Tải bản đầy đủ (.docx) (165 trang)

Cách thức so sánh trong nhạc phẩm của Trịnh Công Sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (756.81 KB, 165 trang )

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chƣa từng đƣợc ai
công bố trong bất kì một công trình khoa học nào khác.
Tác giả luận văn

HÀN THỊ THU HƢỜNG

Vietluanvanonline.com

Page 1


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
1
2. Lịch sử vấn đề
3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
6
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
7
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
8
6. Đóng góp của luận văn
8
7. Bố cục của luận văn
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TẾ



1.1. Khái quát về so sánh
10
1.1.1. Khái niệm “so sánh”
10
1.1.2. Cấu trúc so sánh
12
1.1.3. Các kiểu so sánh
17
1.2. Khái quát về ca từ
20
1.2.1. Khái niệm “ca từ”
20
1.2.2. Ngôn ngữ trong ca từ
21
1.2.3. Hình tƣợng ca từ
23
1.2.4. Chủ thể cảm xúc trong ca từ
24
Vietluanvanonline.com

Page 2


1.3. Trịn
h
Công
Sơn

nhữn

g ca
khúc
của
ông
27
1.3.1. K
h
ái
q
u
át
v

c
u

c
đ
ời
v
à
s

n
g
hi

p
c


a
T
rị
n
h
C
Vietluanvanonline.com

ông Sơn
27
1.3.2. Khái quát về những ca khúc của
Trịnh Công Sơn
32
Tiểu kết
36
CHƢƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI - CẤU
TRÚC VÀ NGỮ NGHĨA CỦA PHƢƠNG THỨC
SO SÁNH TRONG CA TỪ TRỊNH CÔNG SƠN

2.1. Đặc điểm hình thái - cấu trúc của
phƣơng thức so sánh trong
38
ca từ Trịnh Công Sơn
2.1.1. Các kiểu cấu trúc so sánh
38

Page 3


2.1.2. Đặc điểm của yếu tố đƣợc so sánh


49

2.1.3. Đặc điểm của yếu tố so sánh

52

2.1.4. Đặc điểm của các từ ngữ biểu thị quan hệ so sánh

57

2.2. Đặc điểm ngữ nghĩa của phƣơng thức so sánh trong ca từ

59

Trịnh Công Sơn
2.2.1. Đặc điểm của yếu tố đƣợc so sánh

59

2.2.2. Đặc điểm của yếu tố so sánh

66

2.2.3. Mối tƣơng quan ngữ nghĩa giữa yếu tố đƣợc so sánh và

71

yếu tố so sánh
Tiểu kết


75

CHƢƠNG 3: PHƢƠNG THỨC SO SÁNH VỚI HÌNH TƢỢNG NGHỆ
THUẬT TRONG CA KHÚC TRỊNH CÔNG SƠN

3.1. Phƣơng thức so sánh với hình tƣợng em - ngƣời tình

77

3.2. Phƣơng thức so sánh với hình tƣợng tôi - chủ thể trữ tình

83

3.3. Phƣơng thức so sánh với những chiêm nghiệm về tình yêu

93

3.4. Phƣơng thức so sánh với những chiêm nghiệm về đời ngƣời

100

Tiểu kết

105

KẾT LUẬN

107


CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN VĂN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ
TÀI

1.1.

Để nhận thức

thế giới khách quan, để hiểu rừ
cỏc sự vật hiện tƣợng với các
thuộc tính muôn màu muôn vẻ
trong đời sống, con ngƣời
thƣờng thực hiện việc so sánh,
nhằm phát hiện ra những thuộc
tính đồng nhất và khác biệt giữa
các sự vật hiện tƣợng này, để
quy loại và phân biệt chúng với
nhau. Có thể nói, so sánh là một
thao tác thƣờng xuyên, có ý
thức hoặc vô thức, trong đời
sống hàng ngày của con ngƣời.
Đối với văn học nghệ thuật, so
sánh đƣợc xem là một thủ pháp
nghệ thuật độc đáo. Nghiên cứu

về phép so sánh của một tác
phẩm văn nghệ giúp ta tìm hiểu
một cỏch thức quan trọng
(trong số các phép tu từ khác)
đƣợc các tác giả dùng để tạo
nên ngôn từ nghệ thuật trong
tác phẩm của mình.
Từ xa xƣa, âm nhạc đã là món ăn tinh
thần không thể thiếu đối với nhân loại, bởi
nó đem lại cho con ngƣời những cảm xúc
khỏc nhau qua sự cảm nhận những hình


tƣợng nghệ thuật. Việc

ta đã dùng để gọi Trịnh Công

nghiên cứu âm nhạc nói

Sơn - ngƣời nhạc sĩ mà mỗi khi

chung và ca từ nói riêng

những ca khúc của ông đƣợc

là một công việc không

cất lên, chúng ta đều cảm thấy

đơn giản nhƣng đầy lí


lòng mình nhƣ lắng lại trong

thú.

nhịp điệu và tiết tấu du dƣơng,
Cũng nhƣ trong

với một nỗi buồn da diết, để

các hình thức văn nghệ

chiêm nghiệm, để nhìn lại

khác, so sánh trong ca từ

mình, để trí tƣởng tƣợng bay

rất cần đƣợc chú ý, về

xa đến thế giới của những yêu

phƣơng thức này góp

thƣơng tha thiết, những nỗi dằn

phần quan trọng trong

vặt về tình yêu và thân phận con


việc xây dựng hình tƣợng

ngƣời. Những ca khúc của ông

nghệ thuật và giúp nghệ sĩ

không chỉ mang lại một “giọng

đƣa tác phẩm (bài ca) đi

điệu” riêng, mà cũn thể hiện

vào lòng ngƣời nghe.

tớnh nhõn văn sâu sắc. Ở Việt

1.2.

