Tải bản đầy đủ (.pdf) (40 trang)

Những đặc điểm của chủ nghĩa tư bản hiện đại ngày nay và xu hướng vận động của nó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (482.18 KB, 40 trang )

LUẬN VĂN:

Những đặc điểm của chủ nghĩa tư bản
hiện đại ngày nay và xu hướng vận
động của nó


I - Lời mở đầu

Dưới sự tác động của sự phát triển mạnh mẽ như vũ bão của kỹ thuật và công
nghệ, ngày nay lực lượng sản xuất đã có bước phát triển mạnh mẽ. Lực lượng sản
xuất thay đổi cả về tính chất và trình độ kéo theo sự thay đổi về quan hệ sản xuất. Do
đó mà trong các nước chủ nghĩa tư bản, bản chất của nó cung mang những đặcđiểm
mới.

Nhân dân ta đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng nền kinh tế
thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mong muốn làm bạn với tất cả các nước
trên thế giới. Do vậy, tăng cường quan hệ với hệ thống kinh tế thế giới, tham gia phân
công lao động và cạnh tranh quốc tế đâng là đề tài quan trọngcần được làm sáng tỏ.
Hiện nay các nước tư bản phát triển vẫn đang giữ vị trí chi phối nền kinh tế thế giới.
Trên phương diện chính trị thế giới cũng như kinh tế thế giới, chủ nghĩa tư bản hiện
đại đang chiếm ưu thế. Chúng ta kiên trì xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh
quốc tế như vậy nên việc hiểu thấu đáo về chủ nghĩa tư bản hiện đại là diều hết sức
cần thiết.
Hơn thế nữa, chủ nghĩa xã hội không phải bỗng dưng mà có và phát triển.
Dương nhiên nó chỉ có thể làm nên những thành tựu của mình trên cơ sở đúc kết bài
học và kinh nghiệm lịch sử, trên cơ sở phát triển của xã hội loài nguời. Nghiên cứu
những thành bai, được mất của chủ nghĩa tư bản hiện đại, lấy cái tốt bỏ cái xấu của
nó là để giúp Chúng ta xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa tiến bộ hơn, ưu việt hơn tư
bản chủ nghĩa.
Do tính cấp thiết đó của đề tài, chúng em đã viết bài này. Mục đích nghiên cứu


của đề tài là làm rõ những đặc điểm của chủ nghĩa tư bản hiện đại ngày nay và xu
hướng vận động của nó.


II - Đặc trưng của chủ nghĩa tư bản hiện đại ngày nay

1. Khái niệm về chủ nghĩa tư bản hiện đại ngày nay

Chủ nghĩa tư bản ngày nay là giai đoạn hiện nay của chủ nghĩa tư bản độc
quyền(chủ nghĩa tư bản hiện đại)nằm trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa,
được phân tích kể tì sau chiến tranh thế giới lần thứ hai đến nay, chủ yếu là từ những
năm cuối của thế kỷ 20.
ở đây chủ nghĩa tư bản hiẹn đại phản ánh một giai đoạn phát triển mới về chất trong
lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản. Đó là giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền
nhà nước với nhiều đặc trưng mới.

2. Sự biến đổi về lực lượng sản xuất

2.1 . Chủ nghĩa tư bản đang trong bước quá độ từ cơ sở vật chất kỹ thuật truyền
thống sang cơ sở vật chất kỹ thuật hoàn toàn mới về chất - đó là kinh tế trí
thức.

Kinh tế tri thức có những đặc trưng là:
 Các tài sản vật thể (physical assets) như đất đai, nhà máy, thiết bị không còn
đóng vai trò như trước. Chất xám, vốn con người có ý nghĩa quyết định sức
mạnh kinh tế. Trong trao đổi, phần mềm chiếm vị trí quan trọng.
 Các hoạt động kinh tế đều được “số hoá” và được vận hành trên các siêu xa lộ
thông tin, các mạng lưới máy tính lan toả khắp nơi. Thông tin sẽ đóng vai trò
quyết định nhất và có vai trò như “bản vị của mọi hoạt động kinh tế”
 Các quan niệm truyền thống và phương thức sản xuất kinh doanh sẽ thay đổi.

