Tải bản đầy đủ (.pdf) (203 trang)

Luận án đình làng thế kỷ XVII XVIII ở gia lâm (hà nội) những giá trị lịch sử và văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.62 MB, 203 trang )

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng đất nƣớc theo hƣớng Công nghiệp
hóa - Hiện đại hóa, Đảng đã xác định vai trò quan trọng của di sản văn hóa đối
với sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội. Giữ gìn bản sắc văn hóa dân
tộc đƣợc đặt ra nhƣ một vấn đề quan trọng của quốc gia. Thái độ ứng xử với di
sản văn hoá cũng phản ánh quan điểm, đƣờng lối, chính sách của quốc gia,
dân tộc trong từng thời điểm nhất định. Chúng ta cần phải tìm hiểu sâu sắc và
giới thiệu các loại hình kiến trúc truyền thống để có cái nhìn toàn diện và sâu
sắc hơn về những giá trị kết tinh tiềm ẩn trong tinh hoa văn hóa dân tộc của
ông cha ta để lại cho hậu thế. Đây là việc làm hết sức cần thiết trong thời kỳ
hiện nay, bởi bất kỳ ngƣời nào muốn bƣớc tới tƣơng lai đúng hƣớng đều phải
nhìn lại quá khứ. Theo định hƣớng đó, thời gian gần đây các di tích lịch sử
văn hóa nhƣ: các di chỉ khảo cổ học, các địa điểm ghi dấu chứng tích lịch sử,
các công trình kiến trúc nghệ thuật v.v…đã và đang là đối tƣợng đƣợc đặc biệt
quan tâm nghiên cứu, trong đó có đình làng.
Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về đình làng - một di sản
kiến trúc văn hóa tín ngƣỡng của cộng đồng làng xã Việt Nam trên nhiều phƣơng
diện khác nhau. Những công trình nghiên cứu này đã và đang góp phần khẳng
định giá trị văn hóa đặc sắc, độc đáo của đình làng Việt Nam, cũng trên cơ sở đó
giúp chúng ta hiểu biết thêm về làng xã truyền thống, về bản sắc văn hóa Việt
Nam. Nghiên cứu đình làng và khai thác các giá trị của đình làng dƣới góc độ
khảo cổ học lịch sử sẽ góp phần cung cấp nguồn tƣ liệu khoa học cho việc bảo
tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống của làng Việt cổ truyền.
Những ngôi đình làng thế kỷ XVII - XVIII ở Gia Lâm là những công
trình có nhiều giá trị về lịch sử - văn hóa. Mặc dù những ngôi đình này đã
đƣợc xếp hạng di tích cấp quốc gia, song đến nay chƣa có một công trình



2

nghiên cứu nào toàn diện, sâu sắc từ góc độ khảo cổ học. Để khẳng định giá trị
và tìm hiểu một cách có hệ thống, góp phần vào sự nghiệp bảo tồn và phát huy
giá trị của di tích trong giai đoạn hiện nay, tôi xin chọn đề tài: “Đình làng thế
kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm (Hà Nội) - những giá trị lịch sử và văn hoá” là
đối tƣợng để nghiên cứu của luận án này.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án đặt ra bốn mục tiêu nghiên cứu nhƣ sau:
- Tập hợp, hệ thống hóa tƣ liệu và kết quả nghiên cứu của các tác giả đi
trƣớc nghiên cứu về đình làng nói chung và đình làng thế kỷ XVII - XVIII ở
Gia Lâm (Hà Nội).
- Nghiên cứu, đánh giá giá trị lịch sử và những giá trị văn hóa – nghệ
thuật đƣợc biểu hiện dƣới dạng vật thể và phi vật thể của các đình làng thế kỷ
XVII – XVIII ở Gia Lâm, tìm ra những đặc trƣng cơ bản của các di tích này,
xác định vai trò của nó đối với cộng đồng làng xã và các vùng lân cận.
- Xác định niên đại khởi dựng qua tƣ liệu và phong cách nghệ thuật.
- Đề xuất phƣơng hƣớng và giải pháp bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị
văn hóa, lịch sử của các ngôi đình này.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đƣợc các mục tiêu nghiên cứu đề ra, nhiệm vụ cần thực hiện là:
- Khảo sát điền dã, ghi vẽ hiện trạng kiến trúc và tổng hợp các tài liệu

nghiên cứu đã có để xác định và hệ thống hoá đặc điểm cơ bản của đình làng
thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm.
- Thống kê, khảo tả hiện trạng kiến trúc, trang trí trên kiến trúc làm cơ
sở đánh giá giá trị về lịch sử, văn hoá của các đình làng thế kỷ XVII – XVII ở
Gia Lâm trong đời sống xã hội, làm cơ sở cho việc thực hiện các nghiên cứu

tiếp theo.


3

- Thu thập những thông tin về những đình làng khác ở Gia Lâm, vùng
phụ cận liên quan để so sánh sự tƣơng đồng và khác biệt về kiến trúc và trang
trí kiến trúc.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Tập trung nghiên cứu tổng quan và chuyên sâu về 5 đình làng tiêu biểu
thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm (Hà Nội). Cụ thể là đình Xuân Dục (xã Yên
Thƣờng), đình Tình Quang (phƣờng Giang Biên), đình Thanh Am (phƣờng
Thƣợng Thanh), đình Trân Tảo (xã Phú Thị), đình Công Đình (xã Đình
Xuyên).
- Mở rộng đối tƣợng nghiên cứu đến một số đình làng khác ở Gia Lâm và
phụ cận để so sánh các giá trị lịch sử, văn hóa cùng các giá trị chính trị - xã
hội của các ngôi đình làng trong đời sống xã hội hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển cùng giá
trị văn hóa nghệ thuật của các đình làng thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm (Hà
Nội) từ khi khởi dựng cho đến nay. Đặc điểm kiến trúc, hệ thống di vật trong
đình làng.
- Phạm vi thời gian và không gian: Tập trung khảo sát, nghiên cứu các
đình làng thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm ( Hà Nội), sau đó mở rộng phạm vi
nghiên cứu đối với các di tích đình làng ở khu vực phụ cận liên quan.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp luận
- Phƣơng pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đƣợc sử dụng
để lý giải các vấn đề thuộc lịch sử, văn hoá và quá trình hình thành, phát triển

của đình làng Việt Nam và đình làng thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm.


4

- Phƣơng pháp đƣợc triển khai qua những tiếp cận đa ngành, liên ngành,
trong đó chú trọng việc kết hợp giữa các tiếp cận nghiên cứu khảo cổ học, sử
học, mỹ thuật học, dân tộc học, bảo tàng học, văn hóa học với ứng dụng khoa
học kỹ thuật trong việc đánh giá hiện trạng, ghi vẽ kiến trúc.
4.2. Phương pháp nghiên cứu của luận án
- Phƣơng pháp tập hợp, hệ thống hóa những kết quả nghiên cứu của các
tác giả, các công trình nghiên cứu có liên quan của những ngƣời đi trƣớc.
- Phƣơng pháp Khảo cổ học truyền thống: điều tra, quan sát, tham dự,
miêu tả, đo vẽ, chụp ảnh, phỏng vấn, nghiên cứu các tƣ liệu cổ, tƣ liệu Hán
Nôm liên quan...
- Phƣơng pháp điền dã thực tiễn từ đời sống xã hội của các cộng đồng
dân cƣ ở trong các làng xã, dòng họ nơi các di tích tồn tại và phát triển.
- Phƣơng pháp khảo cứu trực tiếp tại các đình làng thông qua các hoạt
động lễ hội tín ngƣỡng thƣờng niên và các hoạt động văn hóa – xã hội đã và
đang diễn ra tại các đình làng ở Gia Lâm.
- Phƣơng pháp so sánh, phân tích tổng hợp tƣ liệu.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án chính là công trình đầu tiên giới thiệu có hệ thống và đầy đủ về
5 di tích đình làng thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm (Hà Nội) dƣới góc độ
Khảo cổ học.
- Luận án xác định tổng quan giá trị lịch sử - văn hóa của các di tích
thông qua tài liệu và phong cách nghệ thuật.
- Nghiên cứu toàn diện giá trị lịch sử, văn hóa của đình làng thế kỷ XVII
– XVIII ở Gia Lâm (Hà Nội), góp phần bổ sung và làm rõ những nghiên cứu
về đình làng thế kỷ XVII – XVIII và đình làng Việt Nam nói chung.

