Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Vận dụng nguyên lý về mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội ,ý thức xã hội hãy phân tích vì sao tình trạng đói nghèo tồn tại phổ biến đặc bi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.53 KB, 13 trang )

Vận dụng nguyên lý về mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội ,ý thức xã
hội. hãy phân tích vì sao tình trạng đói nghèo tồn tại phổ biến đặc biệt là các
vùng dân tộc thiểu số

Lời mở đầu
Thế giới đang bước vào thế kỷ mới với kỳ vọng một cuộc sống mới phồn vinh
hạnh phúc. Làn sóng toàn cầu hoá đang lan nhanh là động lực thôi thúc các
quuốc gia dân tộc vào một cuộc đua tranh vì sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Chính vì vậy nền kinh tế thế giới đã đạt tốc độ tăng trưởng nhanh chóng, nhưng
bên cạnh đó nó cũng tạo ra hố ngăn giữa các quốc gia, các tầng lớp trong xã hội
ngày càng sâu .Vấn đề này có ý nghĩa đặc biệt hết sức quan trọng và cấp thiết
đối với Việt Nam trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa.Thực tiễn đổi mới ở nước ta 20 năm qua cho thấy, với sự
chuyển đổi, xây dựng, và phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng XHCN,
cùng các chính sách mở cửa, hội nhập, đã đem lại nhiều thành tựu to lớn về kinh
tế, xã hội, đời sống của mọi tầng lớp dân cư không ngừng được nâng cao. Đồng
thời quá trình này cũng kéo theo những biến động về cơ cấu xã hội, trong đó
phân hoá giàu nghèo diễn ra ngày càng rõ nét, nổi lên như một vấn đề thời sự
cấp bách. Vì nó cũng mang tính hai mặt: bên cạnh mặt tích cực là làm người dân
giàu hợp pháp .còn mặt tiêu cực là liên quan đến bất bình đẳng XH. Nếu để quá
trình bất bình đẳng diễn ra một cách tự phát thì nó dẫn đến những bất ổn định
không chỉ về kinh tế, văn hoá, xã hội mà trên cả lĩnh vực chính trị, thậm chí dẫn
đến nguy cơ chệch hướng XHCN.
Chính vì vậy chúng ta phải có một giải quyết đúng đắn để giải quyết vấn để
phân hóa giàu nghèo sao cho xây dựng đất nước công bằng dân chủ văn minh.

BÙI THỊ MINH HẰNG 11V21355N

1



PHẦN NỘI DUNG
II)quan niệm duy vật biện chứng và quan niệm duy vật lịch sử về vấn đề
phân hóa giàu nghèo.
Quan niệm duy vât biện chứng là cơ sở chung của mọi nhận thức khoa học.
phép biện chứng duy vật là sự thống nhất của phép duy vật và phép biện chứng
trong nhìn nhận Thế Giới. quan điểm duy vật khẳng định vật chất là cái có trước
và quyết định ý thức, và ý thức là sự phẩn ánh của hiện thực khách quan vào bộ
não con người. phép biện chứng trình bày 1 cách hệ thống tính biện chứng của
thế giới bằng hai nguyên lí cơ bản.4 cặp phạm trù và 3 quy luật.
, quan niệm duy vật lịch sử là một quan niệm mang tính chất duy lịch sử
(der Historismus). Tức là quan điểm coi lịch sử loài người thiết yếu có một quy
luật khách quan riêng, chặt chẽ, máy móc của nó, như một tính chất tất yếu. Hay
còn mặt khác, nó phải có một mục đích tiềm ẩn nhất định nào đó của nó. Đây
thật sự là một quan điểm mang đầy tính chất siêu hình, tiền định, mông lung và
mơ hồ, dẫm trên lên chính chính ý nghĩa tự do, tự chủ của con người cá nhân,
thực tế, cụ thể, đặc thù trong xã hội.
Như chúng ta đã biết vật chất là cái có trước ,vật chất quyết định ý thức .cho
nên, đặt vấn đề vào đề tài ta có thể khẳng định nguyên nhân dẫn đến sự phân
biệt giàu nghèo là do mâu thuẫn về tài sản dư thừa trong xã hội .
Nói giàu nghèo là đề cập đến thu nhập và mức sống với những chỉ báo khác
nhau tùy thuộc vào từng vùng địa lý khác nhau, cũng chính từ đó có quan niệm
nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối. Ngân hàng Thế giới xem thu nhập 1 đô la
Mỹ/ngày theo sức mua tương đương của địa phương so với (đô la thế giới) để
thỏa mãn nhu cầu sống như là chuẩn tổng quát cho nạn nghèo tuyệt đối và từ đó
có những chuẩn khác cho từng địa phương hay từng vùng được xác định, từ 2 đô
la cho châu Mỹ La Tinh và Carribean đến 4 đô la cho những nước Đông Âu cho
đến 14,40 đô la cho những nước công nghiệp. Đối với những xã hội được gọi là
thịnh vượng, nghèo được định nghĩa dựa vào hoàn cảnh xã hội của cá nhân,
nghèo tương đối có thể được xem như là việc cung cấp không đầy đủ các tiềm

