Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

Báo cáo thực tập tại công ty xây dựng lũng lô

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (592.43 KB, 46 trang )

Báo cáo Thực tập tổng hợp – Khoa Toán Kinh tế

LỜI MỞ ĐẦU

Việt Nam là một nước đang phát triển với mô hình Kinh tế đa ngành, đa
nghề; trong đó Xây dựng là một trong những ngành quan trọng đóng góp không
nhỏ vào sự tăng trưởng Kinh tế Việt Nam, thúc đẩy sản xuất kinh doanh của
nhiều ngành khác trong nền Kinh tế.
Trong tình hình khủng hoảng Kinh tế toàn cầu nói chung và với Việt Nam
nói riêng, Toàn cầu và đất nước đang có những chuyển biến không nhỏ, ngành
Xây dựng cũng đứng trước những khó khăn, thách thức đáng kể để có thể thích
ứng, ổn định và phát triển.
Với truyền thống 50 năm ngành Xây dựng, truyền thống 50 năm Bộ Quốc
Phòng và 20 năm kinh nghiệm, Công ty Xây dựng Lũng Lô là một công ty đã có
những đóng góp không nhỏ cho ngành Xây dựng và cho nền Kinh tế Việt Nam.
Trong thời gian tới, sẽ có những thuận lợi cũng như những khó khăn được đặt ra
đối với Công ty.
Trong bài báo cáo này, ta sẽ tìm hiểu về Công ty Xây dựng Lũng Lô để có
được những đánh giá sâu hơn về Công ty và về ngành Xây dựng trong nền Kinh
tế đng trong thời kì có những chuyển biến quan trong.

SVTH: Lưu Vũ Tâm _ Lớp Toán Kinh tế 47


Báo cáo Thực tập tổng hợp – Khoa Toán Kinh tế

Chương I: Giới thiệu chung về ngành Xây dựng Việt Nam
1. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ TRƯỞNG THÀNH CỦA
NGÀNH XÂY DỰNG VIỆT NAM
Ngày 29-4-1958, theo Nghị quyết của kì họp thứ VIII Quốc hội khoá I do Chủ tịch Hồ Chí
Minh chủ tọa đã quyết định thành lập Bộ Kiến trúc - nay là Bộ Xây dựng. Từ đó đến nay, ngày


29-4 hàng năm đã trở thành ngày truyền thống của ngành Xây dựng Việt Nam.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước với sự nỗ lực của toàn thể cán bộ công
nhân viên trong suốt chặng đường 42 năm phát triển, ngành Xây dựng đã đạt
được nhiều thành tựu góp phần vào những thắng lợi to lớn của cả nước trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Những thành tựu trong 42 năm qua của ngành Xây dựng gắn liền với những sự
kiện trong lịch sử giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội của đất nước
ta. Đặc biệt sau khi hoàn thành cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, ngành Xây
dựng đã đi đầu lòng sự nghiệp xây dựng lại đất nước. Những kết quả trong giai
đoạn này đã gắn liền với sự trưởng thành nhanh chóng cả về số lượng và chất
lượng của đội ngũ những người xây dựng, sự hi sinh phấn đấu của các thế hệ và
sự chỉ đạo của các đồng chí lãnh đạo tiền nhiệm của ngành Xây dựng.
1.1.

Giai đoạn trước năm 1975

Từ năm 1954 hoà bình lập lại, miền Bắc được giải phóng, lực lượng xây dựng
đã tích cực tham gia vào việc thực hiện kế hoạch 3 năm khôi phục kinh tế 1955 1957, kế hoạch 3 năm phát triển, cải tạo kinh tế 1958 - 1960 và kế hoạch 5 năm
lần thứ nhất 1961 - 1965. Tiếp theo là thời kì vừa xây dựng vừa trực tiếp chiến
đấu chống chiến tranh phá hoại bằng không quân của giặc Mỹ đối với miền Bắc,
vừa dốc sức chi viện cho chiến trường miền Nam.
Sau khi thành lập, Lãnh đạo Bộ đã nhanh chóng kiện toàn tổ chức, xây dựng
đội ngũ CBCNV. Đã tổ chức các công ty xây dựng khu vực như Công ty xây
dựng Hà Nội, Hải Phòng, Uông Bí, Thái Nguyên, Thanh Hoá, Nam Định, Vinh;
các công trường trực thuộc và một số đơn vị chuyên sâu như Công ty Lắp máy,
Công ty Thi công cơ giới, Công ty Vận tải, các xí nghiệp sản xuất gạch ngói,
SVTH: Lưu Vũ Tâm _ Lớp Toán Kinh tế 47



Báo cáo Thực tập tổng hợp – Khoa Toán Kinh tế

khai thác đá cát sỏi... trên cơ sở tuyển chọn lực lượng từ thanh niên xung phong,
bộ đội chuyển ngành và lực lượng xây dựng ở các địa phương.
Ở cơ quan Bộ, ngoài các cục, vụ chức năng, đã hình thành các tổ chức nghiên
cứu khoa học như: Viện Khảo sát thiết kế, Viện Quy hoạch, Cục Thiết kế các
công trình công nghiệp và dân dụng...Trong thời kì này Chính phủ đã quyết định
chuyển Cục Nhà đất thuộc Bộ Nội vụ và chuyển một bộ phận quản lý cùng với
các cơ sở sản xuất vật liệu thuộc Tổng cục Hoá chất sang cho ngành Xây dựng
phụ trách. Đến năm 1973, để thống nhất quản lý nhà nước toàn Ngành. Quốc hội
và Chính phủ đã quyết định sáp nhập Bộ Kiến trúc và Uỷ ban Kiến thiết cơ bản
nhà nước thành Bộ Xây dựng.
Với lực lượng và tổ chức như trên, ngành Xây dựng đã trực tiếp thi công hàng
trăm công trình lớn, nhỏ như xây dựng các nhà máy điện Lào Cai,Vinh, Uông
Bí, Ninh Bình, Thác Bà, các công trình hoá chất ớ khu công nghiệp Việt Trì, khu
Cao - Xà - Lá, khu gang thép Thái Nguyên, Nhà máy Cơ khí trung quy mô, Phân
lân Văn Điển, Phân đạm Hà Bắc, Bóng đèn phích nước Rạng Đông, Dệt 8-3, Dệt
Minh Phương, Dệt Nam Định, Chè Phú Thọ, Thiếc Tĩnh Túc, Cá hộp Hải Phòng,
Gỗ diêm Cầu Đuống...; xây dựng các trường đại học, trung học, bệnh viện,
khách sạn kho tàng, các khu nhà ở và các công trình phúc lợi, hạ tầng kĩ thuật....
Quy hoạch đô thị, nông thôn đã được quan tâm. Bộ đã thành lập Viện Thiết
kế quy hoạch đô thị và nông thôn để đảm nhiệm việc quy hoạch xây dựng lại,
xây dựng mới các đô thị sau nhiều năm không được đầu tư và bị chiến tranh tàn
phá.
Trong thời gian đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc từ năm
1965 nhiều công trình xây dựng cơ bản phải tạm đình chỉ hoặc giãn tiến độ.
Ngành đã chủ trương chuyển hướng nhiệm vụ, đưa lực lượng công nhân, cán bộ
sang phục vụ chiến đấu chống chiến tranh phá hoại, đã xây dựng được 198 công
trình quốc phòng như: tham gia xây dựng các sân bay Đa Phúc, Kép, Hoà Lạc,
Gia Lâm, Cát Bi, Sao Vàng...; xây dựng các công trình dẫn dầu, các công trình

phòng không, các công trình che chắn nhà máy điện Uổng Bí, Yên Phụ, v.v...
hoặc sản xuất cầu phao, sà lan...
SVTH: Lưu Vũ Tâm _ Lớp Toán Kinh tế 47


Báo cáo Thực tập tổng hợp – Khoa Toán Kinh tế

1.2.