- Kết quả nghiên cứu của luận án cũng góp một phần quan trọng trong
việc xác định, đánh giá vai trò của hệ thống di tích lịch sử - văn hóa nói chung,
hệ thống di tích đình làng nói riêng trong quá trình đô thị hóa, Công nghiệp


5

hóa – Hiện đại hóa đất nƣớc ở một địa bàn quan trọng của Thủ đô, góp phần
bảo tồn và phát huy giá trị của di tích.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Đóng góp vào lịch sử nghiên cứu về đình làng Việt Nam nói chung,
đình làng ở Gia Lâm (Hà Nội) nói riêng từ góc độ kiến trúc, trang trí kiến trúc
với giá trị lịch sử và văn hoá dƣới góc độ khảo cổ học. Thông qua việc so
sánh sự tƣơng đồng và khác biệt để thấy rõ cái riêng và cái chung của đình
làng ở Gia Lâm so với các đình làng khác trong vùng và đình làng cùng niên
đại thế kỷ XVII – XVIII vùng phụ cận liên quan.
- Thông qua nghiên cứu khảo cổ học, luận án cung cấp thông tin đầy đủ
hơn về cấu trúc, niên đại xây dựng đình làng, bƣớc phát triển về đình làng
Việt Nam và đặc biệt bổ sung vào “phần khuyết’’ ngôi đình đầu thế kỷ XVII,
những ngôi đình thời Vĩnh Trị, Cảnh Trị làm cơ sở nở rộ các ngôi đình làng
vào thời Chính Hòa.
- Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần cung cấp cơ sở khoa học
cho các hoạt động về bảo tồn và phát huy giá trị của chính những ngôi đình
làng nói riêng và các di tích đình, đền, chùa nói chung trong điều kiện hiện
nay.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
nghiên cứu của luận án đƣợc chia làm ba chƣơng:
Chƣơng 1.
Tổng quan tình hình nghiên cứu (33 trang).

Chƣơng 2.
Đình làng thế kỷ XVII – XVIII ở Gia Lâm (62 trang)
Chƣơng 3.
Những giá trị lịch sử - văn hoá của các đình làng thế kỷ XVII XVIII ở Gia Lâm (53 trang)


6

CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. Vài nét về đình làng
Trong các công trình kiến trúc tín ngƣỡng, tôn giáo ở mỗi làng quê Việt
Nam, đình làng có một vị trí quan trọng. Đây là công trình kiến trúc tín
ngƣỡng chung mang đặc tính riêng Việt của mỗi cộng đồng, đƣợc xây dựng
trên vị trí trang trọng, linh thiêng nhất, quy mô lớn và đảm nhận nhiều chức
năng khác nhau. Theo nhiều nhà nghiên cứu đình làng là công trình kiến trúc
công cộng của làng xã, dùng làm nơi diễn ra các hoạt động chính trị tinh thần
– văn hóa xã hội của nhân dân ở nông thôn làng xã dƣới thời phong kiến. Với
vị thế đó ngôi đình đã trở thành một trong những công trình có vẻ oai nghiêm
nhất trong phong cảnh Việt Nam [113], và đƣợc coi là nơi hội tụ của nguồn
gốc tƣ tƣởng Việt thuần khiết [30].
1.1.1. Khái quát nguồn gốc và sự hình thành, phát triển của đình
làng Việt Nam
Cho đến nay, các nhà nghiên cứu, đình làng xuất hiện ở Việt Nam từ
bao giờ vẫn là câu hỏi chƣa có lời giải đáp cụ thể. Song, trên thực tế, đình
làng hẳn đã có một bề dày lịch sử lâu đời. Một trong những nguyên nhân
khiến việc xác định cội nguồn của đình làng gặp nhiều khó khăn là bởi vì đến
thời điểm hiện tại, chúng ta vẫn chƣa tìm đƣợc một di tích có đủ độ tin cậy, để
xác định một cách chính xác thời điểm xuất hiện của đình làng Việt Nam

Thời điểm xuất hiện và nguồn gốc của đình làng Việt Nam đến nay vẫn
có nhiều giả thuyết khác nhau. Từ “đình” xuất hiện sớm nhất trong lịch sử
Việt Nam là vào thế kỷ II – III. Theo “Lục bộ tập kinh” của Khƣơng Tăng
Hội có đoạn viết: “Đêm đến ông lặng lẽ chốn đi. Đi hơn trăm dặm vào nghỉ ở
một ngôi đình trống. Ngƣời giữ đình hỏi: “Ông là ngƣời nào”. Ông trả lời:
“Tôi là ngƣời xin nghỉ nhờ” [66, tr.23]. Đoạn văn trên cho biết, đình ở đây là


7

ngôi đình trạm. Theo Nguyễn Văn Huyên “Cái đình ngày xƣa là nhà nghỉ
chân của vua khi nhà vua đi tuần thú trong vùng. Ở tỉnh có hành cung để vua
dừng chân nghỉ ngơi. Ở các làng ven đƣờng cũng có những ngôi nhà có chức
năng nhƣ hành cung. Ví dụ hành cung Lỗ Giang của vua Trần ở Thái Bình.
Về sau vua ít đi tuần thú, dân làng đã sử dụng các hành cung này để thờ
thần”. Ông cho rằng: “Những đình hiện nay có bốn đại tự “Thánh cung vạn
tuế” có nguồn gốc từ đó”. Ý kiến thứ hai : dựa vào dòng chữ ghi trên kẻ của
đình Phù Lƣu, Bắc Ninh “...kẻ nào cho khách đi đƣờng và bọn công thƣơng
trú ngụ (trong đình) thì xin thần linh tru diệt”, căn cứ vào đó Chu Quang Trứ
cho rằng đình làng không có nguồn gốc từ đình trạm. Ý kiến thứ ba cho rằng
đình làng là một kiểu nhà chung, một sản phẩm của làng kiểu trung đại từ sau
Lê Sơ. Thuộc ý kiến này có hai tác giả là Nguyễn Quân và Phan Cẩm
Thƣợng. Ý kiến thứ tƣ của L.Bezacier cho đình làng Việt Nam là một trong
những vết tích của ngƣời Anh-đô-nê-diêng xƣa kia cƣ trú ở miền Đông Nam
Á, về sau có một số ảnh hƣởng của Trung Hoa ghép thêm vào. Tất cả các ý
kiến nêu trên, Hà Văn Tấn cho rằng: “Mặc dù còn thiếu chứng cứ, ta tin rằng
đình – ngôi nhà chung của làng xã đã xuất hiện từ lâu đời, nếu không phải là
thời tiền sử thì cũng là thời sơ sử của dân tộc. Tất nhiên thời đó chƣa đƣợc gọi
là đình, một từ vay mƣợn của Trung Hoa”[66, tr.31].
Tài liệu lịch sử cho biết vào thời nhà Đinh – thế kỷ X, ở kinh đô Hoa

Lƣ đã có dựng đình cho sứ thần nghỉ chân trƣớc khi vào chầu. Sau này đƣợc
gọi là dịch đình. Đình cho ngƣời đi đƣờng nghỉ chân gọi là đình trạm, xuất
hiện ở thế kỷ XIII [13, tr.87].
Trên thực tế ở châu thổ Bắc Bộ còn tồn tại Quán đình. Quán đình
thƣờng lợi dụng dƣới gốc cây cổ thụ giữa cánh đồng, hoặc ở đầu làng, ngƣời
ta dựng một ngôi nhà bằng tranh tre nứa lá hoặc xây bằng gạch đơn sơ để làm


