Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

MỘT số KHÁI NIỆM TRONG xã hội học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.7 KB, 23 trang )

MỘT SỐ KHÁI NIỆM TRONG XÃ HỘI HỌC
I.CƠ CẤU XÃ HỘI:
Là mô hình của các mối liên hệ giữa các thành phần cơ bản trong một
hệ thống xã hội. Những thành phần này tạo nên bộ khung cho tất cả
các xã hội loài người, mặc dầu tính chất của các thành phần và các
mối quan hệ giữa chúng biến đổi từ xã hội này sang xã hội khác.
Nói đến cơ cấu xã hội là nói đến các yếu tố tạo nên một chỉnh thể xã
hội và những mối quan hệ đa dạng, phức tạp giữa các cá nhân và các
tổ chức xã hội. Theo định nghĩa trên (của Osipov) thì, cơ cấu xã hội sẽ
bao gồm: vị thế và địa vị xã hội, vai trò, nhóm, các thiết chế xã hội.
1. Vị thế xã hội:
Vị thế là vị trí của một người trong cơ cấu tổ chức xã hội theo sự thẩm
định, đánh giá của xã hội.
Vị thế xã hội được tạo thành từ nhiều yếu tố khác nhau. Các cá nhân
và nhóm xã hội xác lập chỗ đứng của mình dưới tác động của các yếu
tố này. Chúng bao gồm các đặc điểm sinh lý, trình độ học vấn, tài sản,
nghề nghiệp, dòng dõi…
2. Địa vị xã hội:
Là sự phản ánh vị thế xã hội của cá nhân, do cá nhân đạt được ở trong
một nhóm hoặc là một thứ bậc trong nhóm này khi so sánh với thành
viên trong nhóm khác.
Vị thế xã hội tạo cho người hoạt động, và mỗi người trong xã hội tuy
có nhiều vị thế xã hội khác nhau nhưng nhất định phải có một vị thế
then chốt, trong trường hợp đó, người ta gọi là địa vị xã hội.
3. Vai trò xã hội:
Là những hành động, hành vi ứng xử, những khuôn mẫu tác phong mà
xã hội chờ đợi hay đòi hỏi ở một người hay một nhóm xã hội nào đó
phải thực hiện trên cơ sở vị thế của họ. Đây là một trong những khái
niệm cơ bản của xã hội học.
4. Nhóm xã hội:
Một tập hợp các thành viên có những nét tương đồng với nhau về nghề


nghiệp, khu vực cư trú, đặc trưng văn hoá, ngôn ngữ…không những
thế họ còn có một ý thức chung và một sự kết cấu nào đấy với nhau
trong hành động dựa trên những giá trị và mục tiêu thống nhất.


5. Thiết chế xã hội:
Là một cơ cấu tổ chức tương đối có tính cách vĩnh cửu, của những
khuôn mẫu xã hội, vai trò và những tương quan con người thực hiện
theo một số lề lối đã được chế tài và thống nhất với mục đích thoả
mãn những nhu cầu xã hội căn bản.
Dù định nghĩa thế nào thì khi đề cập đến thiết chế xã hội người ta nói
đến một thực thể tổ chức xã hội mà thực thể ấy có sức mạnh mang tính
kiểm soát xã hội.
Đặc điểm (trang 80):
- Thiết chế xã hội nảy sinh trên cơ sở điều kiện kinh tế - xã hội nhất
định.
- Thiết chế xã hội tác động kìm hãm hay thúc đẩy ngược trở lại đối với
điều kiện kinh tế - xã hội.
- Thiết chế xã hội phản ánh tính giai cấp rõ rệt: mang tính giai cấp,
mang hệ tư tưởng giai cấp thống trị và phản ánh quyền lợi của giai cấp
đó.
- Trong một xã hội, thường tồn tại nhiều thiết chế xã hội, các thiết chế
này có vai trò tương hỗ, bổ sung cho nhau.
- Thiết chế xã hội càng hoàn thiện thì xã hội càng phát triển, chúng
xác định vị trí, chức năng của các cá nhân và tổ chức xã hội cành rõ
ràng. Trong điều kiện phát triển bình thường, thiết chế xã hội tỏ ra
bình thường vững chắc, nhưng khi chúng không còn khả năng vận
hành và đáp ữmg các nhu cầu xã hội nữa chúng sẽ bị cá nhân hoặc xã
hội loại bỏ.
Chức năng (trang 82):

Điều hoà các mối quan hệ xã hội và kiểm soát xã hội.
- Con người là một sản phảm của thế giới tự nhiên và xã hội, bản thân
con người dù có được quá trình xã hội hoá diễn ra mạnh mẽ đến đâu
cũng khó có thể xoá bỏ hoàn toàn phần tự nhiên vốn có. Chính vì vậy
mà không phải lúc nào con người cũng có thể hành động theo đúng
chuẩn mực và quy tắc xã hội. Chính vì thế, xã hội chứ không ai khác,
cần phải có những thiết chế, chế tài nhằm kiểm soát các hành vi có
tính bản năng hoặc cố tình lệch chuẩn của con người.
- Theo quan điểm của Mac-xit, con người là tổng hoà của các mối
quan hệ xã hội. xã hội là tập hợp của nhiều cá nhân, trong đó mỗi cá
nhân có một vị thế xã hội nhất định và họ xác lập mạng lưới quan hệ


xã hội, dựa trên lợi ích và vị thế của quan hệ đó và họ tồn tại trong
một cơ cấu xã hội. Quan hệ đó tạo nên một mạng lưới quan hệ chằng
chịt và phức tạp. Vì vậy, để duy trì trật tự xã hội cần phải biết điều tiết
các mối quan hệ xã hội phức tạp ấy sao cho chúng ở trạng thái cân
bằng và không dẫn đến sự phá vỡ cấu trúc xã hội.
+ Tạo các khuôn mẫu hành vi, có sẵn mang tính định chế
+ Đưa ra các khuôn mẫu vai trò.
+ Kiểm soát hành vi và việc thực hiên vai trò xã hội của cá nhân.
Hạn chế (trang 83):
Do phải duy trì, bảo vệ các khuôn mẫu hành vi nhằm ổn định xã hội
cho nên chúng ít nhiều cản trở đến tốc độ của sự biến chyển, phát triển
của xã hội. Đồng thời tính khuôn mẫu đã hạn chế tính đột phá, sáng
tạo của cá nhân và đôi khi họ trở nên thiếu trách nghiệm trong việc
thay đổi hay xoá bỏ các định chế đã lõi thời.
6. Hành động xã hội:
Đây là một khái niệm xã hội căn bản trong xã hội học được M. Weber
đặc biệt quan tâm, theo ông hành động xã hội:

Là những hành động được chủ thể gắn cho nó một ý nghĩa chủ quan
nào đó, là hành động có liên quan đến người khác và được định hướng
đến người khác trong quá trình và đường lối của nó. Như vậy, một
hành động được xem là hành động xã hội khi nó liên quan đến người
khác.
Trong đó, M. Weber đặc biệt quan tâm đến động cơ thúc đẩy có trong
ý thức của chủ thể, là nguyên nhân của hành động. Chính nhờ yếu tố
này, ông đã chia hành động xã hội thành 4 loại: cảm xúc, truyền
thống, thuần tuý giá trị, thuần tuý mục đích.
Đặc điểm (4 đặc điểm):
(Tên gọi, phương thức biểu đạt mối qua hệ, chủ thể là con người, tập
hợp các cử chỉ có chủ định)
+ Thường mang một tên gọi nhất định, những tên gọi này, mọi người
trong xã hội thiểu theo một nghĩa nhất định. Thông qua tên gọi đó, xã
hội có thể kiểm soát hành động của con người mà họ không cần bất kỳ
một sự mô phỏng nào cả.
+ Diễn ra phổ biến trong đời sống xã hội, chính vì vậy nó trở thành
phương thức biểu đạt thể hiện mối quan hệ giữa con người với con


nguời, con người với môi trường tự nhiên, con người với môi trường
xã hội. Hay nói cách khác là một phương thức đặc biệt biểu đạt mối
quan hệ giữa con người với thế giới bên ngoài. Mối quan hệ đó chỉ có
thể được giải thích khi con người thực hiện các hành động xã hội.
+ Do con người thực hiện, hay chủ thể của các hành động xã hội phải
là con người, nhưng con người không phải lúc nào cũng được làm
theo ý muốn chủ quan của bản thân, hành động của họ phụ thuộc và
chịu sự kiểm soát của điều kiện kinh tế, nơi họ đang sống. Ngoài ra
hành động đó còn chịu sự chi phối tuỳ thuộc vào trình độ nhận thức
của chủ thể và những chuẩn mực xã hội mà chủ thể đó đang theo đuổi.