lực vật chất và phi vật chất cho những người thuộc về một số tầng lớp xã hội
nhất định so với sự sung túc của xã hội đó . Nghèo tương đối có thêm khách
BÙI THỊ MINH HẰNG 11V21355N

2


quan, tức là sự hiện hữu không phụ thuộc vào cảm nhận của những người trong
cuộc. Còn nghèo tương đối chủ quan là khi người trong cuộc cảm thấy nghèo
không phụ thuộc vào sự xác định khách quan. Bên cạnh thiếu sự cung cấp vật
chất (tương đối), việc thiếu thốn tài nguyên phi vật chất ngày càng có tầm quan
trọng hơn. Việc nghèo về văn hóa – xã hội, thiếu tham gia vào cuộc sống xã
hội… được xem như một thách thức xã hội nghiêm trọng. Cả hai phương diện
trên ở nước ta đều có và cũng là thách thức lớn trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
III) thực trạng và nguyên nhân của sự phân hóa giàu nghèo.
1)định nghĩa về giàu-nghèo
*nghèo là gì?
Nghèo diễn tả sự thiếu cơ hội để có thể sống một cuộc sống tương ứng với
các tiêu chuẩn tối thiểu nhất định. Thước đo các tiêu chuẩn này và các
nguyên nhân dẫn đến nghèo nàn thay đổi tùy theo địa phương và theo thời
gian. Tổ chức Y tế Thế giới định nghĩa nghèo theo thu nhập. Theo đó một
người là nghèo khi thu nhập hàng năm ít hơn một nửa mức thu nhập bình
quân trên đầu người hàng năm (Per Capita Incomme, PCI) của quốc gia.
2) thực trạng
ở việt nam
Nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tạo
điều kiện cho nền kinh tế phát triển, đời sống của nhân dân từng bước được
cải thiện, nhưng đồng thời cũng tạo ra sự chênh lệch về thu nhập, mức sống
ngày càng rõ nét hơn, trong đó phân hóa giàu nghèo đang là một trong

những vấn đề xã hội bức xúc hiện nay.
Nói giàu nghèo là đề cập đến thu nhập và mức sống với những chỉ báo khác
nhau tùy thuộc vào từng vùng địa lý khác nhau, cũng chính từ đó có quan
niệm nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối. Ngân hàng Thế giới xem thu nhập 1
đô la Mỹ/ngày theo sức mua tương đương của địa phương so với (đô la thế
giới) để thỏa mãn nhu cầu sống như là chuẩn tổng quát cho nạn nghèo tuyệt
đối và từ đó có những chuẩn khác cho từng địa phương hay từng vùng được
xác định, từ 2 đô la cho châu Mỹ La Tinh và Carribean đến 4 đô la cho những
BÙI THỊ MINH HẰNG 11V21355N

