Tải bản đầy đủ (.docx) (144 trang)

nghiên cứu thực trạng sử dụng các chất dạng amphetamin ở nhóm người từ 15 đến 60 tuổi tại phường sông cầu thị xẫ bắc cạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 144 trang )

B Y T
TRNG I HC Y H NI

BI LU HNG

NGHIÊN CứU THựC TRạNG Sử DụNG CáC CHấT DạNG
AMPHETAMIN ở NHóM NGƯờI Từ 15 ĐếN 60 TUổI
TạI PHƯờNG SÔNG CầU, THị Xã BắC KạN

LUN VN BC S CHUYấN KHOA CP II

H NI - 2015
B Y T
TRNG I HC Y H NI


BI LU HNG

NGHIÊN CứU THựC TRạNG Sử DụNG CáC CHấT DạNG
AMPHETAMIN ở NHóM NGƯờI Từ 15 ĐếN 60 TUổI
TạI PHƯờNG SÔNG CầU, THị Xã BắC KạN

Chuyờn ngnh : Tõm thn hc
Mó s : CK62722245

LUN VN BC S CHUYấN KHOA CP II

Ngi hng dn khoa hc:
PGS.TS. Nguyn Kim Vit

H NI - 2015




LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Đảng ủy, Ban Giám hiệu, Phòng
Đào tạo Sau đại học và Bộ môn Tâm thần Trường Đại học Y Hà
Nội đã tạo điều kiện tốt cho tôi trong quá trình học tập và nghiên
cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn Đảng ủy, Ban Giám đốc Bệnh viện
Bạch Mai, Viện Sức khỏe Tâm thần đã tạo mọi điều kiện thuận lợi
cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn Kim
Việt, Viện trưởng Viện Sức khỏe Tâm thần, chủ nhiệm Bộ môn
Tâm thần Trường Đại học Y Hà Nội là người thầy mẫu mực đã trực
tiếp hướng dẫn, tận tình chỉ dạy, truyền đạt kiến thức, giúp tôi
hoàn thành luận văn này
Tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới:
- PGS.TS. Trần Hữu Bình, Nguyên Viện trưởng Viện Sức khỏe
Tâm thần, Nguyên Phó chủ nhiệm Bộ môn Tâm thần Trường Đại
học Y Hà Nội, Trưởng phòng điều trị nghiện chất - Viện sức khỏe
tâm thần, người thầy đã truyền đạt kiến thức và niềm say mê
nghiên cứu, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
- TS. Nguyễn Văn Tuấn, Phó chủ nhiệm Bộ môn Tâm thần
Trường Đại học Y Hà Nội. Là người thầy công tâm giúp đỡ tôi từng
bước hoàn thành chương trình học tập và tiến trình nghiên cứu.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới các thế hệ
thầy, cô, các anh, chị đồng nghiệp đã giúp tôi trưởng thành trong
quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc và tập thể viên
chức Trung tâm phòng, chống bệnh xã hội tỉnh Bắc Kạn, Cán bộ
và nhân dân phường Sông Cầu, nhân viên Trạm Y tế, cộng tác

viên Y tế phường Sông Cầu, thị xã Bắc Kạn đã ủng hộ và tham gia
nghiên cứu.


Tôi xin cảm ơn và ghi nhận tình cảm hết sức quý báu của gia
đình, bạn bè đã luôn động viên, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian
học tập và nghiên cứu.
Hà Nội, tháng 10 năm 2015
Bùi Lưu Hưng

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản
thân tôi thực hiện. Các thông tin và kết quả nghiên cứu trong
luận văn là hoàn toàn trung thực và chưa từng được công bố
trong bất kỳ một nghiên cứu nào khác.