Ví dụ, sở hữu trí tuệ được đề cao, quản lý theo mạng sẽ thay thế phương pháp
quản lý theo thứ bậc


Tuy nhiên hiện nay loài người mới ở bước quá độ. Những biểu hiện cụ thể
của bước quá độ là sự thay thế từng bước các tư liệu sản xuất truyền thống do
cuộc cách mạng công nghiệp mang lại bằng các tư liệu sản xuất hiện đại dựa trên
cơ sở của những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, mà tập trung
ở các lĩnh vực điện tử, tin học, vật liệu mới, công nghệ sinh học. . . thể hiện trong
những thiết bị siêu nhỏ, siêu nhẹ, siêu bền. . . tác động nhanh, hiệu quả cao, tiêu
tốn ít năng lượng. Các tư liệu sản xuất này hết sức đa dạng, phong phú cả vế đối
tượng lao động lẫn tư liệu lao động. Các công cụ thiết bị tự động hoá ngày càng
phát triển thay thế cho các công cụ, thiết bị cơ khí hoá. Có thể nói khái quát là
hiện đã có ba loại thiết bị biểu hiện chức năng tự động hoá. Đó là:
+ Máy tự động trong quá trình hoạt động
+ Máy công cụ điều khiển bằng số
+ Người máy. Đặc biệt là người máy(Robot) đã từng bước thay thế phần
công việc nặng nhọc, những công đoạn nguy hiểm, độc hại cho người lao động,
đồng thời đã xuất hiện những nhà máy tự động hoá do người máy điều khiển
những công đoạn cần thiết. Các quá trình lao động trí óc cũng đã bước đầu được
thử nghiệm để người máy thay thế.
Tính cách mạng của tư liệu sản xuất trước hết thể hiện ở công cụ lao động dây
chuyền đến tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất. Do vậy, phương thức sản
xuất của cải vật chất cũng có bước nhảy vọt từ kỹ thuật cơ khí sang bán tự động
và tự động và các yếu tố cơ bản của nền kinh tế tri thức đã xuất hiện.
Nguyên nhân của bước quá độ này là do tác động của cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ. Chính cuộc cách mạng khoa học và công nghệ với những lĩnh
vực mũi nhọn được tập trung là kỹ thuật điện tử, công nghệ thông tin, vật liệu
mới, công nghệ sinh học, công nghệ hải dương. . . đã tạo ra những thành tựu mới
và được chủ nghĩa tư bản.



1. Hiện nay thế giới có khoảng 500000 người máy công nghiệp và được tập
chung ở những nước tư bản phát triển. Tỷ lệ người máy trên một vạn dân của
Thụy Điển là 8, Nhật Bản: 6, Mỹ: 2, Cộng hoà liên bang Đức: 1, 5
2. Tỷ lệ này có sự khác nhau ở các nước. Chẳn hạn ở Pháp số công nhân làm
việc trên máy hoàn toàn tự động chiếm 15, 7% tổng số công nhân trong các ngành
công nghiệp.
áp dụng một cách hiệu quả để tạo ra “ cái cốt vật chất” mới thay cho đại công
nghiệp cơ khí. Vai trò khoa học ở đây rất to lớn. Nó đã thực sự phát huy tác dụng
khi trở thành lực lượng sản xuất như C. Mác đã khẳng định, và ngày nay vai trò
đó đã được đánh giá cao. Chẳng hạn theo đánh giá gần đây người ta cho rằng
những đổi mới công nghệ đã đóng góp tới 65% tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản,
73% kinh tế của Anh va 76% kinh tế của Pháp và Cộng hoà liên bang Đức.
Trong báo cáo số hai về nền kinh tế số hoá đang xuất hiện (công bố tháng 61999), Bộ thương mại Mỹ đã khẳng định khu vực công nghệ thông tin đã đóng
góp tới 35% tăng trưởng kinh tế của Mỹ.

