Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

đề tài nạn phá rừng ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.52 MB, 23 trang )

MỤC LỤC
Trang
3
5
6

Đề cương đã duyệt
Lời nói đầu
Chương I : Rừng và nạn phá rừng hiện
nay ở nước ta.
1. Nguyên tắc khách quan.
2. Nguyên tắc toàn diện.
3. Rừng và vai trò của rừng đối với
con người
Chương II : Thực trạng, nguyên nhân,
hậu quả và biện pháp bảo vệ rừng.
1. Thực trạng phá rừng hiện nay.
2. Nguyên nhân dẫ đến nạn phá
rừng bừa bãi.
3. Hậu quả phá rừng gây ra.
4. Các biện pháp khắc phục và bảo
vệ môi trường.
Kết luận

6
6
7
10
10
12
13


19
24

1


Lời nói đầu : Như đã biết Việt Nam là một đất nước chiếm phần lớn
là đồi núi còn lại diện tích là đồng bằng. Nằm trong vòng đai khí hậu nhiệt đới
gió mùa, nóng ẩm mưa nhiều và độ bức xạ nhiệt cao đã tạo điều kiện thuạn lợi cho
sự phát triển của những cánh rừng nhiệt đới với hệ sinh thái nhiều tầng và day leo
chàng chịt. Do vậy ở nước ta rừng được xếp vào loại tài nguyên vô cùng quý giá.
Sự quý giá này được thể hiện rõ ở tầm quan trọng của từng và những lợi ích mà
rừng mang lại. Đó là rừng điều hoà khí hậu, làm giảm nhiệt độ của trái đất, rừng
điều hòa nguồn nước, chống xói mòn đất, chống lũ lụt…Rừng cho khai thác nhiều
loại lâm sản quý như lim, sến,…các loại dược liệu quý như quế, hồi…cỏc loại
đồng vật quý hiếm như tê giác, voi…Rừng đóng góp một nguồn ngân sách rất lớn
cho nền kinh tế quốc dân. Mặc dù rừng đem lại nhiều lợi ích và của cải cho con
người như vậy nhưng con người chưa nhận thức được điều đó. Một thực trạng dễ
dàng nhìn thấy trên các cánh rừng là nạn phá rừng bừa bãi khiến cho diện tích đất
trống đồi trọc tăng lên đáng kể, môi trường bị ỗ nhiễm, nhiều loại lâm sản quý bị
khai thác kiệt quệ, các loại động vật quý hiếm đang đứng trước nguy cơ bị tuyệt
chủng, khí hậu nóng lên và hệ sinh sinh thái bị suy giảm trầm trọng.
Từ thực tế trên, chúng tôi chọn đề tài nạn phá rừng ở Việt nam để làm đề tài
nghiên cứu. Đây là một vấn đề vô cùng nhức nhối và bức xúc đặt ra co toàn xã hội
bởi khí hậu của chúng ta đang ngày một nóng lên nguyên nhân không đâu ra chính
là do rừng bị tàn phá bừa bãi, vô tổ chức làm mất cân bằng hệ sinh thái. Lựa chọn
nghiên cứu vấn đề này tôi sẽ phân tích, tìm hiểu để làm rõ thực trạng và nguyên
nhân đưa ra những giải pháp tích cực nhằm ngăn chặn tình trạng phá rừng bừa bãi
để làm cho rừng nước ta mãi là tài nguyên xanh của đất nước.
Tìm hiểu những nguyên nhân dẫn đến tình trạng phá rừng bừa bãi. Đồng

thời đưa ra những chứng cứ về hiện trạng của rừng Việt Nam đang bị phá bừa
bãihững hậu quả mà chúng ta đang phải gánh chịu do nạn phá rừng gây ra. Trên cơ
sở đó chúng ta sẽ đưa ra những giải pháp để khắc phục tình trạng này.

2


Chương I : Rừng và nạn phá rừng ở nước ta hiện nay.
1. Nguyên tắc khách quan.
Nguyên tắc là sản phẩm chủ quan do tư duy/tinh thần của con người rút ra
trong quá trình lao động thực tiễn; xuất phát từ những cấu trúc của đối
tượng, từ quy luật vận động của đối tượng, từ tính quy định đặc thù của đối
tượng, từ yêu cầu khách quan của hoạt động lao động là cần đạt hiệu quả cao
nhất, chủ thể nhận thức và hoạt động thực tiễn rút ra cho mình những
nguyên tắc nhất định, từ đó khuôn định tư duy và hành động của cá nhân
hoặc tập thể xã hội tuân thủ theo. Ví dụ: nguyên tắc (quy định) buộc các bác
sĩ, y tá phải tiệt trùng các dụng cụ phẫu thuật và thân thể trước khi tiến hành
thực hiện các ca phẫu thuật cho bệnh nhân nhằm tránh việc nhiễm trùng/lây
lan bệnh dịch…
Nguồn gốc của nguyên tắc khách quan: Nguyên tắc khách quan trong xem
xét là một nguyên tắc tối thượng của nhận thức và hành động được chủ thể
nhận thức triết học duy vật rút ra sau khi xử lý vấn đề cơ bản của triết học:
mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Theo đó, những nhà triết học duy vật
xác định rằng, trong mối quan hệ ấy thì, vật chất có trước và quyết định ý
thức, ý thức có sau và tác động biện chứng trở lại vật chất thông qua hoạt
động thực tiễn của con người, làm thay đổi thế giới vật chất theo nhu cầu tất
yếu của bản thân mình.
Nguyên tắc khách quan phát biểu, rằng: mọi nhận thức và hành động của
chủ thể đều phải xuất phát từ chính đối tượng của nhận thức/ đối tượng của
hành động, xuất phát từ hiện thực khách quan, trên cơ sở đó chủ thể nhận