3


nước Đông Âu cho đến 14,40 đô la cho những nước công nghiệp. Đối với
những xã hội được gọi là thịnh vượng, nghèo được định nghĩa dựa vào hoàn
cảnh xã hội của cá nhân, nghèo tương đối có thể được xem như là việc cung
cấp không đầy đủ các tiềm lực vật chất và phi vật chất cho những người thuộc
về một số tầng lớp xã hội nhất định so với sự sung túc của xã hội đó .
Nghèo tương đối có thêm khách quan, tức là sự hiện hữu không phụ thuộc vào
cảm nhận của những người trong cuộc. Còn nghèo tương đối chủ quan là khi
người trong cuộc cảm thấy nghèo không phụ thuộc vào sự xác định khách
quan. Bên cạnh thiếu sự cung cấp vật chất (tương đối), việc thiếu thốn tài
nguyên phi vật chất ngày càng có tầm quan trọng hơn. Việc nghèo về văn hóa
– xã hội, thiếu tham gia vào cuộc sống xã hội… được xem như một thách thức
xã hội nghiêm trọng. Cả hai phương diện trên ở nước ta đều có và cũng là
thách thức lớn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nhằm khắc phục tình trạng trên, trong những năm qua Chính phủ Việt Nam
đã tập trung nhiều biện pháp nhằm xóa đói giảm nghèo và có những kết quả
đáng kể. Trong 2 năm (2006 – 2007), hộ nghèo tiếp tục giảm bình quân trên
300.000 hộ/năm, năm 2006 tỷ lệ hộ nghèo còn 15,5%, năm 2007 còn 14,8%

(giảm được 7,2% so với cuối năm 2005). Một số địa phương cơ bản xóa hết số
hộ nghèo theo chuẩn quốc gia và áp dụng chuẩn mới của địa phương cao hơn
từ 1,5 – 2 lần so với chuẩn nghèo quốc gia như thành phố Hồ Chí Minh, Đà
Nẵng và tỉnh Bình Dương. Chênh lệch thu nhập giữa thành thị và nông thôn
giảm từ 2,3 lần năm 1999 xuống còn 2,09 lần năm 2004 và 2 lần năm 2008,
đến năm 2010 tỷ lệ hộ nghèo còn khoảng 10%.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân có thể nhận thấy rằng chất lượng cuộc sống
ở một số nơi có phần suy giảm, chuẩn nghèo chưa phản ánh chính xác tình
trạng nghèo trong điều kiện hiện nay. Tốc độ giảm nghèo có xu hướng chậm
lại, tỷ lệ hộ tái nghèo còn cao; số huyện, xã có tỷ lệ nghèo cao còn nhiều (61
huyện có tỷ lệ hộ nghèo trên 50%). Sự chênh lệch về thu nhập, sự phân hóa
giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng chưa được thu hẹp, còn có
xu hướng giãn ra. Uớc tính đến cuối năm 2008, tỷ lệ hộ nghèo cao nhất là
vùng Tây Bắc tới 31,5% và Đông Nam Bộ, vùng có tỷ lệ nghèo thấp nhất là
3,2%, chênh nhau 9,8 lần. Theo tính toán của Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì
chênh lệch thu nhập giữa 20% hộ giàu nhất với 20% hộ nghèo nhất năm 2004

BÙI THỊ MINH HẰNG 11V21355N

4


là 8,34 lần, năm 2006 là 8,37 lần và ước tính năm 2008 là 8,4 lần (cách tính
này chưa sát với thực tế ở nước ta, nhưng cũng đã cho thấy xu hướng giãn ra
là rất rõ).
Như vậy, cùng với kinh tế thị trường và nhiều nguyên nhân khác, tình trạng
phân hóa giàu nghèo ở nước ta đang là một trong những vấn đề xã hội bức xúc
cần được quan tâm, điều đáng lưu ý là ở nước ta tỷ lệ hộ nghèo ở khu vực
miền núi vẫn còn cao, gấp 1,7 – 2 lần sovới cả nước, tỷ lệ hộ nghèo trong
đồng bào các dân tộc thiểu số trong tổng sống nghèo trong cả nước tăng.