Tác giả luận văn

Bùi Lưu Hưng


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ATS

Amphetamine type stimulants
(Chất kích thích dạng Amphetamin)

MA

Methamphetamine


MDMA

3-4 Methylen dioxy methamphetamin

MSM

men who have sex with men(tình dục đồng giới

nam)
ADHD

Attention deficit hyperactivity disorder (tăng động

giảm chú ý)
AMPc

Cyclo adenosin monophotsphate (AMP vòng)

DTTK

Dẫn truyền thần kinh

DSM – IV

Diagnostic and Statistical Manual of Mental

Diseases (4rd ed.)
(Sách hướng dẫn Chẩn đoán và Thống kê các bệnh
tâm thần)

IMAO

Inhibit mono amine oxydase

ICD – 10

International Classification of Diseases 10th
(Bảng Phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10)

NHSDA

The National Household Survey on Drug Abuse
(Điều tra Quốc gia về lạm dụng ma túy)

SODC

Standing Office on Drugs and Crime
(Văn phòng thường trực về Ma túy và Tội phạm)

UNODC

United Nations Office on Drugs and Crime
(Cơ quan Liên hợp quốc về ma túy và tội phạm)

VSKTT
WHO

Viện Sức khỏe Tâm thần
World Health Organization (Tổ chức Y tế Thế



giới)
THPT
THCS

Trung học phổ thông
Trung học cơ sở


MỤC LỤC
PHỤ LỤC


DANH MỤC BẢNG


DANH MỤC BIỂU ĐỒ


DANH MỤC HÌNH


11

ĐẶT VẤN ĐỀ
Những năm cuối của thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, cộng
đồng quốc tế đã phải đối phó với nhiều vần đề mang tính
toàn cầu. Việc hội nhập kinh tế thế giới và khu vực mang lại
cho nền kinh tế Việt Nam nhiều thuận lợi để phát triển, song
với mặt trái của cơ chế thị trường cùng với sự mở rộng giao

lưu Quốc tế cũng là cơ hội cho các tệ nạn xã hội diễn biến
phức tạp và gây nhiều hậu quả nghiêm trọng. Trong đó sản
xuất, buôn bán và sử dụng Ma tuý đặc biệt là các chất dạng
Amphetamin – ATS (Amphetamin type stimulants) đã tăng ở
mức đáng báo động trên thế giới cũng như ở khu vực Đông
Nam Á [1]. Theo Cơ quan liên hợp quốc về ma túy và tội
phạm (UNODC) năm 2009 trên toàn thế giới có khoảng
0,3%-1,3% (14-57 triệu người) từ 15-64 tuổi đã sử dụng các
chất dạng Amphetamin ít nhất một lần trong năm qua [2],
[3].
Việc sử dụng và lạm dụng các chất dạng Amphetamine là
nguyên nhân gây ra nhiều hậu quả nhức nhối không chỉ đối
với cá nhân người sử dụng mà còn ảnh hưởng tới gia đình và
toàn xã hội. Nó là nguyên nhân gây ra các rối loạn tâm thần,
rối loạn hành vi, huỷ hoại nghiêm trọng đến sức khỏe, liên
quan đến tệ nạn xã hội, tội phạm, tổn thất kinh tế và trật tự
an toàn xã hội. Lạm dụng ATS có thể là nguyên nhân trực tiếp
hoặc gián tiếp gây tử vong [4], [5].
Tại Việt Nam theo kết quả khảo sát đặc điểm người
nghiện ma tuý đang cai nghiện tại Trung tâm chữa bệnh -


12

Giáo dục - Lao động xã hội, năm 2013 số người sử dụng ma
tuý tổng hợp ngày càng tăng, trong tổng số 14.000 người
được tiếp nhận vào cai nghiện tại các trung tâm có 1739
người sử dụng ma tuý tổng hợp, chiếm 12,44% tăng gấp 2 lần
so với năm 2012 [6].
Sử dụng ATS luôn là vấn đề thời sự và gây nhiều thách

thức ở các địa phương trong cả nước, nhưng các cơ quan chức
năng, gia đình và cộng đồng chưa có thông tin toàn diện và hệ
thống về vấn đề này. Với tính cấp thiết Bộ Y tế đã giao cho
Viện Sức Khỏe Tâm thần thực hiện nghiên cứu thực trạng sử
dụng các chất dạng Amphetamin tại một số tỉnh của miền Bắc
nước ta.
Cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu về thực
trạng sử dụng các chất dạng Amphetamin tại các tỉnh miền
núi, cũng như tại tỉnh Bắc Kạn nên chúng tôi tiến hành đề
tài: “Nghiên cứu thực trạng sử dụng các chất dạng
Amphetamin ở nhóm người từ 15 đến 60 tuổi tại
phường Sông Cầu của thị xã Bắc Kạn”, với hai mục tiêu:
1.