thức và hành động phát huy tính năng động sáng tạo chủ quan nhằm đạt
được mục đích của mình. Điều đó có nghĩa chủ thể nhận thức và hành động
không được gán ép cái chủ quan vào đối tượng, là nếu không tuân thủ
nguyên tắc này thì chủ thể nhận thức và hành động sẽ rơi vào trạng thái chủ
quan, duy tâm, ảo tưởng, dẫn đến sai lầm, thất bại.
2. Nguyên tắc toàn diện.
Là nguyên tắc xem xét được rút ra từ nguyên lý về mối quan hệ phổ biến.
Quan điểm đó trở thành nguyên tắc phương pháp luận chỉ đạo mọi hình thức
và hành động.

3


Quan điểm toàn diện đòi hỏi : Muốn nhận thức hoặc hoạt động thực tiễn
đúng về đối tượng nào đó phải tính đến tất cả mối liên hệ trong sự tồn tại của
đối tượng. Đề phòng và khắc phục quan điểm phiến diện.
3. Rừng và vai trò của rừng đối với con người.
 Rừng là quần xã sinh vật trong đó cây rừng là thành phần chủ yếu. Quần xã sinh
vật phải có diện tích đủ lớn. Giữa quần xã sinh vật và môi trường, các thành
phần trong quần xã sinh vật phải có mối quan hệ mật thiết để đảm bảo khác biệt
giữa hoàn cảnh rừng và các hoàn cảnh khác.
Ngay từ thuở sơ khai, con người đã có những khái niệm cơ bản nhất về rừng.
Rừng là nơi cung cấp mọi thứ phục vụ cuộc sống của họ. Lịch sử càng phát
triển, những khái niệm về rừng được tích lũy, hoàn thiện thành những học
thuyết về rừng.
Năm 1817, H.Cotta (người Đức) đã xuất bản tác phẩm Những chỉ dẫn về lâm
học, đã trình bày tổng hợp những khái niệm về rừng. Ông có công xây dựng
học thuyết về rừng có ảnh hưởng đến nước Đức và châu Âu trong thế kỷ 19.
Năm 1912, G.F.Morodop công bố tác phẩm Học thuyết về rừng. Sự phát triển
hoàn thiện của học thuyết này về rừng gắn liền với những thành tựu về sinh thái

học.
Năm 1930, Morozov đưa ra khái niệm: Rừng là một tổng thể cây gỗ, có mối
liên hệ lẫn nhau, nó chiếm một phạm vi không gian nhất định ở mặt đất và trong
khí quyển. Rừng chiếm phần lớn bề mặt Trái Đất và là một bộ phận của cảnh
quan địa lý.
Năm 1952, M.E. Tcachenco phát biểu: Rừng là một bộ phận của cảnh quan địa
lý, trong đó bao gồm một tổng thể các cây gỗ, cây bụi, cây cỏ,động vật và vi
sinh vật. Trong quá trình phát triển của mình chúng có mối quan hệ sinh học và
ảnh hưởng lẫn nhau và với hoàn cảnh bên ngoài.
Năm 1974, I.S. Mê lê khôp cho rằng: Rừng là sự hình thành phức tạp của tự
nhiên, là thành phần cơ bản của sinh quyển địa cầu.

4


 Vai trò của rừng trong cuộc sống :

Nếu như tất cả thực vật trên Trái Đất đã tạo ra 53 tỷ tấn sinh khối (ở
trạng thái khô tuyệt đối là 64%) thì rừng chiếm 37 tỷ tấn (70%). Và cáccây
rừng sẽ thải ra 52,5 tỷ tấn (hay 44%) oxy để phục vụ cho hô hấp của con
người, động vật và sâu bọ trên Trái Đất trong khoảng 2 năm (S.V. Belov
1976).

Rừng là thảm thực vật của những cây thân gỗ trên bề mặt Trái Đất,
giữ vai trò to lớn đối với con người như: cung cấp nguồn gỗ, củi, điều
hòakhí hậu, tạo ra oxy, điều hòa nước, nơi cư trú động thực vật và tàng trữ
các nguồn gen quý hiếm.

Một hecta rừng hàng năm tạo nên sinh khối khoảng 300 – 500 kg, 16
tấn oxy (rừng thông 30 tấn, rừng trồng 3 - 10 tấn).


Mỗi người một năm cần 4.000kg O2 tương ứng với lượng oxy do
1.000 - 3.000 m² cây xanh tạo ra trong một năm.

Nhiệt độ không khí rừng thường thấp hơn nhiệt độ đất trống khoảng 3
- 5 °C.

Rừng bảo vệ và ngăn chặn gió bão.

Lượng đất xói mòn của vùng đất có rừng chỉ bằng 10% lượng đất xói
mòn của vùng đất không có rừng.