+ Về bản chất là tập hợp của các cử chỉ có chủ định của con người để
phản ứng trở lại các tác nhân bên ngoài. Điều đó cho thấy tại sao,
trong cùng một hoàn cảnh giống nhau con người lại có những hành
động khác nhau và kết quả hành động của họ cũng khác nhau!
Cấu trúc: (6 thành tố)
(Nhu cầu, động cơ, chủ thể, hoàn cảnh, phương tiện, mục đích hành
động)
Nhu cầu: là những mong muốn của chủ thể về các yếu tố vật chất và
tinh thần nhằm đảm bảo sự tồn tại và phát triển của con người xã hội.
Nhu cầu là khởi điểm của hành động, không có nhu cầu thì không có
hành động! Nhu cầu mang bản chất khác nhau cũng tạo thành những
hành động khác nhau.
Động cơ: là nhu cầu được ý thức hoá và được phản ánh trong tư duy
của chủ thể tạo thành động lục cho hành động diễn ra. Động cơ luôn
tồn tại trong suy nghĩ, trong ý thức của chủ thể cho nên nó rất khó có
thể hiểu và đoán biết một cách chính xác đâu là động cơ đích thực
đằng sau hành động đã diễn ra.
Chủ thể: trong các trường hợp cụ thể, chủ thể không phải là hững con
người chung chung mà phải là một đối tượng hay một tổ chức xã hội
liên quan trực tiếp hay gián tiếp gây ra hành động.
Hoàn cảnh: liên quan đến các yếu tố như không gian, thời gian, địa
điểm diễn ra hành động. Các yếu tố này có tác động trực tiếp hoặc
gián tiếp đến hành động đã, đang và sẽ diễn ra.
Phương tiện: là những yếu tố mà chủ thể dùng để thực hiện hành động
và đạt được mục đích. Trong xã hội hiện đại, khi hành động trở nên
phúc tạp thi các phương tiện, công cụ cũng trở nên đa dạng, phức tạp
hơn. Vì vậy muốn để hành động xã hội thực sự trở thành phương thức


chủ yếu giúp con người và xã hội phát triển, cần phát triển hệ thống

phương tiện và công cụ, nhất là công cụ sản xuất
Mục đích: là cái đích mà hành động cần đạt tới. Mục đích được xác
định rõ ràng có vai trò định hướng cho hành động và giúp cho chủ thể
dễ dàng đạt được hiệu quả cao. Hành động không đạt được mục đích
là hành động chưa hoàn thành.
Lưu ý: (tính tự nhiên và xã hội trong hành động xã hội của con
người).
Hành động xã hội là một hoạt động do con người là chủ thể. Mà con
người là tổng hoà các mối quan hệ, ngoài phần bản năng (phần tự
nhiên – phần con), con người còn là sự hợp thành của phần xã hội
(phần người), các hành động của con người một mặt chịu sự chi phối
của chủ thể, mặt khác chịu sự kiểm soát của xã hội thông qua các
chuẩn mực và thiết chế mà xã hội đưa ra. Sự kết hợp hài hoà tạo nên
hình hài một con người cá nhân (con người xã hội).
Do phần con – bản năng không dễ gì xoá bỏ, nên các hành động của
con người chịu sự quy định của các yếu tố tự nhiên. Đến nay con
người vẫn chưa hiểu biết hết về mình, tất cả còn đang là ẩn số, chưa có
lời giải đáp. Mặc dù sự liên hệ giữa phần tụ nhiên với hành động của
con người chỉ chiếm số ít, nhưng xã hội học không hể phủ nhận sự
quy định này!
Bên cạnh đó, hành động của con người còn chịu ảnh hưởng tối đa của
xã hội. Người ta gọi đó là quá trình xã hội hoá. Xã hội hoá là một diễn
trình ảnh hưởng tương hỗ giữa một người và một người khác, kết quả
là sự chấp nhận những chuẩn mực, tác phong mà xã hội đưa ra và
thích nghi với chuẩn mực đó. Thực chất là một quá trình cá nhân học
tập xã hội, không cá nhân nào tồn tại trong xã hội mà không chịu sự xã
hội hoá này. Thông qua quá trình xã hội hoá, những quy tắc, khuôn
mẫu, chuẩn mực được tổng hợp hoá và chuyển hoá thành những mẫu
mực hướng dẫn hành vi ứng xử và hành động của con người.
7. Tương tác xã hội:

Là một quá trình giao tiếp hay trao đổi giữa các cá nhân và các cộng
đồng, trong đó mối quan hệ qua lại của chúng được thực hiện, hành
động xã hội được diễn ra và đạt được sự thích ứng của một hành động
này với hành động khác.
Hành động xã hội là cơ sở để hình thành nên tương tác xã hội, không
có hành động xã hội sẽ không có tương tác xã hội và cũng sẽ không có


tương tác xã hội nếu chỉ có một hành động xã hội độc lập diễn ra! Về
bản chất chúng là tác động qua lại được thực hiện trực tiếp hay gián
tiếp qua phương tiện ngôn ngữ.
Chủ thể của tương tác xã hội đóng vai trò quan trọng trong hệ thống
tương tác xã hội, chủ thể đó là con người hay nhóm xã hội, mang
tương tác xã hội và thực hiện tương tác xã hội. Chủ thể của tương tác
xã hội còn phải đóng vai trò là là khách thể của tương tác xã hội nếu
muốn xác lập được những mối quan hệ nhất định với những con người
trong xã hội với nhau.
8. Quan hệ xã hội:
Là quan hệ giữa người với người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội.
Hành động xã hội là cơ sở hình thành tương tác xã hội, tương tác xã
hội tiếp tục làm cơ sở tạo nên quan hệ xã hội. Tuy nhiên không phải
mọi tương tác xã hội đều hình thành quan hệ xã hội, chỉ những tương
tác có mục đích, có kế hoạch ổn định và lặp lại thì mới có thể hình
thành quan hệ xã hội.
Được chia làm hai cấp độ: vĩ mô (nhóm xã hội) và vi mô (các cá
nhân).
9. Văn hoá:
Văn hoá là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo ra trong quá trình thực tiễn lịch sử xã hội và đặc trưng cho

trình độ đạt được trong sự phát triển của lịch sử xã hội. (Triết học)
Trên phương diện Xã hội học: Văn hoá là những chân lý, giá trị, chuẩn
mực những mục đích mà con người chia sẻ với nhau trong tương tác
trải qua thời gian.
Văn hoá là một trong những mặt cơ bản của đời sống xã hội, là một
tập hợp rộng lớn bao trùm lên nhiều lĩnh vực của đời sống. Do đó phải
xét văn hoá trên tính hệ thống.
Văn hoá là sự khu biệt giữa xã hội này với xã hội khác, đem lại diện
mạo, bản sắc riêng cho cộng đồng ấy, xã hội ấy. Đó là tín đặc thù của
văn hoá. Không có một dân tộc nào lại không có văn hoá dù ở mức
thang phát triển nào của xã hội. Văn hoá là nền tảng xã hội, là chất keo
gắn kết các thành viên trong cộng đồng với nhau. Muốn hiểu được văn
hoá của một cộng đồng, trước hết ta cần nắm được hệ thống biểu
tượng và ngôn ngữ của cộng đồng đó.