Mô tả thực trạng sử dụng các chất dạng

Amphetamin ở nhóm người từ 15 đến 60 tuổi tại
Phường Sông Cầu của thị xã Bắc Kạn năm 2014.
2. Nhận xét một số yếu tố liên quan đến sử dụng các
chất dạng Amphetamin ở nhóm đối tượng trên.


13

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Các chất dạng Amphetamine (ATS - Amphetamin
Type Stimulants)
1.1.1. Lịch sử và sử dụng các chất dạng Amphetamine
Năm 1887 Amphetamin được tổng hợp lần đầu tại Đức do nhà hóa học

L. Edeleano [7].
Năm 1893 Methamphetamin được tổng hợp từ ephedrine tại Nhật Bản
bởi nhà hóa học Nagai Nagayoshi.
Năm 1919 Methamphetamin hydrochloride (tinh thể
Methamphetamin) được tổng hợp do nhà hóa học Akira Ogata
từ tiền chất Ephedrin bằng phốt pho đỏ và iod [5],[8].
Năm 1930 Smith, Kline và một số phòng thí nghiệm có
bán loại thuốc chữa bệnh viêm tắc mũi chứa Amphetamin dễ
bay hơi dưới tên thương mại là Benzedrin [9]. Năm 1932 được
dùng để điều trị sung huyết mũi, hen phế quản. Đến năm
1937, Amphetamin sulfat được chỉ định thêm để điều trị các
chứng ngủ rũ, bệnh Parkinson sau viêm não, trầm cảm, ngộ
độc thuốc yên dịu gây ngủ [9],[10].
Trong chiến tranh thế giới thứ II các nước phát xít và
các nước đồng minh đã cho lực lượng quân đội của mình sử
dụng các chất dạng Amphetamin để tăng sự tỉnh táo, tăng
sức chịu đựng, tăng sự phấn khích và thích bạo lực.
Methamphetamin với tên thương mại Pervitin đã được sử
dụng cho quân đội Đức và Phần Lan. Trên 35 triệu liều
Pervitin 3mg được sản xuất từ giữa tháng 4 và tháng 7 năm


14

1940 [9]. Ở Nhật Bản, các chất dạng Amphetamin được gọi


Shabu,

ước


tính



khoảng

1

tỷ

viên

Hiporon

(Methamphetamin) được sản xuất từ năm 1939-1945. Bên
cạnh đó từ 1940 đến 1950 các chất dạng Amphetamin còn
được sử dụng cho công nhân để tăng năng suất lao động [8].
Trong những thập niên cuối của thế kỷ XX, các chất dạng Amphetamin
được sử dụng rộng rãi trong giới trẻ bởi tác dụng kích thích, hưng phấn, giảm
mệt mỏi, tăng sự tập trung…và được coi như chất ma túy sử dụng trong lễ
hội. Tuy nhiên, các tác hại của các chất dạng Amphetamin được ghi nhận
ngày càng nhiều, bao gồm các tác hại lên cơ thể như bệnh lý tim mạch, bệnh
lây truyền do tiêm chích, tác hại trên tâm thần như gây loạn thần, kích động,
ngộ độc, gây lạm dụng và gây nghiện [5],[8].
Ở Mỹ do có sự tăng tỷ lệ lạm dụng chất chiết xuất của Amphetamin ở
những người dùng Benzedrin, FDA đã cấm dùng Benzedrin vào 1959 và hạn
chế sử dụng Amphetamin từ năm 1965. Năm 1970, Methamphetamin đã được
đưa vào đạo luật các chất được kiểm soát ở Mỹ. Các nước khác như Nhật
Bản, một số nước ở Châu Âu cũng dần đưa các chất dạng Amphetaminvào

danh sách các chất sử dụng bất hợp pháp [8].
Ở Đức, 1938 viên Methamphetamin 3 mg đã được sản xuất và được sử
dụng rộng rãi ở vùng Wehrmacht, nhưng đến giữa năm 1941 nó bắt đầu bị
kiểm soát.
Ở Nhật Bản, năm 1950, Bộ trưởng Bộ Y tế đã ban hành lệnh cấm sản
xuất các chất Methamphetamin, mặc dù vậy các công ty thuốc vẫn tiếp tục
sản xuất thông qua chợ đen và các nhóm tổ chức tội phạm như nhóm Yakuza.
Do là chất gây nghiện nên hiện nay, Amphetamin
(Methylphenidate) chỉ còn được chấp nhận điều trị trong một


15

số ít trường hợp như rối loạn tăng động, giảm chú ý ở trẻ em,
chứng ngủ rũ, trầm cảm, béo phì [11].
1.1.2.