Rừng là nguồn gen vô tận của con người, là nới cư trú của các loài
động thực vật quý hiếm.
5



Vì vậy tỷ lệ đất có rừng che phủ của một quốc gia là một chỉ tiêu an
ninh môi trường quan trọng (diện tích đất có rừng đảm bảo an toàn môi
trường của một quốc gia tối ưu là ≥ 45% tổng diện tích).

6


Chương II : Thực trạng, nguyên nhân, hậu quả và biện pháp bảo vệ
rừng.
1. Thực trạng nạn phá rừng hiện nay là gì ?
Tốc độ phá rừng nhiệt đới hàng năm giai đoạn 1981-1990 là 0,8% hay 15,4 triệu
hecta/năm, trong đó châu Á có tỷ lệ mất rừng cao nhất (1,2%). Riêng đối với Việt

Nam, trong vòng nửa thế kỷ từ 1943 đến 1993 có khoảng 5 triệu hecta rừng tự
nhiên bị mất, nghĩa là tốc độ phá rừng hàng năm ở Việt Nam vào khoảng 100.000
hecta.

“Các doanh nghiệp trong nước sẽ phải chuyển sang nguồn gỗ từ trồng rừng trong
một tương lai không xa, chưa nđầy 10 năm nữa thôi, do trữ lượng rừng tự nhiên
của Việt Nam hiện đã can kiệt” đó là lời ông Nguyễn Văn Thu (giám đốc xí nghiệp
chế biến gỗ nội thấp Pisico ở Bình Định). Thậm chí các doanh nghiệp này còn phải
nhập khẩu gỗ, phụ thuộc vào sự bất ổn của thị trường gỗ nguyên liệu trên thế giới.
Trong vòng 60 năm qua, việc phá rừng đã trở thành một hiểm họa nghiêm trọng
cho rừng rậm ở Việt Nam, nhưng nguyên nhân chính và tầm mức của nó vẫn còn là
mơ hồ. Dựa theo các nguồn tin được trích dẫn nhiều nhất, từ năm 1963 đến năm
1993, phần lãnh thổ quốc gia được rừng bao phù giảm từ 43% xuống còn 20% (tác
giả Võ Quý 1996) hoặc 16% mà thôi. Nhiều quan sát viên đi xa hơn còn cho rằng

7


phần lãnh thổ Việt Nam được bao phủ bởi rừng rậm đã xuống thấp hơn 10% …
ước tính cho thấy diện tích rừng Việt Nam đã bị thu hẹp 200.000 ha.
Như vậy, phần lãnh thổ quốc gia được bao phủ bởi rừng rậm chỉ còn khoảng 10 –
20% tức là 3,3, đến 6,6 triệu ha. Nói cách khác, mức độ phá rừng trung bình hàng
năm trên toàn quốc thay đổi từ 3 – 6. Như vậy, có ít nhất 7,6 triệu ha rừng Việt
Nam bị tàn phá từ năm 1943 – 1963.
Nếu theo nghiên cứu của một số chuyên gia trước đây nguyên nhân chính là do
chiến tranh thì ảnh hưởng của 30 năm chiến tranh chỉ bằng 1/3 ảnh hưởng của 18
năm năm thanh bình, do tăng trưởng và phát triển, từ năm 1975 đến 1993 theo De
Koninch: “Việc phát triền ồ ạt các vùng kinh tế mới” sau khi thống nhất đất nước
năm 1976 dường như là nguyên nhân chủ yếu
Việc phá rừng ở Việt Nam dường như vẫn tiếp diễn ở mức báo động.

Riêng tỉnh Daklak ở cao nguyên miền Trung, diện tích rừng nhiệt đới giảm với
mức độ trung bình 4,5% năm, từ 1.219.848 ha (1995) còn khoảng
1.000.000 (2000).
Bên cạnh ý thức của người dân; phá rừng làm mới ở hay đốt rằng làm rẫy, hệ
thống rừng Việt Nam còn phải đối diện với hiểm họa mới “Phỏ rừng để trồng cao
su..” hay là phá rừng nuôi tôm. Việc phát triển nhanh chóng nghề nuôi tôm đã có
ảnh hưởng nghiêm trọng đối với rừng ngập mặn ở Việt Nam. Trong 50 năm qua,
Việt Nam mất khoảng 220.000 ha rừng ngập mặn - hơn 80% diện tích nguyên thủy
đã bị phá hủy. Trong năm 2000 chỉ còn khoảng 110.680 ha. Trong tỉnh Cà Mau ở
vùng ĐBSCL diện tích dung cho việc nuôi tôm đã tăng lên gấp 3 lần trong vòng 12
tháng qua, Việt Nam mất khoảng 220.000 ha rừng ngập mặn - hơn 80% diện
tích nguyên thủy đã bị phá hủy. Trong năm 2000 chỉ còn khoảng 110.680
ha. Trong tỉnh Cà Mau ở vùng ĐBSCL diện tích dung cho việc nuôi tôm đã tăng
lên gấp 3 lần trong vòng 12 tháng cho đến năm 2001, và đến năm 2002 đó lớn lến
202.000 ha, các ước tính cho thấy diện tích rừng ngập mặn trong tỉnh giảm từ
200.000 ha trước 1975 xuống chỉ còn 60.000 – 70.000 ha và hầu như tất cả việc
phá rừng này là để nuôi tôm.
Nguy cơ mất rừng và tài nguyên thiên nhiên đang đe dọa cả nước. Tai họa mất
rừng và cạn kiệt tài nguyên rừng đã xảy ra ở rất nhiều nơi.
8