Nam, chƣa có nhạc sĩ nào tạo

“Ngƣ

dựng đƣợc cho mình một dòng

ời hát rong
qua

nhiều

thế


hệ”,

“ngƣời

ca

thơ”,
“ngƣời viết
tình ca hay
nhất

thế

kỉ”…, đó là
những
ngữ

từ
ngƣời

nhạc độc


lập nhƣ Trịnh Công Sơn. Ngƣời ta vẫn thƣờng gọi dòng nhạc của ông với cái
tên bình dị, thân quen, là: “Nhạc Trịnh”.
Trong những năm tháng đất nƣớc chìm trong khói lửa chiến tranh, nhạc
sĩ này đã ôm đàn “hát cho dân tôi nghe”. Những ca khúc của ông đã vƣợt lên
mƣa bom bão đạn, vƣợt lên cảnh “máu xƣơng trập trùng”, xoá nhoà đi cái
gƣơng mặt gớm giếc của cuộc chiến và chinh phục hàng triệu trái tim yêu

nhạc thuộc đủ mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi ngành nghề, và rồi vang mói cho
tới ngày nay. Không chỉ phổ biến trong nƣớc, nhiều ca khúc của ông đã vƣợt
biên giới, đến với các quốc gia khác nhƣ Pháp, Mĩ, Canađa, Nhật Bản…,
đƣợc dịch ra nhiều thứ tiếng và đƣợc đông đảo công chúng đón nhận.
Một trong những yếu tố làm nên sức sống của nhạc Trịnh chính là phần
ca từ và đó cũng là nơi thể hiện sự tài hoa trong sử dụng tiếng Việt của ông.
Nhạc sĩ Văn Cao cho rằng âm nhạc của Trịnh Công Sơn là kết quả của một
cuộc “hôn phối kì diệu” giữa phần ca từ và phần âm nhạc, hai phần này hoà
quyện vào nhau đến mức khó có thể tách rời, làm nên hồn cốt nhạc Trịnh, và
vì thế ông gọi nhạc sĩ họ Trịnh là “ngƣời ca thơ”; Tác giả Hoàng Ngọc Hiến
đánh giá: “Tất cả ca từ của nhạc Trịnh Công Sơn làm thành một tình ca hay
nhất thế kỉ” [45, tr.351]; Nhà nghiên cứu âm nhạc Dƣơng Viết Á cho rằng:
“Ngay cả trong những năm tháng “chia tay” giữa thơ và ca, xét riêng về ca từ,
nhiều nhạc sĩ cần đƣợc gọi thêm là nhà thơ, thậm chí nên đƣợc tuyển chọn
vào các tập thơ của thế kỉ XX: Đặng Thế Phong, Văn Cao, Trịnh Công Sơn…”
[2, tr.226]… Tuy phần ca từ của nhạc Trịnh đƣợc đánh giá cao nhƣ vậy, nhƣng
cho đến nay lại ít có những công trình nghiên cứu chuyờn biệt, đầy đủ và sâu
sắc.
2.3. Đã có rất nhiều bài viết cũng nhƣ các công trình nghiên cứu về
cuộc đời và sự nghiệp âm nhạc của Trịnh Công Sơn, nhƣng trong một vài
cụng trỡnh có chú ý đến nghiên cứu ca từ của ông, thỡ việc tìm hiểu một cách


có hệ thống các biện pháp tu từ, trong đó có so sánh, vẫn là vấn đề cũn bỏ
ngỏ.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi mạnh dạn chọn và tiến hành
nghiên cứu đề tài: Phƣơng thức so sánh trong ca từ của Trịnh Công Sơn.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
2.1.


Các phƣơng thức biểu hiện của ngôn từ nghệ

thuật trong tác phẩm văn chƣơng, trong đó có phƣơng thức so
sánh, đã đƣợc nhiều nhà nghiên cứu trƣớc đây đề cập tới.
Lịch sử nghiên cứu phƣơng thức so sánh ghi nhận tên tuổi của nhà triết
học, nhà hùng biện lỗi lạc của Hi Lạp là Arisstotle (384 - 322 TCN). Trong
cuốn Thi học, khi trình bày những cách tu từ chủ yếu và phổ dụng, Arisstotle
đã chú ý đến so sánh. Ông xem đây là một trong những biện pháp đƣợc sử
dụng rất phổ biến trong văn chƣơng, đặc biệt rất đắc dụng trong thơ ca nhằm
tăng hiệu quả biểu cảm và giỏ trị thẩm mĩ.
Ở Trung Hoa cổ đại, cùng với ẩn dụ, lí luận về so sánh đƣợc bộc lộ qua
những lời bình giải về hai thể tỉ và hứng trong thơ ca dân gian Trung Quốc.
Trong các công trình nghiên cứu, các học giả Trung Hoa thƣờng dùng khái
niệm “tỉ” và “hứng” khi nói về phƣơng thức nghệ thuật có liên quan đến cách
ví von bóng gió.
Ở Việt Nam, việc nghiên cứu phƣơng thức nghệ thuật này trên quan
điểm ngữ văn học đƣợc kế thừa và phát triển truyền thống bình giảng tác
phẩm văn học Trung Hoa, theo khuynh hƣớng coi đó là thuộc mĩ từ pháp, là
một trong những “phép làm văn”.
Cho đến nay, ở Việt Nam đã có hàng loạt các công trình nghiên cứu về
các phƣơng thức tu từ, trong đó có so sánh, tiêu biểu là: Đinh Trọng Lạc với
Giáo trình Việt ngữ (Nxb GD, 1964), 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng
Việt (Nxb GD, 1996), Phong cách học tiếng Việt (Nxb GD, 1998); Cù Đình
Tú với cuốn Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt (Nxb ĐH&THCN,