Biểu tượng là bất cứ vật gì mang một ý nghĩa riêng bịêt mà tất cả mọi
nguời trong cộng đồng đều có khả năng nhận biết được. do quá quen
thuộc vì gán liền với cuộc sống của chúng ta nên đôi khi ta không
nhận ra được tầm quan trọng của nó. Biểu tượng thay đổi theo thời
gian, nếu không có biểu tượng, cuộc sống của chúng ta sẽ trở nên xơ
cứng. Biểu tượng là cách mà con người gán ý nghĩa cho cuộc sống.
Ngôn ngữ là hệ thống các biểu tượng mà ý nghĩa đã được chuẩn hoá,
nhờ đó mọi thành viên có thể nắm bắt, trao đổi thông tin, tín niệm,
cảm nghĩ cho nhau. Ngôn ngữ là công cụ để truyền đạt từ thế hệ này
sang thế hệ khác, gồm ngôn ngữ noi và viết. Mỗi dân tộc lại có một
ngôn ngữ riêng của mình, các dân tộc lạc hậu, thường là chưa có được
chữ viết riêng!
Nền văn hoá của một dân tộc, bao gồm: văn hoá vật thể (vật chất) và
phi vật thể (tinh thần). văn hoá tinh thần được hình thành trong một

thời gian lâu dài và khi ổn định thì ít có sự thay đổi.
Tiểu văn hoá:
Là văn hoá của các cộng đồng xã hội mà có những sắc thái khác với
nền văn hoá chung của toàn xã hội, được hình thành do sự tương tác
của các thành viên trong cộng đồng xã hội đó.
Văn hoá của toàn xã hội được cấu thành từ các tiểu văn hoá khác
nhau, do vậy với vai trò là một thành tố của văn hoá chung, tiểu văn
hoá làm cho nenè văn hoá thêm đa dạng, sâu sắc, phong phú. Mục tiêu
của các tiểu văn hoá là hướng tới sự bảo vệ những giá trị của nền văn
hoá chung.
Đi kèm với nó là nhóm văn hoá gồm hệ thống các giá trị, chuẩn mực ,
quan niệm, tập tục được hình thành trong một nhóm. Điều đó cho
thấy, trong một nền văn hoá chung còn có thể có nhưũng nét riêng biệt
của các tập đoàn, các tổ chức xãa hội khác nhau.
Phản văn hoá:
Là các giá trị văn hoá riêng, tồn tại song song với nền văn hoá chung
nhưng mâu thuẫn, đối lập với các giá trị của nền văn hoá chung.
Đó là văn hoá riêng của các nhóm muốn tách ra khỏi nền văn hoá
chung, đi theo những giá trị khác, khác với tiểu văn hoá, phản văn hoá
không những không bảo vệ nền văn hoá chung mà còn bác bỏ những
chuẩn mực của văn hoá chung.
Tiêu cực: không kích thích xã hội phát triển, gây bât ổn định xã hội
Tích cực: nếu là của một nhóm người sáng tạo, nhạy bén thì dó lịa là


yếu tố kích thích cho sự biến đổi xã hội và thay đổi văn hoá xã hội.
Trong xã hội học không có từ không có văn hoá, mà ở đâu có người,
có tương tác xã hội, thì ở đó có văn hoá. Văn hoá trong xã hội học có
đầy đủ 4 yếu tố sau: chân lý, giá trị, chuẩn mực và mục tiêu
Chân lý: là những quan niệm về cái thật và cái đúng. Văn hoá là một

chân lý, không có chân lý cá nhân mà là chân lý của cả cộng đồng.
Mỗi nền văn hoá lại có quan niệm khác nhau về chân lý, về cái đúng
cái có thật. chân lý nảy sinh qua thời gian, thông qua thời gian, ta mới
biết được cái nào là đúng, cái nào là sai. Chân lý luôn cụ thể vì hiện
thục khách quan à nguồn gốc của nó.
10. Xã hội hoá:
Là quá trình con người tiếp nhận nền văn hoá để gia nhập vào đời
sống xã hội. Cụ thể hơn, là một quá trình, trong đó cá nhân con người
tiếp nhận một hệ thống nhất định, những tri thức, giá trị, chuẩn mực
cho phép cá nhân tồn tại với tư cách là một thành viên trong xã hội.
Đặc điểm quan trọng:
+ Là một qua trình hai mặt: một mặt tác động đến cá nhân, mặt khác,
những cá nhân với bản tính tích cực của mình sẽ có những biểu hiện
tác động ngược trở lại, cá nhân tiếp nhận và làm theo nguyện vọng của
xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển. Quá trình diễn ra song song nhưng
mức độ không giống nhau.
+ Chịu sự tác động của các điều kiện kinh tế xã hội: lên nội dung, cấp
độ, cơ chế, vì vậy con người ở các điều kiện kinh tế xã hội khác nhau
thì cấp độ xã hội hoá cũng khác nhau.
+ Cá nhân vừa là chủ thể khi quá trình đó tác động lên xã hội và khi cá
nhân chịu sự tác động của xã hội thì cá nhân đóng vai trò là khách thể.
+ Tuân thủ các khuôn mẫu, quy tắc khác nhau của các nhóm xã hội.
+ Xã hội hoá thực hiện nhờ các thiết chế xã hội có sẵn.
+ Diễn ra không đều đối với các cá nhân do khả năng, môi trường
sống, và yêu cầu xã hội đối với các cá nhân cũng khác nhau.
+ Diễn ra nhanh hơn nếu có khoanh vùng sự lựa chọn
Vai trò:
+ Biến con người tự nhiên thành con người xã hội, không có xã hội
hoá, không có con người
+ Làm nhiệm vụ truyền thụ, chia sẻ nền văn hoá dảm bảo cho các giá

trị văn hoá tồn tại qua nhiều thế hệ.


11. Bất bình đẳng xã hội:
Là sự không ngang nhau về cơ hội và quyền lợi mà con người được
hưởng trong mối tương quan với những trách nhiệm, nghĩa vụ mà họ
thục hiện
12. Phân tầng xã hội:
Là sự phân chia các cá nhân trong xã hội thành các tầng khác nhau về
một hay nhiều phương diện nào đó, mô tả trạng thái nhiều tầng trong
những điều kiện không gian và thời gian nhất định. Đây cũng là hệ
quả của bất bình đẳng xã hội.
13. Di động xã hội:
Là tính linh hoạt của các cá nhân và nhóm xã hội trong kết cấu của các
tầng xã hội. Là khái niệm chỉ sự di chuyển của giai cấp này, nhóm xã
hội này, tầng lớp này lên một giai cấp hay tầng lớp khác, thậm chí là
rớt xuống tầng lớp dưới, giai cấp hay địa vị thấp hơn.
14. Lệch lạc xã hội:
Là một lối ứng xử vi phạm các quy tắc, các chuẩn mực của một xã hội
nhất định. Những người dược coi là lệch lạc là những người vi phạm
hay chống lại những chuẩn mực của nền văn hoá thống trị.
15. Kiểm soát xã hội:
Là những đường lối những chế tài, những chuẩn mực được thiết lập
nhằm đưa những hành vi của các cá nhân vào khuôn mẫu được xã hội
thừa nhận là đúng. Thực chất là ngăn chăn những hành vi lệch lạc
cũng như trừng phạt nhằm ổn định và phát triển xã hội.
BẤT BÌNH ĐẲNG – PHÂN TẦNG XÃ HỘI
QUAN ĐIỂM CỦA K. MARX:
Lý thuyết cơ cấu giai cấp xã hội của C.Marx gắn liền với quan điểm
phân tầng và bất bình đẳng xã hội. Ông cho rằng trong xã hội có giai

cấp tất yếu có sự áp bức, bóc lột. Việc phân chia xã hội ra người giàu
kẻ nghèo, kẻ có quyền và người vô quyền bắt nguồn từ chế độ chiếm
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Ông đặc biệt chú ý trong việc phân
tích sự phân chia giai cấp trong xã hội tư bản và mâu thuẫn gay gắt
giữa các ông chủ sở hữu tư liệu sản xuất với giai cấp vô sản, bán sức
lao động của mình để kiếm sống. Chính sự sở hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất là yếu tố quan trọng nhất tạo nên địa vị kinh tế - xã hội của cá
nhân và các giai cấp trong xã hội.


