuyện kể về nhiều gia đình da đen và độc giả được chia sẻ với tác giả
cách ý thức kép (double-consciousness) trong hành trình đi tìm kiếm tầm hiểu biết
và sự thật…” [90]. Riêng về tiểu thuyết Người yêu dấu, tác giả đánh giá: “Tác
phẩm khai thác nhiều chủ đề phức tạp (…) và tác giả đã dùng tới nhiều khung thời
gian (timeframes) và các đột biến, chứng tỏ tài năng kể chuyện độc đáo của tác giả,
khiến cho độc giả phải chấp nhận cái bất thường là hiện thực” [90].
Luận văn Thạc sĩ với đề tài Con đường tới tự do của người Mỹ da đen trong
nghệ thuật tiểu thuyết Toni Morrison (năm 2003) [80] của Nguyễn Thị Hiếu Thiện

đi sâu vào những vấn đề nội dung theo cái nhìn văn hoá, xã hội mà chưa đề cập
nhiều đến kỹ thuật tiểu thuyết, phong cách của tác giả. Một luận văn Thạc sĩ khác
là Người yêu dấu (Beloved) của Toni Morrison dưới góc nhìn huyền thoại [87], tác
giả Đường Thùy Trâm cho rằng cuốn Người yêu dấu được sáng tác theo khuynh
hướng huyền thoại hóa, vì vậy nội dung luận văn đi vào nghiên cứu “yếu tố huyền
thoại” trong tiểu thuyết này như tìm kiếm các cổ mẫu, các motif huyền thoại, bàn
về “nguyên lý tính Mẫu”… Luận án tiến sĩ đầu tiên nghiên cứu về Toni Morrison là
Ngôn ngữ mảnh vỡ trong tiểu thuyết Toni Morrison (2014) của Nguyễn Thị Minh
Thảo. Luận án tập trung tìm hiểu thế giới nghệ thuật của Toni Morrison dưới góc
nhìn lý luận của chủ nghĩa hậu hiện đại, trọng tâm là cách biểu đạt, cách cắt nghĩa
thế giới bằng hình tượng ngôn từ. Từ việc xác lập khái niệm ngôn ngữ mảnh vỡ,
luận án khảo sát ngôn ngữ mảnh vỡ trong 3 cuốn tiểu thuyết (Người yêu dấu, Mắt
biếc và Bài ca Solomon) ở các phương diện cơ bản là lớp ngôn từ mảnh vỡ và lớp
nhân vật mảnh vỡ [79].
* Như vậy, các bài viết trong nước ít nhiều đã đề cập đến đặc trưng huyền ảo
trong tiểu thuyết Toni Morrison nhưng chỉ dừng lại ở việc chỉ ra sự có mặt của các
lớp yếu tố kỳ ảo, huyền ảo hay huyền thoại nhưng còn tóm lược, chưa hệ thống và

19


chủ yếu mới nhắc đến các tác phẩm đã được dịch. Trong khi đó, ở góc độ này, các
công trình ở nước ngoài (trên tài liệu tiếng Anh) có thể thấy đa dạng hơn, có quan
điểm cho rằng Toni Morrison sáng tác theo thi pháp huyền thoại, phổ biến hơn thì
cho rằng Toni Morrison là một nhà văn hiện thực huyền ảo chủ nghĩa. Tuy nhiên
nhìn chung, các nghiên cứu trên thường chỉ tập trung khai thác trên một hoặc một
vài tác phẩm và dưới một số góc độ riêng lẻ, chưa thấy xâu chuỗi để đi đến khẳng
định đặc trưng huyền ảo trong toàn bộ thế giới văn chương của Toni Morrison. Đây
là mảnh đất màu mỡ để tác giả luận án tiếp tục “cày xới”.
1.2.


Cái huyền ảo và văn học huyền ảo

1.2.1.
1.2.1.1.

Đi tìm khái niệm “Cái huyền ảo” (The magical)
Trên tài liệu tiếng Anh

Magic hay Magical hiếm khi xuất hiện đơn lẻ với tư cách là một khái niệm độc
lập. Hẳn vì nội hàm của Magic khá rộng, bao trùm các quan niệm về tư duy và văn
hóa từ giai đoạn cổ đến hiện đại. Về mặt từ nguyên, magic xuất hiện từ thế kỷ XIV,
vào thời Trung cổ châu Âu, và bắt nguồn từ tiếng Latinh là magice. Từ này được
hiểu nhiều nghĩa, cơ bản là chỉ một khả năng, một sức mạnh ma thuật hoặc nghệ
thuật sử dụng sự khéo léo ma thuật của bàn tay để tạo ra những ảo giác. Phổ biến
thì magic thường gắn với các vấn đề magic/magical practice (thực hành ma thuật),
hoặc magic/magical thinking (tư duy ma thuật)... Trong văn học, magic hay
magical thường được xem là một yếu tố (an element) trong thế giới hư cấu, tưởng
tượng hoặc đi kèm trong cụm từ chỉ trào lưu sáng tác: Magical Realism (Chủ nghĩa
hiện thực huyền ảo). (Chúng tôi còn thấy sự hiện diện của cụm từ Magical
Surrealism - Chủ nghĩa siêu thực huyền ảo - trong nghiên cứu phê bình khuynh
hướng hội họa hiện đại).
Ngoài điều này ra, trong số tài liệu chúng tôi khảo sát được, chưa thấy một quan
niệm nào rõ nét về the magical hay Magicalism (nếu có thể nâng lên thành Chủ
nghĩa huyền ảo như vậy). Có chăng là những luận điểm trong các công trình nghiên
cứu khoa học về cái kỳ ảo, huyền thoại và chủ nghĩa hiện thực huyền ảo có đề cập
đến các yếu tố magic, hoặc tư duy magic, cội rễ của yếu tố magic... được sử dụng
trong sáng tác văn học. Nói chung, hoặc khái niệm magic/ magical trong văn
chương (chưa đề cập đến lĩnh vực văn hóa, nghi lễ...) được xem như một phẩm
chất, đặc trưng của thể loại văn học hư cấu đầy tính chất tưởng tượng hoang đường,

gắn với cái ảo fantasy, nhân vật anh hùng đầy sức mạnh siêu nhiên hay những phù

20


×