8

chỗ cho trẻ chăn trâu và ngƣời đi làm đồng về dừng chân nghỉ ngơi. Những
quán đình nêu trên chắc chắn không phải là nguồn gốc của đình làng.
Theo nhiều sử liệu, đình làng ra đời từ nhu cầu quản lý hành chính của
triều đình đối với đơn vị hành chính làng với sự gia nhập của vị Thành Hoàng
vào công trình kiến trúc công cộng. Bia ký của đình Quảng Văn ở Kinh đô
Thăng Long có ghi rằng: “Nay nhà vua lo chính sự nhiều, thần dân đông,
không thể bảo tận mặt, nói tận tai đƣợc, nên mới gọi thợ vẽ kiểu, dùng tài ông
Thuỳ, khéo ông Thâu, xây dựng lên ngôi đình ở cửa Đại Hƣng” [12, tr.7]. Nội
dung văn bia nói lên ý nghĩa thực tiễn của ngôi đình trong việc công bố chính
lệnh của nhà nƣớc đƣơng thời. Và, về mặt nào đó cũng phản ánh đƣợc việc
sáng tạo ra một kiến trúc mới. Tạm có thể cho rằng, đây là tiền đề của ngôi
đình làng về sau.
Bia đình Thanh Hà (Hà Nội), vốn xƣa thuộc làng Thanh Hà cổ, nay
thuộc phố Ngõ Gạch, quận Hoàn Kiếm. Bia đề năm Thuận Thiên thứ 3 (1433)
đƣợc coi là tấm bia cổ nhất ghi chép về ngôi đình. Các cứ liệu trên cho phép ta
khẳng định đình làng đã có mặt từ thời Lê Sơ, đầu thế kỷ XV. Điều này hoàn
toàn phù hợp với bối cảnh xã hội thời đó, khi nhà Lê, với chính sách quân điền
(1429) và chính sách lộc điền (1477) đã đẩy mạnh quá trình tan rã của chế độ
thái ấp, điền trang thời Lý - Trần; đồng thời bắt đầu sử dụng Nho giáo làm hệ
tƣ tƣởng chính thống. Với cơ cấu tổ chức xã hội kiểu phụ quyền (trong đó,

quốc gia là một đại gia đình, nhà vua đứng đầu quốc gia nhƣ một ngƣời “cha”
chung), các tổ chức xã hội địa phƣơng nhƣ làng, xã đều có một ngƣời đứng
đầu. Và để khẳng định vai trò quyền lực tập trung của nhà vua cũng nhƣ của
chính quyền trung ƣơng (tức triều đình), cần phải có những dạng kiến trúc nhƣ
đình làng, đảm nhiệm chức năng trụ sở của chính quyền để ban bố chính lệnh
của triều đình. Nhƣ vậy đình làng có thể xuất hiện vào thế kỷ XV và trƣớc đó,
những đình làng hiện biết có niên đại thế kỷ XVI : đình Tây Đằng thuộc xã


9

Tây Đằng, thị trấn Quốc Oai đƣợc dựng vào thế kỷ XVI, trên một đầu cột có
dòng chữ Hán “Quý Mùi niên tạo”. Nhiều ngƣời cho rằng đình dựng năm
1583. Đình Thụy Phiêu ở thôn Thụy Phiêu, xã Thụy An, Ba Vì, Hà Nội. Đình
có niên đại tuyệt đối, niên hiệu Đại Chính của Mạc Thái Tông (1530 – 1540).
Đình Lỗ Hạnh ở thôn Lỗ, xã Đông Lỗ, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. Đình
có niên đại Sùng Khang của Mạc Mậu Hợp năm thứ 11 (1576). Đình La Phù,
tên nôm là đình Là, thuộc thôn La Uyên, xã Tân Minh, huyện Thƣờng Tín, Hà
Nội. Niên hiệu Diên Thành thứ 4 của Mạc Mậu Hợp (1581). Dựa vào tài liệu
bi ký còn biết thêm: Đình Đại Đoan xã Đoan Bái, huyện Gia Lƣơng, Bắc
Ninh dựng năm Quý Tỵ, niên hiệu Diên Thành của Mạc Mậu Hợp (1583).
Đình Trƣờng Hoài huyện Thái Thụy, Thái Bình dựng năm Diên Thành thứ 8
(1585). Đình Nghênh Phúc, xã Lam Cầu, huyện Gia Lộc, Hải Dƣơng dựng
năm Hƣng Trị thứ 4 của Mạc Mậu Hợp (1591). Đến thế kỷ XVII, đình làng
mọc lên khắp nơi. Có thể nói thế kỷ XVII là thế kỷ của đình làng.
- Đình là nơi thờ các vị Thành Hoàng. Thành Hoàng có thể là nhân thần
nhƣ Trần Hƣng Đạo, Phạm Ngũ Lão, Quang Trung v.v. Có đình thờ ngƣời
góp phân nhƣ ở Đồng Kỵ.
- Đình là nơi họp làng để tổ chức lễ hội, trung tâm cố kết các thành viên
trong một cộng đồng làng xã.

- Về sau đình làng là một trung tâm chính trị, một trụ sở hành chính để
định sƣu thuế, bắt phu, bắt lính.
- Đến thời kỳ Cách mạng nhiều đình trở thành một nơi họp bí mật của
Đảng nhƣ “ Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào” .
1.1.2. Chức năng và vai trò của đình làng trong đời sống văn hoá
Việt Nam
Đình làng là một thiết chế văn hóa – tín ngƣỡng tổng hợp, có ba chức
năng cơ bản: Hành chính, văn hóa, tín ngƣỡng. Ba chức năng đan xen, hòa


10

quyện với nhau tạo thành một chỉnh thể thống nhất tạo nên nền tảng văn hóa
của mỗi cộng đồng cƣ dân.
Làng quê Việt trƣớc đây là những công xã nông thôn, nay đã trở thành
những đơn vị hành chính cơ sở truyền thống. Tổ chức nhà nƣớc đƣợc củng cố
chặt chẽ theo hƣớng quy mô hơn. Với việc xác lập lại hệ thống hành chính
theo mô hình nhà nƣớc phong kiến trung ƣơng tập quyền, thì phần nào đình
làng đã đƣợc Nho giáo hoá để trở thành nơi thờ cúng Thành hoàng làng, vị
vua tinh thần, thần hộ mệnh của làng. “Thành hoàng” vốn du nhập từ Trung
Quốc với vai trò là vị thần bảo vệ thành lũy. Tuy nhiên, tới Việt Nam, từ này
lại mang ý nghĩa khác. Thành Hoàng làng là “vị thần cai quản, che chở, định
đoạt phúc hoạ cho một cộng đồng ngƣời sống trong một đơn vị hành chính”
[34, tr.69]. Mỗi làng, với tƣ cách là một đơn vị hành chính, thƣờng thờ một
đến hai vị Thành hoàng, nhƣng cũng có một số ngôi đình do đặc điểm lịch sử
của địa phƣơng nên thờ nhiều vị Thành hoàng, nhƣ đình Thổ Khối (Gia Lâm)
thờ sáu vị là: Linh Lang, Cao Sơn, Bố Cái, Bạch Đa, Dị Mệ, Đào Đại vƣơng.
Các vị Thành hoàng làng đƣợc thờ trong đình đều phải đƣợc sự công nhận
của nhà nƣớc, phải đƣợc nhà vua phong tƣớc vị. Nhƣ vậy, việc phong tƣớc vị
cho các thần để họ trở thành Thành hoàng làng cùng với sự xuất hiện của các

ngôi đình làng và nhà nƣớc phong kiến đã chính thức hoá việc thờ cúng các vị
thần này ở các vùng quê của ngƣời Việt. Triều đình thực hiện việc “sắc
phong” cho Thành hoàng bao giờ cũng kèm theo thần phả, ghi lại “lý lịch”,
công tích của thần đối với làng xã. Bản thần phả đƣợc đọc một cách trang
nghiêm, kính cẩn tại lễ tế thần ở đình, không chỉ cho thấy uy lực linh thiêng
của vị thần đƣợc thờ, nó còn chứng tỏ uy quyền của Nhà vua, của chính
quyền trung ƣơng đối với cộng đồng làng. Cũng thông qua việc chính thức
hoá vị Thành hoàng nhƣ là ngƣời đại diện của nhà nƣớc, chính quyền phong
kiến đã thống trị ngƣời dân về mặt thần quyền của triều đình. Với những ý
nghĩa đó, ta có thể xem làng xã nhƣ là một đơn vị trung gian giữa quốc gia và