C.Marx cũng nhấn mạnh, giai cấp nào làm chủ về tư liệu sản xuất,
phương tiện sản xuất vật chất cũng sẽ đồng thời kiểm soát phương tiện
tinh thần. Như vậy theo C.Marx thì mỗi giai đoạn lịch sử đều có tư
tưởng của giai cấp thống trị. Vậy tư tưởng ấy chính là hệ tư tuởng của
giai cấp thống trị, giai cấp làm chủ phương tiện sản xuất.
Tuy nhiên ông cũng cho rằng sự bất bình đẳng do sự phân chía giai
cấp dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất sẽ biến mất
nếu chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất bị xoá bỏ. Nói cách
khác đối với C.Marx, bất bình đẳng xã hội và phân chia giai cấp chẳng
qua chỉ là một phạm trù lịch sử mà thôi.
QUAN ĐIỂM CỦA WEBER:
Weber nhận thức rõ về sự phân tầng và sự bất bình đẳng xã hội đã và
đang tồn tại trong lịch sử. Ông cũng tán thành quan điểm của Marx về
nguồn gốc của sự phân chia xã hội thành giai cấp là ở vấn đề kinh tế
với sự sở hữ tư nhân về tư liệu sản xuất.
Tuy nhiên, Weber không chỉ tập trung vào các yếu tố kinh tế mà còn
khai thác các yếu tố phi kinh tế trong việc giải thích nguồn gốc của
phân tầng và bất bình đẳng xã hội. Ông cho rằng các yếu tố như giới
tính, sắc đẹp, dòng dõi, uy tín hoặc cơ may, khả năng tiếp cận thị
trường cũng là các yếu tố tạo nên bất bình đẳng xã hội. Sự phân tầng

và bất bình đẳng xã hội là một trong những vấn đề được cả nhân loại
quan tâm. Cùng với Marx, quan điểm của Weber đã tạo nên Lý thuyết
xung đột trong nền xã hội học thế giới.
Bên cạnh đó, nếu K. Marx cho rằng, phân chia giai cấp và bất bình
đẳng xã hội chỉ là một phạm trù lịch sử, nó sẽ biến mất nếu sự sở hữu
tư nhân về tư liệu sản xuất bị xoá bỏ thì ngược lại, Weber lại quan
niệm, thật khó có thể loại trừ sự bất bình đẳng xã hội. Bởi vì bất bình
đẳng xã hội, theo ông, không chỉ có nguồn gốc từ sự sở hữu tư nhân
về tư liệu sản mà chúng còn xuất phát từ sự khác nhau của các cá nhân
về khả năng môi trường sống, về yếu tố quyền lực chính trị hay uy
tín…
Ông nhấn mạnh, nguyên nhân đầu tiên của bất bình đẳng trong chủ
nghĩa tư bản là khả năng thị trường - đây là những kỹ năng mà người
làm thuê may ra thị trường lao động.
Cần nhấn mạnh rằng quan điểm của Weber không hề mâu thuẫn hay
đối lập với ý kiến của mark, đó chẳng qua là sự cụ thể hoá các quan


điểm đố. Nhìn nhận một cách khách quan, quan điểm của Weber có
rất nhiều ý tưởng tiến bộ, khoa học và thực tế.
TÔN GIÁO
QUAN ĐIỂM CỦA K. MARX:
Ông cho rằng tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội. Chúng bắt nguồn
từ nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
Về nguồn gốc tự nhiên, tôn giáo bắt đầu từ những hạn chế trong nhận
thức và sự bất lực của con người trước sức mạnh vĩ đại của các hiện
tượng tự nhiên như: gió, bão, núi lửa, sấm chớp…Họ giải thích các
hiện tượng đó bằng sự suy diễn hoang đường, họ tưởng tượng ra các
đấng tối cao có khả năng siêu nhiên tạo ra được những sức mạnh đó.
Mặt khác, trong tiến trình lịch sử của mình, con người không chỉ

đương đầu với các hiện tượng tự nhiên mà còn phải đối mặt với những
hiện tượng bất công của xã hội. Sự cướp đoạt, các cuộc chiến tranh
đẫm máu xảy ra liên miên…đẩy họ đứng trước cảnh nghèo khổ, túng
quẫn thậm chí bị dồn đến đường cùng. Chính sự bế tắc trong việc giải
thích thân phận khốn khổ của mình cũng như việc tìm ra lối thoát cho
thân phận đó đã đưa con người tìm đến tôn giáo như một lẽ tự nhiên.
Mark vạch ra bản chất của tôn giáo là sự phản ánh hoang đường và hư
ảo của thế giới hiện thực, từ đó ông nhìn nhận vai trò của tôn giáo đối
với con người trong 2 khía cạnh:
Thứ nhất, trong một chừng mực nào đó, tôn giáo góp phần xoa dịu nỗi
đau của quần chúng nhân dân. Thứ hai, là tôn giáo ru ngủ nhân dân,
đó là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới
không có trái tim, cũng như nó là tinh thần của những điều kiện xã hội
không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân. Đặt tôn
giáo trong mối quan hệ với sự thay đổ cấu trúc xã hội, Mark chỉ ra, tôn
giáo đã không vạch ra một khả năng thực tế để giải phóng con người
và thay đổi xã hội mà chỉ hứa hẹn một thế giới không có hiện thực ở
kiếp sau.
Theo Mark, tôn giáo cũng chỉ là một phạm trù lịch sử. Tôn giáo sẽ mất
đi khi tư duy con người cùng với khoa học kỹ huật phát triển và sự bất
bình đẳng xã hội không còn nữa.
QUAN ĐIỂM CỦA WEBER:
Vấn đề tôn giáo và mối quan hệ giữa tôn giáo với đời sống kinh tế - xã
hội là một trong nnhững điểm sáng trong lý thuyết xã hội học của


Weber. Ông không tán thành quan điểm của Mark cho rằng quan hệ
kinh tế là yếu tố cơ bản để giải thích về cấu trúc xã hội và là động lực
đầu tiên cho sự thay đổi xã hội. Ông tin rằng những tư tưởng tôn giáo
cũng có một ảnh hưởng độc lập về mặt lịch sử và rõ ràng chính trị là

lực lượng kiểm soát cốt yếu trong những thay đổi xã hội.
Việc nghiên cứu về các quy tắc trong kinh doanh và giáo lý của thanh
giáo, Weber chỉ ra sự phù hợp giữa giáo lý tin lành và tinh thần làm
việc của các nhà tư bản. Chính giáo lý Tin lành đã tạo ra sự biến đổi
trong hành vi kinh tế. Như vậy có thể thấy, thứ nhất, Weber coi tôn
giáo như là một bộ phận trong văn hoá của phương Tây và với vị trí
đó, tôn giáo có quan hệ chặt chẽ với sự phát triển của kinh tế xã hội.
Thứ hai, đạo đức của Thanh giáo góp phần thúc đẩy sự phát triển của
chủ nghĩa tư bản phương Tây.
Tuy nhiên, dường như ông đã quá nhấn mạnh đến tính tích cực của tôn
giáo mà quên đi những góc khuất, những tồn tại, những tác động
ngược trở lại của tôn giáo với đời sống kinh tế xã hội như Mark đã
từng làm.
VAI TRÒ XÃ HỘI
Vai trò của cá nhân như là một vai diễn là một hoặc nhiều chức năng
mà cá nhân ấy phải đảm trách trước xã hội. Theo Robertsons vai trò là
một tập hợp các chuẩn mực, hành vi, quyền lợi và nghĩa vụ được gắn
liền với một vị thế xã hội nhất định.
Khái niệm vai trò xã hội bắt nguồn từ khái niệm vai diễn trên sân
khấu. Vai diễn trên sân khấu đòi hỏi diễn viên phải nhập tâm, bắt
chước và học tập đóng vai của những nhân vật được đạo diễn phân
đóng. Còn vai trò xã hội không có tính chất tưởng tượng, bắt chước
cứng nhắc và nhất thời. Những hành vi thực tế của một người nhờ học
hỏi được những kinh nghiệm, lối sống, tác phong từ trước đó trong
cuộc sống. Vai trò xã hội của một người có nghĩa là người đó phải
đảm nhận hay thể hiện đầy đủ các hành vi, nghĩa vụ, hệ thống chuẩn
mực trên cơ sở vị thế của người đó. Đồng thời họ cũng nhận được
những quyền lợi xã hội tương ứng với việc thực hiện vai trò của họ.
Mỗi cá nhân có vô vàn vai trò, có bao nhiêu mối quan hệ xã hội thì có
bấy nhiêu vai trò xã hội. Vị thế và vai trò của cá nhân trong xã hội bắt