Giai đoạn 5 năm 1976 – 1980

Sau chiến thắng lẫy lừng của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đất nước hoàn
toàn thống nhất, kết thúc thắng lợi trọn vẹn cuộc chiến tranh giải phóng dân
tộc, cả nước bước sang thời kì mới, thời kì khôi phục sau chiến tranh và xây
dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho CNXH.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IV ngành Xây dựng đã nhanh
chóng tổ chức, tập hợp sắp xếp và điều tiết lại lực lượng xây dựng trong cả
nước, hình thành bộ máy quản lý và các tổ chức xây dựng ở phía Nam, tăng
cường năng lực các tổ chức xây dựng ở phía Bắc để thực hiện nhiệm vụ khôi
phục nền kinh tế - xã hội, đồng thời tập trung thi công các công trình trọng
điểm của Nhà nước. Hàng loạt công trình quan trọng đã được khởi công xây
dựng như Thuỷ điện Hòa Bình, Trị An, Xi măng Hoàng Thạch, Bỉm Sơn...,
các công trình khai thác và sàng tuyển than, tuyển quặng Apatít Lào Cai.
Ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng cũng có những bước phát triển
mới, đã tạo ra nhiều chủng loai sản phẩm đáp ứng một phần cho các công
trình xây dựng. Đồng thời trong giai đoạn này, theo chủ trương của Đảng và
Nhà nước ngành Xây dựng triển khai việc tiếp nhận, quản lý và cải tạo
XHCN đối với các cơ sở sản xuất thuộc ngành quản lý ở các tỉnh miền Nam.
Ngoài ra, ngành Xây dựng còn tham gia tích cực vào nhiệm vụ quốc phòng
bảo vệ biên giới Tây Nam, biên giới phía Bắc của Tổ quốc.

Trong lĩnh vực xây dựng công nghiệp, dân dụng, với phương châm thi
công tập trung dứt điểm sớm đưa các công trình vào sản xuất và sử dụng,
ngành Xây dựng đã tập trung lực lượng, vật tư, phương tiện và chỉ đạo đẩy
mạnh tiến độ các công trình trọng điểm then chốt của nền kinh tế. Nhiều công
trình và hạng mục công trình đã hoàn thành đúng tiến độ như dây chuyền 1
Nhà máy giấy Bãi Bằng, phục hồi các nhà máy điện, xây dựng mới các nhà
máy sợi, dệt Đông Nam, Thắng Lợi, Nha Trang, Vinh, Nhà máy chế biến
thức ăn gia súc Hương Canh, các trạm trại giống phục vụ nông nghiệp, Bệnh
viện nhi Thụy Điển, Bệnh viện Đồng Hới, Trạm vệ tinh Hoa Sen, các khu nhà
ở Hà Nội, và khởi công xây dựng nhiều công trình quan trọng khác. Tổng giá
trị xây lắp trong 5 năm 1976-1980 đạt 7.638 triệu đồng theo giá năm 1980,
SVTH: Lưu Vũ Tâm _ Lớp Toán Kinh tế 47


Báo cáo Thực tập tổng hợp – Khoa Toán Kinh tế

tăng 2,2 lần so với giai đoạn 1971 - 1975. Trong giai đoạn này, bình quân
hàng năm tăng 14% so với năm trước.
Trong lĩnh vực sản xuất VLXD, đã khắc phục nhiều khó khăn để đẩy
mạnh sản xuất, tiếp tục phát triển sản xuất VLXD tại chỗ phục vụ các công
trình xây dựng. Một số sản phẩm chủ yếu đã được tập trung phát triển như
đầu tư xây dựng các cơ sở xi măng lò đứng, các cơ sở gạch, đá ốp lát bán cơ
giới... Các loại vật liệu xây dựng như xi măng, tấm lợp, gạch, đá đã được khôi
phục và phát triển gấp 2 lần so với thời kì chiến tranh, đã giải quyết một phần
khó khăn do khan hiếm nguồn vật tư, nguyên liệu trong nước. Mặc dù đã có
nhiều cố gắng, song nhìn chung các cơ sở sản xuất VLXD còn mang nặng
tính thủ công, chủng loại sản phẩm nghèo nàn, chất lượng chưa cao, còn lệ
thuộc nhiều vào nguồn vật tư, nguyên liệu nhập ngoại.
Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học kỹ thuật, khảo sát thiết kế công trình,
thiết kế quy hoạch... đã có những bước tiến bộ đáp ứng được những yêu cẩu

sản xuất, xây dựng và phát triển đô thị. Đã cùng các chuyên gia thiết kế được
nhiều công trình dân dụng, công nghiệp. Việc xử lí nền móng, xử lí chống
thấm, chống dội như nền móng có castơ ở Nhà máy Xi măng Bỉm Sơn,
Hoàng Thạch, chống lún ở Khách sạn La Thành đã có kết quả tốt, áp dụng
thành công công nghệ mới để sản xuất xi măng mác cao, xi măng bền sulfat,
gạch chịu lửa, chịu axít.
1.3.

Giai đoạn 5 năm 1981 - 1985

Giai đoạn 1981-1985 là giai đoạn có nhiều khó khăn trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Song, dưới ánh sáng của Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ V, các Nghị quyết
của BCH Trung ương Đảng và Chính phủ, ngành Xây dựng đã xác định rõ
nhiệm vụ và những mục tiêu kinh tế xã hội mà Đảng và Nhà nước giao cho. Đã
tập trung giải quyết nhiều nhiệm vụ quan trọng và hoàn thành thắng lợi các mục
tiêu cơ bản của kế hoạch 5 năm 1981- 1985: góp phần tăng cường tiềm lực cho
nền kinh tế cả nước. Vai trò chỉ đạo của các lực lượng quốc doanh trên các lĩnh
vực xây lắp, sản xuất VLXD, quản lí phát triển nhà, quản lí đô thị ngày càng rõ
SVTH: Lưu Vũ Tâm _ Lớp Toán Kinh tế 47


Báo cáo Thực tập tổng hợp – Khoa Toán Kinh tế

nét
hơn.
Trong lĩnh vực xây dựng công nghiệp, dân dụng đã tập trung cao độ phấn đấu
hoàn thành các công trình trọng điểm như: 2 tổ máy nhiệt điện Phả Lại; mở rộng
Nhà máy Super phốt phát Lâm Thao; hoàn thành các nhà máy Xi măng Bỉm
Sơn, Hoàng Thạch, chế biến gỗ, kéo sợi, giấy Bãi Bằng, chế biến nông sản. thực

phẩm,... Các công trình lớn được xây dựng như Thuỷ điện Hoà Bình, Thuỷ điện
Trị An, Apatít Lào Cai, Nhà máy kính Đáp Cầu, Giấy Tân Mai, Xi măng Hà
Tiên. công trình dầu khí Vũng Tàu... đã phát huy hiệu quả của các công trình
then chốt trong nền kinh tế quốc dân vào kỳ kế hoạch 5 năm sau 1986 - 1990.
Tốc độ tăng giá trị xây lắp trong giai đoạn này bình quân trên 25%: Năm 1982
tăng 20% so năm 1981, năm 1983 tăng 21% so năm 1982, năm 1984 tăng 28%
so năm 1983, và năm 1985 tăng 36% so năm 1984. Các đơn vị xây lắp thuộc Bộ
Xây dựng đảm nhận nhiều công trình trọng điểm quốc gia, tỉ trọng giá trị xây lắp
các công trình trọng điểm chiếm 79,7% tổng giá trị xây lắp của Bộ.
Lĩnh vực sản xuất VLXD đã từng bước phát triển đáp ứng nhu cầu xây dựng.
Sự phát triển về số lượng, chủng loại sản phẩm VLXD theo xu hướng thị trường,
một số mặt hàng đã đáp ứng được nhu cầu ngày càng đa dạng của thị trường
trong nước. Trình độ quản lí, chỉ đạo sản xuất quản lí kĩ thuật ở các cơ sở sản
xuất VLXD đã có những bước tiến bộ nhanh chóng, nắm bắt được những tiến bộ
kĩ thuật, công nghệ trong dây chuyền sản xuất hiện đại như Xi măng Bỉm Sơn,
Hoàng Thạch... Chất lượng các sản phẩm VLXD được nâng lên một bước. Nhiều
địa phương đã quan tâm đầu tư để khai thác nguồn tài nguyên tại chỗ làm vật
liệu xây dựng. Xi măng lò đứng đã phát triển ở một số địa phương như Vĩnh Phú
trước đây, Hà Tây, Huế, Quy Nhơn, Hà Tiên, Yên Bái... Tổng sản phẩm VLXD
trong cả nước đã tăng gần 30% so với thời kì 1976 -1980.
1.4.