11

gia đình. Vì vậy, làng có tính độc lập tự chủ tƣơng đối. Bởi thế, dân gian mới
có câu: “Phép vua thua lệ làng”; Hay “Trống làng nào làng ấy đánh; Thánh
làng nào làng ấy thờ”.
Các vị thần đƣợc thờ ở đình đều đƣợc gọi chung là Thành hoàng làng
và đều có cội nguồn từ tín ngƣỡng dân gian ngƣời Việt. Thành hoàng làng có
thể là một nhân vật trong lịch sử, hay là một nhân vật hƣ cấu, nhƣ thần sông,
thần nƣớc, thần biển, thần mƣa, thần gió, thần mây, thần đất, thần đá, thần
núi…
Một trong những nét văn hoá đặc thù của vùng Đông Nam Á nói
chung, Việt Nam nói riêng là tục thờ cúng tổ tiên. Một dạng thức thờ cúng
nhân thần đầu tiên, đã đƣợc nhiều nhà nghiên cứu khẳng định đã xuất hiện từ
thời tiền sử, bên cạnh hệ thống các nhiên thần. Vì vậy, việc thờ cúng tổ tiên,
cộng đồng dòng họ đã là một hành vi, tập quán nằm sâu trong tâm thức của
mỗi con ngƣời Việt. Nó đã xuất hiện và tồn tại trong đời sống tinh thần và xã
hội của các cộng đồng làng từ xa xƣa, trƣớc khi có sự xuất hiện của các vị
Thành hoàng làng. Do đó, những vị Thành hoàng làng đƣợc thờ ở đình làng

sau này có thể coi là những “tổ tiên” của họ, sau khi đã đƣợc khắc hoạ thêm
những đƣờng nét linh thiêng và huyền bí. Ngƣời Việt tin rằng, mọi sự việc
trong đời sống hàng ngày đều phụ thuộc vào sự giúp đỡ của các vị tổ tiên;
mọi họa, phúc của cá nhân hay cộng đồng đều đƣợc giải thích nhƣ là một hậu
quả tất yếu về sự trừng phạt hay ban ơn của các vị thần.
Nhƣ vậy, Thành hoàng làng ra đời trên cơ sở kết hợp cả tín ngƣỡng thờ
cúng nhiên thần và nhân thần, vốn là những tín ngƣỡng bản địa nguyên thủy
của ngƣời Việt. Nhƣng dù đƣợc hiện diện trong diện mạo nào, thì cũng là sản
phẩm của tinh thần, thể hiện sự mong ƣớc mà cả cộng đồng làng hƣớng tới.
Vì vậy, việc thờ cúng Thành hoàng làng bao giờ cũng là sự kiện trọng đại và
vô cùng linh thiêng đối với mọi ngƣời dân làng, đƣợc thể hiện qua những nghi


12

lễ, hành vi đƣợc thực hiện ở các buổi tế lễ thần; cũng nhƣ qua việc chọn vị trí
xây cất ngôi đình… Trong những lần cúng tế Thành hoàng, mỗi ngƣời dân
đều ý thức mình là một thành viên, một nhân tố trong cộng đồng làng, mà ở đó,
mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng gắn bó mật thiết với nhau. Phẩm chất
này, qua thời gian đã in sâu vào tâm thức của mỗi con ngƣời và có một vị thế
vững chắc trong cộng đồng làng của ngƣời Việt. Nhƣ vậy, với những hoạt động
thờ cúng diễn ra thƣờng xuyên, đình làng không đơn thuần chỉ là nơi thờ Thành
hoàng làng, mà còn trở thành biểu tƣợng tâm linh của cả cộng đồng làng.
Ngoài chức năng thờ và cúng tế Thành hoàng làng, với tƣ cách là một
cơ sở hành chính của chính quyền phong kiến, đình làng còn là nơi để triều
đình ban bố các sắc lệnh xuống toàn thể ngƣời dân trong làng, là nơi họp bàn
những vấn đề hành chính có tính nội bộ của làng (nhƣ chia ruộng công; phân
bổ thuế khoá; sƣu dịch; quyên góp tiền của xây dựng các công trình công
cộng cho làng cũng nhƣ để cúng tế Thành hoàng…); là nơi xử án, phạt vạ
những ngƣời dân vi phạm lệ làng; nơi diễn ra các hoạt động vui chơi trong các

dịp hội làng sau lễ tế Thành hoàng.v.v..
Hệ thống trật tự, đẳng thứ đƣợc xác lập rất rõ ràng trong việc tổ chức
thờ cúng Thành hoàng. Nguyên tắc trật tự tôn ti, đẳng thứ phụ quyền theo lối
gia đình mở rộng của Nho giáo đã thể hiện đậm nét trong ngôi đình. Đó là
một chế độ đẳng cấp, mà quyền lực và uy tín, các mối quan hệ giữa các cá
nhân, vị thế và vai trò, cách ứng xử, sự phân công lao động và các nghĩa
vụ… đƣợc xác định theo giới tính, tuổi tác, chức sắc và thứ hạng. Thông qua
những vị trí đã đƣợc xác định khá cụ thể cho mỗi thành viên tham dự lễ thờ
cúng Thành hoàng, tại ngôi đình làng, ngƣời ta cũng có thể nhận biết vị trí
của họ trong xã hội làng xã trên tinh thần của thể chế Nho giáo. Trật tự này
còn đƣợc biểu thị rất rõ ở các đám rƣớc thần…


13

Đám rƣớc, dù thuộc dạng nào, đều đƣợc phân thành nhiều bộ phận, mỗi
bộ phận phụ trách một thể loại nghi trƣợng, hay thủ một thể loại vai có liên
quan đến chi tiết đƣợc dựng lại. Mà mỗi bộ phận nhƣ thế lại gồm trai tráng
của một giáp. Trong khi đó, các vị chức sắc, dù đã từng là vị thành niên của
giáp nào, đều tập trung với nhau, đi theo kiệu, kẻ trƣớc, ngƣời sau, tuỳ theo
thứ tự phẩm trật [34, tr.127].
Nhƣ vậy, ngôi đình làng với trật tự tôn ti đẳng cấp trong lễ tế đã phản
ánh rõ nét những ảnh hƣởng của tƣ tƣởng Nho giáo ở làng quê, một đơn vị
hành chính của nhà nƣớc phong kiến. Mặt khác, do Thành hoàng là hiện thân
cho những khát vọng, mong ƣớc của cả cộng đồng làng, đồng thời là nhân tố
quyết định sự thƣởng phạt trong cộng đồng, nên sự hiện diện của thần ở ngôi
đình làng cũng mang ý nghĩa nhƣ là sự chỉ dẫn về phép tắc cƣ xử và đạo lý
chung cho mọi ngƣời dân trong làng. Với việc thực hiện các hành vi mang
tính biểu tƣợng hóa trong “giao tiếp” với Thành hoàng, ngôi đình đã trở thành
nơi truyền thụ những giá trị, chuẩn mực, phép tắc ứng xử chung của làng. Trật

tự và hiệu quả xã hội của làng theo hệ tƣ tƣởng Nho giáo, nhờ đó đã đƣợc
đảm bảo.
Thành hoàng “là hiện thân của cái quyền lực cao thiêng bắt nguồn và
tiếp thu sức mạnh từ bản thân xã hội (...), là sợi dây liên kết mọi thành viên của
làng xã lại thành một khối, một thứ nhân cách tinh thần mà mọi thuộc tính chủ
yếu đều thấy có ở mỗi cá nhân” [34, tr. 135]. Song hành với việc phổ biến, giáo
dục những quy tắc, chuẩn mực chung của xã hội, ngôi đình còn là nơi xử án, xử
tội những ngƣời đã vi phạm lệ làng; đồng thời cũng là nơi hòa giải bất đồng
trong nội bộ. Thành hoàng đã trở thành ngƣời “chứng giám” tối thƣợng, và
ngôi đình đã đƣợc coi nhƣ một “pháp đình”. Ta còn có thể chứng kiến ở đình
những cuộc xét xử tranh chấp, hòa giải những xích mích xảy ra trong cuộc
sống hàng ngày của làng, do các viên kỳ mục làm chủ toạ. “Việc phát thệ dù


14

đơn giản hay có tính chất pháp lý thì vẫn là một sự kiện tôn giáo đƣợc tiến
hành trƣớc bàn thờ thần, và sau khi tuyên thệ thì việc tranh chấp coi nhƣ chấm
dứt” [34, tr. 137].
Mặc dù ngôi đình không tiến hành việc rửa tội cho các thành viên của
làng nhƣ ở những nhà thờ Thiên chúa giáo, nhƣng khi giao cảm với thần
trƣớc bàn thờ, mỗi ngƣời đều có thể tìm lại sự giải đáp và tái khẳng định việc
làm và ứng xử của mình. Xét trên phƣơng diện này, ngôi đình cũng là nơi để
các thành viên trong làng có thể tự điều chỉnh các hành vi, việc làm của cá
nhân cho phù hợp với những chuẩn mực đạo đức, giá trị của xã hội.
Ngôi đình còn là nơi công nhận hôn thú cho các cặp trai gái trong làng
cả về mặt pháp lý (tục lệ làng) và tín ngƣỡng (đƣợc Thành hoàng làng chứng
giám, bảo trợ). Theo lệ tục của các làng ngƣời Việt xƣa, chú rể phải “nộp
cheo”, giống nhƣ một thứ thuế hay phí hôn nhân, tại đình. Nếu chú rể kết hôn
với ngƣời cùng làng, thì nộp cheo ít hơn là khi kết hôn với ngƣời khác làng.