nguồn từ vị trí kinh tế, chính trị, xã hội của họ, từ địa vị của các cá
nhân thuộc các giai cấp và các nhóm xã hội khác mà quy định nên.
Mỗi cá nhân có nhiều vị thế và vai trò khác nhau ở gia đình, ngoài xã
hội…và tuỳ theo vai trò của mình mà cá nhân sẽ có cách ứng xử, hành


vi, tác phong, hành động tương ứng với vai trò mà cá nhân đảm trách.
Vị thế và vai trò luôn gắn bó mật thiết với nhau. Không thể nói tới vị
thế mà không nói tới vai trò và ngược lại. Vai trò và vị thế là hai mặt
của một vấn đề. Vị thế của cá nhân được xác định bằng việc trả lời cho
câu hỏi: người đó là ai? Và vai trò của các nhân được xác định bằng
cách trả lời câu hỏi: người đó phải làm gì? Vai trò phụ thuộc vào vị
thế (vị thế nào vai trò ấy). Một vị thế có thể có nhiều vai trò. Trong
mối quan hệ giữa vị thế và vai trò thì vị thế thường ổn định hơn, ít
biến đổi hơn, còn vai trò thì biến động hơn.
Thông thường thì sự biến đổi của vai trò phụ thuộc vào sự biến đổi
của vị thế. Vị thế biến đổi thì vai trò cũng biến đổi.
PHÂN TẦNG XÃ HỘI
Phân tầng xã hội là một trong những khái niêm quan trọng của xã hội
học. Đó là một khái niệm để chỉ sự phân chia các cá nhân hay các
nhóm xã hội thành các tầng lớp khác nhau. Mỗi tầng bao gồm các cá
nhân, các nhóm xã hội có địa vị kinh tế, chính trị, uy tín giống nhau.
Phân tầng xã hội diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh
tế, chính trị cho đến văn hóa, v.v. Phân tầng xã hội và bất bình đẳng có
mối quan hệ mật thiết[Bất bình đẳng là nguyên nhân, phân tầng xã hội
là kết quả. Sự không ngang nhau về mọi lĩnh vực giữa các cá nhân
trong xã hội dẫn đến cơ hội và lợi ích của các các nhân là không như
nhau, từ đó dẫn đến việc các cá nhân hay các nhóm xã hội có cùng
chung lợi ích sẽ tập hợp lại thành một nhóm. Nhiều nhóm có cơ hội và
lợi ích khác nhau ra đời. Có nhóm lợi ích và cơ hội nhiều, có nhóm thì

ít, từ đó dẫn đến phân tầng xã hội. Phân tầng xã hội không có ý nghĩa
tuyệt đối. Do vị thế xã hội của các các nhân có thể thay đổi, từng ngày,
từng giờ, có cá nhân hôm nay thuộc tầng lớp này, mai lại thuộc tầng
lớp khác. Bởi vì cơ hội và lợi ích của họ không còn năm trong tầng lớp
đó nữa.
PHẠM TRÙ
Phạm trù là một trong những phương tiện nhận thức thế giới dùng
trong nghiên cứu khoa học, đặc biệt là khoa học xã hội. Khái niệm
phạm trù được xuất hiện trong quá trình hình thành triết học. Trong vô
vàn những sự vật, hiện tượng, quá trình hỗn loạn của thế giới xung
quanh con người cần tách riêng một thứ nào đó ra, tập trung sự chú ý
vào nó, xác định những đặc điểm tiêu biểu và quy luật phát triển của
nó, xem xét quan hệ qua lại của nó đối với những thứ khác. Như vậy


phạm trù không đơn giản là sự phân loại. Sự phân loại chỉ có được chỉ
sau khi xác định phạm trù.
Phạm trù của một điều nào đó bao gồm khái niệm về điều đó và nội
dung của nó. Khái niệm được xác định bởi định nghĩa chung nhất với
những đặc điểm chung nhất. Nội dung xác định bởi toàn bộ những đặc
điểm có thể có, quy luật phát triển của các đặc điểm, quan hệ đối với
các điều khác trong thế giới. Định nghĩa và nội dung của điều được
xem xét tạo nên ranh giới nhất định của phạm trù tương ứng đó[1].
Phạm trù là thành phần kết cấu nên lý thuyết.
Một số khái niệm khác về phạm trù
• Đó là khái niệm chung nhất có giới hạn, có khả năng hàm chứa nhiều
nhất.
• Trong phép biện chứng logic đó là khái niệm phản ánh giai đoạn
tuần tự sự hình thành điều cụ thể nguyên vẹn nào đó.
• Trong thuyết siêu hình đó là cách gọi của các dạng tồn tại khác

nhau.
• Một trong các lĩnh vực trừu tượng nhất của toán học hiện đại là lý
thuyết phạm trù sử dụng thuật ngữ "phạm trù" như là thuật ngữ cơ sở
xuất phát từ Immanuel Kant.
Các kiểu phạm trù trong triết học
• Các phạm trù của Aristotle[2]
• Các phạm trù của Immanuel Kant
• Các phạm trù của Georg Hegel
Ứng dụng trong nghiên cứu
Phạm trù là khái niệm hàm chứa chung nhất, khó xác định trong
khuôn khổ một lý thuyết nói riêng hay ngành khoa học nào đó nói
chung. Phạm trù được xem là thành phần kết cấu của sơ đồ phạm trù
xác định quy trình tư duy. Mỗi phạm trù nhờ khả năng giải mã cũng là
yếu tố lưu giữ trạng thái quy trình. Phạm trù được dùng trong việc hệ
thống hóa kiến thức qua quá trình nhận thức, trong đó chúng đóng vai
trò ấn định tên cho đề mục.
Cùng với những định nghĩa trên phạm trù còn được công nhận trong
sự hình thành siêu ngôn ngữ mà thành phần của nó là các định nghĩa
"lớp kiến thức". Phạm trù là đơn vị đặc biệt bảo đảm quá trình chuyển
dịch kiến thức (knowledge transfer) trong nghiên cứu liên ngành.
Phạm trù ghi giữ các lớp kiến thức, các giai đoạn và các yếu tố của
quá trình nhận thức, vì thế nó thuộc về hệ thống quản lý kiến thức.
Phạm trù cho phép liên hệ bất cứ kiến thức nào với triết học và ngược


lại, liên hệ triết học đến bất kỳ lĩnh vực kiến thức nào. Tuy có sự chú ý
đáng kể đối với phạm trù nhưng ứng dụng chúng vào quá trình nhận
biết thế giới vẫn diễn ra ở mức cảm tính[3].
XÃ HỘI HÓA
Xã hội hóa là một khái niệm của nhân loại học và xã hội học được

