Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG MÔI TRƯỜNG KHU VỰC NUÔI CÁ LỒNG BÈ TẠI VỊNH BẾN BÈO, ĐẢO CÁT BÀ, HẢI PHÒNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (912.67 KB, 82 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
*********

ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG MÔI TRƯỜNG KHU VỰC
NUÔI CÁ LỒNG BÈ TẠI VỊNH BẾN BÈO, ĐẢO CÁT BÀ,
HẢI PHÒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ


Hà Nội, 2014

2


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
*********

ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG MÔI TRƯỜNG KHU VỰC
NUÔI CÁ LỒNG BÈ TẠI VỊNH BẾN BÈO, ĐẢO CÁT BÀ,
HẢI PHÒNG

CHUYÊN NGÀNH: KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG
MÃ SỐ: 60.44.03.01


Hà Nội, 2014

2




MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC............................................................................................................................................................i
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT................................................................................................................iv
* Địa chất.........................................................................................................................................32
* Thổ nhưỡng...................................................................................................................................32
3.3.1. Hiện trạng môi trường nước........................................................................................................46
Hàm lượng sắt tổng số các mẫu thu quan trắc dao động từ 0,00 - 0,00mg/l, các giá trị này không
ảnh hưởng tới môi trường và hoạt động của cá nuôi........................................................................52
3.3.2. Môi trường trầm tích...............................................................................................................53

i


DANH MỤC BẢNG
STT

Tên bảng

Trang

MỤC LỤC............................................................................................................................................................i
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT................................................................................................................iv
Bảng 1.1: Sản lượng nuôi cá Hồi trên thế giới năm 2005............................................................................3
Bảng 1.2: Phương pháp giám sát môi trường nuôi cá biển tại Anh........................................................18
Bảng 2.1: Vị trí các địa điểm thu mẫu..........................................................................................................27
Bảng 2.2: Tần suất, thời gian quan trắc.......................................................................................................28
Bảng 2.3: Các thông số quan trắc môi trường nước..................................................................................29

Bảng 2.4: Các thông số quan trắc môi trường bùn đáy.............................................................................29
* Địa chất.........................................................................................................................................32
* Thổ nhưỡng...................................................................................................................................32
Bảng 3.1: Số lượng lồng nuôi cá biển đảo Cát Bà ......................................................................................38
3.3.1. Hiện trạng môi trường nước........................................................................................................46
Bảng 3.2: Môi trường nước khu vực lồng nuôi cá biển và đối chứng.....................................................48
Hàm lượng sắt tổng số các mẫu thu quan trắc dao động từ 0,00 - 0,00mg/l, các giá trị này không
ảnh hưởng tới môi trường và hoạt động của cá nuôi........................................................................52
3.3.2. Môi trường trầm tích...............................................................................................................53
Bảng 3.3: Môi trường trầm tích vùng nuôi cá lồng biển và đối chứng...................................................53

ii


DANH MỤC HÌNH, BIỂU ĐỒ
STT

Tên hình

Trang

Hình 1.1: Những tác động sinh thái từ trại nuôi cá biển...........................................................................15
Hình 1.2: Mô hình lý thuyết về tích đọng P và N trong nuôi cá biển......................................................16
Hình 2.1: Sơ đồ vùng thu mẫu Quần đảo Cát Bà.......................................................................................26
Hình 2.2: Sơ đồ thu mẫu vịnh Bến Bèo........................................................................................................27
Hình 3.1: Bè nuôi cá biển dày đặc trên vịnh Bến Bèo................................................................................39
Hình 3.2: Xay thức ăn cho cá biển trên vịnh Bến Bèo...............................................................................41
Hình 3.3: Cá nuôi bị bệnh trên vịnh Bến Bèo.............................................................................................43
Biểu đồ 3.1: Diễn biến DO tại khu vực thu mẫu vịnh Bến Bèo................................................................49
Biểu đồ 3.2: Diễn biến NH4+ tại khu vực thu mẫu vịnh Bến Bèo............................................................51

Biểu đồ 3.3: Diễn biến COD tại khu vực thu mẫu vịnh Bến Bèo.............................................................52

iii


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BOD

Biochemical Oxgen Demand - Nhu cầu Ôxy sinh học

COD

Chemical Oxygen Demand - Nhu cầu Ôxy hóa học

DO

Disolved Oxygen - Hàm lượng Ôxy hòa tan

EQS

Environmental quality standards - Tiêu chuẩn chất
lượng môi trường

FAO

Food and Agriculture Oganization Tổ chức nông lương thế giới

ISO/TC 234 N028

Tiêu chuẩn quốc tế ISO - Giám sát môi trường nuôi

cá biển

NS 9410 (E)

Tiêu chuẩn quốc gia của Na Uy (Norwegian
Standard), Giám sát môi trường nuôi cá biển

NTTS

Nuôi trồng thủy sản

QCVN10:2008/BTNMT

Quy chuẩn Việt Nam - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia
về chất lượng nước biển ven bờ

SEPA

Scottish Environment Protection Agency

OC

Oganic Carbon - Cacbon hữu cơ

TN

Total Nitrogen - Tổng nitơ

TP


Total Phosphorous - Tổng phốt pho

TKN

Total Kjeldahl Nitrogen - Tổng ni tơ Kjeldahl

iv


MỞ ĐẦU
Vùng biển ven bờ Việt Nam có nhiều tiềm năng và lợi thế cho phát triển
kinh tế thuỷ sản. Tuy nhiên, cùng với tăng trưởng kinh tế, vùng biển ven bờ đang
phải đối mặt với nguy cơ ô nhiễm môi trường và suy thoái các hệ sinh thái ngày
càng gia tăng. Ngành thuỷ sản, với các hoạt động gắn liền với biển, là đối tượng
chịu ảnh hưởng nhiều nhất do ô nhiễm môi trường gây ra. Trong thời gian qua,
hoạt động nuôi hải sản, đặc biệt là nuôi cá bằng lồng bè ven biển, đã chịu những
tổn thất lớn do môi trường ô nhiễm và dịch bệnh.
Cùng với sự phát triển nhanh về diện tích và sản lượng nuôi trồng của các
giống loài thủy sản như: nuôi động vật thân mềm trên biển, nuôi tôm ven biển,
nuôi cá tra, ba sa ở đồng bằng sông Cửu Long, nuôi cá lồng bè (cá biển) cũng đã
có những bước phát triển đáng kể, bước đầu đã tạo việc làm, góp phần xóa đói
giảm nghèo và cải thiện thu nhập cho người dân nghèo ven biển.
Hải Phòng là địa phương có nghề nuôi cá biển phát triển mạnh trong thời
gian khoảng 10 năm trở lại đây đặc biệt là các vịnh, vụng thuộc quần đảo Cát Bà:
như vịnh Cát Bà, vịnh Bến Bèo, vịnh Lan Hạ. Đây là khu vực phát triển kinh tế
và du lịch trọng điểm của thành phố Hải Phòng. Do đó, nuôi trồng thủy sản trên
biển hợp lý, kết hợp với du lịch là hướng đi đúng, cả hai hỗ trợ cho nhau cùng
phát triển.
Tuy nhiên thực tế hiện nay tại vịnh Bến Bèo nghề nuôi cá biển đang trải
qua giai đoạn khủng hoảng nghiêm trọng, đặc biệt năm 2008 hiện tượng cá nuôi