• Các mô hình phá rừng
♦ Mô hình EKC (Environmental Kuznets Curve)
♦ Mô hình sử dụng đất cạnh tranh
♦ Mô hình chuyển đổi của hộ gia đình
♦ Mô hình thể chế
♦ Mô hình tổng hợp
2. Nguyên nhân dẫn đến nạn phá rừng bừa bãi.
- Do khí hậu: Hàng năm nước ta nhận được một lượng bức xạ nhiệt rất lớn nên vào

mùa nắng núng cỏc kh rừng thiếu nước thường bị cháy làm cho nhiều cánh rừng
chỉ còn lại là đống tro.
- Do nhận thức của người dân kộm phá rừng làm nương rẫy để mở rộng diện tích
trồng trọt nông sản.
- Do tình trạng di dân tự do vẫn xảy ra phổ biến: Người dân từ các miền đồng
bằng di chuyển lên miền núi sinh sống, phá rừng làm nhà cửa, làm đất
canh tác.
- Do sự cố tình chặt phá rừng của bọn lâm tặc: Việc khai thức gỗ trái
phép đã đem lại cho bọn lâm tặc những món lợi nhuận kếch xù khiến chúng phải
tìm mọi thủ đoạn và bất chấp tính mạng để khai thác những loại gỗ quý. Các loại
máy cưa, máy tiện, máy xén được chúng trang bị rất đầy đủ cho một cuộc
khai thức gỗ trái phép nên những cuộc khai thác tàn bạo không thương tiếc này
diễn ra hết sức nhanh chóng.
- Do sự quản lý lỏng lẻo của chính quyền nên việc ngăn chặn nạn phá
rừng không được thực hiện một cách triệt để.

9


3. Hậu quả của việc phá rừng gây ra.
• Tác động tới môi trường
♦ Không khí
Phá rừng vẫn đang tiếp diễn và đang làm thay đổi khí hậu và địa lý.
Phá rừng là một nhân tố đóng góp cho sự nóng lên của trái đất,và được coi là một
trong những nguyên nhân chính làm gia tăng hiệu ứng nhà kính. Rừng nhiệt đới bị
phá hủy là tác nhân của 20% lượng khí nhà kính.Theo Ủy ban Liên chính phủ về
Thay đổi Khí hậu, việc phá rừng, chủ yếu ở các vùng nhiệt đới, đóng góp 1/3
lượng khí thải carbon dioxit do con người gây ra.Các tính toán gần đây cho thấy
lượng carbon dioxit thải ra môi trương do phá rừng và suy thoái rừng chiếm 20%
lượng khí thải carbon dioxit gây ra bởi con người. Cây và các loại thực vật hấp thụ

carbon trong quá trình quang hợp và nhả lại ôxy vào không khí. Sự phân hủy và
đốt gỗ làm lượng carbon tích trữ trong cây bị thải lại vào không khí. Để rừng có
thể hấp thụ carbon, gỗ phải được thu hoạch và biến thành các sản phẩm tiêu thụ và
cây phải được trồng lại. Phá rừng làm lượng carbon trong đất thoát trở lại không
khí. Ở các khu vực bị phá rừng, đất tăng nhiệt nhanh hơn và thời tiết trở nên nóng
hơn, điều này kích thích quá trình bốc hơi nước của đất, từ đó hình thành các đám
mây và dẫn đến lượng mưa sẽ gia tăng.

10


Giảm lượng khí thải từ việc phá rừng ở các nước đang phát triển đang nổi lên như
một phương thức bổ sung cho các chính sách khí hậu. Ý tưởng trong đó bao gồm
việc cung cấp tài chính nhằm giảm lượng khí nhà kính từ phá rừng và suy thoái
rừng.
Rừng mưa được cho là đóng góp một lượng lớn oxy của thế giới. Mặc dù vậy, hiện
nay các nhà khoa học cho rằng rừng mưa chỉ đóng góp một lượng oxy nhỏ vào
không khí và phá rừng không có ảnh hưởng gì tới mức độ oxy của bầu khí quyển.
Tuy nhiên việc đốt rừng thải ra một lượng lớn CO2, làm gia tăng sự ấm lên của trái
đất. Các nhà khoa học cũng cho biết, phá rừng nhiệt đới làm 1,5 tỉ tấn carbon được
thải vào không khí mỗi năm.

♦ Nước
Vòng tuần hoàn nước cũng bị ảnh hưởng bởi phá rừng. Cây hút nước trong lòng
đất và giải phóng vào không khí. Khi rừng bị phá bỏ, cây không còn làm bay hơi
lượng nước này, điều này khiến khí hậu trở nên khô hạn hơn rất nhiều. Phá rừng
làm giảm lượng nước trong đất, lượng nước ngầm và độ ẩm của không khí. Phá
rừng làm giảm độ kết dính của đất, từ đó dẫn tới xói mòn, lũ lụt, lở đất. Rừng làm
tái bổ sung nước ở tầng ngậm nước ở vài nơi, nhưng rừng là nguồn hút nước chủ
yếu của tầng ngậm nước.