Giai đoạn 5 năm 1986 – 1990

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI các Nghị quyết của Trung
ương, của Chính phủ về những chủ trương và chính sách đổi mới, ngành Xây
dựng đã có những chuyển biến quan trọng. Các đơn vị kinh tế cơ sở đã nâng
cao ý thức tự chủ, năng động, mở rộng sản xuất kinh doanh theo hướng đa
dạng hoá sản phẩm gắn với thị trường, tận dụng năng lực sẵn có, từng bước
SVTH: Lưu Vũ Tâm _ Lớp Toán Kinh tế 47



Báo cáo Thực tập tổng hợp – Khoa Toán Kinh tế

thoát ra khỏi lối làm ăn theo cơ chế bao cấp trong sản xuất kinh doanh và coi
trọng hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường.
Trong lĩnh vực xây dựng công nghiệp, dân dụng bước đầu thực hiện theo
phương thức đấu thầu, mặc dù đang còn sơ khai. Tuy vậy đã có tác dụng tích
cực thúc đẩy các đơn vị chú ý sắp xếp lại lực lượng lao động, tăng cường đầu
tư cơ sở vật chất kĩ thuật, máy móc thi công để nâng cao chất lượng công
trình và hiệu quả xây lắp. Trong giai đoạn này, tổng giá trị tài sản cố định đã
tăng thêm 2.760 tỉ đồng theo giá năm 1990. Nhiều công trình quan trọng đã
hoàn thành như tổ máy số 3; 4 của Nhà máy nhiệt điện Phả Lại; 4 tổ máy của
Thuỷ điện Trị An; 2 tổ máy Thuỷ điện Hoà Bình; 3 tổ máy Thuỷ điện Trây
Linh; Nhà máy kính Đáp Cầu, dây chuyền Xi măng Kiến Lương, Nhà máy
giấy Tân Mai, các công trình phục vụ khai thác dầu khí... đã góp phần làm
tăng năng lực sản xuất cho nền kinh tế quốc dân. Tốc độ tăng giá trị xây lắp
bình quân hàng năm trong giai đoạn này là 3,7 lần: Năm 1987 tăng 2,52 lần
so với năm 1986, năm 1988 tăng 8 lần so năm 1987, năm 1989 tăng 3,2 lần so
năm 1988, năm 1990 tăng 1,14 lần so năm 1989 mặc dù số lao động giảm từ
518 ngàn người năm 1986 xuống 443 ngàn người năm 1990.
Trong lĩnh vực công nghiệp sản xuất VLXD, các đơn vị quốc doanh trung
ương và địa phương đã tập trung đầu tư cơ sở sản xuất với dây chuyền công
nghệ tiên tiến tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao. sản lượng lớn, thể
hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Các sản phẩm thông thường,
các cơ sở sản xuất nhỏ do các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đảm
nhận, đã phần nào đáp ứng được nhu cầu đa dạng của thị trường, khắc phục
được tình trạng khan hiếm VLXD. Một vấn đề quan trọng là đã tạo được
không khí cạnh tranh tích cực sản xuất giữa các thành phần kinh tế, thúc đẩy
việc sản xuất nhiều chủng loại sản phẩm, chất lượng tốt hơn, giá thành ngày

càng hợp lí hơn. Nhờ chủ trương đúng đắn trên, tốc dộ tăng trưởng ngành vật
liệu xây dựng gấp 2-3 lần so với 5 năm 1981 - 1985.
Trong lĩnh vực quản lí đô thị, xây dựng nhà ở và hạ tầng, thực hiện Nghị
quyết Đại hội Đảng lần thứ VI, ngành Xây dựng đã có những đổi mới trong
nhận thức, trong quan điểm về phát triển đô thị. Từ việc thiết kế quy hoạch,
SVTH: Lưu Vũ Tâm _ Lớp Toán Kinh tế 47


Báo cáo Thực tập tổng hợp – Khoa Toán Kinh tế

thiết kế nhà ở... để Nhà nước đầu tư, thực hiện, chuyển sang cơ chế mới là
quy hoạch xây dựng đô thị, quy hoạch các khu nhà ở để Nhà nước và nhân
dân cùng làm, cùng đầu tư thực hiện. Từ quan điểm trên, công tác thiết kế
quy hoạch đô thị đã được đẩy mạnh. Đến thập kỉ 90, hàng triệu mét vuông
nhà ở đã được xây dựng lại, xây dựng mới, bộ mặt đô thị, cơ sở hạ tầng đô thị
đã có sự chuyển biến đời sống nhân dân được cải thiện một bước.
1.5.

Giai đoạn 5 năm 1991-1995

Quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII về chiến lược
ổn định phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 và các mục tiêu đề ra trong
kế hoạch 5 năm 1991 - 1995, ngành Xây dựng đã có nhiều nỗ lực, tạo được
bước ngoặt quan trọng và đúng hướng trong nhiệm vụ phát triển ngành, góp
phân tích cực thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội của cả nước.
Trong lĩnh vực xây dựng công nghiệp, dân dụng: Các đơn vị xây lắp được
tổ chức sắp xếp lại theo chủ trương của Nhà nước thông qua việc thực hiện
Nghị định 388 HĐBT, đã nhanh chóng ổn định tổ chức sản xuất, hình thành
các doanh nghiệp nhà nước mạnh, tập trung đầu tư nâng cao năng lực thi
công, đã khẳng định được vai trò chủ đạo trong cơ chế thị trường. Do có

những chuyển biến tích cực về đầu tư công nghệ, về tổ chức quản lí, lực
lượng xây dựng quốc doanh ở Trung ương và địa phương tuy có giảm về số
lượng, nhưng giá trị tổng sản lượng vẫn tăng trưởng với nhịp độ cao. Tốc độ
tăng về giá trị xây lắp năm 1991 tăng 1,6 lần so với năm 1990, năm 1992 tăng
2,0 lần so năm 1991, năm 1993 tăng 2,1 lần so năm 1992. năm 1994 tăng 1,8
lần so năm 1993 và năm 1995 tăng 1.28 lần so năm 1994. Bình quân tốc độ
tăng hàng năm về giá trị sản lượng xây lắp trong toàn ngành 76,4%. Các công
trình trọng điểm và quan trọng của Nhà nước như Thuỷ điện Hoà Bình, Vĩnh
Sơn, Yaly, Thác Mơ, đường dây 500 KV Bắc Nam, các nhà máy xi măng Hà
Tiên, Hoàng Thạch, Apatit Lào Cai,... đã được tập trung thi công đảm bảo
tiến độ và chất lượng.
Trong lĩnh vực sản xuất VLXD: Tiếp tục triển khai công cuộc đổi mới,
ngành VLXD đã chuyển từ việc sản xuất và phát triển theo kế hoạch định
SVTH: Lưu Vũ Tâm _ Lớp Toán Kinh tế 47


Báo cáo Thực tập tổng hợp – Khoa Toán Kinh tế

hướng, sang sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà
nước. Bộ Xây dựng đã chủ trương tập trung nguồn lực để phát triển sản xuất,
đổi mới công nghệ những mặt hàng quan trọng như xi măng, kính xây dựng,
sứ vệ sinh, gạch ốp lát và các mặt hàng có tầm chi phối thị trường. Những sản
phẩm thông thường, mang tính truyền thống địa phương, kỹ thuật ít phức tạp
thì khuyến khích các thành phần kinh tế bỏ vốn đầu tư nhằm sản xuất nhiều
sản phẩm đáp ứng nhu cầu xây dựng. Nhờ chủ trương đúng đắn trên, việc đầu
tư về VLXD đã phát triển trong toàn ngành ở các địa phương, ở một số ngành
trung ương và các thành phần kinh tế. Các cơ sở xi măng lò đứng, các cơ sở
gạch xây nung bằng lò tuy-nen, một số cơ sở khai thác và chế biến đá ốp lát
cao cấp, một số nhà máy gạch ceramic, sứ vệ sinh được hình thành trong giai
đoạn này đã góp phần đáng kể trong việc cân đối cung cầu VLXD cho xã hội.