chết hàng loạt đã gây khó khăn cho người nuôi. Những nguyên nhân chính bao
gồm ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, chi phí thức ăn tăng cao, nguồn vốn của dân
có hạn, kỹ thuật nuôi của người dân còn hạn chế. Trong một số năm gần đây số
lượng bè nuôi tại Cát Bà giảm xuống rất nhiều. Theo thống kê, năm 2008 ở vịnh
Bến Bèo có 305 bè nuôi. Sang năm 2010, số lượng bè nuôi ở đây chỉ còn 240 bè
và số lượng ô lồng thực tế sử dụng chỉ đạt khoảng 70%.
Để giải quyết những tồn tại và khó khăn nêu trên thì việc đánh giá hiện
trạng môi trường khu vực nuôi cá lồng bè ở vịnh Bến Bèo là rất cần thiết. Kết

1


quả đánh giá môi trường sẽ tạo cơ sở và định hướng cho việc quy hoạch lại vùng
nuôi, hạn chế rủi ro xuất hiện nguồn bệnh, đảm bảo việc phát triển nghề nuôi cá
lồng bè mang lại hiệu quả kinh tế cao, ổn định và bền vững. Xuất phát từ yêu cầu
thực tế này, chúng tôi chọn đề tài: “Đánh giá hiện trạng môi trường khu vực
nuôi cá lồng bè tại vịnh Bến Bèo, đảo Cát Bà, Hải Phòng”.
Mục tiêu của đề tài
Đề tài được tiến hành với ba mục tiêu chính như sau:
- Đánh giá được hiện trạng môi trường nước và bùn đáy tại khu vực nuôi
cá lồng bè tại vịnh Bến Bèo, đảo Cát Bà, Hải Phòng.
- Xác định được những thuận lợi và khó khăn; cơ hội và thách thức đối
với việc phát triển nuôi cá lồng bè.
- Đề xuất một số giải pháp, hạn chế suy thoái ô nhiễm môi trường nước và
bùn đáy tại khu vực nuôi cá lồng bè tại vịnh Bến Bèo, đảo Cát Bà, Hải Phòng.
Yêu cầu
- Điều tra, thu thập thông tin có tính hệ thống về hiện trạng chất lượng
môi trường nước và bùn đáy phục vụ mục đích nuôi cá lồng bè.
- Phân tích có tính tin cậy các yếu tố gây ô nhiễm môi trường nước và bùn
đáy của hoạt động nuôi cá lồng bè.

- Đề xuất các giải pháp quản lý có tính thực thi đối với chất lượng môi
trường nước và bùn đáy trong khu vực nuôi cá lồng bè.

2


Chương 1. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu và phát triển nuôi cá lồng bè trên thế giới và Việt Nam
1.1.1. Trên thế giới
1.1.1.1. Vai trò của nuôi cá lồng bè trên thế giới
Nuôi cá lồng bè có từ lâu đời song nuôi cá biển phục vụ cho nhu cầu xuất
khẩu mới phát triển vào những năm 1980 của thế kỷ XX. Trong những năm qua
nghề nuôi cá biển thực sự trở thành hướng đi rất quan trọng để phát triển kinh tế
của nhiều quốc gia. Những thành tựu khoa học công nghệ nuôi mới như sản xuất
giống nhân tạo, sản xuất thức ăn công nghiệp và các trang thiết bị phục vụ cho
nuôi cá biển được áp dụng nhanh chóng giúp cho ngành công nghiệp nuôi cá
biển phát triển rất nhanh và nó đã và đang mang lại hiệu quả kinh tế cao cho hầu
hết các quốc gia có biển.
Theo FAO (2007), khu vực nuôi cá biển chủ yếu trên thế giới là Tây - Bắc
Âu, Địa Trung Hải, Châu Á - Thái Bình Dương, Trung Quốc, Châu Mỹ La Tinh,
Bắc Mỹ và Australia. Một số nước như Nauy, Chilê, Nhật Bản, Trung Quốc đã
coi nuôi cá biển là một trong những ngành kinh tế quan trọng và xây dựng chiến
lược lâu dài cho lĩnh vực này. Hiện nay, những công nghệ tiên tiến về thiết kế,
chế tạo lồng nuôi, chế biến thức ăn, chọn giống, quản lý môi trường và phòng trị
bệnh đã tạo ra những đột phá lớn trong nền công nghiệp nuôi cá biển. Sản lượng
cá của 10 nước đứng đầu thế giới được được thống kê trong năm 2005 như sau:
Bảng 1.1: Sản lượng nuôi cá Hồi trên thế giới năm 2005
Stt

Quốc gia


Sản lượng Tỷ lệ
Stt
Quốc gia
(tấn)
(%)
582.043 47,02 6 Australia

1

Nauy

2

Chile

374.387 30,24

7

Ireland

3

Anh

129.823 10,49

8


4

Canada

83.653

6,76

9

5

Đảo Faroe

18.962

Sản lượng Tỷ lệ
(tấn)
(%)
16.033 1,30
13.764

1,11

Mỹ

9.401

0,76


Iceland

6.488

0,52

1,53 10 Pháp

1.190

0,10

Total

1.237.977
(Nguồn: FAO, 2007)