Chênh lệch thu nhập giữa 10% nhóm giàu nhất với 10% nhóm nghèo nhất ở
nông thôn là 13,5 lần; thu nhập của 53% số hộ nông dân bị thu hồi đất giảng
so với trước khi chưa thu hồi đất có 34,5% số hộ có điều kiện sống thấp hơn.
Cũng từ đó sự chênh lệch giàu nghèo diễn ra ở khu vực thành thị và nông
thôn, tính bình quân một người lao động ở nông thôn chỉ thu nhập bằng 47,8%
so với lao động thành thị.
Cùng với những người nghèo thì với kinh tế thị trường cũng đã có nhiều
người giàu lên nhanh chóng. Theo các tài liệu công bố chính thức trên sàn
chứng khoán Việt Nam, chưa có đại gia nào đạt tầm tỷ phú đô la, song số triệu
phú cũng ngót ngét 170. Riêng 100 nhân vật giàu nhất, mỗi người đều có tài
sản chứng khoán vượt 2 triệu đô la, trong đó có 2 người đạt chuẩn hội viên
câu lạc bộ 100 triệu đô la. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội cho biết,
khoảng cách giữa mức thu nhập của các nhóm lao động ngày càng có sự
chênh lệch rõ nét, đặc biệt là ở các thành phố lớn. Tại Hà Nội, chênh lệch giữa
người có tiền lương cao nhất so với trung bình là 42 lần (75,2 triệu đồng/tháng
với mức bình quân 1,8 triệu đồng/ tháng). Tại thành phố Hồ Chí Minh con số
chênh lệch còn lên đến 109 lần (240 triệu đồng/tháng so với 2,2 triệu
đồng/tháng). Nhóm có thu nhập cao là các giám đốc điều hành, trưởng đại
diện, trưởng phòng, cán bộ phụ trách kinh doanh… đang làm việc tại các
doanh nghiệp có vốn dầu tư nước ngoài, công ty liên doanh, các công ty hoạt
động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, chứng khoán, bác sĩ tại một số bệnh
viện, phòng khám. Ngược lại, nhóm có thu nhập thấp là công nhân lao động
đang làm việc trong các khu công nghiệp, doanh nghiệp nước ngoài…
Thực tế trên cho thấy, bất bình đẳng trong thu nhập ở nước ta ngày càng rõ nét
và gay gắt hơn, tỷ lệ hộ nghèo tập trung chủ yếu ở những vùng khó khăn, có

BÙI THỊ MINH HẰNG 11V21355N

5



nhiều yếu tố bất lợi như điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, kết cấu hạ tầng thấp
kém, trình độ dân trí thấp, trình độ sản xuất manh mún, sơ khai. Ngoài ra, còn
xuất hiện một số đối tượng nghèo mới ở những vùng đang trong quá trình đô
thị hóa và nhóm lao động nhập cư vào đô thị, họ thường gặp khó khăn nhiều
hơn và phải chấp nhận mức thu nhập thấp hơn lao động sở tại. Đây là những
yếu tố làm gia tăng tình trạng tái nghèo và tạo ra sự không đồng đều trong tốc
độ giảm nghèo giữa các vùng trong cả nước.
Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng
cho giai đoạn 2011 – 2015, theo đó, hộ nghèo ở nông thôn là hộ nghèo có mức
thu nhập bình quân từ 400.000 đồng/người/tháng trở xuống (chuẩn nghèo cũ
là 200.000 đồng/ người/ tháng), hộ cận nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu
nhập bình quân từ 401.000 – 520.000 đồng/ người/ tháng trở xuống. Hộ nghèo
ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 500.000 đồng/ người/ tháng trở
xuống (chuẩn nghèo cũ là 260.000 đồng/ người/ tháng), hộ cận nghèo ở thành
thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 501.000 – 650.000 đồng/ người/ tháng.
Theo Bộ Lao động – Thương binh – Xã hội, tỷ lệ hộ nghèo cả nước hiện ở
mức 13%. Nếu theo chuẩn nghèo mới được thông qua, tỷ lệ hộ nghèo sẽ tương
đương với trên 20%.
Đề cập đến vấn đề nghèo, nhiều nhà nghiên cứu lưu ý rằng nghèo không chỉ
đơn giản là mức thu nhập thấp mà từ đó còn thiếu thận trong việc tiếp cận các
dịch vụ như giáo dục, văn hóa, y tế; không chỉ là thiếu tiền mặt, thiếu những
diều kiện tốt hơn cho cuộc sống mà còn thiếu thể chế kinh tế thị trường hiệu
quả, trong đó có các thị trường đất đai, vốn và lao động cũng như các thể chế
nhà nước được cải thiện có trách nhiệm giải trình và vận hành trong khuôn
khổ pháp lý minh bạch cũng như một môi trường kinh doanh thuận lợi. Nghèo
còn là tình trạng đe dọa bị mất phẩm chất quý giá – đó là lòng tin và lòng tự
trọng.
Ví dụ:
Một số huyện nghèo nhất nước : Sìn Hồ,Mường Tè (Lai Châu), Đồng Văn, Mèo