11


Phá rừng làm giảm khả năng giữ và bay hơi nước mưa của đất. Thay vì giữ nước
mưa được thấm xuống tầng nước ngầm, phá rừng làm tăng quá trình rửa trôi nước
bề mặt, sự di chuyển của nước bề mặt có thể dẫn đến lũ quét và gây nhiều lũ lụt
hơn khi có rừng bảo vệ. Quá trình làm giảm thoát hơi nước, từ đó làm giảm độ ẩm
không khí, trong một vài trường hợp có thể làm giảm lượng mưa theo hướng gió từ
khu vực bị phá rừng, vì nước không được tuần hoàn trở lại rừng do bị mất trong
quá trình rửa trôi và đổ thẳng ra biển.
Cây và thực vật nhìn chung ảnh hưởng rất lớn tới vòng tuần hoàn của nước:
- Tán cây giữ lại lượng nước mưa và bốc hơi trở lại không khí;
- Thân cây, cọng lá làm chậm quá trình rửa trôi bề mặt;
- Rễ cây có các lỗ lớn - là các ống dẫn nước trong đất làm gia tăng sự thấm
nước;
- Cỏ khô, lá rụng, các cặn bã hữu cơ làm thay đổi đặc tính của đất, từ đó ảnh
hưởng tới khả năng giữ nước của đất;
- Lá cây điều hòa độ ẩm của không khí thông quá quá trình bay hơi. 99%
lượng nước hấp thụ bởi rễ cây được chuyển lên lá và bay hơi.
Sự tồn tại của cây cối và thực vật làm thay đổi lượng nước trên bề mặt, trong đất
hay nước ngầm hoặc trong bầu không khí. Sự tồn tại hay không tồn tại của cây cối
và thực vật làm thay đổi mức độ xói mòn và lượng nước cho các hoạt động của hệ
sinh thái và của con người.
Trong một vài trường hợp như mưa lớn thì rừng không có mấy tác động lên lũ lụt,
bởi mưa lớn có thể vượt quá khả năng lưu giữ nước của đất rừng nếu đất rừng đã ở
mức độ bão hòa hoặc gần bão hòa.
Rừng nhiệt đới tạo ra 30% lượng nước ngọt trên trái đất.

12



♦ Đất
Phá rừng làm tăng độ xói mòn của đất khi nó làm tăng độ rửa trôi và giảm độ bảo
vệ đất của lá khô, lá rụng trong rừng. Hoạt động lâm nghiệp cũng có thể làm tăng
độ sói mòn đất do phát triển đường xá và sử dụng dụng cụ cơ khí.
Rễ cây liên kết đất với nhau, khi đất nông vừa đủ thì rễ cây có tác dụng kết dính
đất với tầng đá gốc. Việc chặt phá cây trên các sườn núi dốc có nền đất nông do đó
làm tăng nguy cơ lở đất, có thể ảnh hưởng tới những người dân gần khu vực đó.
Tuy vậy thì việc phá rừng chỉ chặt cây tới thân chứ không ảnh hưởng tới rễ nên
nguy cơ lở đất cũng không phải quá lớn.

13


♦ Sinh thái
Phá rừng làm giảm sự đa dạng sinh thái và làm môi trường bị suy thoái. Rừng cung
cấp đa dạng sinh thái, là nơi trú ẩn của các loài động vật, rừng tạo ra các cây thuốc
hữu ích cho cuộc sống của con người.Các biotope của rừng là nguồn không thể
thay thế của nhiều loại thuốc mới(ví dụ taxol), việc phá rừng có thể hủy hoại sự
biến đổi gen.
Rừng nhiệt đới là hệ sinh thái đa dạng nhất thế giới, 80% đa dạng sinh học của thế
giới được tìm thấy ở rừng nhiệt đới. sự phá hủy các khu vực rừng dẫn đến thoái
hóa môi trường và giảm đa dạng sinh học.
Ước tính chúng ta đang mất đi 137 loài thực vật, động vật và côn trùng mỗi ngày
do phá rừng mưa, con số này tương đương với 50.000 loài mỗi năm. Có những
tranh cãi cho rằng phá rừng đang đóng góp vào sự tuyệt diệt của các loài động thực
vật. Tỉ lệ tuyệt chủng mà chúng ta biết do phá rừng là rất thấp, khoảng 1 loài đối
với động vật có vú và các loài chim, suy ra từ đó là vào khoảng 23.000 cho tất cả
các loài. Nhiều dự đoán cho rằng 40% các loài động, thực vật ở Đông Nam Á có

thể bị xóa sổ hoàn toàn vào thế kỷ 21.Các suy đoán này được đưa ra vào năm 1995
khi các số liệu cho thấy rất nhiều rừng nguyên sinh ở khu vực này đã bị chuyển đổi

14


sang các đồn điền, tuy nhiên các loài có nguy cơ bị ảnh hưởng và hệ thực vật ở đây
hiện vẫn có mức bao phủ cao và ổn định.
Hiểu biết của khoa học chưa đủ để đưa ra các dự đoán chính xác về tác động của
phá rừng lên đa dạng sinh học. Phần lớn các dự đoán về suy giảm đa dạng sinh học
được dựa trên các mẫu nơi sinh sống của các loài, với giả định cho rằng rừng suy
giảm cũng sẽ dẫn đến suy giảm đa dạng sinh thái. Tuy nhiên nhiều nghiên cứu kiểu
này đã được chứng minh là sai lầm và việc mất nơi sinh sống chưa hẳn đã dẫn đến
sự suy giảm loài trên quy mô lớn. Các mẫu dựa trên khu vực sinh sống của các loài
được cho là đã phóng đại con số các loài bị đe dọa trong các khu vực đó, nơi phá
rừng vẫn đang diễn ra, các nghiên cứu này cũng phóng đại con số các loài bị đe
dọa trong khi các loài này vẫn có số lượng đông và trải rộng.