3


Từ những năm cuối thế kỷ trước, nhiều nước có biển đã khẳng định rõ vai
trò quan trọng của biển nói chung và nuôi cá biển nói riêng. Cá biển là loại thực
phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, nhu cầu sử dụng cá biển ngày càng tăng, trong
khi đó sản lượng khai thác từ tự nhiên có hạn, do đó việc phát triển nuôi cá biển
là biện phát tất yếu đáp ứng nhu cầu của xã hội.
1.1.1.2. Nuôi cá biển ở một số nước trên thế giới
Theo Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I (2008), Trung Quốc có lịch
sử nuôi cá biển khá lâu, nhưng nuôi cá biển ở Trung Quốc mới phát triển mạnh
vào những năm đầu thế kỷ và hiện nay đang đứng đầu thế giới về sản lượng cá
biển nuôi. Năm 1979 thì chỉ có 1 vài lồng được nuôi ở Quảng Đông lưu giữ các

loài cá song để xuất khẩu tới Hồng Kông và Ma Cao. Sau đó nuôi cá biển tăng
lên khoảng 960.000 lồng phân bố chủ yếu ở Sơn Đông và Triết Giang. Sản lượng
cá biển của Trung Quốc tăng lên nhanh chóng: năm 1990 sản lượng nuôi là
101.000 tấn, năm 1995 là 503.000 tấn chiếm khoảng 58% sản lượng nuôi của
Châu Á, năm 2004 là 526.000 tấn, năm 2005 là 660.000 tấn (Su Yong - Quan et
al., 2006). Sau 10 năm sản lượng nuôi cá biển tăng gấp 5 lần nhưng giá trị nuôi
cá biển của Trung Quốc lại không cao, tổng giá trị nuôi năm 1999 chỉ đạt 962
triệu USD, giá trị trung bình của sản phẩm cá biển nuôi thương phẩm chỉ đạt
1,91 USD/kg. Với sản lượng chiếm 20,5% tổng sản lượng cá biển nuôi trên thế
giới nhưng giá trị chỉ chiếm 11%. Trung Quốc là thị trường tiêu thụ cá biển lớn
nhất thế giới và mục tiêu của họ chủ yếu là tiêu thụ nội địa. Quốc gia này sử
dụng lồng thông dụng (98%) là lồng gỗ nổi lên mặt nước có kích thước 3 x 3 x 3
m. Sau đó khoảng 6 năm gần đây có các loại lồng bằng phao kích thước 6 x 6 x
6m và kiểu lồng hình trụ có chu vi 60 - 100 m, sâu 8 - 12 m. Tuy nhiên, do còn
hạn chế về mặt kỹ thuật và chi phí cao, loại lồng cỡ lớn chưa được áp dụng phổ
biến (Su et al., 2000).
Nauy là cường quốc về nuôi cá biển trong 2 thập kỷ qua, là nước xuất
khẩu cá biển nuôi số 1 thế giới. Từ đầu những năm 1960 tại Nauy lồng bè đã
được sử dụng để nuôi cá hồi đại dương (Salmo salar) (Schmittou et al., 2000).
Đến thập kỷ 80, Nauy đã xác định nuôi cá biển là mũi nhọn để phát triển kinh tế

4


của đất nước, trong đó cá hồi là đối tượng chủ đạo. Sau 20 năm liên tục nghiên
cứu và phát triển, Nauy đã đạt tới đỉnh cao về nuôi cá biển, sản lượng và giá trị
liên tục tăng. Năm 1985 sản lượng nuôi đạt 40.000 tấn với giá trị 53 triệu USD,
năm 1990 đạt 146.000 tấn giá trị 776 triệu USD, năm 1995 đạt 250.000 tấn giá
trị 1,018 tỷ USD, đến năm 2000 sản lượng nuôi đạt 420.000 tấn giá trị 1,35 tỷ
USD. Sản phẩm cá hồi của Nauy rất đa dạng với 7 chủng loại từ 1kg/con đến

trên 7kg/con (Su Yong - Quan et al., 2006), chu kỳ nuôi rất khác nhau từ 2 - 6
năm. Cá hồi được nuôi trong lồng đơn hình tròn là chủ yếu, ngoài ra còn nuôi
trong các lồng hình chữ nhật xếp thành từng khối hay nuôi trong các bể bê tông
xây sát bờ biển. Điều đáng chú ý là mặc dù nuôi cá ở quy mô công nghiệp tập
trung mật độ cao nhưng về cơ bản vẫn giữ được độ trong sạch cho môi trường
nước biển và thành công của công nghệ vacxin nên 20 năm nuôi liên tục cá hồi
Nauy vẫn chưa bị dịch bệnh gây tổn hại lớn. Thị trường tiêu thụ cá hồi của Nauy
rất rộng lớn: EU, Nhật Bản, Mỹ, Đông Âu, Trung Quốc, Đài Loan và một số
nước Đông Nam Á. Theo kế hoạch phát triển, dự kiến đến năm 2010 sản lượng
cá hồi của Nauy sẽ đạt 1 triệu tấn, cá tuyết đạt 0,5 triệu tấn (Viện Nghiên cứu
Nuôi trồng Thủy sản I, 2008).
Sau thành công của Nauy, nuôi cá lồng biển ở khu vực Bắc Âu phát triển
rất mạnh mẽ, các loài nuôi chính vẫn là cá hồi Đại Tây Dương và cá hồi vân.
Phần lớn sản lượng 2 đối tượng trên là ở Nauy, Scốtlen, Aixơlen, và đảo Faeroe,
tuy nhiên một số nước như Phần Lan, Đan Mạch, Thụy Điển đang tiếp cận công
nghệ nuôi này. Sản lượng khu vực Bắc Âu năm 2004 đạt 800.000 tấn cá hồi Đại
Tây Dương và 80.000 tấn cá hồi vân (FAO, 2003).
Nhật Bản là nước đứng thứ 3 thế giới về mặt cá biển nuôi, nhưng đứng
đầu trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật, năng suất, hiệu quả và giá trị sản lượng.
Nhật Bản là nước đưa ra mô hình hiện đại về nuôi cá biển trong lồng ngay từ rất
sớm (đầu thập kỷ 70), là nước cho đến nay sinh sản nhân tạo nhiều loài cá nhất
và đang đi đầu trong lĩnh vực nuôi cá ngừ vây vàng, cá ngừ vây xanh theo chu kỳ
khép kín và lồng nuôi được đặt ngay tại dòng hải lưu của Thái Bình Dương. Sản
lượng năm 2000 của Nhật Bản đạt 245.566 tấn, năm 2001 đạt 252.173 tấn, năm