1983); Hữu Đạt với cuốn Phong cách học tiếng Việt hiện đại (Nxb
ĐHQGHN, 2001); Nguyễn Thế Lịch với Từ so sánh đến ẩn dụ (T/c Ngụn
ngữ, số 3, 1991); Hoàng Kim Ngọc với cuốn So sỏnh và ẩn dụ trong ca dao
trữ tỡnh (Nxb KHXH, 2009)…

Qua tìm hiểu, có thể nhận thấy trong những công trình nghiên cứu kể
trên, các tác giả đã chỳ trọng đến việc hình thành khái niệm, phân loại và tìm
ra giá trị của các phƣơng thức tu từ nói chung và so sánh nói riêng. Đây là cơ
sở lí thuyết vô cùng quí báu để luận văn có thể tham khảo trƣớc khi đi sâu
nghiên cứu về phƣơng thức so sánh trong ca từ củaTrịnh Công Sơn.
2.2.

Sau khi Trịnh Công Sơn mất (1/4/2001), tính

đến nay đã có khoảng trên 10 cuốn sách viết về cuộc đời và sự
nghiệp âm nhạc của ông. Cuốn sách ra đời đầu tiên viết về ngƣời
nhạc sĩ vừa quá cố là Trịnh Công Sơn - Một người thơ ca, một
cõi đi về do Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thuỵ Kha, Đoàn Tử
Huyến sƣu tầm và biên soạn (Nxb Âm nhạc, Trung tâm văn hoá
ngôn ngữ Đông Tây, 2001). Sau đó cuốn sỏch này đƣợc bổ sung,
biên soạn và tái bản với tựa đề Một cõi Trịnh Công Sơn (Nxb
Thuận Hoá, 2004). Tiếp theo, lần lƣợt đƣợc phát hành là các
sách tập trung các bài viết của nhiều tác giả: Trịnh Công Sơn cát bụi lộng lẫy (Nxb Văn hoá, tạp chí Sông Hƣơng, Huế, 2001),
Trịnh Công Sơn - người hát rong qua nhiều thế hệ (Nxb Trẻ,
2004), Trịnh Công Sơn - rơi lệ ru người (Nxb Phụ nữ, 2006),
Trịnh Công Sơn - cuộc đời, âm nhạc, thơ, hội hoạ và suy tưởng
(Nxb Văn hoá Sài Gòn, 2005)…
Ngoài những tập sách của tập thể tác giả kể trên, còn có những tác
phẩm của cá nhân, đó là: Trịnh Công Sơn - một nhạc sĩ thiên tài của Bửu Ý
(Nxb Trẻ, 2003); Trịnh Công Sơn - có một thời như thế của Nguyễn Đắc Xuân
(Nxb Văn học, 2003); Trịnh Công Sơn và cây đàn Lya của hoàng tử bé của
Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng (Nxb Trẻ, 2005); Vườn xưa - hành trình âm nhạc


Trịnh Công Sơn của Nguyễn Hữu Thái Hoà (Nxb Trẻ, 2007); Trịnh Công Sơn

- ngôn ngữ và những ám ảnh nghệ thuật của Bùi Vĩnh Phúc (Nxb Văn hoá Sài
Gòn, 2008)…


Những cuốn sách này chủ yếu gồm những bài viết của bạn bè, ngƣời
thân, đồng nghiệp, công chúng yêu nhạc và ngƣỡng mộ tài năng của Trịnh
Công Sơn, một số của các nhà báo, và số ít là các nhà nghiên cứu, phê bình
văn học. Những bài viết ấy đều có dung lƣợng nhỏ, chủ yếu là kể về những kỉ
niệm, giai thoại, bày tỏ cảm xúc, ấn tƣợng và tình yêu đối với nhạc sĩ, cảm
nhận đối với từng bài hát, những đồng cảm về thân phận con ngƣời trong
chiến tranh qua những ca khúc phản chiến, những nỗi đau trong tình yêu, và
những phát hiện về triết lí sống trong nhạc Trịnh…Chƣa có nhiều những bài
viết mang tính chất nghiên cứu ca từ dƣới góc độ ngôn ngữ, càng ít gặp
những bài viết nghiên cứu riêng về phƣơng thức so sánh.
Cuốn sách mang tính chuyên luận đầu tiên nghiên cứu về ca từ Trịnh
Công Sơn là cuốn Trịnh Công Sơn - ngôn ngữ và những ám ảnh nghệ thuật của
Bùi Vĩnh Phúc. Trong cuốn sách này, tác giả đã dành riêng một chƣơng để viết
về nghệ thuật ngôn ngữ của Trịnh Công Sơn. Đó là cách viết ca khúc nhƣ
những bài thơ, cách dùng những hình ảnh tỉnh lƣợc, những câu bỏ lửng, những
nét đối xứng và những biện pháp tu từ. Trong phần viết về những biện pháp tu
từ, tác giả có đề cập đến biện pháp so sánh nhƣng ông chỉ dừng lại ở việc mô
tả biện pháp này và đƣa ra một số ví dụ minh hoạ, chứ chƣa đi sâu nghiên cứu
những đặc điểm về hình thái cấu trúc, đặc điểm về ngữ nghĩa cũng nhƣ vai trò
của so sánh đối với việc xây dựng hình tƣợng nghệ thuật trong ca khúc Trịnh
Công Sơn.
Ngoài những cuốn sách viết về cuộc đời và sự nghiệp âm nhạc của
Trịnh Công Sơn đã xuất bản kể trên, có thể kể đến những công trình nghiên
cứu mang tính chất chuyên đề về ca từ nhạc Trịnh: Luận văn Thạc sĩ, chuyên
ngành Văn học Việt Nam của Nguyễn Thị Thanh Thuý, Đại học Sƣ phạm
Quy Nhơn (2006) với đề tài Ca từ Trịnh Công Sơn - những ca khúc về tình