Chỉ khi cheo nộp là tiền hay hiện vật đƣợc đặt lên bàn thờ Thành hoàng ở
đình, cùng các lễ vật thờ cúng, thì đôi trai gái mới nhận đƣợc sự chuẩn y,
đƣợc Thành hoàng bảo trợ và đƣợc chính quyền làng xã cho phép nhƣ là một
vật chứng về tính hợp pháp cho cuộc hôn nhân của họ. Cũng bởi vậy mà dân
gian thƣờng lƣu truyền:
Có cưới mà chẳng có cheo
Dẫu rằng có giết mười heo cũng hoài.
Trong những sinh hoạt của cộng đồng làng, tính lễ giáo cũng đƣợc quy
định rất nghiêm ngặt. Một ngƣời đàn ông trong làng đã đủ tiêu chuẩn lên lão
(tức 50 tuổi) nhƣng nếu không làm lễ khao vọng, tức không mang lễ vật lên
đình, báo cáo với Thành hoàng, thì anh ta mãi cũng chỉ là bạch đinh. Hay nhƣ
một ngƣời đã thi đỗ trạng, nhƣng không về làm lễ khao vọng (Khao làng,
vọng thần) “vinh qui bái tổ” với Thành hoàng làng thì anh ta cũng không


15

đƣợc sự công nhận của cả làng. Có thể thấy, mọi sự chuyển đổi vị thế xã hội
của các thành viên trong làng chỉ có giá trị khi đƣợc sự chứng nhận của Thành
hoàng làng.
Ngoài những chức năng đã nêu, đình làng còn là nơi diễn ra các hoạt
động văn hóa văn nghệ, vui chơi giải trí…đƣợc gọi là “hội hè đình đám” của
ngƣời dân. Hội hè, với vô số trò chơi, cùng với các loại hình văn nghệ dân
gian, nhằm tạo không khí vui vẻ, sảng khoái sau những tháng ngày làm việc
vất vả. Với ngƣời nông dân xƣa, hội hè là dịp duy nhất để họ có thể quên đi
cuộc sống đầy lo toan, là dịp để họ vƣơn tới một đời sống văn hóa tinh thần
cao hơn; đồng thời, đó cũng là dịp để mọi năng lực sáng tạo tiềm ẩn trong mỗi
con ngƣời có điều kiện thể hiện và thăng hoa.
Do đều đƣợc tiến hành bởi các nhóm xã hội của cả cộng đồng, nên
ngoài giải trí, các hoạt động vui chơi, văn nghệ... còn củng cố, tăng cƣờng và

làm bền chặt hơn những mối liên hệ giữa các thành viên trong làng. Mọi
ngƣời trong làng càng thêm gắn bó, thân thiện với nhau hơn. Vào những dịp
hội hè bao giờ cũng đi kèm với những bữa cỗ “đình đám”. Ở đó, mọi đàn ông
đã thành niên của làng đều đƣợc tham dự theo hệ thống phân định ngôi thứ đã
đƣợc ấn định chặt chẽ và đƣợc chia phần. Với những bữa ăn ấy, mỗi ngƣời
dân làng chẳng những ý thức sâu sắc về cội nguồn chung của mình (có chung
một vị thần thành hoàng - một ngƣời cha tinh thần) mà còn ý thức đƣợc vị trí,
cũng nhƣ nghĩa vụ và trách nhiệm của họ đối với cộng đồng làng.
Với những chức năng nhƣ đã nêu trên, đình làng thực sự đã trở thành
một biểu tƣợng có ý nghĩa đặc biệt: nơi thể hiện đậm nét những đặc điểm
mang tính truyền thống của cả cộng đồng làng: Nơi ngự trị của vị thần bảo trợ
của mỗi làng xã, là trung tâm đời sống cộng đồng của làng, đây là nơi các kỳ
hào hội họp, nơi bàn định những vấn đề hành chính và tƣ pháp thuộc nội bộ


16

làng xã; nơi tiến hành những nghi lễ tôn giáo, nói tóm lại là nơi thực hiện tất
cả những sự kiện của đời sống xã hội làng [12, tr.7].
Sự xuất hiện của đình làng và mở rộng về chức năng cho ta thấy, đình
làng ra đời từ nhu cầu phát triển của xã hội ngƣời Việt. Đình làng phát triển
và biến đổi theo sự phát triển chung của lịch sử, xã hội. Điều này sẽ càng sáng
tỏ hơn khi chúng ta tìm hiểu quy mô kiến trúc và nghệ thuật điêu khắc trang
trí của ngôi đình làng.
Từ những vấn đề nêu trên, tựu chung lại đình làng có ba chức năng cơ
bản, đó là:
- Chức năng tín ngƣỡng thờ thành hoàng làng của cộng đồng làng xã.
- Chức năng là trung tâm hành chính của chính quyền làng xã thời
phong kiến.
- Chức năng là trung tâm văn hóa làng của làng xã.

1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Trong khoảng một thế kỷ qua, nghiên cứu về đình làng và những giá trị tiêu
biểu của loại hình kiến trúc này đã đƣợc nhiều nhà khoa học quan tâm, những
kết quả nghiên cứu đã đƣợc xuất bản thành sách hoặc đăng tải trên các tạp chí
nghiên cứu trong và ngoài nƣớc.
1.2.1. Nghiên cứu về đình làng trước năm 1954
Dƣới thời Pháp thuộc, có một số học giả phƣơng Tây, điển hình là
P.Giran, Clayes J.Y, P.Gourou... Về phía Việt Nam có Nguyễn Văn Huyên,
Nguyễn Bá Lăng, Nguyễn Văn Khoan...
Trƣớc năm 1954, đình làng ít đƣợc quan tâm nghiên cứu. Một số học
giả nêu trên, nghiên cứu về đình làng chỉ tập trung vào hai lĩnh vực: tín
ngƣỡng và kiến trúc nghệ thuật. Kết quả mới chỉ dừng lại nghiên cứu cơ bản.
1.2.2. Nghiên cứu về đình làng từ năm 1954 đến nay
Từ sau cách mạng tháng Tám (1945), nghiên cứu đình càng đƣợc quan
tâm nhiều hơn. Đặc biệt sau năm 1954 nhiều cán bộ khoa học mới đã đi sâu
hơn về đình làng, song chủ yếu chỉ dừng lại ở mô tả. Tới tận những năm 60


17

của thế kỷ XX, lực lƣợng nghiên cứu mới đã phát triển mạnh, bên cạnh ngành
Khảo cổ học, ngành Bảo tồn Bảo tàng thì với sự vƣơn lên của các ngành có
liên quan, nhất là một hệ thống chân rết ở địa phƣơng đƣợc hình thành, đã cho
chúng ta thấy rõ hơn về thực chất và thực trạng của kiến trúc đình làng.
1.2.2.1. Nghiên cứu về đình làng dưới góc độ kiến trúc và nghệ thuật
điêu khắc
Trong giáo trình của kiến trúc sƣ Ngô Huy Quỳnh của trƣờng Đại học
Kiến trúc, ông cho rằng, các kiến trúc sƣ dựng đình là những bậc thầy của
Khoa kiến trúc đô thị [64] .
Trƣớc năm 1975, ở miền Nam giới nghiên cứu đình làng có Nguyễn