5


2002 đạt 260.373 tấn và năm 2003 đạt 264.858 tấn (FAO, 2003). Nhìn chung sản
lượng nuôi của Nhật Bản từ năm 1990 đến năm 2000 không tăng nhiều nhưng do

nuôi nhiều loài cá quý hiếm như cá cam, cá chình Nhật Bản, cá song nên đạt giá
trị sản lượng cao, năm 1999 giá trị sản lượng nuôi cá biển của Nhật Bản đạt 1,73
tỷ USD. Tuy nhiên do nhu cầu trong nước luôn cao nên hàng năm Nhật Bản
nhập rất nhiều các sản phẩm từ cá biển. Năm 2000 nhập khẩu 334 triệu USD cá
biển nuôi ở dạng sống (chủ yếu là cá chình từ Trung Quốc, cá song từ Đài Loan),
710 triệu USD cá hồi nuôi từ Nauy, Canada, Chile (Viện Nghiên cứu Nuôi trồng
Thủy sản I, 2008).
Chile là nước trước đây nghề cá khá đơn điệu chỉ tập trung vào khai thác
cá nổi có giá trị thấp. Do có bờ biển khúc khuỷu, nhiều eo ngách, vịnh, khí hậu
ôn hòa, nước biển trong sạch rất thích hợp trong việc phát triển các loài cá ôn
đới. Chính vì vậy Chile đã chọn mô hình nuôi cá hồi Đại Tây Dương của Nauy
và cá hồi Thái Bình Dương của Nhật Bản làm đối tượng nuôi chính. Bắt đầu từ
những năm 80, nhưng chỉ vài năm sau nuôi cá biển ở Chile đã có những tiến bộ
vượt bậc, sau 10 năm phát triển Chile đã trở thành cường quốc đứng thứ 4 thế
giới về sản lượng, thứ 3 về giá trị và thứ nhì thế giới về xuất khẩu. Ngoài 2 đối
tượng trên Chile còn phát triển mạnh mẽ nghề nuôi cá hồi sông với sản lượng đạt
50.000 tấn vào năm 2000 (Bộ Thủy sản, 2006). Khi áp dụng công nghệ nuôi cá
lồng của Nauy và Nhật Bản họ không dập khuôn mà sáng tạo xây dựng thành mô
hình riêng của mình. Lợi dụng địa hình thuận lợi, họ tiến hành quây lưới ở các eo
ngách, vịnh nhỏ rồi nuôi cá hoặc đào các ao dọc biển để nuôi cá hồi, hạn chế
nuôi cá trong lồng. Chile lại có công nghiệp chế biến bột cá rất phát triển đạt tiêu
chuẩn cao nên thức ăn cho nuôi cá biển ở Chile có giá thành thấp. Đây chính là
lợi thế nên Chile có giá thành cá biển thấp nhất thế giới dẫn đến xuất khẩu đạt lợi
nhuận cao (Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, 2008).
Đài Loan phát triển nuôi cá biển từ rất sớm và có nhiều đóng góp quan
trọng cho sự tiến bộ của nghề nuôi cá biển của thế giới. Hiện nay tại Đài Loan
đang nuôi khoảng 20 loài cá biển và hầu hết đều được sinh sản nhân tạo thành
công (trừ cá chình). Vào những năm 1960, ngoài việc cho sinh sản nhân tạo

6



thành công loài cá Hồi (Salmo gairrdreri), Đài Loan tiếp tục đạt được thành
công trong sinh sản nhân tạo một số loài cá khác như: cá đối mục (Mugil
cephalus), cá măng biển (Chanos chanos), cá vền đen (Acanthopagrus
schlegeli), cá vền đỏ (A. Major) (1970), cá vền vàng (A. Lates), cá chẽm Nhật
Bản (Lateobrax japonicus) (1980)... Hiện nay, Đài Loan đang tập trung phát
triển nghề nuôi cá lồng trên biển để hạn chế những tác động bất lợi của môi
trường do việc mở rộng diện tích và các hình thức nuôi trong ao. Tính đến năm
2000, có khoảng 1.500 lồng, trong đó khoảng 80% số lồng được sử dụng để nuôi
cá Giò (R. Canadum), số lồng còn lại được sử dụng để nuôi các đối tượng: cá mú
chấm đỏ (E. Coioides), cá hồng (L. Erythropterus), cá hồng bạc (L.
Argentimaculatus) và cá tráp đỏ (Pagrus major). Năm 1990 sản lượng cá chỉ đạt
103 tấn, năm 1997 sản lượng đã tăng gấp 7 lần, đạt 873 tấn, và đến năm 1998
tăng gấp 3 lần đạt 2.673 tấn, trong đó cá giò chiếm 50% tổng sản lượng, đạt
1.500 tấn (Su et al., 2000). Đài Loan có trình độ cao về khoa học công nghệ nuôi
cá biển đặc biệt là sinh sản nhân tạo. Hình thức nuôi cá biển của Đài Loan cũng
đa dạng nhưng chủ yếu nuôi trong ao đất (bờ đúc xi măng) và có hệ thống lồng
hiện đại chịu được sóng gió lớn. Từ đầu những năm 1990, Đài Loan còn xuất
khẩu cá giống đi hầu hết các nước Châu Á (Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy
sản I, 2008).
Ở khu vực Châu Âu, năm 1970, Pháp thành công trong việc nghiên cứu
sản xuất cá tráp Châu Âu, cuối năm 1980 Italia thành công trong việc sinh sản
nhân tạo cá mú Địa Trung Hải. Đến năm 2002 tổng số cá giống của 2 đối tượng
này đạt 650 triệu con (Bộ Thủy sản, 2006).
Ở khu vực Địa Trung Hải, Hy Lạp là nước đứng đầu có nghề nuôi cá biển
phát triển nhờ tiếp cận kỹ thuật sản xuất giống tiến bộ của Pháp, Italia, Anh,
Nauy, Nhật Bản. Chỉ sau một thời gian ngắn, họ đã thành công trong khâu cho cá
sinh sản nhân tạo, sản xuất được cá giống chất lượng cao, công nghệ nuôi được
phát triển nhanh chóng. Năm 2000 sản lượng nuôi đạt 79.000 tấn, giá trị 491

triệu USD, sau 10 năm phát triển, năm 2000 Hy Lạp trở thành cường quốc số 1
thế giới về nuôi cá tráp Châu Âu: 35.000 tấn và cá mú Địa Trung Hải: 44.000