yêu và thân phận con người với những mảng nghiên cứu về cuộc đời và sự
nghiệp, tầm ảnh hƣởng của Trịnh Công Sơn, thân phận con ngƣời và tình yêu


trong ca khúc Trịnh Công Sơn; Luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Văn học Việt
Nam của Lê Thị Thu Hiền, Đại học Sƣ phạm Hà Nội (2007) với đề tài Quan
niệm nhân sinh trong ca từ Trịnh Công Sơn, đó đi vào nghiên cứu quan niệm
về cõi sống, về cái chết và về tình yêu của Trịnh Công Sơn; Luận văn Thạc sĩ,
chuyên ngành Lí luận ngôn ngữ của Nguyễn Thị Bích Hạnh, Đại học Sƣ
phạm Hà Nội (2008) với đề tài Hệ thống biểu tượng trong ca từ Trịnh Công
Sơn, đã hệ thống hoá những biểu tƣợng nghệ thuật tiêu biểu trong ca từ Trịnh
Công Sơn, sắp xếp các biểu tƣợng theo những hệ thống nhỏ, từ hệ thống
những biểu tƣợng có chất liệu trực quan đến hệ thống những biểu tƣợng
không có chất liệu trực quan và sự chuyển hoá giữa chúng, từ đó soi chiếu,
giải mã các biểu tƣợng trong hệ thống, gúp phần làm sáng tỏ thế giới tinh
thần của nghệ sĩ (luận văn này mới đây đó xuất bản thành sỏch với nhan đề
Biểu tượng ngôn ngữ trong ca từ của Trịnh Công Sơn, Nxb Khoa học xó hội,
2009)…
Tóm lại, lần theo trình tự thời gian của các cụng trỡnh và bài viết về ca
khúc Trịnh Công Sơn đến nay, chƣa thấy có tài liệu nào nghiên cứu riêng
hoặc nghiên cứu đầy đủ và sâu sắc về phƣơng thức so sánh trong ca từ của
ông.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn có mục đích tìm hiểu sự thể hiện đa dạng và những vai trò
khác nhau của phƣơng thức so sánh trong ca từ của Trịnh Công Sơn, từ đó
thấy đƣợc phần nào đặc điểm phong cách ngôn ngữ của nhạc sĩ qua các ca
khúc của ông.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
-


Xác định cơ sở lí thuyết chung trong nghiên cứu tu từ

học và văn nghệ, với một số khái niệm: so sánh, ca từ…, và
những vấn đề có liên quan,


để làm điểm tựa nghiên cứu phƣơng thức so sỏnh trong các ca khúc của một
tác giả cụ thể.
-

Miêu tả những biểu hiện cụ thể của việc sử dụng

phƣơng thức so sánh về hình thức và ngữ nghĩa, những vai trò
của việc sử dụng phƣơng thức này để xây dựng hình tƣợng nghệ
thuật, trong các ca khúc của Trịnh Công Sơn.
-

Từ sự phân tích nói trên, giúp ngƣời đọc hƣớng tới

một số nhận xét về đặc điểm đáng chú ý trong phong cách ngôn
ngữ của Trịnh Công Sơn xét về phƣơng diện so sỏnh.
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn đƣợc xác định là ca từ của Trịnh
Công Sơn. Trờn thực tế, ca từ của Trịnh Công Sơn đƣợc công bố trong nhiều
tuyển tập ca khúc khác nhau, nhƣ: Một cõi đi về, Nxb Văn nghệ TPHCM,
1992; Khói trời mênh mông Nxb Văn nghệ TPHCM, 1992; Em còn nhớ hay
em đã quên, Nxb Trẻ, 1993; Những bài ca không năm tháng, Nxb Âm nhạc,
1998… Tuy nhiờn trong luận văn này, sẽ đƣợc chọn làm đối tƣợng khảo sát