định nghĩa là một quá trình tương tác xã hội kéo dài suốt đời qua đó cá
nhân phát triển khả năng con người và học hỏi các mẫu văn hóa của
mình[1]. Nói một cách khác, đó chính là quá trình con người liên tục
tiếp thu văn hóa vào nhân cách của mình để sống trong xã hội như là
một thành viên. Nó không phải là khái niệm xã hội hóa mà những năm
gần đây ở Việt nam thường được dùng để chỉ sự quan tâm cũng như
đóng góp của toàn xã hội như xã hội hóa giáo dục, xã hội hóa y tế...
Vai trò của xã hội hóa• Xã hội hóa là nền tảng quan trọng của loài
người, không như các sinh vật khác, con người cần phải có hiểu biết
xã hội để sống. Ngoài sự tồn tại có tính chất sinh học đơn thuần, kinh
nghiệm xã hội tạo ra nhân cách của mỗi con người. Hiểu theo nghĩa
đơn giản, nhân cách chính là hệ thống tư duy, cảm xúc và hành vi có
tổ chức trong đó con người suy nghĩ, nhận thức về thế giới, về bản
thân mình cũng như phản ứng, hành động trong tương tác xã hội. Chỉ
có thông qua sự hình thành và phát triển của nhân cách, loài người
mới trở nên khác biệt với tất cả các loài động vật khác, chỉ có loài
người mới tạo ra được văn hóa và mỗi con người, với tư cách là một
thành viên của xã hội tiếp thu văn hóa vào nhân cách của mình. Những
trường hợp bị cách ly hoàn toàn với đời sống xã hội cho thấy cá thể
rơi vào hoàn cảnh đó hầu như chỉ tồn tại sinh học, hoàn toàn vô cảm
và không có biểu hiện phẩm chất xã hội nào thường gặp ở con người.
Đã từng có những tranh biện và bất đồng về tầm quan trọng tương đối
của yếu tố sinh học và yếu tố xã hội trong sự phát triển của con người
hay nói ngắn gọn là cái gì hình thành nên nhân cách, bản chất hay
dưỡng dục. Ngày nay, hầu hết các nhà khoa học xã hội đều vượt khỏi
chuyện tranh biện đó, bởi hiểu rõ sự tương tác của các biến ấy trong
việc định hình sự phát triển của con người.[2]. Các yếu tố sinh học, di
truyền có ảnh hưởng đến đời sống con người chẳng hạn trong việc di
truyền trí thông minh, một số đặc điểm nhân cách (như phản ứng khi
bị kích thích), khả năng thiên bẩm trong một số hoạt động (như nghệ

thuật, âm nhạc)... nhưng sự phát triển nhân cách chịu ảnh hưởng của


yếu tố dưỡng dục nhiều hơn là sinh học tự nhiên. Bản tính con người
là sáng tạo, học hỏi và bổ sung văn hóa. Vì thế, đúng ra đang ở vị thế
đối lập, bản tính con người và giáo dục thực ra không thể chia cắt.[3]
• Xã hội hóa không chỉ quan trọng đối với đời sống của cá nhân, nó
giúp cho xã hội phát triển được liên tục, có lịch sử, có hiện tại và có
tương lai. Kinh nghiệm xã hội luôn tồn tại trong xã hội, mọi xã hội
đều dạy cho các thành viên mới về nó và quá trình diễn ra liên tục từ
thế hệ này sang thế hệ khác, vượt qua đời sống của một cá nhân.
Tác nhân xã hội hóa
Gia đình
Gia đình là tác nhân xã hội hóa đầu tiên và quan trọng, khi mới sinh
ra, con người hoàn toàn phụ thuộc vào người khác trong việc đáp ứng
các nhu cầu của mình. Đối với hầu hết các cá nhân, gia đình là tập thể
cơ bản đầu tiên, dạy cho trẻ em những kinh nghiệm xã hội, các giá trị,
tiêu chuẩn văn hóa và dần dần trẻ em kết hợp được nó vào ý thức của
cá nhân. Thông qua quá trình đó, gia đình không chỉ đưa trẻ em đến
với thế giới hữu hình mà còn đặt chúng vào trong xã hội. Nhiều nhà xã
hội học cho rằng các đặc điểm như chủng tộc, tôn giáo, dân tộc, đẳng
cấp xã hội...đều được gia đình truyền thụ trực tiếp cho trẻ em và trở
thành một phần trong khái niệm cái tôi của trẻ. Trước khi đứa trẻ đủ
lớn khôn để thực sự hiểu được vấn đề thì nó đã có thể nắm bắt được vị
trí của mình trong cấu trúc xã hội do gia đình xác lập. Trong quá trình
trưởng thành, vị trí nắm bắt được này có thể được cá nhân tìm cách
thay đổi nhưng dù sao chăng nữa, cá nhân đó phải giải quyết nó. Gia
đình cũng là nơi đầu tiên truyền cho những thành viên mới sinh ra của
xã hội những ý niệm về giống phái, giới tính, trên lĩnh vực này, phần
lớn những gì chúng ta xem là bẩm sinh ở bản thân thực ra đều là sản

phẩm của văn hóa, kết hợp vào nhân cách của chúng ta thông qua xã
hội hóa. Cũng chính tại gia đình, trong hầu hết các nền văn hóa, trẻ
nhỏ được dạy rằng con trai cần phải mạnh mẽ, dũng cảm..., con gái
cần phải dịu dàng....Xã hội hóa giới tính luôn là một trong những chức
năng quan trọng nhất của gia đình.[4] Tuy vậy cần lưu ý rằng không
phải tất cả những gì gia đình truyền thụ cho trẻ em đều là có chủ ý, trẻ
em còn bị ảnh hưởng và học hỏi ở chính môi trường được tạo ra trong
gia đình. Những gì đứa trẻ dần nhận thức về bản thân mình như mạnh
mẽ hay yếu ớt, thông minh hay tối dạ, được yêu thương và tha thứ hay
bị ghét bỏ... cũng như về thế giới như thế giới này đáng tin cậy hay


đầy rủi ro, nguy hiểm... có vai trò rất quan trọng của xã hội hóa trong
gia đình.
Giáo dục ở nhà trường
Trường học - tác nhân xã hội hóa quan trọng
Nhà trường là nơi con người bắt đầu được tiếp xúc với tính đa dạng xã
hội, tương tác với những thành viên không phải trong tập thể cơ bản là
gia đình mình, được dạy dỗ nhiều điều khác với nền tảng trong gia
đình. Nhà trường cung cấp cho trẻ em những kiến thức và kỹ năng từ
thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp mà có những thứ không phải
các thành viên lớn tuổi trong gia đình của chúng đã được hấp thụ. Tính
đa dạng xã hội ở nhà trường thường tạo ra nhận thức rõ ràng hơn về vị
trí của mình trong cấu trúc xã hội đã hình thành trong quá trình xã hội
hóa ở gia đình. Thông qua tương tác với các thành viên khác, trẻ nhận
biệt thêm những khía cạnh của chủng tộc, giới tính, đẳng cấp giàu
nghèo... Trường học cũng là bộ máy hành chính đầu tiên mà hầu hết
trẻ em được tiếp xúc, những thời khóa biểu, nội quy... cho chúng có ý
niệm về một nhóm, tổ chức lớn cũng như vai trò là một bộ phận trong
đó. Ngoài những gì được in thành sách giáo khoa, giáo dục ở nhà

trường còn có một thứ mà các nhà xã hội học, giáo dục học gọi là
chương trình giảng dạy ẩn hay giáo dục ẩn. Nó cũng góp phần hình
thành nên những giá trị, tiêu chuẩn văn hóa quan trọng. Các môn thể
thao ngoài rèn luyện thể chất còn dạy cho trẻ tinh thần thi đua; nam và
nữ được hướng đến những gì cho là phù hợp với giới tính theo quy
ước: nữ sinh được khuyến khích nhiều hơn đến các môn khoa học xã
hội và nhân văn còn nam sinh thì đến các môn khoa học tự nhiên...
Một khía cạnh khá quan trọng của giáo dục ẩn là việc đánh giá kết quả
học tập về cơ bản được dựa trên các tiêu chuẩn phổ biến chứ không
phải các quan hệ cá nhân cụ thể như trong gia đình, điều này tác động
mạnh đến sự tự nhận thức bản thân của trẻ em. Theo các lý thuyết gia
duy xung đột thì giáo dục chịu ảnh hưởng của văn hóa thống trị xét
trên góc độ những giá trị được đưa vào để giảng dạy cũng như trên
tổng thể, nó có xu hướng khuyến khích duy trì nguyên trạng.
Bạn bèTheo George Hebert Mead[5], nhóm bạn cùng lứa tuổi là
những người khác quan trọng. Hầu hết trẻ em đã có nhóm bạn, thường
là cùng lứa tuổi, cùng mối quan tâm và quan điểm xã hội ở trường học
hay gần nơi cư trú. Đây là bối cảnh khác với gia đình, trường học khi
mà trẻ có thể tham gia các hoạt động không hoặc ít có sự giám sát trực