♦ Tác động đến kinh tế.
Thiệt hại về rừng và các yếu khác của tự nhiên có thể làm tồi tệ thêm mức sống của
người nghèo trên thế giới và làm giảm 7% GDP của thế giới tới năm 2050, đây là
một báo cáo tổng kết trong Hội nghị về Đa dạng Sinh học tại Bonn. Trong lịch sử,
việc sử dụng gỗ đóng vai trò then chốt trong xã hội loài người, vai trò của gỗ có
thể so sánh với nước và đất trồng trọt. Ngày nay, tại các nước phát triển gỗ vẫn
15


được sử dụng để xây nhà và bột gỗ để làm giấy. Tại các quốc gia đang phát triển,
gần 3 tỉ người phải dựa vào gỗ để sưởi ấm và đun nấu thức ăn.
Các sản phẩm từ rừng là một phần quan trọng của nền kinh tế ở cả các nước phát

triển lẫn đang phát triển. Các lợi nhuận kinh tế ngắn hạn từ chuyển đổi đất rừng
sang đất nông nghiệp, hay việc khai thác gỗ quá mức, thường dẫn đến những hậu
quả kinh tế lâu dài, ảnh hưởng tới nguồn thu nhập lâu dài và sản lượng của rừng.
Tây Phi, Madagascar, Đông Nam Á và nhiều vùng khác trên thế giới đã phải chịu
những tổn thất thu nhập do suy giảm sản lượng gỗ. Sự khai khẩn trái phép làm
nhiều nền kinh tế tổn thất hàng tỉ đô la mỗi năm.
Các nền kinh tế tăng trưởng nhanh thường có ảnh hưởng tới sự phá rừng. Áp lực
chủ yếu đến từ các quốc gia đang phát triển, những nơi mà cả dân số và kinh tế đều
tăng trưởng nhanh chóng. Năm 1995, tốc độ tăng trưởng kinh tế của các quốc gia
đang phát triển là 6%, con số này cho các nước phát triển chỉ là 2%.” Khi dân số
gia tăng, nhà cửa, đường xá, dân số đô thị mở rộng, khi phát triển thì cần có sự kết
nối bằng việc xây dựng đường xá. Việc xây dựng đường xá ở nông thôn không chỉ
kích thích phát triển kinh tế mà còn tạo điều kiện cho sự tàn phá rừng.

4. Các biện pháp khắc phục và bảo vệ môi trường.
Những năm vừa qua, nhiều chính sách hỗ trợ của Nhà nước đã được thực hiện như
chương trình 132, 134, 135 đã có tác động tích cực, góp phần thay đổi bộ mặt của
16


các vùng nông thôn, miền núi, song vẫn chưa giải quyết được triệt để nạn phá
rừng. Với việc đẩy mạnh các hoạt động truyền thông về quản lý bảo vệ rừng trong
những năm gần đây, nhận thức của đa số người dân về hành vi này đã được nâng
lên rõ rệt. Nhiều người dân đã biết phá rừng trái phép là hành vi vi phạm pháp luật
và sẽ gây hại về môi trường. Tuy nhiên, do tác hại của phá rừng không diễn ra
ngay nên người dân thường chỉ thấy cái lợi trước mắt mà không quan tâm đến cái
hại lâu dài. Hơn nữa, các hình thức xử phạt và chế tài của luật pháp vẫn chưa đủ
mạnh, chưa đủ sức răn đe, việc xử lý vi phạm gặp rất nhiều khó khăn. Nhiều
trường hợp người vi phạm là người dân tộc thiểu số, đời sống khó khăn, không có
khả năng chấp hành các quyết định xử phạt, dẫn đến nhiều vụ việc không xử lý

triệt để, do vậy tính giáo dục và răn đe chưa được đề cao. Chính vì vậy, tình trạng
phá rừng trái phép vẫn tiếp tục xảy ra dưới mọi hình thức. Vậy, giải pháp nào để
ngăn chặn tình trạng này? Bài viết này muốn đưa ra một số giải pháp cùng trao đổi
với bạn đọc cả nước để công cuộc bảo vệ rừng ngày càng hiệu quả.
 Giải pháp về chính sách: Những năm qua, chúng ta đã thực hiện một số
chính sách về xây dựng cơ sở hạ tầng, khuyến lâm, giao đất giao rừng và
thực hiện các chính sách hưởng lợi từ rừng cho người dân miền núi. Tuy
nhiên, vẫn cần có các chính sách hỗ trợ khác như: Tạo công ăn việc làm, đào
tạo nghề, nâng cao năng lực quản lý kinh tế hộ gia đình cho đồng bào dân
tộc, tạo đầu ra cho các sản phẩm nông lâm kết hợp, chế biến và bảo quản
nông sản... Tiếp tục đổi mới hệ thống quản lý ngành lâm nghiệp để đáp ứng
nhu cầu cho công tác quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng. Nhanh chóng xã
hội hóa hoạt động lâm nghiệp theo phương thức tiếp cận dựa vào cộng đồng,
trong đó mọi người dân đều có thể tham gia vào các hoạt động sản xuất lâm
nghiệp, nông lâm kết hợp, từ đó sẽ tạo đòn bẩy thúc đẩy sự tham gia của
người dân vào các hoạt động quản lý và bảo vệ rừng. Đó được xem như
chính sách huy động tổng lực sức dân cho công tác bảo vệ rừng. Để làm
được điều đó cần phải tạo mối liên hệ chặt chẽ giữa 4 nhà: nhà quản lý, nhà
doanh nghiệp, nhà khoa học và nhà nông. Cần phải có sự tham gia tích cực
của các doanh nghiệp với vai trò là bà đỡ cho các hoạt động sản xuất lâm
nghiệp, nông lâm kết hợp cùng với các ngành như: khuyến nông khuyến
lâm, các tổ chức đoàn thể như thanh niên, phụ nữ, nông dân.