là 242 văn bản ca từ (không có phần nhạc) đƣợc công bố trong cuốn Trịnh
Công Sơn - vết chân dã tràng của tác giả Ban Mai xuất bản năm 2008 tại Nxb
Lao Động - Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây. Văn bản những ca khúc
này đƣợc công bố với sự cho phép của ca sĩ Trịnh Vĩnh Trinh - em gỏi của
nhạc sĩ và là ngƣời thừa kế bản quyền nhạc Trịnh và ông Phạm Văn Đỉnh Chủ tịch Hội Văn hoá Trịnh Công Sơn (Pháp) - ngƣời đó sƣu tầm và chỉnh lí
thƣ mục ca khúc Trịnh Công Sơn. Có thể nói đây là nguồn tƣ liệu đáng tin
cậy để nghiên cứu về ca từ Trịnh Công Sơn (Danh mục các ca khúc này đƣợc
trình bày ở cuối luận văn).
Ngoài 242 văn bản ca từ kể trên, đề tài còn dựa vào một thứ “siêu văn
bản” khác. Đó là hoàn cảnh xã hội, không khí thời đại, bầu khí quyển triết
học, chính trị trong đó những ca từ của Trịnh Công Sơn ra đời, và hoàn cảnh,


tâm sự cá nhân của chính nhạc sĩ… Đây có thể đƣợc xem nhƣ những gợi mở
giúp đi sâu hơn vào thế giới ca khỳc Trịnh Công Sơn, trong đó có ca từ với
phƣơng thức so sánh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Các ca khúc của Trịnh Công Sơn có thể đƣợc xét trên nhiều phƣơng
diện. Ngoài sự phân tích từ phƣơng diện âm nhạc và văn học nghệ thuật nói
chung, về phƣơng diện ngôn ngữ học có thể xem xét cỏc ca từ trong ca khúc
ở nhiều khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, luận văn này chỉ xin dừng lại ở việc
xem xét một trong các phƣơng thức tu từ, cụ thể là so sánh.
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phƣơng pháp miêu tả
Phƣơng pháp này (với cách phân tích và tổng hợp), đƣợc sử dụng để đi
sâu vào miêu tả và khái quát các kiểu cấu trúc so sánh, chỉ ra các đặc điểm
ngữ nghĩa cùng các vai trò của chúng trong việc xây dựng hình tƣợng nghệ
thuật của ca từ Trịnh Công Sơn.
- Phƣơng pháp thống kê, phân loại
Phƣơng pháp này đƣợc sử dụng để khảo sát, thống kê tần số xuất hiện

và phân loại các kiểu so sánh trong ca từ Trịnh Công Sơn, từ đó làm cơ sở
phân tích, nhận xét, đánh giá những kiểu loại hình thức, đặc trƣng về giá trị
biểu đạt của đối tƣợng nghiên cứu.
- Phƣơng pháp phân tích ngữ nghĩa
Phƣơng pháp này đƣợc sử dụng khi phân tích mối quan hệ giữa ý
nghĩa bản thể gốc và ý nghĩa có đƣợc do sự liên tƣởng, nghĩa bề mặt ngôn từ
với nghĩa biểu trƣng, của cỏc yếu tố tham gia vào phƣơng thức so sỏnh.
6. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
- Về mặt lí luận:
Đây là lần đầu tiên có một đề tài nghiên cứu tƣơng đối đầy đủ và sâu
sắc phƣơng thức so sánh trong số các phƣơng thức tu từ dựa trên quan hệ
liên


tuởng, đƣợc sử dụng ở ca từ Trịnh Công Sơn. Kết quả của luận văn sẽ là minh
chứng cho khả năng tìm hiểu về giá trị của văn bản nghệ thuật dƣới góc nhìn
ngôn ngữ học, đồng thời góp thêm tƣ liệu và cách nhìn nhận đối với bộ môn
Tu từ học nói chung và nghiên cứu ngôn từ nghệ thuật trong cỏc ca khúc nói
riêng.
- Về mặt thực tiễn:
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần giúp cho những ngƣời quan
tâm đến dũng nhạc Trịnh có cái nhìn đa chiều hơn về giá trị tác phẩm, trong
đó ngoài chiều sâu tƣ tƣởng, thế giới quan và nhân sinh quan của tác giả, cũn
cú sự tài hoa về tiếng Việt. Đồng thời, nó có thể giúp những ngƣời yêu nhạc
tiếp cận có định hƣớng và dễ dàng hơn với dòng nhạc đƣợc đánh giá là “kén
ngƣời nghe” này, từ đó biết thƣởng thức những cái hay, cái đẹp của nhạc
Trịnh và nhận thức đƣợc một cách sâu sắc những cảm xúc, những triết lí nhân
sinh mà ngƣời nhạc sĩ tài hoa này muốn gửi gắm qua những ca khúc của
mình, cũng nhƣ có cơ sở để hiểu hơn về tiềm năng của tiếng Việt.
7. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Phụ lục, luận văn bao gồm 3 chƣơng
nhƣ sau:
Chƣơng 1: Cơ sở lí luận và thực tế
Chƣơng 2: Đặc điểm hình thái - cấu trúc và ngữ nghĩa của phƣơng
thức so sánh trong ca từ Trịnh Công Sơn
Chƣơng 3: Phƣơng thức so sánh với hình tƣợng nghệ thuật trong ca
khúc Trịnh Công Sơn
Phần Phụ lục gồm:
- Danh mục những ca khúc đƣợc khảo sát trong luận văn
- Một số văn bản ca khỳc của Trịnh Công Sơn
- Một số đoạn tản văn của Trịnh Công Sơn
- Một số hình ảnh và bút tích của Trịnh Công Sơn