Đăng Thục, ngƣời khởi xƣớng thuật ngữ “Văn hoá đình làng” để chỉ văn hoá
Việt Nam thời quân chủ cho rằng cái đình và cái chùa là một trong những
kiến trúc có ý nghĩa nhất ở Bắc Việt [72].
Năm 1972, có một cuộc trƣng bày các tác phẩm “Điêu khắc gỗ dân
gian Việt Nam” hoạ sĩ Nguyễn Đỗ Cung và các nhà nghiên cứu trẻ đã giới
thiệu 91 bản tuyển chọn từ 32 di tích – trong đó có 12 đình làng, góp phần
nhận định đƣợc phong cách “Nghệ thuật đình làng” qua các thời đại [20].
Cuốn Về tính dân tộc của nghệ thuật tạo hình (1973),do Trần Đình Thọ
(chủ biên) và nhóm tác giả tập hợp nhiều bài viết về tính dân tộc trong các tác
phẩm nghệ thuật tạo hình. Có nhiều bài đề cập tới chạm khắc đình làng nhìn
từ góc độ văn hóa. Các tác giả cho rằng, các chủ đề thể hiện trong những công
trình kiến trúc đình, đền, chùa đều mang hình tƣợng thực sự của hiện thực…
Nó là hình tƣợng của một cảnh sinh hoạt cụ thể, nhƣng lại mang tinh thần của
thời đại [71] .
Bài viết “Điêu khắc đình làng” trong Tạp chí Văn hóa dân gian, số 3
(1984), tác giả Trƣơng Duy Bích đã nhận định, sự phát triển của phù điêu
đình làng không chỉ đơn thuần nhằm giải quyết trang trí, làm giảm nhẹ cảm


18

giác nặng nề của các cấu kiện kiến trúc mà đã làm bật lên một tiếng nói mới.
Tiếng nói của tâm tƣ, tình cảm ngƣời lao động; về những suy nghĩ, nguyện
ƣớc của cuộc đời thƣờng, bằng âm điệu tƣơi mát, mộc mạc, nhƣ cỏ hoa nói
lời của đất [5].
Cuốn sách Về tính dân tộc của nghệ thuật tạo hình (1989), gồm nhiều
bài viết về tính dân tộc trong các tác phẩm nghệ thuật tạo hình. Ngoài góc độ
văn hóa, nhiều bài viết đã đề cập tới những giá trị nghệ thuật của chạm khắc
đình làng thông qua cách thức thể hiện. Hình chạm không cầu kỳ, không tỉa
gọt tỉ mỉ, nhƣng đầy sức sống, có sức thu hút mọi ngƣời mạnh mẽ. “Tâm hồn

Việt Nam” mà các nghệ sĩ xƣa có đƣợc đã truyền đọng trong từng nhát đục và
thớ gỗ khiến tác phẩm của họ mang màu sắc dân tộc rõ nét [71].
Trong cuốn sách Hình tượng con người trong nghệ thuật tạo hình
truyền thống Việt (1993), tác giả Trần Lâm Biền đã đi sâu phân tích về hình
tƣợng con ngƣời trong các loại hình nghệ thuật truyền thống, trong đó có nghệ
thuật chạm khắc đình làng Việt. Tác giả khẳng định, chạm khắc đình làng
phát triển rực rỡ nhất là vào TK.XVII, gắn liền với các đề tài về con ngƣời và
những cảnh sinh hoạt thƣờng nhật, chứ ít thấy các đề tài về vua quan phong
kiến. Tìm hiểu những bức chạm khắc đó, chúng ta đều có cảm giác chúng nhƣ
tái hiện diện mạo xã hội đƣơng thời. Tác giả đã chỉ ra một số đề tài thƣờng
thấy trên các chạm khắc đình làng thời kỳ đó nhƣ: vũ nữ thiên thần, cảnh đấu
võ (đấu vật, đấu khiên, cƣỡi ngựa đấu giáo…), săn đấu với thú dữ, chèo
thuyền, chọi gà, các trò vui ngày hội (chơi cờ, hát cửa đình, đá cầu, uống
rƣợu), cảnh múa nhạc. Nhƣng nổi bật hơn cả là cảnh trai gái tình tự, đàn bà
khỏa thân. Qua việc miêu tả một số mảng chạm về đề tài này trên các đình,
tác giả nhấn mạnh: Những hình ảnh nhƣ nêu trên thực ra không phải để nói về
hiện tƣợng dâm bôn hay một hình thức đả phá trực tiếp vào đạo đức Nho giáo
(…) Chúng ta nghĩ tới những điều cầu mong phồn thực cho hạnh phúc của cƣ


19

dân nông nghiệp nƣớc ta. Ngƣời đàn bà với các bộ phận sinh nở và nuôi
dƣỡng đƣợc thể hiện sung mãn, nhƣ chứa đựng ở trong đó một nguồn của cải
bất tận. Tuy nhiên, bởi ý nghĩa của các hình ảnh đƣợc bảo lƣu một cách vô
thức, và thời gian đã làm phai mờ dần tính chất linh thiêng của buổi khởi
nguyên để nghệ nhân tạo nên nhiều nét dí dỏm [7].
Cũng cùng chung quan điểm này, tác giả Trần Lâm trong cuốn Mỹ thuật
thời Mạc (1993), đã đƣa ra và phân tích về các đặc điểm của trang trí thời Mạc
trên một số ngôi đình. Đó chính là những hoạt cảnh ngƣời, thể hiện rất rõ tính

chất dân dã: đồng thời đề tài này nhƣ nét khởi đầu cho sự phát triển rầm rộ
của nghệ thuật tạo hình nhiều nét dân gian cuối TK.XVII [8].
Nguyễn Duy Hinh trong cuốn Tín ngưỡng thành hoàng Việt Nam
(1996), bên cạnh việc nêu lên nguồn gốc, ý nghĩa, sự tích cũng nhƣ hình thức
thờ cúng Thành hoàng làng tại các ngôi đình Việt, đã đƣa ra một số nhận định
về nghệ thuật chạm khắc đình làng. Theo tác giả, các mảng trang trí đình vốn là
một hệ thống tranh liên hoàn có nội dung tổng thể rõ ràng và phân thành từng
cảnh riêng biệt nhau. Tuy nhiên, thời gian đã làm hủy hoại, thay đổi khá nhiều
diện mạo chạm khắc của đình làng, khiến giờ ngôi đình làng chỉ còn những
mảng còn lọt lại rời rạc, từng cảnh nhỏ trở nên khó hiểu và lạc ý ban đầu. Mặc
dù vậy, chạm khắc đình làng vẫn mang nhiều ý nghĩa, đặc biệt là về mỹ thuật
[34].
Nhà phê bình mỹ thuật Thái Bá Vân trong cuốn Tiếp xúc với nghệ thuật
(1997), qua bài nghiên cứu “Điêu khắc đình làng” đã viết một cách rất sâu sắc
về nền nghệ thuật điêu khắc đình làng. Theo đó, ông nhận định về loại hình
nghệ thuật này dƣới góc độ văn hóa, là sự tiếp nối nền mỹ thuật truyền thống
của dân tộc, có đủ mặt những đóng góp hàng dọc của nghệ thuật Lý, Trần,
Mạc.... Điều đó chứng tỏ sự phát triển liên tục của một dòng nghệ thuật. Tác
giả cũng khẳng định, nghệ thuật điêu khắc đình làng mang tính truyền thống,


20

có kế thừa và phát triển trong suốt chiều dài lịch sử, đó chính là biểu hiện của
sự tiếp diễn văn hóa, của mạch nguồn văn hóa dân tộc tuôn chảy qua nhiều
thời kỳ. Căn cứ vào cấu trúc tạo hình, vào cách dựng đƣờng viền cởi mở, cách
dàn bố cục từ nhiều điểm mắt, dụng ý vứt bỏ đăng đối để diễn bằng những
nhịp lệch, lối tạo đƣờng hình chuyển động, phƣơng pháp vạc những mặt khối
thô dỡ, xếp các lớp ra vào đƣờng đột, dùng tầm sâu để tả tầm rộng, làm cho
không gian của những bức phù điêu đƣợc mở ra nhiều chiều [100].