Vạc,Quản Bạ, Yên Minh, Xín Mần và Hoàng Su Phì (Hà
• Giang), Si Ma Cai, Mường Khương và Bắc Hà (Lào Cai), Mù Căng Chải
và Trạm Tấu (Yên Bái)

BÙI THỊ MINH HẰNG 11V21355N

6


Trên thế giới:
Đối với tất cả các nước trên thế giới, đói nghèo luôn là vấn đề được xã hội quan
tâm. Ở các nước phát triển, dù có mức sống cao song vẫn luôn tồn tại tình trạng
phân hóa giàu nghèo. Còn ở những nước đang phát triển với thu nhập trung bình
và thấp, trong đó bao gồm Việt Nam, thì một bộ phận không nhỏ dân cư vẫn
sống ở mức nghèo khổ, đặc biệt còn có những người sống trong hoàn cảnh rất
khó khăn vẫn phải chịu tình trạng thiếu đói, không đủ ăn trong khi đây là nhu
cầu thiết yếu của con người.
Mức độ đói nghèo cũng có sự chênh lệch khác nhau giữa các vùng miền trong cả
nước do những đặc điểm khác nhau về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội. Trong
đó, đói nghèo ở các khu vực miền núi, vùng sâu vùng xa trầm trọng hơn các khu
vực miền xuôi. Tình trạng đó đã gây ảnh hưởng rất xấu tới chất lượng cuộc sống
nhân dân vùng núi. Trong những năm gần đây, Nhà nước ta đã dành nhiều sự
quan tâm, nhiều chủ trương chính sách tích cực giúp xóa đói giảm nghèo cho
vùng núi và đã đạt những kết quả nhất định. Song trên thực tế, tình hình đói
nghèo nơi đây vẫn còn khá nghiêm trọng bởi những chính sách này chưa thật sự
hoàn thiện và phù hợp với tình hình địa phương, và do đó sự tác động của chúng
tới việc khắc phục đói nghèo miền núi chưa thật sự hiệu quả” đi vào nghiên cứu
thực trạng nghèo đói ở miền núi phía bắc Việt Nam trong những năm gần đây
như một ví dụ điển hình cho đói nghèo ở vùng núi nói chung, từ đó đánh giá
những ưu điểm và nhược điểm của các chính sách xóa đói giảm nghèo cho vùng

núi của Nhà nước để đưa ra những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả, phát huy
tác dụng của các chính sách có ý nghĩa thiết thực này.
BÙI THỊ MINH HẰNG 11V21355N