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TẾ
1.1. KHÁI QUÁT VỀ SO SÁNH
1.1.1. Khái niệm so sánh
So sánh là một thao tác của tƣ duy. Đó là thao tác đem sự vật này đối
chiếu với sự vật khác để nhìn thấy nét tƣơng đồng và khác biệt giữa chúng.
Thuật ngữ “so sánh” trong tiếng Việt đƣợc dùng chỉ một biện pháp đƣợc sử
dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống. Trong Từ điển tiếng Việt do
Hoàng Phê (Chủ biên) có giải thích về “so sánh” theo cách hiểu phổ thông là:
“nhìn vào cái này mà xem xét cái kia để thấy sự giống nhau, khác nhau hoặc
sự hơn kém”.
Nhìn từ góc độ phong cách học, so sánh là một phƣơng thức phổ biến ở
mọi ngôn ngữ. Vì thế, đây cũng là một trong những vấn đề đƣợc các nhà
ngôn ngữ học quan tâm nghiên cứu: A.Ju.Xtêpannov với Phong cách học
tiếng Pháp (1965), Vinôgradov với Phong cách học tiếng Nga (1969), Môren
với Phong cách học tiếng Pháp (1970)... Những công trình này đƣợc giới

thiệu ở Việt Nam góp phần làm sáng tỏ về mặt lí thuyết và ứng dụng của
phƣơng thức so sánh cũng nhƣ khẳng định giá trị của phƣơng thức này trong
sáng tạo hình tƣợng nghệ thuật.
Phƣơng thức này cũng sớm đƣợc các nhà nghiên cứu ngôn ngữ học
nƣớc ta đề cập đến. Bắt đầu từ những năm 60 của thế kỉ XX, khi xuất hiện
những công trình nghiên cứu tiếng Việt, so sánh cũng đƣợc nhắc đến trong
các bài giảng về phong cách học.
Có thể kể đến những công trình nghiên cứu có đề cập tới so sánh nhƣ:
Giáo trình Việt ngữ; 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt của Đinh
Trọng Lạc; Phong cách học tiếng Việt của Đinh trọng Lạc và Nguyễn Thái


Hoà; Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt của Cù Đình Tú; Phong
cách học tiếng Việt hiện đại của Hữu Đạt...
Trong những công trình kể trên, hầu hết các tác giả đều đƣa ra sự phân
biệt giữa so sánh tu từ và so sánh logic (so sánh luận lí). Theo các tác giả này,
trong so sánh logic, cái đƣợc so sánh và cái so sánh là các đối tƣợng cùng loại
và mục đích của sự so sánh là xác lập sự tƣơng đƣơng giữa hai đối tƣợng. Ví
dụ:
- Mặt con cũng tròn như mặt mẹ
- Cô Hoa gầy hơn cô Huệ
- Giá trị của (a+b)(a-b) bằng giá trị của a2- b2
So sánh tu từ khác với so sánh logic ở tính hình tƣợng, tính biểu cảm
và tính dị loại (không cùng loại) của sự vật. Ví dụ:
- Tiếng khoan như gió thoảng ngoài
Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa (Nguyễn Du)
- Tình anh như nước dâng cao
Tình em như dải lụa đào tẩm hương (Ca dao)...
Với sự phân biệt nói trên, những khái nệm đuợc đƣa ra trong các giáo
trình phong cách học đều định nghĩa so sánh với tƣ cách là một trong những

biện pháp tu từ ngữ nghĩa.
Trong cuốn Giáo trình Việt ngữ, tác giả Đinh Trọng Lạc đã quan niệm
về so sánh nhƣ sau: “So sánh là định nghĩa sự vật, hiện tƣợng hoặc khái niệm
ở trong ngôn ngữ nghệ thuật thông qua sự so sánh chúng với hiện tƣợng hoặc
khái niệm có cùng dấu hiệu chung. Mục đích so sánh là để cụ thể hoá những
sự vật trừu tƣợng, để ngƣời đọc dễ hiểu, dễ tƣởng tƣợng hơn.”. Ở cuốn giáo
trình này, tác giả chủ yếu tiến hành khảo sát hình thức biểu hiện của so sánh.
Có thể nói, đây chính là một trong những giáo trình đầu tiên của môn Phong
cách học ở Việt Nam.
Tiếp đó, trong 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, tác giả
Đinh Trọng Lạc đã có cách nhận diện so sánh tu từ rõ ràng và đầy đủ hơn:


“So sánh tu từ là một biện pháp tu từ ngữ nghĩa, trong đó ngƣời ta đối chiếu
hai đối tƣợng khác loại của thực tế khách quan không đồng nhất với nhau
hoàn toàn mà chỉ có một nét giống nhau nào đó, nhằm diễn tả bằng hình ảnh
một lối tri giác mới mẻ về đối tƣợng” [25 , tr.154].
Sau này, cỏc tác giả Đinh Trọng Lạc và Nguyễn Thái Hoà ở giáo trình
Phong cách học tiếng Việt cũng đƣa ra định nghĩa về so sánh: “So sánh là
phƣơng thức diễn đạt tu từ khi đem sự vật này đối chiếu với sự vật khác miễn
là giữa hai sự vật có một nét tƣơng đồng nào đó, để gợi ra hình ảnh cụ thể,
những cảm xúc thẩm mĩ trong nhận thức của ngƣời đọc, ngƣời nghe” [24,
tr.190].
Theo tác giả Cù Đình Tú trong Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng
Việt, “so sánh tu từ là cách công khai đối chiếu hai hay nhiều đối tƣợng cùng
có một dấu hiệu chung nào đấy (nét giống nhau) nhằm diễn tả một cách hình
ảnh đặc điểm của một đối tƣợng” [56, tr.272].
Nhƣ vậy, qua nhiều quan niệm của các nhà nghiên cứu đã nêu ở trên,
chúng ta có thể rút ra một vài đặc điểm của phƣơng thức so sánh nhƣ sau:
- So sánh là việc đối chiếu một phƣơng diện nào đó của