Họa sĩ Ngô Quang Nam trong bài viết Nghệ thuật chạm khắc cổ Việt
Nam thuộc cuốn Hỏi và đáp về văn hóa Việt Nam (1998), đã nêu một cách
khái quát về nghệ thuật chạm khắc của các nghệ sĩ dân gian trên các kiến trúc
truyền thống. Đặc biệt nhấn mạnh rằng, ngôi đình làng với những đề tài xã
hội đƣợc thể hiện trên các thành phần kiến trúc nhƣ đầu bẩy, vì kèo, cửa
võng. Đó là những con vật rất gần gũi với ngƣời nông dân nhƣ mèo, tôm, cá,
chó, lợn, gà, v.v. hoặc tả cảnh ngày hội xuống đồng, cảnh bắn hổ, cảnh đá
cầu. Tác giả còn nhận định về những hình chạm thể hiện tính phồn thực qua
góc nhìn văn hóa truyền thống của ngƣời Việt. Ngƣời nghệ sĩ dân gian đã
miêu tả cảnh trai gái tình tự, hoặc đùa giỡn đƣợc chạm lộng trên các đầu bẩy.
Từ những biểu hiện đó, tác giả đặt vấn đề phải chăng tính phồn thực này bắt
nguồn từ thời Hùng Vƣơng, trải qua hàng nghìn năm vẫn sống mãi trong dân
gian. Đặc biệt trong các mảng chạm khắc đã đƣợc các nghệ sĩ dân gian đua tài
mô phỏng trên những hiện vật đặt ở chốn tôn nghiêm nhất [57].
Trong sách Trang trí trong mỹ thuật truyền thống của người Việt
(2001), tác giả Trần Lâm Biền và các tác giả khác đã kết luận về hoa văn
trang trí hình tƣợng con ngƣời trong chạm khắc trang trí truyền thống nhƣ
sau: Về đề tài con ngƣời, tổ tiên chúng ta đã đi từ những con ngƣời vũ trụ
(thần linh hoặc linh nhân nơi thiên quốc) là những nhạc sĩ thiên thần, vũ nữ
thiên thần, nhạc công đầu ngƣời mình chim… đang chuyển dần sang thiên


21

thần dƣới dạng thế nhân. Để rồi từ TK.XVI, nhất là trong TK.XVII, sự náo
nức làm ồn ào tâm tƣởng đƣợc thể hiện qua các hoạt cảnh gắn với đời thƣờng,
là các cảnh vui chơi và ƣớc vọng trong ngày hội. Đặc biệt là cảnh tình tự nam
nữ quá mạnh bạo, khiến chúng ta ngờ vực về vai trò của đạo Nho trong xã hội
bình dân, mà chuyển sự suy tƣ sang mối quan hệ âm dƣơng. Phải chăng đó là
một gợi ý, đầy chất linh thiêng, cho Trời cha Đất mẹ giao hoan để muôn loài

hƣởng phúc. Trong cuốn này dành hẳn một chƣơng nói về những hình tƣợng
con ngƣời trong chạm khắc kiến trúc làng Việt, trong đó có ngôi đình làng.
Nhóm tác giả đã so sánh hình tƣợng này nhìn từ góc độ mỹ thuật ở các thời
kỳ lịch sử khác nhau. Nếu nhƣ TK.XVI, XVII là: Trong hoạt cảnh con ngƣời
đã mang hình thức tƣợng trƣng với tỷ lệ nhƣ không theo chuẩn mực nào cả,
tuy nhiên vẫn thể hiện một bố cục sống động. Cách chạm tự nhiên, thoải mái,
rõ ràng đã tạo đƣợc một phong cách, hầu nhƣ không biểu lộ về “bài bản” có
sẵn nào, mà vẫn phản ánh đƣợc thực tế cuộc sống. Tới cuối TK.XVIII, đầu
TK.XIX, những đề tài về hình tƣợng con ngƣời đã: mang nét nghiêm trang,
mất đi sự dí dỏm, thiếu hẳn sự mạnh bạo… Điều đáng lƣu ý là trong sự thể
hiện đề tài lúc này đã xuất hiện một quan niệm mới về luật xa gần [11].
Tác giả Chu Quang Trứ, trong cuốn Văn hóa Việt Nam nhìn từ Mỹ
thuật, tập1(2002), nói về tính dân tộc trong các tác phẩm nghệ thuật tạo hình
TK.XVI. Những hình tƣợng nghệ thuật thời kỳ này đã bỏ qua các quy định
nghiêm ngặt, khắt khe của chế độ đƣơng thời. Điều này không chỉ đƣợc biểu
hiện ở hình chạm hoa lá, chim muông mà còn ở hình tƣợng con ngƣời dân dã:
Con ngƣời trở thành trung tâm của nghệ thuật, đặc biệt là ngƣời lao động luôn
đƣợc thể hiện hồn nhiên nhất, yêu đời nhất. Những đôi trai gái ở lứa tuổi yêu
đƣơng đàng hoàng tự tin, những cặp vợ chồng đang âu yếm nhau, những bà
mẹ trìu mến chăm sóc bầy con, những cảnh lao động của ngƣời dân, những
trai làng bơi thuyền và đấu vật thật là hào hứng [96].


22

Trong cuốn sách Cảm luận nghệ thuật (2002), tác giả Trần Duy đã nói
về văn hóa đình làng trong nền văn hóa Việt Nam. Đặc biệt, qua việc phân
tích những hình chạm khắc trên kết cấu đình làng, tác giả đã đƣa ra nhiều
nhận định sâu sắc về ý nghĩa, vai trò của những mảng chạm khắc đó. Tiêu
biểu, khi nói tới hình ảnh ngƣời phụ nữ xƣa đƣợc hiện diện trong những mảng

chạm khắc tại ngôi đình làng tôn kính (nơi vốn dĩ chỉ dành cho đàn ông, phụ
nữ không đƣợc tới), ông thấy đƣợc biểu hiện văn hóa, quan niệm của ngƣời
nghệ nhân dân gian đƣợc thể hiện rất rõ ràng. Ông khẳng định, đình là nơi
ngƣời phụ nữ xuất hiện tự khẳng định giá trị cơ thể và trí tuệ của mình. Tính
tiến bộ của văn hóa đình bắt đầu từ cách định hƣớng giá trị thật của con
ngƣời, nhất là ngƣời phụ nữ [26].
Trong bài viết “Một số đồ án trang trí trong nghệ thuật cổ Việt Nam”
Kỷ yếu hội thảo đồ họa ứng dụng (2002), tác giả Nguyễn Hải Phong đã phân
tích một số đồ án trang trí ở các công trình kiến trúc nghệ thuật cổ Việt Nam
theo những nguyên tắc chi phối nghệ thuật trang trí, cụ thể là thành ba
nhóm: lạ hóa bề mặt, bổ ô trang trí và phân tầng trang trí. Ở mỗi nhóm,
ngoài phân tích những trang trí ở chùa, tác giả còn nhấn mạnh tính đặc thù
rất độc đáo của các trang trí trên phù điêu đình làng. Về nguyên tắc phân
chia theo tầng và khu vực rõ nét ở các đình với trung tâm trang trí hƣớng
vào gian giữa, nơi đặt bàn thờ Thành hoàng, có nguyên một tổ hợp cửa võng
gồm nhiều môtip hoa văn trang trí, kết hợp với những hoành phi và câu đối
tạo nên sự hài hòa, đăng đối và không khí tôn nghiêm trong đình. Việc phân
tầng, chia ô trang trí còn thể hiện ở những hình trang trí trên “liên ba” (là
phần kiến trúc chạy dài tới hai đầu hồi, bề mặt phẳng, mỏng, ghép với nhau
thành mảng lớn từ nhiều ô chữ nhật, to nhỏ khác nhau) [59].
Trong cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam (2004), do Trần Quốc Vƣợng (chủ
biên) và nhóm tác giả đã nhận định về sự phát triển của các ngành văn hóa