tiếp của người lớn. Trong nhóm bạn, vai trò độc lập của cá nhân góp
phần hình thành các kinh nghiệm trong quan hệ xã hội cũng như ý
thức về bản thân khác với những gì có trong gia đình. Nhóm bạn cũng
tạo ra cơ hội cho các thành viên chia sẻ, thảo luận về các mối quan
tâm mà trong đó có những cái thường không làm được điều tương tự
với cha mẹ hay các thầy cô giáo. Vai trò của nhóm bạn có vai trò quan
trọng nhất ở lứa tuổi thiếu niên và thanh niên, đặc biệt là khi các thành
viên bắt đầu sống xa gia đình và trong quá trình xã hội hóa thường
phát sinh mâu thuẫn giữa gia đình với nhóm bạn. Mâu thuẫn này được

tạo ra do sự khác biệt về thế hệ trong khi các mẫu văn hóa luôn thay
đổi hoặc do mối quan tâm của gia đình thường có tính chất định
hướng, mục tiêu dài hạn trong khi nhóm bạn lại tạo ra những sở thích
nhất thời, ngắn hạn...Tuy nhiên, trong khi tham gia nhóm bạn, các
thành viên dễ có xu hướng tuân thủ và đánh giá tích cực về nhóm của
mình đồng thời nhận dạng một cách đối lập thậm chí tiêu cực với
nhiều nhóm khác. Trên một khía cạnh khác, nhóm bạn cũng có khi tạo
ra tác động rất tiêu cực đến thành viên của nhóm đó hoặc nhóm khác
bằng cách cùng hành động để ruồng bỏ, làm xấu hổ thậm chí hành hạ
người đó.
Phương tiện truyền thông đại chúng
Ngày nay nhiều trẻ em tiếp xúc với truyền hình trước khi được đi học
và hàng ngày phương tiện truyền thông đại chúng cung cấp cho một số
lượng đông đảo các thành viên xã hội những thông tin đa dạng và có
tác động lớn đến suy nghĩ cũng như hành vi của họ. Truyền thông
mang lại cho con người những kinh nghiệm xã hội, những mẫu văn
hóa mang tính tiêu chuẩn dưới cách nhìn phổ biến. Các thành viên của
xã hội đều chịu ảnh hưởng ở mức độ khác nhau do những gì mà các
phương tiện truyền thông coi trọng hoặc xem nhẹ, đánh giá tích cực
hay tiêu cực. Nó cũng là một kênh quan trọng để phổ biến văn hóa,
giúp cho con người có thể hiểu được những mẫu văn hóa, những nền
văn hóa khác. Truyền thông cũng làm cho các thành viên trong một xã
hội gắn kết với nhau hơn thông qua những mối quan tâm chung,
những giá trị chung đặc biệt là khi có những sự kiện nổi bật như một
thảm họa, một vinh quang mà đội tuyển quốc gia giành được hay một
cuộc chiến tranh bùng nổ... Tuy vậy, các phương tiện truyền thông
cũng có những vấn đề của nó. Truyền thông rất ít hoặc không mang
tính tương tác, khán thính giả không thể thảo luận hay bày tỏ thái độ
trực tiếp với những người làm ra chương trình truyền thông. Chính vì



thế, vượt xa rất nhiều những gì mà truyền thông đưa đến như một
nguồn giải trí, nó là một phương tiện lập trình thái độ và niềm tin của
chúng ta.[6] Vì lý do đó, các vấn đề như quảng cáo, bạo lực, lối sống...
trên các phương tiện thông tin đại chúng thường là chủ đề gây tranh
cãi. Mặt khác, nhiều nhà xã hội học, đặc biệt là các lý thuyết gia duy
xung đột cho rằng truyền thông thể hiện ý thức hệ chủ đạo, nó có
khuynh hướng thể hiện quyền lợi của phần tử ưu tú, uy tín với màu sắc
thiên vị, trong khi mô tả những người không thừa nhận hệ thống bằng
những từ tiêu cực.[7] Thông qua thời lượng cũng như cách thức của
những gì được chuyển tải qua các phương tiện truyền thông, xã hội bị
ảnh hưởng bởi những khuôn mẫu, giá trị... mà nó thể hiện cũng như
quyền lợi của những nhóm thứ yếu bị xem nhẹ vì họ không nắm giữ
các phương tiện truyền thông.
Các tác nhân khác
Một số tác nhân khác tham gia vào quá trình xã hội hóa. Chỗ làm việc
là một tác nhân quan trọng vì nếu đang trong độ tuổi lao động và
không thất nghiệp thì thời gian ở chỗ làm việc chiếm một phần lớn.
Với những kiến thức, kỹ năng đã thu nhận được, ở chỗ làm việc, con
người tiếp tục được xã hội hóa thành nghề nghiệp và ứng xử phù hợp
với nghề nghiệp đó. Dấu ấn của nghề nghiệp trong xã hội hóa có thể
thấy rõ qua bệnh nghề nghiệp. Ngoài tập thể chính, con người cũng
chịu tác động của dư luận - thái độ của những người trong xã hội về
các vấn đề đang tranh cãi và cá nhân thường hành động theo hướng
thích ứng với thái độ của những người khác để tránh bị xem là khác
biệt hoặc gán nhãn hiệu lệch lạc. Tôn giáo, nhà nước cũng là những
tác nhân xã hội hóa. Những nghi lễ tôn giáo và những quy định của
nhà nước (như độ tuổi được phép lái xe, độ tuổi kết hôn, độ tuổi có thể
hút thuốc lá hoặc uống rượu...) cũng định hình nhận thức, hành vi của
các cá nhân.

Xã hội hóa và dòng đời
Nhà tù - một định chế toàn diện
Xã hội hóa liên tục diễn ra trong suốt chu kỳ đời sống của một con
người, mặc dù không phải là yếu tố quyết định, những thay đổi về sinh
học tạo ra khuôn hành vi của từng cá nhân. Tùy thuộc vào giới tính,
nơi sinh sống, hoàn cảnh kinh tế,... thậm chí cả thời đại mà một người
được sinh ra, họ được xã hội hóa rồi ghi dấu ấn đánh dấu từng giai


đoạn trong dòng đời dưới hình thức như nhận bằng tốt nghiệp chương
trình giáo dục, đào tạo các cấp; tham gia lao động; kết hôn; làm cha
mẹ rồi sống những năm tháng tuổi già với sự đối mặt với cái chết. Các
nhà xã hội học thường phân đoạn chu kỳ đời sống thành bốn giai
đoạn: thơ ấu, thanh niên, trưởng thành và tuổi già. Ở những xã hội
khác nhau và giữa các cá nhân khác nhau trong một xã hội, khoảng
thời gian của từng giai đoạn cũng khác nhau thậm chí có thể không có.
Tuổi ấu thơ, sự xã hội hóa diễn ra trong sự quan tâm, bảo vệ của người
lớn; đến thời thanh niên, những hành vi, nhận thức thường bị xáo trộn;
nhân cách về cơ bản đã định hình ở tuổi trưởng thành và cá nhân
thường đạt được những thành tựu chủ yếu; khi về già và đối mặt với
cái chết con người lại gặp phải thách thức xã hội to lớn. Mỗi giai đoạn
trong chu kỳ đời sống là sự thể hiện của của kết cấu kinh nghiệm xã
hội đồng thời cho thấy những gì con người đã tiếp thu được những
điều gì mới lạ trong quá trình xã hội hóa không ngừng.
Xã hội hóa trước và xã hội hóa lại
Xã hội hóa trước (tiếng Anh: anticipatory socialisation) là quá trình xã
hội hóa mà trong đó cá nhân được chuẩn bị, làm quen cho các vị trí,
nghề nghiệp, quan hệ xã hội...Việc đó không những giúp ích cho cá
nhân khi thực sự đảm nhận chúng mà còn khiến cho xã hội có thể vận
hành một cách thuận lợi hơn. Các tác nhân xã hội hóa làm cho cá nhân