ít nhất hai sự vật hiện tuợng
- Những sự vật hiện tƣợng đƣa ra đối chiếu phải khác loại
- Những sự vật hiện tuợng đƣa ra đối chiếu phải có nét
tƣơng đồng sâu xa nào đó trong những ngữ cảnh nhất định mà
giác quan có thể nhận biết đƣợc
- Đối chiếu để tìm ra các nét giống nhau và khác biệt
giữa các đối tƣợng so sánh và đƣợc so sánh
1.2.2. Cấu trúc so sánh
Có nhiều quan niệm khác nhau về cấu trúc so sánh.
Theo cỏc tác giả Đinh Trọng Lạc và Nguyễn Thái Hoà trong cuốn giáo
trình Phong cách học tiếng Việt, hình thức đầy đủ nhất của phƣơng thức so
sánh gồm 4 yếu tố:
- Cái cần đƣợc so sánh, kí hiệu là (A)
- Cơ sở so sánh, kí hiệu là (t)


- Từ so sánh, kí hiệu là (tss)
- Cái đƣợc dùng làm chuẩn để so sánh, kí hiệu là (B)
A

(t)

(tss)

B

Cổ tay em

trắng


nhƣ

ngà

Mô hình cấu trúc đầy đủ đƣợc đƣa ra là:
A (t) tss B
Tuy nhiên, trên thực tế, tùy từng trƣờng hợp, ngƣời ta có thể đảo trật
tự so sánh hoặc bớt một số yếu tố trong mô hình. Cụ thể ta có 5 biến thể của
mô hình cấu trúc so sánh trên:
1. Đảo trật tự so sánh: (t) A tss B. Ví dụ:
Chòng chành như nón không quai
Như thuyền không lái như ai không chồng (Ca dao)
2. Bớt cơ sở so sánh: A tss B. Ví dụ:
Ai về ai ở mặc ai
Ta như dầu đượm thắp hoài năm canh (Ca dao)
3. Bớt từ so sánh: A (t) B. Ví dụ:
Gái thương chồng đương đông buổi chợ
Trai thương vợ nắng quái chiều hôm (Ca dao)
4. Thêm “bao nhiêu”, “bấy nhiêu”
Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu (Ca dao)
5. Dùng là làm từ so sánh: A là B. Ví dụ:
Tình cô là đoá hoa đơn
Bình minh nở để hoàng hôn mà tàn (Nguyễn Bính)
Trong Phong cách học tiếng Việt hiện đại, tỏc giả Hữu Đạt đã đƣa ra
mô hình khái quát của phép so sánh nhƣ sau:
A- X-B


Trong mô hình trên, có thể nhận thấy sự thiếu vắng của yếu tố chỉ

phƣơng diện so sánh. Điều này đã khiến cho cấu trúc so sánh mà tác giả đƣa
ra chỉ có 3 yếu tố. Và biến thể của cấu trúc này chỉ có 2 loại là:
- So sánh không có từ so sánh:
Mô hình: A - B
Biến thể: A - B1, B2...; A1, A2... - B; A1, A2 - B1, B2
Ví dụ:
Bác ngồi đó lớn mênh mông
Trời cao biển rộng, ruộng đồng nước non (Tố Hữu)
-

So sánh có từ

so sánh: Mô
hình: A - X - B
Biến thể: A - X - B1, B2; A1, B1 - X - B; A1, B1 - X - B1, B2
Ví dụ:
Lũ đế quốc như bầy quỷ sống
Nướng người ăn, nhảy nhót, reo cười (Tố Hữu)
Trong bài viết “Các yếu tố và cấu trúc của so sánh nghệ thuật... đăng
trên Số phụ Tạp chí ngôn ngữ số 1, 1998, cũng giống nhƣ cỏc tỏc giả Đinh
Trọng Lạc và Nguyễn Thái Hoà, tỏc giả Nguyễn Thế Lịch đã đƣa ra một cấu
trúc so sánh hoàn chỉnh gồm 4 yếu tố:
- Yếu tố cần so sánh, tức là đƣợc (hay bị) so sánh (YTĐSS) - (A);
- Yếu tố biểu thị thuộc tính của sự vật, nêu rõ phƣơng diện so
sánh (YTPD) - (x);
- Yếu tố thể hiện quan hệ so sánh (YTQH) - (tss);
- Yếu tố đƣợc dùng làm chuẩn để so sánh
(YTSS) - (B). Theo tác giả, mô hình cấu trúc so
sánh hoàn chỉnh là:
YT§SS


YTPD

YTQH

YTSS


Mặt

tƣơi

nhƣ

hoa


Đặc điểm của từng yếu tố đƣợc Nguyễn Thế Lịch trình bày cụ thể nhƣ
sau:
a. Yếu tố đƣợc so sánh: về nguyên tắc, bất kì sự vật, hiện
tƣợng gì cũng
có thể đem ra so sánh:
- Đƣợc so sánh là ngƣời, sự vật, ví dụ:
Em như cây quế giữa rừng
Thơm tho ai biết ngát lừng ai hay (Ca dao)
- Đƣợc so sánh là hành động, ví dụ:
Thấy anh như thấy mặt trời
Chói chang khó ngó, trao lời khó trao (Ca dao)
- Đƣợc so sánh là thuộc tính, ví dụ:
Trong như tiếng hạc bay qua