17


 Về phía chính quyền, các ngành chức năng phải làm tốt công tác truyền
thông, cung cấp cho người dân những hiểu biết, thông tin thiết thực phục vụ
quá trình sản xuất, hướng dẫn để người dân áp dụng có hiệu quả các tiến bộ
khoa học kỹ thuật vào sản xuất.

Các ngành chức năng, nhất là những ngành tham gia trực tiếp vào quá trình
thực thi pháp luật về bảo vệ rừng như Kiểm lâm, Công an phải có chính sách
phù hợp nhằm nâng cao năng lực thực thi nhiệm vụ. Cùng với tăng cường về
biên chế, các trang thiết bị chuyên dụng phải chú trọng những kỹ năng cơ
bản khác như tuyên truyền, vận động nhân dân, kỹ năng về khuyến nông
khuyến lâm và các vấn đề về chuyên môn nghiệp vụ khác. Nhà nước cũng
cần có những chính sách đãi ngộ phù hợp nhằm thu hút và khuyến khích cán
bộ công chức ngành chức năng gắn bó với địa phương, yêu ngành yêu nghề,
cống hiến hết mình cho sự nghiệp bảo vệ rừng.

 Những giải pháp về kinh tế, xã hội nêu trên với mục đích nâng cao đời sống
kinh tế, xã hội cho người dân, giảm dần áp lực của người dân vào rừng, tạo
cho người dân thói quen sử dụng các sản phẩm thay thế các sản phẩm truyền
thống lâu nay vẫn lấy từ rừng, đồng thời, tạo sự phát triển bền vững cả về
mặt sinh thái môi trường cũng như về kinh tế, giúp người dân hưởng lợi từ
rừng một cách lâu dài và khoa học.
 Giải pháp về tổ chức thực hiện: Các cấp chính quyền, các chủ rừng phải xây
dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các kế hoạch hoạt động và phương án
18


bảo vệ rừng từng năm, từng giai đoạn trên phạm vi địa phương mình quản
lý. Các chủ rừng cần chú trọng tăng cường lực lượng và trang thiết bị đủ
mạnh để bảo vệ rừng, đồng thời có biện pháp quản lý hiệu quả đối với diện
tích rừng đã được giao. Lực lượng kiểm lâm cũng cần phải được củng cố và
đổi mới hoạt động nhằm làm tốt công tác tham mưu giúp chính quyền cơ sở
xây dựng và triển khai các phương án, biện pháp, kế hoạch bảo vệ rừng. Duy
trì và tổ chức hoạt động của các tổ đội quần chúng bảo vệ rừng có hiệu quả.
Các cấp chính quyền, các ngành chức năng cần nhanh chóng triển khai thực
hiện các chính sách về hưởng lợi của người dân từ rừng. Các biện pháp bảo

vệ rừng phải được xây dựng trên cơ sở gắn với các hoạt động phát triển rừng
và hướng tới cộng đồng.
Hệ thống các biện pháp bảo vệ rừng đang được áp dụng hiện nay và vẫn
phát huy hiệu quả tốt đó là tuyên truyền, quy hoạch, hoạch quản lý và sử
dụng đất đai, nhất là đất lâm nghiệp, tăng cường năng lực cho các cơ quan
thực thi pháp luật, xây dựng và thực hiện tốt các phương án, kế hoạch bảo vệ
rừng, phòng cháy chữa cháy rừng theo giai đoạn và theo từng năm, làm tốt
chính sách giao đất, giao rừng, kết hợp chặt chẽ với khuyến nông khuyến
lâm. Thực hiện tốt các dự án về xóa đói giảm nghèo, về bảo tồn đa dạng sinh
học, phát triển kinh tế xã hội cho người dân miền núi. Phát hiện và xử lý kịp
thời, nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ rừng. Làm tốt
công tác phối kết hợp giữa 3 lực lượng kiểm lâm, quân đội và công an trong
việc thực thi pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng.
 Một phương án bảo vệ rừng có tính khả thi, hợp lý và hiệu quả chính là biết
lợi dụng nhiều yếu tố, kết hợp với nhiều bên tham gia, phương thức hoạt
động đa dạng, chủ động, phù hợp với hoàn cảnh từng vùng, từng khu vực.
Muốn vậy, phải xác định được các vùng trọng điểm, các điểm nóng về vi
phạm Luật bảo vệ và phát triển rừng, về cháy rừng… để có phương án cụ
thể. Các công trình phục vụ công tác bảo vệ rừng, phòng cháy chữa cháy
rừng cũng cần được đầu tư xây dựng sao cho phù hợp với chiến lược thực
hiện công tác bảo vệ rừng, phòng cháy chữa cháy rừng. Tổ chức lực lượng
bảo vệ rừng, chữa cháy rừng mang tính chuyên nghiệp, kịp thời ứng phó và
xử lý mọi tình huống xảy ra. Lực lượng này có sự phối hợp từ nhiều ngành
như Kiểm lâm, Quân đội, Công an và chính quyền địa phương ....
19