7


tấn. Thành công của Hy Lạp về nuôi cá biển đã trở thành phong trào nuôi cá biển
rầm rộ ở các quốc gia ven Địa Trung Hải như Tây Ban Nha, Pháp, Thổ Nhĩ Kỳ...
đều đưa các đối tượng trên vào nuôi và đã cho kết quả tốt. Sản lượng năm 1995 ở
khu vực này đạt 34.700 tấn, năm 2000 đạt 100.000 tấn, năm 2004 đạt 175.000
tấn (Francesco and Alessandro, 2006). Tăng trưởng trung bình hàng năm đạt
17%. Kích cỡ nuôi thương phẩm 2 đối tượng (cá tráp Châu Âu và cá mú Địa
Trung Hải) tại khu vực này giao động trong khoảng 300 - 400 gam với thời gian
nuôi từ 12 - 20 tháng. Mục tiêu của Hy Lạp là nuôi cá biển xuất khẩu, hơn 70%
sản lượng được xuất khẩu sang các nước EU. Cỡ cá xuất khẩu rất đa dạng từ 250
- 700 gam/con. Cá được chế biến dưới dạng cá đông nguyên con, cá tươi nguyên
con, cá phi lê. Mặc dù giá cá thương phẩm liên tục rớt giá: cá tráp Châu Âu từ
16,7 USD/kg năm 1990 xuống còn 10,5 USD năm 1994 và 6,5 USD năm 1999
nhưng nghề nuôi cá biển Hy Lạp vẫn đứng vững và phát triển ổn định do luôn
cải tiến công nghệ nuôi, quản lý, tăng cường tiếp thị hơn nữa đầu vào luôn được
giảm một cách hợp lý nên nghề nuôi vẫn phát triển vững chắc (Viện Nghiên cứu
Nuôi trồng Thủy sản I, 2008).
Các nước Đông Nam Á chưa có nghề nuôi cá biển phát triển như các
nước ở khu vực trên. Thái Lan là nước có điều kiện tự nhiên, môi trường biển
gần giống với Việt Nam, thế nhưng nghề nuôi cá biển đã phát triển từ hơn 2 thập
kỷ qua, sản lượng tăng một cách ổn định, với hai đối tượng nuôi chính là cá mú
(Epinephelus spp) và cá chẽm (Lates calcarifer). Từ năm 1988 đến năm 1996
sản lượng cá chẽm đạt từ 654 - 2.998 tấn, cá mú đạt từ 357 - 723 tấn. Hiện nay
Thái Lan đang sản xuất hơn 100 triệu cá giống hàng năm, trong đó trạm thuỷ sản
Satul sản xuất hơn 30 triệu cá giống ( Kungvankij et al., 1986). Tuy nhiên từ sau

năm 2000, do sự cạnh tranh của cá tráp Châu Âu, sự thành công của Trung Quốc
và các nước khác trong sản xuất giống và nuôi cá vược, giá cá vược giảm nhanh
làm cho nghề nuôi cá vược của Thái Lan bị đình chệ. Philippin là nước dẫn đầu
thế giới về nuôi cá măng biển (Chanos chanos) và đang tiếp tục phát triển tuy giá
trị cũng đang ngày càng giảm sút. Sản lượng cá măng năm 2005 của Philippin
trên 37.000tấn. Tuy nhiên sản phẩm xuất khẩu còn khá hạn chế (Viện Nghiên

8


cứu Nuôi trồng Thủy sản I, 2008). Tại Indonesia, các lồng nổi bằng tre hay gỗ
cũng đã được sử dụng để ương nuôi cá giống được đánh bắt tự nhiên ngoài hồ từ
những năm 1920. Ngay cả cá rô phi thuộc dòng Oreochromis cũng đã được
trường đại học Auburn đưa vào nuôi trong lồng từ cuối những năm 1960
(Malcolm, 1996).
1.1.1.3. Một số đối tượng hải sản được nuôi trên biển
Các đối tượng cá biển trên thế giới hiện nay đang được phát triển nuôi là:
các loài cá song (Epinephelus sp), cá giò (Rachycentron canadum), cá hồng mỹ
(Sciaenops ocellatus), cá chim vây vàng (Trachinotus blochii), cá tráp (Pagrus
sp), cá măng biển (Chanos chanos), cá hồng bạc (Lutjanus argentimaculatus), cá
chẽm (Lates calcarifer), cá dìa (Siganus sp), cá hồi, cá ngừ...
Cá song (cá mú) được nuôi nhiều nước trên thế giới như: Trung Quốc, Đài
Loan, Hồng Kông, Nhật Bản, Malaysia, Singapore, Thái Lan, Philippines ...các
loài cá song thuộc giống Epinephelus như cá song chấm nâu (E. coioides), cá
song hổ (E. fuscogulatus), cá song điểm gai (E. malabarricus), cá song mỡ (E.
tauvina), cá song vang (E. lanceolatus)... Sản lượng nuôi cá mú năm 1997, khu
vực Châu Á Thái Bình Dương khoảng 15.000 tấn. Trung Quốc dẫn đầu trên thế
giới, cung cấp 8.000 tấn, sau đó là Indonesia. Các nước khác sản xuất hàng năm
trung bình 1.000-2.000 tấn vào năm 1900-1997 (APEC/SEADEC, 2001). Đài
Loan là nước đi đầu trong công nghệ sản xuất giống cá biển, đã cho sinh sản

thành công cá song từ năm 1985, có 84 loài cá song được tìm thấy và có khoảng
13 loài đã đưa và nuôi thương phẩm. Hiện nay, Đài Loan là quốc gia sản xuất cá
song đại trà với khoảng 600 trại giống hoạt động cho sản lượng khoảng 20 triệu
cá giống và trên 7.000 tấn cá mú thương phẩm vào năm 2001.
Cá giò được nuôi rộng rãi khắp nơi trên thế giới, đặc biệt là ở Trung
Quốc. Cá giò tăng trưởng nhanh, phân bố rộng rãi trong tự nhiên và chúng có thể
ăn thức ăn nhân tạo. Trong điều kiện nuôi cá giò có thể đạt trọng lượng 3-4kg
sau 1 năm và đạt trọng lượng 8-10 kg ở năm nuôi thứ hai. Cá giò đang được nuôi
ở qui mô từ nhỏ đến lớn, được nuôi từ bè gỗ truyền thống đến các kiểu lồng tròn
bằng lồng Nauy. Ở Đài Loan nghề nuôi hải sản bằng lồng bè được phát triển từ