7


Ví dụ: người dân slav ở châu âu

:
Như chúng ta đã biết Mỹ là một nước công nghiệp phát triển đứng hang đầu
trên thế giới thế nhưng tình trạng đói nghèo vẫn diễn ra khá phổ biến:
3)nguyên nhân dẫn đến đói nghèo:
Khi bàn về nguyên nhân của tình trạng phân hóa giàu nghèo, mà nhất là
nghèo ở nước ta cũng đã có nhiều quan niệm và cách tiếp cận khác nhau,
nhưng tựu trung lại có mấy nguyên nhân sau:
- Thứ nhất, nước ta là nước nông nghiệp chậm phát triển, vừa trải qua cuộc
kháng chiến lâu dài và gian khổ, cơ sở hạ tầng bị tàn phá, nguồn nhân lực
chính của nhiều hộ gia đình bị giảm sút trong chiến tranh. Cộng với thời kỳ
duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp làm cho sản xuất nông
nghiệp đơn điệu, công nghiệp thiếu hiệu quả, thương nghiệp chậm phát
triển.
- Thứ hai, khi chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, lao động dư thừa ở nông thôn chưa dược khuyến khích ra thành thị để
lao động, chưa được đào tạo để chuyển sang khu vực công nghiệp. Trình độ
học vấn và chuyên môn kỹ thuật đang là thách thức đối với lực lượng lao
động ở nông thôn, trong tổng số 16,5 triệu thanh niên ở nông thôn chỉ có
12% tốt nghiệp phổ thông trung học, 3,11% có chuyên môn kỹ thuật.
Cùng với sự hạn chế về trình độ các mặt, thì diện tích đất nông nghiệp cũng
đang có xu hướng giảm dần trong quá trình công nghiệp hóa, hiện dại hóa.

Trong những năm qua, bình quân mỗi năm có khoảng 70.000 ha đất trồng
lúa chuyển sang mục đích khác.
- Thứ ba, người dân còn chịu nhiều rủi ro trong cuộc sống, sản xuất mà chưa
có thiết chế phòng ngừa hữu hiệu và dễ tái nghèo trở lại như thiên tai, dịch
bệnh, sâu hại, tai nạn lao động, thất nghiệp hoặc có việc làm nhưng không
ổn định; sự rủi ro về giá sản phẩm đầu vào, đầu ra do biến động thị trường

BÙI THỊ MINH HẰNG 11V21355N

8


thế giới và khu vực… Bên cạnh những rủi ro trên còn có sự “rủi ro” trong
việc thay đối chính sách, sự không minh bạch và nhiều thủ tục của hệ thống
hành chính, tình trạng quan liêu, tham nhũng của cán bộ và bộ máy hành
chính.
- Thứ tư nền kinh tế đất nước có tăng trưởng khá nhưng thiếu bền vững, nợ
công tuy ở ngưỡng cho phép nhưng vẫn tiềm ẩn nguy cơ. Theo cách tính
của Ngân hàng Thế giới (WB ), nợ công của Việt Nam tính đến cuối năm
2009 đã lên đến mức 47,5% GDP; trong khi đó cách tính nợ của Việt Nam,
do Bộ Tài chính cung cấp là 44,7%. Hai cách tính này có khác nhau dựa
trên cơ sở thâm hụt ngân sách, Tổng cục Thống kê thông báo, thâm hụt
ngân sách của Việt Nam năm 2009 là 6,9%, còn WB lại đưa ra con số là
8,4%.
Theo Cục Quản lý nợ và tài chính đối ngoại, nợ nước ngoài của Việt Nam
tính đến tháng 6 năm 2009 là 29,8 tỉ USD, tương đương 30,5% GDP và có
xu hướng giảm, ổn định, nghĩa là đang trong tầm kiểm soát an toàn. Thế
nhưng nợ trong nước lại có xu hướng tăng, nếu tính cả số nợ trái phiếu của
các công trình xây dựng để ngoài ngân sách, thì tỷ lệ nợ đã và quá 50%
GDP. Điều đó đã hạn chế phần nào trong việc thực hiện các chính sách xã

hội và an sinh xã hội.
IV) chủ trương của đảng và nhà nước Việt Nam về vấn đề xóa đói giảm
nghèo.
Tác động của chủ trương xóa đói giảm nghèo của Đảng và nhà nước tác
động trực tiếp đến cơ sở kinh tế , đến quan hệ sản xuất , quan hệ sản xuất tác
động trở lại lực lượng sản xuất mà cụ thể ở đây nhà nước đầu tư đúng hướng
trước hết là bổ sung mặt yếu kém về nhân lực, nâng cao trình độ quản lý, tăng
cường phụ cấp về kinh tế, khuyến khích làm giàu từ đó tạo điều kiện phát triển
về mọi mặt cho dân -> thúc đẩy kinh tế phát triển -> thoát nghèo.
Quy luật của quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất là quy luật hết sức phổ biến. Tuy nhiên không phải bất cứ
lúc nào cũng có sự phù hợp đó. Do vậy, phải nắm bắt tốt quy luật chúng ta có
thể áp dụng vào từng trường hợp cụ thể. Quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất còn là quy luật phổ biến
trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế phát triển đi lên của lịch sử