 Giải pháp về kỹ thuật: Các giải pháp kỹ thuật thuộc lĩnh vực phát triển rừng
như trồng rừng, khoanh nuôi tái sinh, nông lâm kết hợp. Cần nghiên cứu
chọn loại cây trồng phù hợp với từng địa phương, đáp ứng được lợi ích kinh

tế cũng như môi trường. Nên chọn cách trồng rừng hỗn giao để phòng cháy,
thử nghiệm và ứng dụng kỹ thuật xây dựng băng xanh cản lửa và các kỹ
thuật tiến bộ khác trên nguyên tắc các vùng rừng tập trung được quy hoạch
hợp lý và khoa học. Nghiên cứu ứng dụng phương pháp dự báo cháy rừng
theo độ ẩm của vật liệu cháy cho rừng thông. Đối với các khu rừng cần phục
hồi phải tiến hành chăm sóc, phát dây leo tạo điều kiện để rừng sinh trưởng
và phát triển nhanh, mặt khác làm giảm khối lượng vật liệu cháy trong rừng.
Nghiên cứu ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật cho công tác chữa cháy
rừng dần dần thay thế phương pháp thủ công hiện đang áp dụng. Nghiên cứu
các vật liệu xây dựng thay thế gỗ từ rừng tự nhiên. Khuyến khích việc sử
dụng các loại sản phẩm đó để từng bước thay đổi thói quen sử dụng gỗ và
các sản phẩm khác có nguồn gốc từ rừng tự nhiên. Phục hồi các giá trị văn
hóa truyền thống của các cộng đồng dân tộc liên quan đến hoạt động bảo vệ
và phát triển rừng.

20


 Kinh nghiệm thực tiễn: Đó là phải có sự quan tâm chỉ đạo của các cấp uỷ
Đảng, chính quyền địa phương để triển khai các hoạt động về bảo vệ và phát
triển rừng. Gắn trách nhiệm quản lý nhà nước trên địa bàn của các cấp chính
quyền và đề cao trách nhiệm cá nhân trong bảo vệ rừng. Tăng cường sự phối
hợp có hệ thống, có kế hoạch với các lực lượng liên quan để tổ chức kiểm
tra, giám sát các hoạt động về xâm hại tài nguyên rừng. Dựa vào nhân dân
để thực hiện các biện pháp nghiệp vụ liên quan đến công tác quản lý bảo vệ
rừng. Với công tác phòng cháy chữa cháy rừng, phải quán triệt phương châm
phòng là chính, chữa cháy kịp thời và hiệu quả. Xây dựng và duy trì hoạt
động của các tổ đội quần chúng bảo vệ rừng tại các địa phương. Có chính
sách khen thưởng và động viên kịp thời đối với các tổ chức, cá nhân làm tốt
công tác bảo vệ rừng. Song cơ bản nhất vẫn là phải thực hiện đồng bộ các

giải pháp về phát triển kinh tế xã hội, sử dụng rừng và hưởng lợi từ rừng một
cách bền vững và có hiệu quả lâu dài, có như vậy mới mong hạn chế và ngăn
chặn được tình trạng phá rừng trái phép, xâm hại tài nguyên rừng hiện nay.

21


Kết luận :
Vật chất có trước và quyết định ý thức, ý thức có sau và tác động biện chứng trở
lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người, làm thay đổi thế giới vật
chất theo nhu cầu tất yếu của bản thân mình. mọi nhận thức và hành động của chủ
thể đều phải xuất phát từ chính đối tượng của nhận thức/ đối tượng của hành động,
xuất phát từ hiện thực khách quan. nếu không tuân thủ nguyên tắc này thì chủ thể
nhận thức và hành động sẽ rơi vào trạng thái chủ quan, duy tâm, ảo tưởng, dẫn đến
sai lầm, thất bại.
Rừng và vật chất có trước,là một thành phần quan trọng của thế giới này, tất cả mọi
thứ tồn tại trên thế giới này phải tôn trọng điều đó, k xâm phạm,trở thành một
nguyên tắc khách quan,toàn diện. mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. nếu phá vỡ
nguyên tắc này đó chính là phá rừng thì sẽ gặp hậu quả nghiêm trọng ảnh hưởng
đến mọi phương diện : cuộc sống,con người, động thực vật, môi trường…….

22


TÔI XIN CAM ĐOAN ĐÂY LÀ TÀI
LIỆU TỰ LÀM KHÔNG SAO CHÉP
HAY NHỜ AI LÀM HỘ

Tài liệu tham khảo :





23



×