Phân

loại

Amphetamine



các

chất

dạng


Amphetamine
1.1.2.1. Amphetamine
Amphetamine là chất tổng hợp, chất giống giao cảm,
chất gây kích thích, chất hưng thần.
Công thức hóa học: C9H13N

Hình 1.1: Cấu trúc không gian Amphetamine
Các loại chế phẩm chính hiện có của Amphetamin gồm:
Dextroamphetamin (Dextrine)
Methamphetamin
Methyphenidate (Ritalin)…
Methamphetamin:
Công thức hóa học:C10H15N


16

Hình 1.2: Cấu trúc không gian Methamphetamin

Hình 1.3: Hình ảnh tinh thể Methamphetamin
Methamphetamin được tạo ra bằng cách methyl hóa
Amphetamin, có cấu trúc giống Amphetamin nhưng tác dụng
giống giao cảm mạnh hơn và thời gian có tác dụng dài hơn
[12].
Chế phẩm Ice (đá), là dạng tinh khiết 80% của
Methamphetamin, có thể sử dụng theo nhiều cách như uống,
hút, hít, tiêm tĩnh mạch,... Tác động tâm thần của Ice rất
nhanh, mạnh và kéo dài vài giờ. Theo UNODC dự đoán Ice sẽ
là loại ma tuý được dùng phổ biến nhất trong 5 - 10 năm tới

[13],[14].


17

1.1.2.2. Các chất dạng Amphetamin(Amphetamin-like;
Designed Amphetamin)
Là các chất tổng hợp, cấu trúc gần giống Amphetamine.
Tác dụng bao gồm cả tác động trên hệ thần kinh
Dopaminergic như Amphetamine, đồng thời chúng còn tác
động trên hệ Serotonergic và gây ra các ảo giác [14],[15].
Những chất phổ biến:
3-4 Methylen dioxy methamphetamin (MDMA): hay
ecstasy. Công thức hóa học: C11H15NO2.

N-ethyl-3-4methylen dioxy amphetamin (NDEA): Công
thức hóa học: C12H17NO2.
5-Methoxy-3-4-methylen dioxy amphetamin (MMDA).
2-5-Dimethoxy-4methylamphetamin (DOM)
1.1.3. Dược động học và dược lực học
1.1.3.1. Dược động học
Tất cả các Amphetamin đều tan rất mạnh trong mỡ và được hấp thu
nhanh trong ống tiêu hóa, vào máu rồi phân bố ra khắp các bộ phận của cơ thể,
vượt qua hàng rào máu não và phát huy tác dụng nhanh trong khoảng một
giờ sau khi uống. Các Amphetamin còn được dùng bằng đường tiêm tĩnh mạch
và có tác dụng ngay tức thì. Ngoài ra Amphetamin còn có thể dùng bằng
đường hút, hít, ngửi,…. Amphetamin và các chất dạng Amphetamin được
chuyển hóa chủ yếu ở gan. Thời gian bán hủy của chúng tùy thuộc vào dạng
chất, liều lượng, đường dùng và cách dùng. Như liều 5-10mg
Dextroamphetamin uống có thời gian bán hủy trong máu là 8-10 giờ. Các chất

dạng Amphetamin được bài tiết chủ yếu qua thận, một số ít qua nước bọt và


18

mồ hôi [14],[16],[17].
1.1.3.2. Dược lực học
Một người chưa từng dùng Amphetamin thì chỉ cần liều
5mg cũng có thể gây ra cảm giác “phê”, khoái cảm, tăng
khí sắc, thân thiện với mọi người. Liều nhỏ hơn thường có tác
dụng làm tăng cường sự chú ý, tăng cường hiệu suất công
việc. Các chất dạng Amphetamin còn có thể làm giảm mệt
mỏi, gây chán ăn, làm tăng ngưỡng kích thích đau, tăng hoạt
động tình dục, tăng năng lượng.
Các chất dạng Amphetamin còn có tác dụng làm cho
người nghiện xuất hiện các ảo tưởng, ảo giác, hoang tưởng,
có thể gây rối loạn định hướng và các lệch lạc, méo mó về tri
giác, cảm giác say đắm, thấy những ánh hào quang rực rỡ…
Do vậy còn được gọi là các chất gây ảo giác, chất gây say
đắm và được coi là các chất ma túy thực sự [8],[14],[18],[19].
1.1.4. Cơ chế tác dụng của các chất dạng Amphetamine
Amphetamin