2. 2 Sự biến đổi về cơ cấu lao động
Đội ngũ người lao động làm thuê lực lượng sản xuất cơ bản, cũng có sự biến
đổi cả về trình độ nghiệp vụ cơ cấu và các yếu tố cấu thành giá trị hàng hoá sức lao
động để phù hợp với bước nhảy vọt mang tính cách mạng của tư liệu sản xuất. Cho
đến nay đội ngũ lao động ở các nước tư bản phát triển đã đạt trình độ văn hoá chuyên
môn nghiệp vụ cao. Cơ cấu lao động đã có sự thay đổi theo chiều hứơng tiến bộ và
các yếu tố tái sản xuất tư bản chủ nghĩa một cách có hiệu qủa.
-Về cơ cấu lao động :
Lao động dịch vụ được tập trung cao 70-75%, đồng thời đội ngũ chuyên gia có
tay nghề cao chủ yếu được tập trung ở khu vực này. Chẳng hạn ở Mĩ thập kỉ 80, tỉ lệ
lao động “cổ trắng” và “ cổ xanh” là 50/32. Đồng thời xuất hiện lực lượng “công



nhân cổ vàng”. Đó là cán bộ có trình độ chuyên môn đại học, trên đại học. Lực lượng
lao động này đang ngày càng tăng lên ở các nước tư bản phát triển.
Với nền sản xuất dần dần từng bước chuyển sang nền “ sản xuất tri thức”, vai
trò của nguồn nhân lực càng trở nên quan trọng. Theo đánh giá của ngân hàng thế
giới ởNhật Bản nguồn lực con người chiếm 81% trong tổng số các nguồn lực. Còn
với Mĩ, Pháp, Đức, Italia lần lượt là 59%, 77%, 79%, 82%.
Để đào tạo đội ngũ lao động lành nghề, các nước tư bản đã tăng cường đầu tư
vào việc nghiên cứu và triển khai, thực hiện hợp tác quốc tế trong những chương
trình nghiên cứu các đề tài mang tính chiến lược, thực hiện cải cách giáo dục. . .
-Về tái sản xuất sức lao động :
Do sự đầu tư vào con người để làm tăng các yếu tố tái sản xuất sức lao động cả
về vật chất lẫn tinh thần nhằm khơi dậy sự sáng tạo, phục vụ quá trình tái sản xuất tư
bản chủ nghĩa trong điều kiện mới một cách tốt hơn nên tốc độ tăng trưởng kinh tế
tăng, GDP bình quân đầu người cao, tuổi thọ bình quân và tỉ lệ người biết chữ tăng,
điều đó biểu hiện ở chỉ số HDI tăng. Theo thống kê của LHQ, chỉ số HDI của các
nước tư bản phát triển thập kỉ 90 khá cao, xấp xỉ 1. Chẳng hạn chỉ số HDI ở Nhật là
0, 98 và Canada là 0. 989.
Cùng với việc nâng cao trình độ nghề nghệp của người lao động, các nước tư
bản đã quan tâm đến các yếu tố cấu thành của gía trị hàng hoá sức lao động, thực hiện
nâng cao chất lượng cuộc sống. Chẳng hạn, thông qua sự điều tiết kinh tế, can thiệp
vào các điều kiện của quá trình tái sản xuất, đảm bảo các điều kiện ăn, ở, sinh hoạt, đi
lại, học hành, vui chơi giải trí của bản thân và gia đình người lao động. Do đó xuất
hiện tầng lớp trung lưu ( bao gồm cả những người công nhân “cổ trắng”, “cổ vàng” ).
Ngoài việc thực hiện chính sách xã hội, như chính sách việc làm, bảo hiểm, trợ cấp
thất nghiệp, trợ cấp gia đình đông con chăm sóc y tế người già, trẻ em, người tàn tật. .
. nhà nước tư sản còn sử dụng các công cụ điều tiết giá cả, lạm phát, thuế, thực hiện
điều tiết phân phối lạiđể ổn định tiền lương, thu nhập. Trong giai đoạn 1981 –1990,
tỉ lệ lạm phát ở các nước tư bản phát triển trung bình 5, 5 % ( trong đó Mĩ 4, 5%, EU