9


năm 1970, đến năm 1993 đã cho sinh sản nhân tạo cá bớp thành công.
1.1.1.4. Một số công nghệ lồng nuôi cá biển trên thế giới
Công nghệ lồng bè nuôi cá biển trên thế giới trong thời gian qua đã có
những bước phát triển nhanh, công nghệ nuôi cá lồng từ kiểu lồng gỗ nuôi đơn
giản, đến kiểu lồng nổi được trang bị hệ thống phao chịu lực và kiểu lồng đại
dương chịu sóng. Các mô hình lồng nuôi chịu sóng cũng rất đa dạng, có cấu trúc,
hình dạng, hệ thống phao neo chịu lực, thể tích lồng nuôi cũng khác nhau tùy
thuộc vào quy mô nuôi, vùng nuôi và loài nuôi. Ưu điểm của hệ thống lồng chịu
sóng là có khả năng nuôi ở vùng biển hở, ngoài khơi, chịu được sóng mạnh, có
dung tích nuôi lớn, phù hợp với quy mô công nghiệp và nuôi với sản lượng lớn.
Một số kiểu lồng nuôi vùng biển hở trên thế giới như: kiểu lồng chịu sóng của
Nhật Bản, kiểu lồng đại dương của Thụy Điển, kiểu lồng đại dương của Nga, kiểu
lồng đại dương của Úc, kiểu lồng đại dương của Tây Ban Nha, kiểu lồng đại dương
của Nauy, kiểu lồng đại dương của Mỹ, kiểu lồng đại dương của Trung Quốc.
1.1.2. Tại Việt Nam
Theo đánh giá của FAO, nghề nuôi cá lồng biển của Việt Nam còn non trẻ

so với các nước trong khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, chúng ta có đầy đủ tiềm
năng để phát triển nghề này ( Viện Tài nguyên và Môi trường biển, 2009) . Với bờ
biển dài 3260 km, vùng đặc quyền kinh tế trên 1 triệu km 2, có trên 3.000 hòn đảo
lớn nhỏ cùng nhiều eo vịnh, điều kiện tự nhiên thuận lợi, đối tượng cá nuôi
phong phú: cá mú, cá hồng, cá cam, cá tráp, cá giò, cá vược... đều phân bố ở biển
Việt Nam nhưng nuôi cá biển ở Việt Nam chỉ mới được quan tâm nghiên cứu từ
gần 10 năm nay. Khởi đầu nuôi cá biển ở Việt Nam là những lồng giữ cá giống
bắt từ tự nhiên để bán cho khách du lịch ở tỉnh Khánh Hòa và Quảng Ninh. Đến
năm 1995, Việt Nam mới bắt đầu nghiên cứu công nghệ sản xuất giống và nuôi
cá biển. Sau hơn 10 năm, nuôi cá biển ở Việt Nam đã có những bước phát triển
nhất định (Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, 2008).
Xuất phát từ tiềm năng về điều kiện tự nhiên, nhu cầu của thị trường tiêu
thụ cá biển trong và ngoài nước, phương án 3 của Chương trình 224 của Chính
phủ đặt mục tiêu 200.000 tấn cá biển trong tổng số 1,13 triệu tấn của nuôi trồng

10


hải sản nước mặn, nước lợ nói chung vào năm 2010. Tuy nhiên đến năm 2008
sản lượng cá biển mới chỉ đạt 5.029 tấn ( Cục Nuôi trồng Thủy sản, 2008), do vậy
mục tiêu đến năm 2010 đạt 200.000 tấn cá biển là rất khó thành hiện thực (Viện
Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, 2008).
Năm 2001 tổng số lồng nuôi trên biển là 3.990 lồng, sản lượng đạt 2.150
tấn, một số địa phương đã đưa cá biển vào nuôi trong ao đất như ở Cam Ranh Khánh Hòa đạt sản lượng trên 100 tấn với 71 ha nuôi ( Bộ Thủy sản, 2002), năm
2002 tổng số lồng nuôi 4.077 chiếc sản lượng cá nuôi đạt 2.626 tấn, trong đó
miền Bắc đạt 599 tấn; Nam Trung Bộ đạt 919 tấn, miền Nam đạt 1.108 tấn ( Bộ
Thủy sản, 2003).

Theo báo cáo của Bộ Thủy sản (2005), năm 2005 hình thức nuôi cá lồng
trên biển đã phát triển ở các tỉnh ven biển Vịnh Bắc Bộ như Hải Phòng, Quảng

Ninh, ven biển miền Trung: Đà nẵng, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, ven biển
phía Nam Bà Rịa - Vũng Tàu, Kiên Giang. Tổng số lồng bè nuôi cá biển là 7.115
chiếc, sản lượng đạt 3.556 tấn.
Theo số liệu của Bộ Thủy Sản và Ngân hàng Thế giới (Tháng 09/2006),
số lồng nuôi cá biển ở Việt Nam năm 2006 là 16.319 ô lồng với sản lượng 5.010
tấn. Từ năm 2006 - 2007, một số doanh nghiệp nước ngoài nuôi cá biển ở Phú
Yên, Khánh Hòa như Công ty Marine - Farm, công ty An Hải... nuôi cá giò, cá
song... Chỉ tính riêng sản lượng của các công ty này ước tính khoảng 1.200 tấn
(Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, 2008).
1.1.2.1. Về đối tượng nuôi
Đối tượng nuôi chủ yếu ở Việt Nam là các loài cá song (Epinephelus sp),
cá giò (Rachycentron canadum), cá chẽm (Lates calcarifer), và nuôi một số loài
cá biển khác như cá hồng mỹ (Sciaenops ocellatus), cá chim vây vàng
(Trachinotus blochii), cá tráp (Pagrus sp), cá hồng bạc (Lutjanus
argentimaculatus), cá dìa (Siganus sp),... nhưng số lượng không đáng kể.
1.1.2.2. Công nghệ thức ăn
Thức ăn hiện nay sử dụng chủ yếu vẫn là cá tạp chiếm khoảng 85%, một
số nơi sử dụng thức ăn tự chế tuy nhiên tỷ lệ sử dụng loại thức ăn này chiếm tỷ lệ

11


thấp khoảng 10%, và một số cơ sở bắt đầu nhập thức ăn công nghiệp, lượng thức
ăn công nghiệp sử dụng không đáng kể, mới chỉ dừng ở lại mô hình nuôi thử
nghiệm chiếm khoảng 5%.
1.1.2.3. Công nghệ lồng nuôi
Công nghệ lồng nuôi chủ yếu nuôi bằng lồng gỗ đơn giản, phao bằng nhựa
hay bằng xốp. Hình thức nuôi kiểu lồng chịu sóng vùng biển hở hiện nay chưa
được áp dụng nuôi rộng rãi, do chi phí đầu tư công nghệ nuôi lồng chịu sóng rất
cao, người dân không có khả năng đầu tư. Tại Phân viện Bắc Trung Bộ (Cửa Lò),