Đục như tiếng suối mới sa nửa vời (Nguyễn Du)
b. Yếu tố phƣơng diện so sánh: có vai trò thể hiện thuộc
tính của sự vật mà yếu tố đƣợc so sánh biểu thị, là thuộc tính
đƣợc xem nhƣ tiêu biểu của sự vật mà yếu tố so sánh biểu thị.
Khi trong cấu trúc so sánh vắng yếu tố phƣơng diện thì phải dựa
vào liên tƣởng để tìm ra nét tƣơng đồng giữa yếu tố đƣợc so
sánh và yếu tố so sánh, từ đó mới có thể xác định đƣợc là đã
thực hiện sự so sánh về phƣơng diện nào.
c. Yếu tố quan hệ: đƣợc xem là đơn giản nhất trong
cấu trúc so sánh, bao gồm các từ so sánh, từ là và cặp từ hô
ứng bao nhiêu...bấy nhiêu.
Các từ so sánh đƣợc dùng phổ biến nhất là: như, tựa, như là, như thể,
chừng như, tựa như, hồ như..., ví dụ:
Cổ tay em trắng như ngà
Con mắt em liếc như là dao cau (Ca dao)
Từ là trong cấu trúc so sánh có giá trị tƣơng đƣơng từ như, nhƣng sắc
thái ý nghĩa hoàn toàn khác nhau. Như có sắc thái giả định, chỉ sự tƣơng đồng


về một khía cạnh nào đó, cảm nhận thiên về chủ quan; là có sắc thái khẳng
định sự đồng nhất hoàn toàn, sự đánh giá có cơ sở khách quan. Ví dụ:


Tình tôi là giọt thuỷ ngân
Dù nghiền chẳng nát, dù lăn vẫn tròn (Ca dao)
Cặp từ hô ứng bao nhiêu...bấy nhiêu, ví dụ:
Ai ơi đừng bỏ ruộng hoang
Bao nhiêu tấc đất, tấc vàng bấy nhiêu (Ca dao)
d. Yếu tố so sánh: đƣợc xem là quan trọng nhất và không
thể thiếu của cấu trúc so sánh vì đó là chuẩn của so sánh, và

không có chuẩn thì không thành so sánh. Sự xuất hiện của yếu tố
này là kết quả quá trình quan sát, liên tƣởng của ngƣời nói. Theo
Nguyễn Thế Lịch, yếu tố này có một số cấu trúc sau:
-

Nêu lên tên gọi sự vật đƣợc dùng làm chuẩn. Ví dụ: má

đào, tóc mây, mũi dọc dừa, mặt chữ điền, con mắt lá răm, lông mày
lá liễu, ngón tay búp măng…
- Miêu tả chi tiết thuộc tính của sự vật đƣợc dùng làm chuẩn, ví dụ:
- Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất dậm hương và rộn tiếng chim (Tố Hữu)
- Tình anh như nước dâng cao
Tình em như dải lụa đào tẩm hương (Ca dao)
- Thể hiện nhiều sự vật khác nhau, ví dụ:
- Hồn tôi giếng ngọt trong veo
Trăng thu trong vắt, biển chiều trong xanh (Nguyễn Bính)
- Đôi ta như lửa mới nhen
Như trăng mới mọc, như đèn mới khêu (Ca dao)
Theo khảo sát của Nguyễn Thế Lịch, không phải cấu trúc so sánh nào
cũng hội tụ cả 4 yếu tố trên, và tác giả đã đƣa ra 4 cấu trúc so sánh không
hoàn chỉnh nhƣ sau:
a. Vắng yếu tố phƣơng diện, ví dụ:
Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nếp mật, như đường mía lau (Ca dao)


b. Vắng yếu tố phƣơng diện và yếu tố quan hệ, ví dụ:
Người giai nhân: bến đợi dưới cây già
Tình du khách: thuyền qua không buộc chặt (Xuân Diệu)

c. Vắng yếu tố đƣợc so sánh, ví dụ:
Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá, bạc như vôi (Hồ Xuân Hƣơng)
Theo tác giả, cấu trúc vắng yếu tố đƣợc so sánh đã tạo ra vô vàn các
thành ngữ so sánh kiểu nhƣ: cao như núi, ngọt như mía lùi, đỏ như son…, giúp
cho việc tiếp nhận trở nên dễ dàng vì phƣơng diện so sánh đƣợc nói thành lời
rõ ràng.
d. vắng yếu tố đƣợc so sánh và yếu tố phƣơng diện, ví dụ:
- Như diều gặp gió
- Như nước vỡ bờ (Thành ngữ)
Tiếp thu những ý kiến kể trên, quan niệm của luận văn về cấu trúc so
sánh nhƣ sau:
Một cấu trúc so sánh hoàn chỉnh bao gồm 4 yếu tố theo mô hình sau:
A + x + tnss + B
(Trong đó:
- A:

Yếu tố đƣợc so sánh

- x : Yếu tố phƣơng diện so sánh
- tnss: Yếu tố biểu thị quan hệ so sánh - từ ngữ so sánh
- B:

Yếu tố so sánh)

Ví dụ: Tóc trắng như vôi
(A) (x) (tnss) (B)
Bên cạnh mô hình cấu trúc so sánh hoàn chỉnh kể trên, tác giả còn có
thể tạo ra những biến thể bằng việc thêm, bớt hoặc đảo trật tự các yếu tố trong
cấu trúc.

1.2.3. Các kiểu so sánh


×