Chất lượng, mẫu mã sản phẩm mới đã được nâng lên ngang với tiêu chuẩn
các nước trong khu vực, được người tiêu dùng chấp nhận, đẩy lui dần việc
nhập khẩu. Kết quả 5 năm 1991-1995, sản lượng các loại VLXD đều tăng gần
2 lần so với 5 năm trước. Tốc độ tăng trưởng bình quân về giá trị tổng sản
lượng của ngành VLXD đạt 17,9%.
Trong lĩnh vực đô thị và nông thôn: Nhận thức đúng đắn vai trò của đô thị,
nông thôn trong thời kì đổi mới, vừa là động lực phát triển kinh tế xã hội, vừa
là hạt nhân thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, ngành
Xây dựng đã tạo được bước chuyến biến quan trọng về quan điểm, về nhận
thức đối với các cấp các ngành trong việc đổi mới nội dung quản lí xây dựng
và phát triển đô thị nông thôn.
Bộ Xây dựng đã phối hợp với các ngành liên quan đề xuất với Chính phủ
ban hành các văn bản pháp quy: các cơ chế chính sách mới về xây dựng đô
thị, xây dựng nhà ở, kinh doanh mua bán nhà, về giá nhà, giá đất đô thị. Đồng
thời đã đổi mới nội dung công tác thiết kế quy hoạch đô thị, nông thôn, nội
dung quản lí xây dựng theo quy hoạch, theo dự án, cải cách thủ tục hành
chính trong cấp giấy phép xây dựng, tổ chức lại hệ thống quản lý xây dựng đô
thị... Nghiên cứu quy hoạch các khu công nghiệp mới, khu dân cư mới: trình
Chính phủ ban hành quy chế quản lí trong quá trình xây dựng và vận hành.
SVTH: Lưu Vũ Tâm _ Lớp Toán Kinh tế 47


Báo cáo Thực tập tổng hợp – Khoa Toán Kinh tế

Trong lĩnh vực khảo sát thiết kế đã đổi mới nội dung và tổ chức, hình thành
các công ty tư vấn xây dựng đám nhiệm chức năng đồng bộ trong các bước
chuẩn bị đầu tư của các dự án xây dựng.
Trong 5 năm 1991-1995, hầu hết các đô thị từ tỉnh lị trở lên đã được điều
chỉnh lại quy hoạch. Việc đầu tư xây dựng ở các đô thị tăng nhanh, trật tự, kỷ
cương được lập lại. Bộ mặt kiến trúc đô thị, đường phố đô thị, vệ sinh môi

trường đô thị được khang trang, sạch đẹp hơn. Nhà ở, nước uống và các dịch
vụ ở các đô thị được cải thiện, nâng cấp một bước mới.
1.6.

Giai đoạn 5 năm 1996 - 2000 và từ năm 2000 đến nay

Sau 10 năm đổi mới, ngành Xây dựng đã tạo được thế và lực để bước vào
thời kì thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo Nghị quyết Đại hội Đảng
lần thứ VIII đề ra. Đây là giai đoạn có nhiều chuyển biến về chất trong sự
phát triển của ngành. Nhiều cơ chế chính sách được Bộ tập trung xây dựng
trong giai đoạn này đã tạo nên khung pháp lí khá đồng bộ. Việc triển khai
mạnh mẽ công tác quy hoạch, chiến lược, định hướng phát triển đã góp phần
nâng cao hiệu quả quản lí ngành ở cấp vĩ mô. Lực lượng sản xuất đã được sắp
xếp lại. Các tổng công ty, công ty mạnh đã được thành lập và củng cố, tiếp
tục đầu tư chiều sâu để đổi mới công nghệ, tăng năng lực sản xuất, khả năng
cạnh tranh của các sản phẩm thuộc ngành, chuẩn bị những tiền đề tiến tới hội
nhập kinh tế khu vực và quốc tế ở giai đoạn sau. Mặc dù ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ và những hậu quả của thiên tai trong 3 năm
1998-2000, mức tăng trưởng có chậm lại, nhưng tốc độ tăng trưởng bình quân
giai đoạn 5 năm 1996-2000 của ngành công nghiệp VLXD đạt khoảng 16,9%,
cao hơn tốc độ tăng trưởng bình quân chung của công nghiệp trong cả nước
khoảng 13%. Giai đoạn này, riêng lĩnh vực xi măng đã được đầu tư khoảng
16.900 tỉ đồng cho các dây chuyền xi măng lò quay và 1.740 tỉ đồng để hoàn
thành chương trình 3 triệu tấn xi măng lò đứng. Năng lực sản xuất xi măng,
từ 6,8 triệu tấn năm 1996 lên 15,53 triệu tấn năm 2000. Năm 1996 - 1998
phải nhập 2,74 triệu tấn xi măng và 2,27 triệu tấn clinker, tốn 198 triệu USD,
đến năm 1999 đã cân đối được nhu cầu và sản xuất trong nước. Lĩnh vực sản
xuất gạch ốp lát ceramic và granite trong ngành Xây dựng có tốc độ phát triển
SVTH: Lưu Vũ Tâm _ Lớp Toán Kinh tế 47



Báo cáo Thực tập tổng hợp – Khoa Toán Kinh tế

cao nhất. Cuối năm 1995 có 2 nhà máy với công suất là 2,1 triệu m2, đến năm
2000 tổng công suất đã đạt gần 48,2 triệu m2, tăng gấp khoảng 23 lần. Kính
xây dựng tăng 3,5 lần. Năng lực sản xuất sứ vệ sinh đến nay đã đạt 2 triệu sản
phẩm/năm, tăng 5,4 lần so với năm 1996. Đặc biệt là chất lượng sản phẩm
VLXD đã tương đương các sản phẩm của khu vực. Một số sản phẩm có thể
thay thế, cạnh tranh với hàng ngoại nhập, bước đầu được xuất khẩu sang các
nước trong khu vực, các nước Châu Âu và Trung Đông.
Trong lĩnh vực xây dựng, việc đổi mới cơ chế quản lí đầu tư và xây dựng
theo hướng phân định rõ quản lí nhà nước và quản lí sản xuất kinh doanh,
giảm sự can thiệp trực tiếp của cơ quan hành chính nhà nước đối với hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tăng tính chủ động sáng tạo của
các thành phần kinh tế trong xây dựng, cạnh tranh để thúc đẩy phát triển và
đổi mới công nghệ. Yếu tố này đã thúc đẩy việc hình thành thị trường xây
dựng có quản lí của nhà nước, khơi dậy tiềm năng của ngành.
Lĩnh vực xây lắp có tốc độ tăng trưởng bình quân 11%/năm. Bộ Xây dựng
có 14 tổng công ty và nhiều công ty trực thuộc. Thời kì này các công trình lớn
về hạ tầng, công nghiệp, dân dụng đã được tập trung xây dựng với tốc độ thi
công nhanh gấp 2-3 lần so với thời kì 1991 - 1995. Các công trình điện lớn
như Yaly, Sông Hinh, Phú Mỹ, Phả Lại 2; các công trình xi măng như Bút
Sơn, Nghi Sơn, Hoàng Mai đã và đang được xây dựng, bước đầu đi vào sản
xuất.
Các doanh nghiệp tư vấn đã trở thành lực lượng có vai trò không nhỏ
trong sự phát triển của Ngành. Nó không chỉ là những đơn vị hoạt động nghề
nghiệp mà còn là đòn bẩy mang lại hiệu quả kinh tế kĩ thuật cao cho xã hội.
Hiện nay trong toàn quốc có khoảng 650 doanh nghiệp tư vấn, trong đó có
khoảng 445 doanh nghiệp nhà nước, thu hút hàng vạn kiến trúc sư, kĩ sư,
chuyên gia các chuyên ngành, các nhà khoa học, cán bộ quản lí của Ngành.

Đội ngũ lớn mạnh nhanh chóng, đã đảm nhận được nhiều việc mà trước đây
đòi hỏi phải thuê chuyên gia nước ngoài.

SVTH: Lưu Vũ Tâm _ Lớp Toán Kinh tế 47


Báo cáo Thực tập tổng hợp – Khoa Toán Kinh tế

Công tác quản lí và phát triển đô thị đã được tập trung chỉ đạo. Bộ đã dự
thảo và được Chính phủ phê duyệt Định hướng quy hoạch tổng thể phát triển
đô thị Việt Nam, Định hướng phát triển cấp nước đô thị, Định hướng thoát
nước đô thị Việt Nam đến năm 2020. Cho đến năm 2000 quy hoạch tổng thể
xây dựng các đô thị lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng
đã được phê duyệt điều chỉnh, đã phê duyệt 11 đô thị loại II, 12 đô thị loại III,
400 quy hoạch xây đựng của các thị trấn, thị tứ và các cụm dân cư nông thôn.
Đây là công việc có ý nghĩa hết sức lớn lao, vừa là công cụ quản lí vừa tạo
điều kiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển đô thị theo quy hoạch và dự
án, tiết kiệm đất đai.
Lĩnh vực cấp thoát nước cũng đã và đang được đầu tư khoảng 850 triệu
USD. Theo định hướng phát triển cấp nước đô thị Việt Nam đến năm 2020,
tổng công suất nước phấn đấu đạt khoảng 8.866.680 m3/ngày đêm so với
công suất hiện tại khoảng 2.116.550m3/ ngày đêm. Tuy nhiên, do sự phát
triển bùng nổ của các đô thị nhiều năm buông lỏng công tác quản lí, sự chồng
chéo chức năng nhiệm vụ của một số ngành và chưa rõ trong phân cấp quản lí
đối với chính quyền địa phương, lĩnh vực phát triển đô thị vẫn còn nhiều bất
cập.
Lĩnh vực phát triển nhà, đã căn bản chấm dứt chế độ bao cấp về nhà ở,
giải quyết chế độ chính sách hỗ trợ về nhà ở cho người có công với cách
mạng, các cán bộ lão thành, quy định về giao dịch dân sự trong lĩnh vực nhà
ở phù hợp với Luật Dân sự, xây đựng chính sách đầu tư phát triển nhà cho

người có thu nhập thấp, đẩy mạnh cơ chế phát triển nhà ở theo dự án nhằm
huy động mọi nguồn lực vào phát triển nhà và hạn chế việc xây dựng tự phát,
lấn chiếm đất công, chương trình xoá nhà ổ chuột trên kênh rạch thành phố
Hồ Chí Minh, chương trình phát triển nhà ở nông thôn đồng bằng sông Cửu
Long đang được tập trung chỉ đạo và đạt nhiều kết quả. Trong 5 năm 1996 2000, thành phố Hồ Chí Minh đã xây dựng mới và sửa chữa 13,6 triệu m2,
Hà Nội xây dựng mới khoảng 1,65 triệu m2 nhà.
2. ĐÁNH GIÁ CHUNG

SVTH: Lưu Vũ Tâm _ Lớp Toán Kinh tế 47


Báo cáo Thực tập tổng hợp – Khoa Toán Kinh tế

2.1.