BÙI THỊ MINH HẰNG 11V21355N

9


loài người từ chế độ công xã nguyên thuỷ qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ
phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản tương lai là do sự
tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất.
Lực lượng sản xuất là nhân tố thường xuyên biến đổi, ngược lại quan hệ sản
xuất lại thường có tính ổn định song sự ổn định đó chỉ là tạm thời và cũng cần
có sự thay đổi cho phù hợp. Nếu quan hệ sản xuất không có những sự thay đổi
cho phù hợp thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của sản xuất.
Như vậy, trong việc xác lập hoàn thiện, thay đổi quan hệ sản xuất cần

phải căn cứ vào thực trạng của các lực lượng sản xuất hiện có về mặt tính chất
và trình độ của chúng (đây là cơ sở lý luận trực tiếp của việc xác định cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay của quá trình cải cách của các
doanh nghiệp nhà nước hiện nay).
Cải tạo xã hội chủ nghĩa phải luôn luôn thấu suốt đặc điểm của quá trình
tiến từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa là quan hệ sản xuất và lực
lượng sản xuất luôn luôn gắn bó với nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Phải
coi trọng những hình thức kinh tế trung gian, quá độ từ thấp lên cao, từ quy mô
nhỏ lên quy mô lớn. Trên mỗi bước đi phải đẩy mạnh xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật, tạo ra lực lượng sản xuất mới trên cơ sở đó tiếp tục đưa quan hệ sản
xuất lên hình thức, quy mô thích hợp để cho lực lượng sản xuất phát triển.

BÙI THỊ MINH HẰNG 11V21355N

10


V) kết luận
Xu thế toàn cầu hóa với những ưu thế của nền kinh tế thị trường ngày nay đã và
đang mở ra nhiều cơ hội cho nhân loại thay đổi chất lượng cuộc sống theo
hướng ngày càng cao. Tuy nhiên nó cũng làm cho thế giới, trong đó có Việt
Nam đang phải đối mặ với nhiều thách thức mới. Một trong những thách thức
nổi cộm và phức tạp là sự phân hóa giàu – nghèo đã và đang hình thành và ngày
càng thể hiện rõ. Sự tồn tại của hiện tượng này có thể gây ra những tác động,
ảnh hưởng tiêu cực đến tiến bộ xã hội và sự phát triển bền vững của các quốc
gia nếu không được con người chú ý can thiệp đúng mức. Việt Nam đang trong
thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội với mục tiêu xây dựng xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh, đất nước ngày càng giàu mạnh thì việc quan tâm đến việc
phân hóa giàu nghèo cần được đặc biệt chú ý. Việc NCS.Bùi Thị Hoàn đi sâu
nghiên cứu vấn đề phân hóa giàu – nghèo trong nền kinh tế thị trường ở Việt

Nam hiện này, từ đó đề ra một số giải pháp chủ yếu để thu hẹp khoảng cách giàu
– nghèo và hạn chế sự làm giàu không chính đáng nhằm hạn chế sự phân hóa
giàu – nghèo trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là
có ý nghĩa khoa học và thực tiễn.

BÙI THỊ MINH HẰNG 11V21355N

11


Tài liệu tham khảo


o

Lơì cam đoan
_ Tiểu luận này do chính bản thân em tìm kiếm tài liệu, suy nghĩ và tự viết ra.
_ Em không sao chép một nguồn khác, không sao chép tiểu luận của bạn khác,
không nhờ viết hộ, không thuê viết hộ.

BÙI THỊ MINH HẰNG 11V21355N

12


MỤC LỤC

BÙI THỊ MINH HẰNG 11V21355N

13




×