hiện đã áp dụng thành công công nghệ lồng nhựa tròn chịu sóng của Nauy, đã mở
ra hướng phát triển mới cho nghề nuôi cá lồng tại các vùng biển mở (Viện Nghiên
cứu Nuôi trồng Thủy sản I, 2005).
1.1.2.4. Công nghệ sản xuất giống cá biển
Một số loài cá biển ở Việt Nam đã cho sản xuất nhân tạo thành công là: cá
song, cá giò, cá vược, cá hồng mỹ... Con giống đang nuôi hiện nay chủ yếu là do
dân thu gom từ tự nhiên hoặc nhập giống từ Đài Loan, Trung Quốc, số lượng
giống sản xuất ra chưa đáp ứng được nhu cầu của người nuôi hiện nay. Vấn đề
nghiên cứu sản xuất giống cá biển mới được quan tâm nghiên cứu trong vài năm
trở lại đây.
Trong những năm gần đây, ở Việt Nam đã có nhiều công trình khoa học
nghiên cứu về công nghệ sản xuất giống và nuôi thương phẩm một số đối tượng
cá biển.
- Năm 1996-1997, trong đề tài nuôi cá biển của Viện nghiên cứu Hải sản
đã cho sinh sản được một số cá giò bột nhưng vấn đề kỹ thuật ương nuôi chưa
được giải quyết, đây là giai đoạn sơ khai nghiên cứu cá biển ở Việt Nam. Đến đề
tài “ Nghiên cứu công nghệ sản xuất giống và nuôi một số loài cá biển có giá trị
kinh tế cao trong điều kiện Việt Nam”, của Viện nghiên cứu Hải Sản tiến hành từ
năm 1998-2000, có sự hợp tác nghiên cứu với Viện DIFTA (Đan Mạch) năm
1998 và sự tham gia của các chuyên gia dự án NORAD thuộc Viện nghiên cứu
Nuôi trồng Thủy sản I, trong các năm 1999 và năm 2000 đã định hình được quy
trình ương thâm canh cá giò. Năm 1998 không thu được cá bột, đến năm 1999

12


thu được 6.500 cá hương cỡ 4-6cm, nhưng đến năm 2.000 chỉ sản xuất được
1.000 con giống cỡ 8-10 cm trong mô hình ương nuôi quảng canh, dựa vào thức
ăn tự nhiên thu gom ở Cát Bà và Qúy Kim - Hải Phòng. Trong 3 năm (20012003) kỹ thuật sản xuất cá giò được Hợp phần 3- Dự án NORAD và dự án
SUMA (DANIDA) tiếp tục nhiên cứu, đã phát triển thành quy trình ương thâm

canh cá giò đi vào ổn định hơn: Tỷ lệ sống đến giai đoạn cá giống (8-10cm) đạt
2-4%; năng suất cá hương (2,5-3cm) đạt 7.500-8.000 con/m 3, giống cỡ 6-8cm đạt
150con/m3 (trong hệ thống nước chảy và 250 con/m 3 trong hệ thống tuần hoàn
nước (Nguyễn Quang Huy và cs., 2003). Kỹ thuật sản xuất giống cá giò ngày
càng hoàn thiện, từng bước chủ động cung cấp giống cho người nuôi.
- Năm 2002, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I đã tiến hành nghiên
cứu của đề tài KC 06.13.NN: “Nghiên cứu công nghệ sản xuất giống và nuôi
thương phẩm một số loài cá song (Epinephelus spp) phục vụ xuất khẩu". Đề tài
đã được triển khai nghiên cứu tại 02 cơ sở của Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy
sản I (tại Cát Bà và Cửa Hội), tại Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản II và
một doanh nghiệp ở Quảng Ninh (Công ty Đầu tư Phát triển sản xuất Hạ Long)
từ tháng 11/2001 đến tháng 11/2004. Kết quả của đề tài đã đạt được những kết
quả bước đầu như sau: Chọn lọc nuôi vỗ chuyển đổi giới cá bố mẹ đạt tỷ lệ thành
thục 60 - 70%. Tỷ lệ thụ tinh của trứng đạt 71,5- 82%, tỷ lệ nở đạt 76,0 - 82,1%.
Ương nuôi ấu trùng (cá bột) đến cá hương 40 ngày tuổi đạt 7,5%. Ương cá
hương lên cá giống (40 ngày tuổi, chiều dài 3 - 4 cm) đến 90 ngày tuổi (8 - 10
cm) đạt tỷ lệ sống 72 - 81% (Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, 2005). Đề
tài đã triển khai trên quy mô thí nghiệm tại Cát Bà, Cửa Hội, Vũng Tàu. Năm
2003, đề tài phối hợp với Công ty Đầu tư Phát triển xản xuất Hạ Long thử
nghiệm triển khai tại đảo Cống Tây (Quảng Ninh). Tổng số cá giống các cơ sở
đã xuất được trong 2 năm 2002 và 2003 là 301.000 con. Hiện nay, Viện Nghiên
cứu Nuôi trồng Thủy sản I đang nuôi giữ đàn cá hậu bị đơn 300 con của 2 loài cá
song: cá song chấm nâu (E. coioides) và cá song chanh (E.malabaricus). Kết quả
nuôi thương phẩm trong lồng từ đàn cá giống sản xuất nhân tạo năm 2002, năng
suất nuôi đạt trung bình 6,2 kg/m 3 nước. Một ô lồng có thể tích 27 m 3 (3x3x3m)

13


đã đạt 1.600 - 1.700 kg (Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I, 2005).

Hiện nay nghề nuôi cá lồng biển ở Việt Nam còn gặp nhiều hạn chế, phát
triển ở quy mô công nghiệp gặp nhiều khó khắn do nguồn giống hiện nay còn
thiếu, còn phụ thuộc vào nguồn giống từ tự nhiên và nguồn giống nhập từ bên
ngoài và công nghệ lồng nuôi và công nghệ sử dụng thức ăn còn lạc hậu.
Sự thành công của các đề tài nghiên cứu sản xuất giống và ương nuôi cá
giống và mô hình thử nghiệm nuôi cá lồng thương phẩm đã góp phần quan trọng
thúc đẩy nghề nuôi cá lồng biển ở Việt Nam trong giai đoạn tới.
1.2. Nghiên cứu tác động của nuôi cá lồng bè đến môi trường sinh thái
1.2.1. Trên thế giới
Lợi ích kinh tế của nuôi cá biển rất lớn nhưng những ảnh hưởng của nó
gây ra đối với môi trường sinh thái cũng không nhỏ. Những tác động của nuôi cá
biển đến môi trường đã được nghiên cứu ở nhiều nước trên thế giới như: Nauy,
Iceland, Anh, Mỹ, Ca-na-da, Australia, Nhật Bản và Chilê. Các báo cáo nghiên
cứu của FAO (1996), G3 Consulting Ltd (2000), Heinig (2000), Kenneth (2001),
Nash (2001), Buschmann (2002), Crawford et al (2002), Weber (2003), Shakouri
(2003) và Phillips (2005) cho thấy: Mặc dù những rủi ro và mức độ tác động có
tính đặc trưng khu vực và có thể khác nhau giữa các vùng nhưng các nghiên cứu
đều đưa ra những rủi ro và tác động khá thống nhất. Các tác động và rủi ro của
nuôi cá biển tới môi trường sinh thái được tổng hợp theo 3 nhóm như sau:
- Nhóm có nguy cơ rủi ro cao:
+ Tác động của các phản ứng sinh hóa từ các chất hữu cơ lắng đọng (phân
cá, thức ăn thừa...) trên bề mặt trầm tích.
+ Tác động của các kim loại nặng tích tụ trong trầm tích đến khu hệ động
vật đáy.
+ Tác động không mong muốn của thuốc, hóa chất trị bệnh lên cơ thể sinh vật.
- Nhóm nguy cơ rủi ro thấp hơn:
+ Tác động sinh lý của hàm lượng ôxy hòa tan thấp trong môi trường nước.
+ Tác động gây độc của H2S và NH3 từ các phản ứng sinh hóa.
+ Tác động gây độc của tảo nở hoa.