Về công tác quản lý nhà nước

Từ khi chuyển sang thời kì đổi mới đến nay, Bộ và toàn ngành Xây dựng
đã nỗ lực phấn đấu vượt qua mọi khó khăn thử thách, tạo được chuyển biến
tích cực, đúng hướng và toàn diện trong quản lí nhà nước, chỉ đạo điều hành
và thực hiện phát triển sản xuất kinh doanh.
Bộ đã phân định rõ chức năng quản lí nhà nước và quản lí sản xuất kinh
doanh, mạnh dạn trao quyền tự chủ cho các đơn vị kinh tế cơ sở, hướng dẫn
và thúc đẩy các sở xây dựng thực hiện chức năng quản lí nhà nước đối với
ngành tại các tỉnh, thành phố. Tiến hành các đợt kiện toàn bộ máy cơ quan
Bộ, xây dựng chức năng, nhiệm vụ, quy chế tổ chức cho phù hợp với quy chế
mới. Đồng thời kiện toàn và sắp xếp lại hệ thống tổ chức sản xuất kinh doanh
trong ngành, bằng cách sáp nhập, nâng cấp chuyển hoá mở rộng quyền hạn và
tinh giản bộ máy quản lí tại các đơn vị cơ sở. Tạo môi trường lành mạnh cho
sản xuất và kinh doanh phát triển. Để góp phần đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ

cấu của nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Bộ đã nghiên
cứu đề ra các chiến lược, định hướng phát triển và các cơ chế, chính sách của
ngành. Tổ chức các hội nghị, hội thảo để trao đổi và thống nhất với các cấp,
các ngành về quan điểm, nhận thức đối với các nội dung đổi mới. Bộ đã và
đang soạn thảo mới, bổ sung, thay thế các văn bản pháp quy trình Nhà nước
ban hành, hoặc ban hành theo thẩm quyền để ngày càng hoàn thiện môi
trường pháp lí quản lí các lĩnh vực do Bộ phụ trách cho phù hợp với cơ chế
thị trường, hội nhập các nước. Đồng thời Bộ đã tiến hành nhiều đợt thanh tra,
kiểm tra việc thực hiện các thủ tục, pháp quy, chủ trương, chính sách của
ngành tại nhiều cơ quan, đơn vị thuộc các ngành, các cấp. Đã tổ chức và thúc
đẩy sự hoạt động thường xuyên của hệ thống giám sát chất lượng công trình
xây dựng và sản phẩm vật liệu xây dựng.
2.2.

Về công tác nghiên cứu khoa học kĩ thuật và công nghệ

Công tác này đã có những tiến bộ đáng kể. Từ một viện thí nghiệm vật
liệu xây dựng lúc ban đầu, đến nay trực thuộc Bộ đã có các viện nghiên cứu
về khoa học công nghệ xây dựng, vật liệu xây dựng, kiến trúc, quy hoạch đô
SVTH: Lưu Vũ Tâm _ Lớp Toán Kinh tế 47


Báo cáo Thực tập tổng hợp – Khoa Toán Kinh tế

thị, nông thôn, môi trường, khoa học quản lí kinh tế xây dựng... Các tổ chức
nghiên cứu khoa học kĩ thuật, khoa học quản lí cũng được hình thành ở các
địa phương và các doanh nghiệp. Hàng vạn sáng kiến, hàng ngàn đề tài
nghiên cứu R, nghiên cứu ứng dụng R & D đã được công nhận và phát huy
hiệu quả. Trong thời kì nền kinh tế đất nước còn khó khăn, trang thiết bị yếu
kém... những sáng kiến, những đề tài nghiên cứu đã góp phần tích cực trong

các hoạt động của ngành.
Trong thời kì đổi mới, việc nghiên cứu khoa học công nghệ càng được chú
trọng, đã giải quyết dược hàng loạt vấn đề về chuyển giao công nghệ mới,
ứng dụng những tiến bộ kĩ thuật trong xây dựng, trong sản xuất vật liệu xây
dựng và trong các tiêu chuẩn, quy trình quy phạm để từng bước hội nhập với
cộng đồng thế giới. Đội ngũ những người làm công tác khoa học, công nghệ
đã phát triển và trưởng thành; có khả năng giải quyết nhiều vấn đề kĩ thuật
phức tạp trong xây dựng các công trình công nghiệp, dân dụng quy mô lớn ở
Việt Nam như xử lí nền móng, castơ, xử lí chống lún, chống dội; xây dựng và
lắp ráp nhà máy lớn không có chuyên gia kĩ thuật nước ngoài như Xi măng
Hà Tiên, Xi măng Hoàng Thạch, Xi măng Bút Sơn...; làm chủ được nhiều
công nghệ hiện đại trong công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng như kĩ thuật
sản xuất xi măng theo phương pháp khô, kĩ thuật sản xuất sứ vệ sinh, gạch lát
ceramic, kính xây dựng, công nghê thông tin trong điều hành sản xuất, điều
hành quản lí...
2.3.

Về công tác đào tạo cán bộ

Hết sức được coi trọng, đã bổ sung nhanh cả về số lượng và chất lượng, là
nhân tố và động lực quan trọng trong quá trình phát triển của ngành. Bắt đầu
từ một trường và một lớp nhỏ đào tạo cán bộ kỹ thuật, kiến trúc sư vào cuối
thập kỷ 50, đến nay toàn ngành đã có một hệ thống, một mạng lưới đào tạo
ngành nghề tương đối đồng bộ và hoàn chỉnh, bao gồm các trường đào tạo
kiến trúc sư, kỹ sư, cán bộ quản lí, cán bộ kĩ thuật trên đại học, các trường kỹ
thuật nghiệp vụ, trường đào tạo công nhân kỹ thuật ở trung ương và địa
phương. Cùng với việc đào tạo trong nước, nhiều cán bộ, công nhân được cử

SVTH: Lưu Vũ Tâm _ Lớp Toán Kinh tế 47



Báo cáo Thực tập tổng hợp – Khoa Toán Kinh tế

đi học tập ở nước ngoài đặc biệt là đối với các cán bộ quản lí cán bộ cao cấp
kĩ thuật, quản lí và các công nhân thuộc ngành nghề mới, kĩ thuật phức tạp.
Chất lượng cán bộ kỹ thuật ngày càng được nâng cao, đáp ứng các yêu cầu
về trình độ quản lí, trình độ kỹ thuật chuyên môn, chính trị và ngoại ngữ....
Chất lượng đội ngũ công nhân kĩ thuật cũng được đổi mới, từ tác phong công
nghiệp đến cơ cấu ngành nghề. Hầu hết các công trình xây dựng quy mô lớn,
các sản phẩm vật liệu xây dựng kĩ thuật cao... do trong nước hoặc nước ngoài
đầu tư đều do bàn tay của người công nhân ngành Xây dựng thực hiện và làm
chủ được ngành nghề.
2.4.