làm

tăng

hoạt

tính


hệ Catecholamin

(Noradrenalin và đặc biệt là Dopamin) ở các mạt đoạn thần
kinh trước synapse. Tác dụng này đặc biệt mạnh ở các nơron
hệ Dopaminergic từ vùng mái bụng (Ventral tegmental area)
phóng chiếu đến hệ viền, vỏ não. Sự hoạt hóa con đường dẫn
truyền tưởng thưởng này (reward paths) được coi là cơ chế
chủ yếu gây nghiện Amphetamin.
Các chất dạng Amphetamin cũng tác động trên hệ thần
kinh Dopaminergic như Amphetamin, đồng thời chúng còn có


19

tác động trên cả hệ Serotonergic. Làm tăng hoạt tính của cả
Dopamin và Serotonin, Serotonin được coi là chất dẫn truyền
thần kinh đóng vai trò chủ yếu gây ra ảo giác, gây ra các cảm
giác phiêu diêu, huyền ảo, say đắm [14],[20].
Cơ chế tác dụng là:
- Ức chế việc tái hấp thu monoamine
- Ức chế việc phá hủy monoamine bởi MAO.I
- Tăng giải phóng các monoamine vào khe synapse
1.1.5.

Các

hình

thức


sử

dụng

các

chất

dạng

Amphetamin
1.1.5.1. Uống
Các chất dạng Amphetamin được bào chế dưới dạng
viên rất phổ biến (viên nén hoặc viên nang) và được sử dụng
theo đường uống. Tác dụng của các chất dạng Amphetamin
theo đường uống chậm hơn các dạng sử dụng khác, ít nguy
cơ hơn do không gây các bệnh lây truyền do tiêm chích [21].
Theo UNODC 2007, ở Thái Lan, Campuchia, Lào, dạng
viên MA (yaba) là dạng sử dụng phổ biến hơn cả [22].
1.1.5.2. Tiêm chích


20

Hình 1.4: Sử dụng đường tiêm các chất dạng Amphetamin
(Nguồn: Google search)
Các muối chất dạng Amphetamin, nhất là của tinh thể
Methamphetamin có thể hòa tan trong nước. Người dùng có
thể sử dụng tiêm dưới da hoặc tiêm tĩnh mạch để đạt được

tác dụng nhanh [13],[23].
1.1.5.3. Hút

Hình 1.5. Dụng cụ sử dụng đường hút các chất dạng
Amphetamin
(Nguồn: Google search)
Ở Mexico tỷ lệ sử dụng MA theo đường hút tăng từ 45%
(1997) lên 74% (2003), sử dụng theo đường hít giảm từ 38%
năm 1997 xuống 21% năm 2003 và chỉ có khoảng 2% sử
dụng đường tiêm chích [24].
Dạng hay sử dụng nhất là Ice. Nó thường được hút từ
trong ống thủy tinh. Nó cũng có thể được hút trên lá nhôm
mỏng được đun nóng bên dưới một ngọn lửa [13],[25].
1.1.5.4. Hít sâu
Một dạng sử dụng khi đưa các chất dạng Amphetamin
vào mũi sâu. Phương pháp này cho phép các chất dạng
Amphetamin được hấp thụ thông qua các mô mềm của màng
nhầy trong hốc xoang, và sau đó đưa trực tiếp vào máu [16].


21

1.1.5.5. Đạn
Đạn (đặt đường hậu môn hoặc âm đạo) là một phương
pháp sử dụng ít phổ biến của các chất dạng Amphetamin, các
nghiên cứu còn tương đối ít. Thông tin về việc sử dụng có nói
đến tác dụng gia tăng khoái cảm tình dục do tác dụng kéo
dài của các chất dạng Amphetamin [12],[23].
1.1.5.6. Dùng phối hợp với chất khác
Người dùng các chất dạng Amphetamin có nguy cơ cao