14


+ Sự biến đổi của khu hệ động vật đáy, biến mất hệ động vật đáy.
+ Phát tán mầm bệnh của con người vào môi trường nước.
+ Phát tán mầm bệnh của cá và động vật thân mềm vào môi trường nước.
+ Gia tăng tỷ lệ mắc bệnh của cá tự nhiên.
+ Thay thế nguồn cá khai thác tự nhiên bởi cá nuôi.
- Nhóm có ít nguy cơ hoặc không có nguy cơ rủi ro:
+ Phát tán những giống loài không thuộc bản địa ra môi trường tự nhiên,
sau đó chúng tác động đến những giống loài đặc hữu trong vùng.
+ Tác động của vi khuẩn kháng thuốc lên cá tự nhiên.
+ Tác động lên sức khỏe và sự an toàn của con người.

(Nguồn: Forrest et al.,2007)
Hình 1.1: Những tác động sinh thái từ trại nuôi cá biển

15


(Nguồn: White, 2009)
Hình 1.2: Mô hình lý thuyết về tích đọng P và N trong nuôi cá biển
Forrest et al. (2007) trong báo cáo tổng quan về tác động sinh thái của
nuôi cá biển trên thế giới cho thấy: Những tác động đến nền đáy khu vực bè nuôi
cá biển là lớn, đặc biệt là thức ăn thừa, phân thải, có thể bao gồm cả dư lượng
hóa chất và thuốc trị bệnh dùng trong nuôi trồng thủy sản (Hình 1.1).
White (2009) đã đưa ra mô hình lý thuyết về tích đọng phốtpho (P) và nitơ (N)
trong nuôi cá biển (Hình 1.2), qua đó cho thấy vật chất hữu cơ như: Nitơ và phốtpho
lắng đọng dưới đáy lồng nuôi rất lớn, phốtpho từ 47 – 54% và Nitơ từ 12 – 20%.
Vấn đề quan trọng nhất liên quan tới nuôi cá biển là bệnh cá, hiện tượng

cá nuôi thoát ra ngoài tự nhiên, sử dụng thuốc, hóa chất và tích lũy vật chất hữu
cơ dưới nền đáy. Tuy nhiên những vấn đề này cần phải được xem xét trong mối
quan hệ với nhau, mật độ lồng, bè nuôi lớn cùng với việc tích lũy thức ăn thừa và
phân cá có thể là nguyên nhân dẫn tới việc cá bị sốc (stress), chậm lớn kéo theo
bệnh, sự bùng phát của các vật chủ trung gian mang bệnh và sử dụng nhiều thuốc
phòng trị bệnh…Vật chất hữu cơ tích đọng ở tầng đáy do đó có thể trở nên quan
trọng đối với các hình thức tác động môi trường khác nhau (The Directorate of
Fisheries - Norwegian, 1999).

16


1.2.2. Tại Việt Nam
Nghiên cứu về tác động của nuôi biển đến môi trường sinh thái tại Việt
Nam hiện rất hạn chế.
Báo cáo của bộ Thủy sản và ngân hàng thế giới (Ministry of Fisheries and
The World Bank, 2005) về thủy sản Việt Nam cho thấy: có nhiều tác động ảnh
hưởng của nuôi trồng, khai thác thủy sản ven bờ và xa bờ tới nguồn lợi thủy sản
và môi trường sinh thái, trong đó có đề cập tới:
- Môi trường nước vịnh Bắc Bộ đã bị khai thác quá mức so với sức tải
môi trường.
- Gia tăng nuôi trồng thủy sản và Trung Quốc cấm đánh bắt theo mùa làm
tăng khai thác cá (bao gồm cả cá tạp) trong vùng nước Việt Nam.
- Quan trắc và giám sát nguồn tác động chưa được thực hiện thường xuyên.
Nghiên cứu của Trần Lưu Khanh (2005) về sức chịu tải môi trường thuỷ
vực nuôi cá biển tại Tùng Gấu (Cát Bà - Hải Phòng) và Phất Cờ (Vân Đồn Quảng Ninh) cho thấy: Nuôi cá biển ở hai khu vực này tại thời điểm nghiên cứu,
vẫn nằm trong giới hạn cho phép. Báo cáo đã đưa ra đề xuất tăng thêm số lượng
lồng nuôi cá ở hai vịnh này. Vịnh Tùng Gấu có thể lên tới 465 lồng (thể tích mỗi
lồng là 60 m3) và vịnh Phất Cờ có thể lên tới 180 lồng. Khoảng cách giữa các
cụm lồng bè, diện tích dãn cách từ 569 - 1.388m 2 với 20 ô lồng/bè và 1.634 3.471m2 với những cụm bè nuôi có khoảng 50 ô lồng (Trần Lưu Khanh, 2005).

Theo kết quả quan trắc của Viện nghiên cứu hải sản năm 2008 môi trường
nước khu vực nuôi cá biển ở Quảng Ninh, Hải Phòng có dấu hiệu ô nhiễm: Các
muối dinh dưỡng như: N-NH4+ , P-PO43- cũng như Vibrio có mặt tại khu nuôi cá
lồng bè gần cảng Cát Bà. Nước biển khu vực nuôi cá lồng tại Bến Bèo, Tùng
Gấu, gần cảng Cát Bà bị ô nhiễm đặc biệt là N-NO2-.
Phương pháp quan trắc về chất lượng môi trường khu vực biển Hải Phòng,
Quảng Ninh của Viện nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản I và Viện nghiên cứu Hải
sản mới chỉ dùng lại ở mức độ mô tả và đánh giá hiện trạng chất lượng môi
trường nước và trầm tích, chưa thật sự nghiên cứu sâu về tác động của nuôi cá
biển đến trầm tích.

17


×