Về công tác thi đua

Ngay từ những năm đầu thành lập, Lãnh đạo Bộ, Công đoàn Xây dựng
Việt Nam đã tổ chức và phát động nhiều phong trào thi đua. Từ phong trào thi
đua "Mọi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt" do Chủ tịch Hồ Chí
Minh kêu gọi; phong trào thi đua "Phát huy sáng kiến, cải tiến kĩ thuật, nâng
cao năng suất lao động", phong trào thi đua năng suất cao" trước đây, đến các
phong trào thi đua "Năng suất cao - Quản lí giỏi" hiện nay, là những phong
trào thi đua liên tục được cán bộ, công nhân viên trong ngành hương ứng tích
cực, dấy lên các cao trào lao động sản xuất sôi nổi 50 năm qua. Vận dụng
sáng tạo các phong trào thi đua vào từng nhiệm vụ, từng lĩnh vực công tác,
từng công trình xây dựng, đặc biệt đối với những dự án quan trọng, trọng
điểm của Nhà nước, các phong trào thi đua đã có tác dụng rất lớn. Nhiều nơi
đã trở thành phong trào thi đua quốc tế lôi cuốn được cán bộ công nhân các
nước bạn cùng tham gia như tại công trình Điện Phả Lại, Thuỷ điện Hoà
Bình, Trị An, Apatit Lào Cai, Kính Đáp Cầu, Xi măng Bỉm Sơn tăng và Bảo

tàng Chủ tịch Hồ Chí Minh.... Phong trào thi đua bảo đảm chất lượng công
trình, chất lượng sản phẩm xây dựng" đã cuốn hút cả các ngành, các địa
phương có công trình xây dựng tham gia.
Đảng và Nhà nước đánh giá cao những thành quả của ngành Xây dựng
trong 50 năm qua.

SVTH: Lưu Vũ Tâm _ Lớp Toán Kinh tế 47


Báo cáo Thực tập tổng hợp – Khoa Toán Kinh tế

Những thành quả ngành Xây dựng đã đạt được trong 50 năm qua. trước
hết là nhờ có sư lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch
Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và dẫn dắt. Đó là kết quả của toàn ngành
quán triệt và kiên trì phấn đấu thực hiện nghiêm túc đường lối, chính sách của
Đảng đã được chỉ rõ trong các Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc từng giai
đoạn cách mạng, trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng phát triển đất nước.
Đồng thời, là do cán bộ, đảng viên, công nhân viên trong ngành đã đoàn kết
trên dưới một lòng, lao động cần cù, sáng tạo; vượt mọi khó khăn gian khổ,
vươn lên hoàn thành những nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước giao phó. Trong
quá trình xây dựng, phát triển và trưởng thành, ngành Xây dựng luôn được sự
chỉ đạo của Chính phủ; sự đóng góp tích cực của các ngành ở trung ương,
chính quyền và các cấp uỷ Đảng ở địa phương, các đoàn thể quần chúng; sự
giúp đỡ có hiệu quả của Liên Xô trước đây, Trung Quốc cùng các nước, các
tổ chức quốc tế. Điều đó góp phần đưa ngành Xây dựng phát triển mạnh mẽ
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ kế
hoạch 5 năm 2006 - 2010, vững vàng tiến vào thiên niên kỷ mới xây dựng
Đất nước.

Chương II: Quá trình hình thành, phát triển, cơ cấu tổ chức, chức năng,

nhiệm vụ của Công ty Xây dựng Lũng Lô (Lung Lo construction company –
LCC)
Tên công ty: Công ty Xây dựng Lũng Lô
Tên giao dịch nước ngoài: LUNGLO Construction Company
Tên viết tắt: LCC
Giám đốc: Nguyễn Văn Hùng
*)Địa chỉ trụ sở chính: 162 Trường Chinh - Quận Đống Đa - Hà Nội
SVTH: Lưu Vũ Tâm _ Lớp Toán Kinh tế 47


Báo cáo Thực tập tổng hợp – Khoa Toán Kinh tế

Website:
Điện thoại:(84-4) 3.5633.582 / 3.5633.682 / 3.5635.708
Fax: (84-4) 3.5633.582
Mã số thuế: 01.00779189 – 1
*) Chi nhánh miền Nam:
Địa chỉ: 24 đường 3/2, Quận 10, TP Hồ Chí Minh
Điện thoại: (84-8) 38625978 (0903.942.761)
Fax: (84-8) 38622083

1. SƠ LƯỢC QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY
XÂY DỰNG LŨNG LÔ

1.1. Quá trình hình thành và phát triển
- Công ty xây dựng Lũng Lô là doanh nghiệp Nhà nước được thành lập
ngày 16/11/1989 theo quyết định số 294/QĐ-QP ngày 16/11/1989 của Bộ
trưởng Bộ Quốc Phòng. Đến năm 1993, căn cứ theo nghị định Chính phủ
số 388/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng ( nay là Chính phủ) Bộ Quốc
Phòng đã ra quyết định số 577/QĐQP ngày 26/08/1993 về việc thành lập

Công ty Xây dựng Lũng Lô. Năm 1996, căn cứ vào luật Doanh nghiệp
Nhà nước được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội CHủ nghĩ Việt Nam
thông qua ngày 20/04/1995, Bộ Quốc Phòng đã ra quyết định số
466/QĐQP ngày 17/04/1996 về việc tổ chức tại Công ty Xây dựng Lũng
Lô trên cơ sở sát nhập các Doanh nghiệp bao gồm: Công ty xây dựng
Lũng Lô; Xí nghiệp Khảo sát thiết kế và Tư vấn xây dựng; Công ty xây
dựng 25/3 thuộc binh chủng Công binh – BQP.
- Quá trình hình thành và phát triển của công ty xây dựng Lũng Lô, với số
vốn ban đầu được Nhà nước giao còn ở mức khiêm tốn, tài sản nhỏ bé và
không đồng bộ, đội ngũ cán bộ chưa qua đào tạo quản lí kinh tế, vừa làm
việc vừa học. Tuy nhiên, trong gần 20 năm qua, Công ty Xây dựng Lũng
Lô đã hình thành và phát triển mạnh mẽ, trở thành doanh nghiệp mạnh
trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, có thương hiệu, có uy tín trên thị trường,
đựoc Nhà nước công nhận là doanh nghiệp cấp I vào năm 1999. Công ty
SVTH: Lưu Vũ Tâm _ Lớp Toán Kinh tế 47


Báo cáo Thực tập tổng hợp – Khoa Toán Kinh tế

-

-

-

Xây dựng Lũng Lô đã nhận thầu và hoàn thành hàng trăm dự án lớn nhỏ
của Nhà nước và của Bộ Quốc Phòng, các dự án đã nhanh chóng đưa vào
khai thác, sử dụng có hiệu quả, đóng góp một phần vào công cuộc xây
dựng và phát triển Đất nước. Đặc biệt có nhiều dự án trọng điểm cấp Nhà
nước đã hoàn thành đúng tiến độ, đảm bảo chất lượng đem lại hiệu quả và

uy tín cho Công ty.
Đến nay số vốn tự bổ sung đã lên tới 64 tỷ đồng, gấp 19 lần so với năm
1996 ( là năm sát nhập 3 Doanh nghiệp với số vốn là 3,45 tỷ đồng).
Kể từ khi thành lập mô hình hoạt động của Công ty Xây dựng Lũng Lô là
Doanh nghiệp Nhà nước hạch toán độc lập, trong đó các Xí nghiệp thành
viên hạch toán phụ thuộc, thực hiện cơ chế điều hành tập trung quản lý
chặt chẽ bên cạnh đó có phân cấp và ủy quyền cho các đơn vị cấp dưới
thực hiện tổ chức sản xuất và tự chủ, tự chịu trách nhiệm nên các đơn vị
Xí nghiệp thành viên đã từng bước ổn định và phát triển như hiện nay.
Trong nhiều năm qua, được sự quan tâm giúp đỡ của Thường vụ, Đảng ủy
và Thủ trưởng Bộ Tư lệnh Công binh, biên chế tổ chức của Công ty đã
dần được củng cố ổn định, từng bước phát huy hiệu quả trong công tác
điều hành từ trên xuống dưới đơn vị cơ sở. Công tác đầu tư đã đựoc quan
tâm chú trọng đến giải pháp công nghệ chuyên nghành sâu, thiết bị hiện
đại có năng suất lao động cao hơn, đáp ứng cho nhiều dự án lớn có tình
chất phức tạp về kĩ thật và yêu cầu tiến đọ gập. Công tác đào tạo đội ngũ
cán bộ quản lý, cán bộ chuyên môn kĩ thuật và công nhân có tay nghề cao
đã được chú trọng trong nhiều năm qua. Đến nay, lực lượng này đã phát
triển về số lượng và chất lượng tốt đáp ứng được nhiệm vủ sản suất kinh
doanh trong điều kiện cạnh tranh, hội nhập và phát triển trong tương lai.
Trước tình hình và nhiệm vụ mới của Quân đội, năm 2002, Bộ trưởng Bộ
Quốc Phòng đã ra quyết định số 77/QĐBQP ngày 11/06/2002 về việc
thành lập lữ đoàn công binh công trình dự bị động viên 253 trên cơ sở
khung dự bị động viên của Công ty Xây dựng Lũng Lô nhăm nâng cao
năng lực thực hiện nhiệm vụ dự bị động viên trong thời bình của cán bộ
chiến sĩ công ty xây dựng Lũng Lô cũng như gắn công tác huấn luyện sự
bị động viên tại địa phương nơi tuyển quân, các năm qua, lữ đoàn đã huấn
được 02 đợt quân dự bị với tổng quân số huấn luyện trên 600 lượt cán bộ