23

nghệ thuật nói chung, chạm khắc đình làng nói riêng ở TK.XVI - XVII mang
phong cách dân gian đậm nét, bên cạnh những chủ đề tâm linh nhân thế, điêu
khắc đình làng thời kỳ này còn có những hoa văn phản ánh sinh hoạt văn hóa đời
thƣờng. Khi so sánh về nghệ thuật chạm khắc đình làng TK.XVIII với những

thời kỳ trƣớc đó đã kết luận nhƣ sau: Những ngôi chùa, những đình làng đƣợc
xây dựng trong giai đoạn này nhƣ đình Thạch Lỗi (Mỹ Văn, Hƣng Yên), đình
làng Đình Bảng (Bắc Ninh)… nổi tiếng thể hiện đƣợc phong cách điêu khắc
TK.XVII, cảnh sinh hoạt ít dần trong hoa văn trang trí nhƣng nghệ thuật trang
trí thì vẫn tự nhiên, thoải mái [108].
Hà Văn Tấn, trong cuốn sách Đến với lịch sử - văn hoá Việt Nam (2005),
đã đề cập tới đình Việt Nam, trong đó có nghệ thuật chạm khắc đình làng.
Không chỉ nổi bật với sự đa dạng của chủ đề, những bức chạm miêu tả cảnh
sinh hoạt của con ngƣời nhƣ đốn củi, cày voi, đuổi hổ, bắt rắn, chồng ngƣời
làm xiếc, chèo thuyền uống rƣợu, nam nữ bá vai nhau.v.v.. Tác giả còn nhấn
mạnh đến sự tinh xảo và điêu luyện của kỹ thuật chạm khắc. Đồng thời, ông
cũng cho rằng, ở đình làng Bắc Bộ, nghệ thuật điêu khắc cũng chính là nghệ
thuật trang trí, bởi lẽ bản chất của những ngƣời thợ chỉ là xây dựng ngôi đình
nhƣng ở đây, họ còn đảm nhiệm vai trò trang trí, tô điểm cho ngôi đình thêm
đẹp. Do đó, điêu khắc gắn liền một cách hài hoà và tinh tế với kiến trúc [69].
Trong cuốn Nghiên cứu về mỹ thuật (2006), Nguyễn Đức Bình và
nhóm tác giả đã đi sâu phân tích một thể loại của mỹ thuật, đó là chạm khắc.
Trong rất nhiều môtip trang trí của chạm khắc thời kỳ này, ông nhận định:
hình tƣợng con ngƣời là hình ảnh luôn đóng vai trò chủ đạo và đƣợc đề cao.
Dƣới góc nhìn mỹ thuật, phù điêu đình làng thời Mạc thể hiện rõ sự thay đổi
về khối. Từ những mảng chạm nông chuyển dần sang chạm bong kênh. Hình
khối nhƣ muốn thoát ly khỏi không gian trên mặt phẳng. Tuy phóng khoáng
về nhát đục, nhát chạm về đề tài thể hiện, nhƣng dƣờng nhƣ trong một khuôn


24

hình thì nhân vật và không gian trang trí nhƣ muốn bật ra khỏi bố cục. Trong
một không gian nhỏ, khép kín đồng hiện nhiều hoạt cảnh, nhiều nhân vật [16].
Cuốn Mỹ thuật đình làng đồng bằng Bắc Bộ (2006), Nguyễn Văn

Cƣơng đã miêu tả nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc đình làng theo sự phân
cắt các biểu tƣợng với những tƣ liệu hết sức phong phú. Theo tác giả, các yếu
tố văn hoá đã chi phối các giá trị thẩm mỹ, mô thức thẩm mỹ của ngƣời Việt
khi nghiên cứu mỹ thuật đình làng từ góc độ nghệ thuật học. Cụ thể hơn, đó
là: Tâm thức phồn thực của cƣ dân nông nghiệp trồng lúa nƣớc (mà cơ sở của
nó là tín ngƣỡng phồn thực và triết lý âm - dƣơng); những yếu tố địa - văn
hoá; việc sáng tạo, lựa chọn và sử dụng những mô tip trang trí có tính biểu
tƣợng. Những yếu tố văn hoá hình thành từ những hệ quả của quá trình thích
nghi với môi cảnh tự nhiên (các yếu tố tự nhiên) và xã hội (lịch sử, chính trị,
kinh tế, lối sống) thể hiện ở tƣ duy khái quát, năng lực biểu tƣợng hoá và mô
típ thẩm mỹ…Tác giả đã nhận thấy rằng: Qua những thủ pháp tạo hình đa
dạng, điêu khắc đình làng để lại những dấu ấn đặc sắc, có nhiều yếu tố
thuần Việt, không có sự lặp lại ở các nền mỹ thuật khu vực. Tác giả đã đƣa
ra những chủ đề đa dạng trong chạm khắc đình làng từ TK.XVI đến
TK.XIX, trong đó, con ngƣời với những hoạt cảnh đời sống thƣờng nhật
đƣợc tái hiện rất sinh động, giàu hình ảnh và đầy biểu cảm qua các đôi tay
khéo léo, sáng tạo của các nghệ nhân. Không chỉ thế, ngƣời thợ dân gian
xƣa còn rất linh hoạt và tinh tế khi sử dụng các kỹ thuật chạm (chạm thủng,
chạm nông, chạm kênh bong, chạm lộng) để ý tƣởng của mình đƣợc
chuyển tải đầy đủ nhất [22].
Trong cuốn “Diễn biến kiến trúc truyền thống Việt (vùng châu thổ sông
Hồng)”, Trần Lâm Biền đã cho thấy sự ra đời, hƣng thịnh và chuyển đổi chức
năng của ngôi đình làng trong lịch sử. Bên cạnh đó giới thiệu kiến trúc cổ


25

truyền cơ bản của ngƣời Việt, đặc biệt là những diễn biến kiến trúc đình làng
qua các thời kỳ [13].
Cuốn Văn minh vật chất của người Việt (2011), nhà phê bình mỹ thuật

Phan Cẩm Thƣợng đã nêu lên nguồn gốc các chủ đề sinh hoạt thƣờng nhật
của con ngƣời trên những mảng chạm khắc trang trí kiến trúc đình làng dƣới
góc độ văn hoá học. Ông cho rằng, những ngƣời thợ dân gian xƣa đã khéo
léo, khôn ngoan đƣa những đề tài dân gian vào chạm khắc đình làng dƣới bức
màn tôn giáo. Qua quá trình tìm hiểu thần phả của nhiều làng xã, ông cho
rằng phù điêu đình làng còn có thể coi là một cuốn dã sử tái hiện lại cuộc
sống của những ngƣời dân lúc bấy giờ: cái nhìn tín ngƣỡng và Nho giáo dƣới
góc độ dân gian vẫn là hình thức bên ngoài cũng những bức phù điêu, nhƣng
bên trong đầy rẫy những hoạt cảnh dung tục và ngày thƣờng nhƣ ngƣời dân
đang sống và vẫn sống nhƣ thế [74].
Bài viết “Từ đặc trƣng và giá trị mỹ thuật của các di tích kiến trúc nghệ
thuật trên địa bàn Hà Nội” thuộc cuốn sách Thế giới biểu tượng trong di sản
văn hóa Thăng Long - Hà Nội (2011), Trần Lâm Biền đã thông qua việc nêu
ra một số di tích kiến trúc tại Hà Nội để nhấn mạnh giá trị về văn hóa cũng
nhƣ mỹ thuật của những công trình này. Theo ông, những ngôi đình làng ở
Thủ đô thƣờng có niên đại khoảng cuối TK.XVII, đầu TK.XVIII (giai đoạn
phát triển rực rỡ của nghệ thuật đình làng). Các đề tài đƣợc chạm trổ sinh
động và vui mắt. Đáng chú ý nhất là hình tƣợng nam giới mặc váy (đình Tây
Đằng, Dục Tú…). Ông cho rằng: Đây là một biểu hiện có tính lịch sử về phục
trang trong chạm khắc cổ của ngƣời Việt. Đây là một chi tiết rất đáng quan tâm,
giúp cho chúng ta xác nhận lại về một khía cạnh của phục trang ngày trƣớc, từ
đó cũng đóng góp nhiều cho các phim lịch sử và sân khấu [14].
1.2.2.2. Nghiên cứu về đình làng dưới góc độ dân tộc học, văn hóa, tín
ngưỡng
Với Lê Văn Hảo trong cuốn chuyên luận “Mở đầu việc nghiên cứu ngôi
đình và phƣơng diện dân tộc học”. Mặc dù, chủ đích của công trình Dân tộc


×