nhận thức được những tiêu chuẩn, giá trị, cách ứng xử... gắn liền với
vị trí xã hội của mình trước khi đảm đương vị trí này và quá trình đó
lại tiếp tục khi người đó chuẩn bị đảm nhiệm một vị trí mới. Việc đảm
nhiệm vị trí mới có khi dẫn đến sự đào thải các tiêu chuẩn, giá trị...
cấu trúc nên hành vi mà một người đã thu nhận được trước đây - quá
trình xã hội hóa lại (tiếng Anh: resocialisation). Tiến trình xã hội hóa
lại nói chung bao hàm một sự khẩn trương rất lớn đối với cá nhân đó,
lớn hơn rất nhiều so với sự xã hội hóa nói chung hay thậm chí so với
cả sự xã hội hóa trước.[8].
Xã hội hóa lại thường xảy ra khi có một nỗ lực mạnh mẽ nhằm thay
đổi một cá nhân như trong các trường cải huấn, trại cải tạo... và nó trở
nên đặc biệt có hiệu quả khi được tiến hành trong những định chế toàn
diện nhằm điều tiết gần như mọi khía cạnh trong đời sống con người
dưới một quyền lực duy nhất như nhà tù, bệnh viện tâm thần, nhà tu
kín... Do định chế toàn diện nhìn chung cách ly với còn lại của xã hội
nên định chế này cung cấp mọi nhu cầu của các thành viên trong đó.
Do có cùng hoàn cảnh, sống dưới một định chế theo luật lệ và thời


gian biểu như nhau nên trong định chế toàn diện tính cá nhân của các
thành viên thường mờ nhạt thậm chí mất đi.
CO CAU
1. Cơ cấu XH học – các cấp độ nghiên cứu của cơ cấu XH học.
ã Cơ cấu XH học.
Căn cứvào đối tượng nghiên cứu của XH học, thì các qui luận chung
về sự phát triển và sự hoạt động của XH, sự tác động qua lạI giữa các
thành phần của cơ cấu XH chính là cáI mà XH học hướng vào đó để
nghiên cứu. Các nhà XH học khác nhau cũng có những cách nhìn cơ
cấu XH học khác nhau. Từ quan đIểm tương quan, người ta quan niệm
có 3 mức độ nghiên cứu khác nhau:

- Nghiên cứu cơ cấu tổng thể XH.
Từ tính chất, đặc đIểm của các hình tháI XH mà chia thành XH nô lệ,
XH phông kiến, XHTB ( nghiên cứu ở cấp độ này là nhiệm vụ của XH
học vĩ mô ).
- Nghiên cứu sự vận hành của cáccơ chế XH, các tợp hợp XH( nhóm,
hội, đoàn, cộng đồng … ) trong quá trình quản lý XH.
- Nghiên cứu cả người với tư cách là con người XH trong các mối
tương quan đó là XH học vi mô.
Các nhàXH học Macxít lấy chủ nghĩa duy vạt lịch sử làm ohương
pháp luận khoa học,
áp dụng vào quá trình nghiên cứu; lấy CNXHKH làm mục tiêu và nội
dung nghiên cứu.
Trong quá trình phát triển, XH học luôn luôn có mối liên hệ bền vững
các ngành KHXH khác và tiếp thu những thành tựu mới của các khoa
học khác làm phong phú thêm nội dung và phương pháp nghiên cứu
của mình.
ã Cấp độ nghiên cứu:
- Căn cứ vào mức đọ trừu tượng, kháI quát của tri thức XH học để
phân chia cơ cấu XH học thành:
+ XH học trừu tượng – lý thuyết.
+ XH học cụ thể – thực nghiệm.
+ XH học triển khai – ứng dụng.
. XH học trừu tượng – lý thuyết ( Ferdinand Tonnies – nhà XH học
nmgười Đức 1855 – 1936 còngọi là XH học thuần tuý) là một bộ phận
XH học nghiên cứu một cách khách quan, Kh về hiện tượng, quá trình
XH nhằm phát hiện tri thức mới; xây dựng lý thuyết kháI niệm và


phạm trù XH.
. XH học cụ thể – thực nghiệm: bộ phận XH học nghiên cứu các hiện

tượng quá trình XH bằng cách vận dụng lý thuyết, kháI niệm XH học,
các phương pháp thực nghiệm ( cân, đo, đong, đếm … ) nhằm kiểm
tra hoặc chứng minh giả thuyết XH học.
. XH học triển khai, ứng dụng: bộ phận của XH học, có nhiệm vụ vận
dụng các nguyên lý và ý tưởng XH học vào việc phân tích, tìm hiểu và
giảI quyết các tình huống, sự kiện hiện thực của đời sống XH; nghiên
cứu cơ chế hoạt động, đIều kiện, hình thức biểu hiện của các qui luật
Xh học nhàem chỉ ra các giảI pháp đưa tri thức Xh học vào cuộc sống.
Ba bộ phận này có mối quan hệ biện chứng với nhau. XH học lý
thuyết vạch đường, xác định phạm vi nghiên cứu, định hướng lý luận
cho XH thực nghiệm XH học thực nghiệm cung cấp bằng chứng, sự
kiện để kiềm chứng giả thuyết được rút ra từ XH học lý thuyết ( tính
đúng, sai ). XH học thực nghiệm là trung giữa XH học thuần tuý và
XH học ứng dụng. Tức là chỉ những tri thức XH học đã được kiềm
chứng mới nêu áp dụng vào cuộc sống. Mặc dù vậy, còn phảI tiến
hành nghiên cứu ứng dụng, triển khai trước khi đưa kết quả nghiên
cớu lý luận và thực nghiệm vào thực tiễn để sử dụng.
- Căn cứ vào cấp độ chung – riêng, bộ phận chính thể của tri thức và
lĩnh vực nghiên cứu của XH học, phân chia cơ cấu hàng hoá thành 2
bộ phân.
+ XH học đạI cương.
+ XH học chuyên nghành ( chuyên biệt )
. XH học đạI cương: nghiên cứu các qui luật, tính qui luật, thuộc tính
và đạc đIểm chung nhất của cáchiện tượng hai quá trình XH dẫn đến
XH học đạI cương có nội dung nghiên cứu gắn với XH học vĩ mô và
XH học lý thuyết.
. XH học chuyên ngành là bộ phận của XH học gắn lý luận XH học
đạI cương nghiên cứu các hiên tượng của từng lĩnh vực, hoạt động,
khía cạnh, các mặt cụ thể của đời sống XH con người.
Hai bộ phận này có mối quan hệ biện chứng với nhau.

XH học đạI cương là cơ sở lý luận, pháp luận cho XH học chuyên
nghành.
XH học chuyên ngành cung cấp bằng chứng, số liệu cụ thể, thông tin
mới cho công tác nghiên cứu của XH học đạI cương, góp phần bổ
xung và phát triển cho XH học đạI cương.
- Căn cứ vào qui mô, kích cỡ ( lớn, nhỏ ) của hệ thống XH, chia cơ


cấu XH học thành 2 bộ phận:
+ XH học vĩ mô.
+ XH học vi mô.
. XH học vĩ mô nghiên cứu cơ cấu Xh, thiết chế XH, tương tác Xh
giữa các hệ thống Xhvà của Xh có qui mô lớn. Một Xh đặc thù, một
quốc gia, một dân tộc, một chế độ Xh, một khu vực trên thế giới …
XH học vĩ mô nghiên cứu hiện tượng, qua trùnh Xh với tư cách là
chính thể toàn vẹn.
. Xh học vi mô: nghiên cứu các qui luật phát sinh, vận động và ohát
triển của nhóm Xh có qui mô nhỏ. NgoàI ra còn nghiên cứu các quá
trình, hiện tượng xảy ra trong nhóm nhỏ, cũng như hành động và
tương tác Xh giữa các cá nhân.
Hai bộ phận này có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Xh học vi mô cung
cấp các thông tin cơ bản, chi tiết cho kháI quát nghiên cứu của Xh học
vĩ mô. Xh học vĩ mô là nguồn ký luận để kích thích, vận dụng XH học
vi mô.
- NgoàI ra còn có thể xem cơ cấu Xh học với tư cách là một hệ thống
các ngành XH học. Căn cứ vào loạI hình hoạt động hay lĩnh vực cơ
bản của đời sống Xh chia ra Xh học kỹ thuật, Xh học chính trị, Xh học
văn hoá, Xh học công nghiệp … Căn cứ vào khu vực địa lý – hành
chính kỹ thuật có Xh học thành thị hai Xh học nông thôn nghiên cứu
cộng đồng và lối sống ở thành thị hoặc nông thôn.




×