với sử dụng nhiều loại ma túy. Các nghiên cứu cho thấy
những người thường xuyên dùng các chất dạng Amphetamin
có mối liên quan mật thiết với nhóm người nghiện Heroin:
43% tại Thái Lan, 14,7% tại Lào và 21% tại Campuchia.
Nhiều người sử dụng Amphetamin với Heroin để tăng cảm
giác “phê” hoặc với mục đích thay thế hoặc để cai Heroin.
Dùng ecstasy chung với ketamin hoặc marijuana để tăng
hưng

phấn

tình

dục,

ecstasy

dùng

kèm

ketamin



Amphetamin để tránh tình trạng mệt mỏi [23].
1.1.6. Các tác hại của các chất dạng Amphetamine
1.1.6.1. Tác hại của Amphetamine
Về mặt cơ thể:
Tác hại nghiêm trọng nhất là các tác động trên mạch não, tim mạch và

ruột. Các tác động đe dọa tính mạng là nhồi máu cơ tim, tăng huyết áp kịch
phát, chảy máu não và viêm ruột hoại tử do thiếu máu [5],[14],[26],[27].
Các triệu chứng thần kinh như co quắp chân tay, co giật
toàn thân, hôn mê, tử vong.


22

Tiêm chích Amphetamin có thể liên quan đến lây truyền
HIV và viêm gan virus. Đây còn là cơ địa phát sinh áp xe
phổi, viêm nội tâm mạc, viêm mạch hoại tử…
Các tác dụng khác bao gồm: đỏ mặt, tái nhợt, sốt, đau
đầu, tim đập nhanh, đánh trống ngực, buồn nôn, nôn, nghiến
răng, thở nhanh, run, thất điều. Phụ nữ có thai nghiện các
chất dạng Amphetamin có thể dẫn đến đẻ non, trẻ thiếu cân,
đầu thai nhi nhỏ, chậm phát triển [5],[14],[16].
Về mặt tâm thần:
Bồn chồn, bất an, loạn cảm, mất ngủ, tăng kích thích,
hằn học, thù địch, lú lẫn. Với liều cao kéo dài có thể xuất
hiện các triệu chứng của rối loạn lo âu lan toả, rối loạn hoảng
sợ, rối loạn giấc ngủ, giảm tình dục [14].
Hội chứng Paranoid với các ý tưởng liên hệ, hoang tưởng
bị theo dõi, ảo giác (thị giác, thính giác…) cũng hay gặp trên
lâm sàng [14],[26].
1.1.6.2. Tác hại của các chất dạng Amphetamine
Ngoài các tác hại giống như Amphetamin, còn có các
tác hại khác như: cứng hàm, nghiến răng, khô miệng, tăng sự
cảnh tỉnh, thấy các đồ vật có ánh hào quang rực rỡ, toát mồ
hôi, mất ngủ, chóng mặt, tăng cảm giác lạnh, những cơn bốc
nóng. Muộn hơn là các triệu chứng ngủ gà ngủ gật, đau cơ,

mệt mỏi, trầm cảm, đau đầu, khô miệng, lo âu, sợ hãi [13],
[14].
Tác hại nghiêm trọng là tăng thân nhiệt, tăng hoạt động


23

quá mức, có thể tử vong vì kiệt sức [15].
1.1.6.3. Tác hại của các chất dạng Amphetamine khi
dùng cùng chất khác:
Khi sử dụng các chất dạng Amphetamin kết hợp với các
chất ma túy khác cũng gây tác hại nguy hiểm. Nhiễm độc
Methamphetamin tăng lên khi sử dụng kết hợp với rượu,
cocain hoặc opiat. Sử dụng rượu và Methamphetamin gây tăng
huyết áp, tăng gánh nặng cho tim [28].
Methamphetamin cũng làm tăng tác hại của rượu, tăng
nguy cơ nhiễm độc rượu và tai nạn giao thông [26],[29].
Sử dụng Cannabis và Methamphetamin làm tăng các
triệu chứng loạn thần trong một số trường hợp. Heroin và
Methamphetamin có thể gây tình trạng ức chế hô hấp và có
thể suy tim. Methamphetamin cũng có thể làm tăng tình
trạng quá liều Heroin [13].
1.1.6.4. Các tác hại thường gặp của các chất dạng
Amphetamin:
Trong nhóm người có quan hệ tình dục đồng giới sử
dụng ATS thường xuyên có một tỷ lệ cao không dùng các biện
pháp bảo vệ khi quan hệ tình dục. Bằng chứng cũng cho thấy
có mối liên quan giữa lạm dụng Methamphetamine (MA) với
rối loạn chức năng nhận thức ít có khả năng hồi phục hay
gặp ở những đối tượng có độ tuổi cao và sử dụng liều cao