SVTH: Lưu Vũ Tâm _ Lớp Toán Kinh tế 47



Báo cáo Thực tập tổng hợp – Khoa Toán Kinh tế

chiến sĩ đảm bảo chất lượng, thời gian, nội dung huấn luyện theo quy định
cấp trên.
- Giấy chứng nhận Doanh nghiệp hạng I do Bộ Quốc phòng cấp.
Trong suốt quá trình hoạt động từ khi thành lập đến nay, Công ty
Xây dựng Lũng Lô luôn luôn hoàn thành xuất sắc cả hai nhiệm vụ Quốc
phòng và Kinh tế. Thành tích hoạt động của đơn vị đã được Nhà nước và
Bộ Quốc Phòng, Bộ Tư lệnh Công binh,… tặng nhiều huân chương, huy
chương, bằng khen, và nhiều tặng phẩm thi đua khác.
1.2. Chức năng nhiệm vụ và ngành nghề Kinh doanh của Công ty
Xây dựng Lũng Lô
- Chức năng nhiệm vụ chủ yếu của Công ty được giao:
1. Xây dựng các công trình có tính chất đặc thù An ninh-Quốc phòng;
2. Rà phá bom mìn và xử lý vật liệu nổ;
3. Cứu sập, cứu hộ, cứu nạn, phòng chống lụt bão, giảm nhẹ thiên tai;
4. Thực hiện nhiệm vụ lữ đoàn nhiệm vụ động viên 253.
- Ngành nghề Kinh doanh:
1. Thi công xây lắp các công trình công nghiệp, dân dụng, giao thông,
thủy lợi và các công trình ngầm, sân bay, cảng sông biển;
2. Duy tu, tôn tạo, sửa chữa, nâng cấp các công trình bảo tồn, bảo tàng và
di tích lịch sử;
3. Thi công xây lắp các công trình đường dây và trạm biến áp đến 35 KV;
4. Đầu tư phát triển hạ tầng và kinh doanh nhà;
5. Tư vấn, khảo sát, thiết kế xây dựng;
6. Sản xuất, kinh doanh vật liệu xây dựng;
7. Khảo sát, dò tìm và xử lý bom, mìn, vật nổ;
8. Xây lắp đường cáp quang (các công trình bưu điện - viễn thông);

9. Lắp đặt, sửa chữa hệ thống cấp thoát nước;
10.Sản xuất kinh doanh bê-tông nhựa nóng;
11.Khai thác quặng sắt;
12.Khai thác quặng Bô-xít;
13.Khai thác kim loại quý hiếm;
14.Khai thác đá, cát, sỏi, đất sét.
2. CƠ CẤU TỔ CHỨC BỘ MÁY CỦA CÔNG TY XÂY DỰNG LŨNG LÔ

2.1. Sơ đồ hệ thống tổ chức
Đội ngũ cán bộ khoa học của công ty không ngừng phát triển cả về số
lượng và chất lượng. Công ty thường xuyên cử cán bộ, công nhân kỹ thuật
SVTH: Lưu Vũ Tâm _ Lớp Toán Kinh tế 47


Báo cáo Thực tập tổng hợp – Khoa Toán Kinh tế

tham gia các lớp học, khóa học về quản lý, kỹ thuật, kiêm soát chất lượng
nhằm đáp ứng được nhu cầu phát triển không ngừng của công ty. Công tác
trẻ hóa đội ngũ các bộ kỹ thuật và quản lý được chú trọng, Công ty luôn
tạo điều kiện khuyến khích và tiếp nhận đội ngũ các bộ trẻ có trình độ,
chuyên môn kỹ thuật chuyên nghành giỏi, đội ngũ công nhân kỹ thuật có
tay nghề cao, tiếp thu được trình độ khoa học công nghệ hiện đại.

TỔ CHỨC NGUỒN NHÂN LỰC CỦA CÔNG TY

SVTH: Lưu Vũ Tâm _ Lớp Toán Kinh tế 47


Báo cáo Thực tập tổng hợp – Khoa Toán Kinh tế


2.2. Hệ thống tổ chức Quản lý sản xuất của công ty hiện nay
2.2.1.
Ban Giám đốc
- Quân số:
05 người
- Trình độ quản lý:
+ Phân theo các chuyên ngành quản lý Kinh tế và Tài chính
Trên Đại học:
02 người
Đại học:
03 người
+ Phân theo chuyên môn
Kinh tế:
Thạc sỹ
02 người
Đại học
03 người
Kỹ thuật: Đại học
01 người
Chính trị: Trên Đại học
01 người
2.2.2.
Phòng kế hoạch
Tổng số: 07 người.
Trình độ: Đại Học: 07 người.
Nhiệm vụ:
- Là cơ quan tham mưu, tổng hợp giúp ban Giám đốc Công ty điều hành,
quản lý sản xuất kinh doanh và triển khai thực hiện nhiệm vụ quân sự,
SSCĐ, phòng chống lụt, bão trong toàn Công ty;
- Xây dựng và quản lý kế hoạch thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh

hàng năm, kế hoạch sản xuất trung và dài hạn của công ty;
- Căn cứ vào định mức Kinh tế - kỹ thuật nội bộ và thực tế thi công, chủ trì
xây dựng kế hoạch giá thành các dự án, công trình, trình Giám đốc phê
duyệt.
- Hướng dẫn, quản lý, triển khai và duy trì thực hiện Pháp luật Nhà nước và
Quy chế của Bộ Quốc Phòng, Bộ Tư Lệnh trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của Công ty;
- Quản lý đất dai nhà xưởng của toàn Công ty;
- Giúp ban Giám đốc Công ty chỉ đạo, quản ly, theo dõi các hoạt động Liên
doanh, liên kết, Công ty cổ phần;
- Quản lý và triển khai các hợp đồng Kinh tế, hợp tác kinh doanh;
- Tham gia thẩm định giá thành và duyệt kế hoạch thi công của các đơn vị
thành viên và từng dự án;
SVTH: Lưu Vũ Tâm _ Lớp Toán Kinh tế 47


Báo cáo Thực tập tổng hợp – Khoa Toán Kinh tế

- Thực hiện công tác tiếp thị tìm kiếm thị trường, tìm các đối tác có năng
lực để công ty hợp tác kinh doanh;
- Tham gia lập hồ sơ đấu thầu các dự án. Chỉ đạo, hướng dẫn giúp các đơn
vị thành viên lập hồ sơ đấu thầu;
- Định kì hoặc đột xuất tổng hợp tình hình hoạt động của công ty phục vụ
công tác quản lý, điều hành và báo cáo BTL, BQP, các cơ quan quản lý
Nhà nước theo quy định.
2.2.3.
Phòng tổ chức Lao động và tiền lương
Tổng số: 06 người
Trình độ: Đại học: 05 người ; Trung cấp: 01 người
Nhiệm vụ:

- Tham mưu cho ban Giám đốc và xây dựng, tổ chức thực hiện kế hoạch
bảo đảm quân số, tuyển dụng, đào tạo và sự dụng lao động trong toàn
Công ty;
- Thực hiện và hướng dẫn các đơn vị thành viên quản lý đội ngũ QNCN,
CNVQP và các đối tượng hợp đồng lao động trong doanh nghiệp theo quy
định của bộ luật lao đông, điều lệ quản lý QNCN của BQP và quy chế
tuyển dụng lao động của Công ty;
- Tham gia xây dựng và trình duyệt đơn giá tiền lương, tổng quỹ lương đối
với Công ty và các đơn vị thành viên. Hướng dẫn thực hiện các quy định
cảu Nhà nước, BQP về chế độ lao đông tiền lương trong doanh nghiệp;
- Là Ủy viên thường trực của hội đồng tiền lương của Công ty;
- Tổ chức làm và quản lý sổ lao động, sổ bảo hiểm cho Cán bộ công nhân
viên, người Lao động trong toàn Công ty theo quy định;
- Tổng hợp, đề nghị và tổ chức hướng dẫn thực hiện thi nâng bậc, xét nâng
lương hàng năm cho QNCN, CNVQP, lao động hợp đồng trong toàn công
ty theo đúng chính sách của Nhà nước và Quân đội;
- Hướng dẫn các đơn vị thành viên thực hiện tốt công tác quản lý lao động,
tiền lương và kiểm tra đôn đốc việc chấp hành các chế độ, chính sách theo
quy định;
- Tham mưu cho Giám đốc giải quyết tranh chấp hợp đồng lao động;
SVTH: Lưu Vũ Tâm _ Lớp Toán Kinh tế 47