[30],[31].
Sử dụng MA thông qua tiêm chích và các hành vi tình
dục không an toàn làm tăng nguy cơ nhiễm HIV [32].
Nghiên cứu của J.Gates và các cộng sự (2013), về sự phổ


24

biến của việc sử dụng ATS trong các lái xe tải ở Bắc Mỹ cho
thấy sử dụng ATS có liên quan đến trách nhiệm của lái xe
trong các vụ tai nạn [33].
1.1.6.5. Ảnh hưởng và tác hại của các chất dạng
Amphetamin tới gia đình
- Gia đình có người sử dụng các chất dạng Amphetamin
thường xảy ra xung đột do nghi kỵ, đổ lỗi trách nhiệm cho
nhau, do trạng thái tâm lý không ổn định, tình trạng căng
thẳng kéo dài, sinh hoạt trong gia đình bị đảo lộn, sức khỏe
các thành viên khác trong gia đình ngày càng giảm sút.
- Mối quan hệ tình cảm giữa người sử dụng các chất
dạng Amphetamin và những người thân trong gia đình bị tổn
thất nặng nề, không ít tình trạng ly thân, ly hôn.
- Không ít gia đình trở nên bất lực với người sử dụng các
chất dạng Amphetamin, bỏ mặc họ khi đã nhiều lần giáo dục,
quản lý và tổ chức điều trị bị thất bại.
- Người sử dụng thường xuyên cần nhiều tiền để mua
chất ma túy, do đó thường hay lấy cắp đồ đạc, tiền bạc trong
gia đình.
Kinh tế gia đình ngày càng sa sút vì người nghiện tiêu
nhiều tiền, làm ít, năng suất lao động bị giảm sút, thậm chí bị
mất việc làm.

1.1.6.6. Ảnh hưởng và tác hại của các chất dạng
Amphetamin tới trật tự an toàn xã hội
Sử dụng các chất dạng Amphetamin là một tệ nạn, là
nguyên nhân của tình trạng mất trật tự an toàn xã hội như:
cờ bạc, mại dâm, lừa đảo, trộm cắp, cướp của, giết người, ....


25

Theo Nguyễn Kim Việt (2012), người sử dụng các chất
dạng Amphetamin dễ dẫn tới các biểu hiện rối loạn tâm thần,
cốt lõi là hội chứng Paranoide với các đặc trưng: có nhiều ảo
thị (sinh động, nhiều màu sắc, cấp diễn) và ảo thanh chiếm
ưu thế trong bệnh cảnh, có các hoang tưởng liên hệ, hoang
tưởng bị truy hại, đôi khi có hoang tưởng bị kiểm tra, tư duy
bị cài đặt, tư duy bị bộc lộ. Rối loạn hành vi theo ảo giác chi
phối.
Người sử dụng MDMA thường làm tăng hoạt động quá
mức, như: nhảy múa, hò hét, thác loạn gây mất trật tự, có các
hành vi bạo lực, nguy hiểm cho người khác [14].
Theo nghiên cứu của Teresa L. Kramer (2006), những
người sử dụng các chất dạng Amphetamin có tỷ lệ liên quan
các rối loạn bạo lực ở mức cao từ 30 đến 70% trong 12 tháng
trước [34].
Theo A. H. Sulaiman và các cộng sự (2014), nghiên cứu
trong số 292 đối tượng sử dụng Methamphetamine, cho thấy
số đối tượng đã có các triệu chứng loạn thần trong quá khứ
chiếm 47,9% và số đối tượng hiện tại có các triệu chứng loạn
thần là 13,0%. Nghiên cứu cũng đã chứng minh rằng các đối
tượng phụ thuộc Methamphetamine ngoài có các triệu chứng

loạn thần thường thấy còn gắn liền với nguy cơ cao mắc các
rối loạn trầm cảm, rối loạn cảm xúc lưỡng cực và rối loạn
nhân cách chống đối xã hội [35].
1.1.7. Các rối loạn tâm thần liên quan sử dụng các chất
dạng Amphetamine
Chẩn đoán các rối loạn tâm thần liên quan sử dụng các


×