Báo cáo Thực tập tổng hợp – Khoa Toán Kinh tế

- Tổng hợp và báo cáo lên cấp trên những nội dung về tổ chức lực lượng,
lao động tiền lương theo định kì và đột xuất.
2.2.4.
Phòng Tài chính
Tổng số: 10 người

Trình độ: Thạc sỹ: 01 người; Đại học cao đẳng: 08 người; Trung cấp:
01 người
Nhiệm vụ:
- Tham mưu cho Giám đốc Công ty về công tác quản lý tài chính kế toán;
huy động và sử dụng có hiệu quả vốn trong kinh doanh;
- Duy trì và thực hiện đầy đủ chế độ thống kê kế toán, phân tích hoạt động
sản xuất kinh doanh của Công ty đúng pháp luật, đúng quy định của Nhà
nước, BQP, BTL Công binh. Cung cấp đầy đủ kịp thời và chính xác số
liệu, các thông tin về tài chính cho Giám đốc Công ty;
- Định kì hoặc đột xuất lập các Báo cáo tài chính - Kế toán phục vụ công tác
quản lý của Công ty và báo cáo các cơ quan cấp trên theo quy định;
- Phối hợp với các Phòng, Ban chức năng xây dựng kế hoạch sản xuất kinh
doanh, trong đó trọng tâm là kế hoạch huy động và sử dụng vốn trong
từng thời kì sản xuất, công tác thanh toán định kì tháng, quý, năm với các
chủ đầu tư và các nhà cung cấp. Thực hiện phân tích hoạt động sản xuất
kinh doanh và hoạt động tài chính của Công ty;
- Hướng dẫn nghiệp vụ Tài chính kế toán, chỉ đạo, kiểm tra, thực hiện quyết
toán chính định kì cho các đơn vị thành viên;
- Bảo đảm giải quyết kịp thời về vốn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh
theo kế hoạch được duyệt.
- Thực hiện việc kiểm tra và tham mưu cho Giám đốc Công ty về công tác
quản lý, bảo toàn phần vốn góp, vốn vay của Công ty trong hoạt động sản
xuất kinh doanh.
2.2.5.
Phòng Chính trị
Tổng số: 08 người
Trình độ: Đại học cao đẳng: 08 người
Nhiệm vụ:
- Đảm nhiệm Công tác Đảng, Công tác Chính trị trong Công ty, hoạt động
dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng ủy( Thường vụ) Công ty, sự chỉ đạo

chủa cục Chính trị Binh chủng. Căn cứ vào kế hoạch của Cụ Chính trị,
nghị quyết của Đảng ủy Công ty, mệnh lệnh của Giám đốc và chỉ đạo,
SVTH: Lưu Vũ Tâm _ Lớp Toán Kinh tế 47


Báo cáo Thực tập tổng hợp – Khoa Toán Kinh tế

-

-

-

-

-

-

-

hướng dẫn của Phó Giám đốc, hướng dẫn của Phó Giam đốc về Chính trị,
đề xuất biện pháp, nội dung hoạt động Công tác Đảng, Công tác Chính trị
của Công ty, thông qua Đảng ủy ( Thường vụ) và Giám đốc xem xét,
quyết định;
Trực tiếp tiến hành các nội dung giáo dục Chính trị theo quy định; tham
mưu cho Đảng ủy, Thường vụ về công tác tư tưởng, công tác tổ chức xây
dựng Đảng, công tác cán bộ;
Thực hiện tốt các nhiệm vụ về công tác dân vận; quan hệ chặt chẽ với cấp
ủy Đảng và Chính quyền và nhân dân địa phương nơi đóng quân, các đơn

vị bạn góp phần xây dựng địa bàn an toàn;
Quản lý nắm chắc tình hình Chính trị nội bộ; tham mưu cho Đảng ủy
(Thường vụ), ban Giám đốc Công ty thực hiện nghiêm quyết định 502 và
quy chế 635 của BQP trong hoạt động kinh tế đối ngoại;
Cùng với phòng Tổ chức – Lao động - Tiền lương tham mưu cho ban
Giám đốc và tổ chức hướng dẫn, kiểm tra kết quả thực hiện công tác chính
sách đối với cán bộ công nhân viên chức và người lao động;
Chỉ đạo các tổ chức quần chúng ( đoàn thanh niên, công đoàn, hội phụ nữ)
hoạt động đúng chức năng, có hiệu quả.
2.2.6.
Phòng Kỹ thuật trang bị - vật tư
Tổng số: 05 người
Trình độ: Đại học: 03 người; Trung cấp: 01; Sơ cấp: 01
Nhiệm vụ:
Tham mưu giúp ban Giám đốc xây dựng hệ thống quản lý trang bị , vật tư
và đảm bảo kỹ thuật trong toàn Công ty;
Thực hiện chế độ quả lý, theo dõi chất lượng, số lượng, giá trị trang thiết
bị, vật tư, vũ khí, khí tài theo quy định của BQP và BTLCB trong toàn
Công ty;
Lập báo cáo về trang thiết bị định kì, đột xuất lên cơ quan cấp trên theo
chế độ;
Làm các thủ tục đăng kí nguồn gốc, lưu hành trang thiết bị như quy định;
Tham mưu cho ban Giám đốc Công ty xây dựng và tổ chức thực hiện kế
hoạch đầu tư, mua sắm trang thiết bị, vật tư trong toàn Công ty;
Tham mưu cho ban Giám đốc Công ty và tổ chức thực hiện kế hoạch sửa
chữa, điều động và thanh xử lý trang thiết bị và tài sản cố định;

SVTH: Lưu Vũ Tâm _ Lớp Toán Kinh tế 47



Báo cáo Thực tập tổng hợp – Khoa Toán Kinh tế

- Nghiên cứu đề xuất và triển khai, hướng dẫn áp dụng các dây chuyền công
nghệ trang thiết bị tiên tiến có năng suất, hiệu quả cao;
- Bảo đảm, quản lý, theo dõi việc sử dụng vật liệu nổ công nghiệp phục vụ
tuân thủ theo đúng quy định của Nhà nước và BQP;
- Theo dõi và chỉ đạo việc thực hiện các hợp đồng mua sắm trang bị, vật tư
phục vụ sản xuất kinh doanh trong toàn Công ty;
- Triển khai quy hoạch và xây dựng các cơ sở đảm bảo kỹ thuật như nhà xe,
nhà kho, trạm sửa chữa tại những địa bàn trọng điểm hoạt động của Công
ty;
- Kiểm tra, duy trì chế độ bảo quản, bảo dưỡng theo đúng quy định nhằm
nâng cao hệ số kỹ thuật của xe, máy;
- Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý kĩ thuật của các Xí
nghiệp, công trường nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý và khai thác có hiệu
quả trang bị, vật tư;
2.2.7.
Phòng Kỹ thuật thi công
Tổng số: 10 người
Trình độ: Đại học :09 người; Trung cấp : 01người
Nhiệm vụ:
- Tham mưu cho ban Giàm đốc Công ty về công tác chỉ đạo điều hành thi
công các dựu án đảm bảo quy trình, quy phạm kỹ thuật, đảm bảo chất
lượng, tiến độ của các dự án toàn công ty;
- Chỉ đạo, quản lý, hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện, tuân thủ các quy
trình, quy phạm kỹ thuật chuyên nghành trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của Công ty;
- Chịu trách nhiệm lập, triển khai và kiểm tra phương án, thiết kế biện pháp
tổ chức thi công, tiến độ các công trình của Công ty; chỉ đạo phương án,
thiết kế biện pháp tổ chức thi công cho các đơn vị thành viên;

- Lập hồ sơ thiết kế kỹ thuật phục vụ công tác đấu thầu. Xây dựng định mức
kinh tế kỹ thuật và tiêu chuẩn sản phẩm nội bộ;
- Chủ trì công tác nghiệm thu nội bộ cho các đơn vị thành viên;
- Kiểm tra, giám sát việc duy trì hệ thống đảm bảo chất lượng nội bộ toàn
Công ty;
- Dùy trì, kiểm tra, giám sát và chỉ đạo công tác bảo hộ và an toàn lao động
trong toàn Công ty.
2.2.8.
Văn phòng công ty
SVTH: Lưu Vũ Tâm _ Lớp Toán Kinh tế 47


×