6, 6%, Nhật Bản 1, 9%), giai đoạn 1991-2000 tỉ lệ đó là 2, 2%, trong đó năm 1991 :
4, 5%, 1998: 1, 4%, 1999:1, 1%.

Sự quan tâm đến điều kiện tái sản xuất sức lao động của chủ nghĩa tư bản một
mặt liên quan đến tiêu dùng có tính sản xuất và có thể nói nó cũng giống như sự
quan tâm của nhà tư bản đến máy móc thiết bị, vì đó là tư bản và là tài sản của mình.
Nhưng mặt khác xã hội càng văn minh thì buộc chủ nghĩa tư bản cũng phải sử dụng
các phương pháp tinh tế trong việc giải quyết các quan hệ xã hội. Do đó không thể
không quan tâm đến tài nguyên con người, nhân tố quyết định cuối cùng đến việc
thắng hay thua đối thủ cạnh tranh. Đó là một tất yếu khách quan mà nhà nước với tư
cách là người quản lí kinh tế và quản lí xã hội phải thực hiện.
Có thể nói trong điều kiện thời đại ngày nay, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà
nước đã tăng cường điều tiết quá trình phân phối và phân phối lại. Vì vậy mặc dù về
cơ bản người lao động cũng chỉ nhận được phần V, còn nhà tư bản hưởng phần m,
song do quá trình điều tiết của nhà nước một phần nhỏ m cũng thuộc về người lao
động dưới hình thức quĩ phúc lợi xã hội và được hưởng thụ thông qua việc tiêu dùng
các giá trị sử dụng của công trình do quĩ phúc lợi xã hội mang lại.
3. Sự biến đổi, điều chỉnh của quan hệ sản xuất
3.1 Sự biến đổi về các hình thức sở hữu
Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay hình thức sở hữu của chủ nghĩa tư
bản đã coc bước biến đổi hết sức to lớn với những biểu hiện quan trọng là :
Hình thức sở hữu đa dạng :
- Có nhiều chủ thể cùng sở hữu tư liệu sản xuất trong một doanh nghiệp cổ phần
voí những tỉ lệ khác nhau trong đó có cả những nhà tư bản lớn nhỏ và kể cả người
lao động cũng đóng góp cổ phần để được hưởng lợi tức cổ phần. Chẳng hạn ở Thuỵ
Điển có tới 21% dân cư có cổ phần trong các doanh nghiệp. Tuy nhiên cần nhấn
mạnh rằng sở hữu của các nhà tư bản vẫn giữ vị trí trọng yếu, còn sở hữu cổ phiếu
của người lao động chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ, không đáng kể và được chủ nghĩa tư bản
sử dụng nhưmột công cụ trong quản lí để thu hút sự quan tâm của ngươì lao động vào



quá trình sản xuất. Theo số liệu thống kê quốc tế toàn bộ cổ phần mà người lao động
ở Mĩ có được chỉ chiếm khoảng 1% toàn bộ giá trị cổ phiếu. Ví dụ ở Mĩ một doanh
nghiệp có số vốn hoạt động là 180 triệu USD, nhưng giá trị mỗi cổ phiếu bán ra cho
người lao động chỉ là 2 USD. Như vậy người lao động có nắm nhiều cổ phiếu thế nào
đi nữa cũng không đủ để giữ vị trí quan trọng trong công ty .
Ngoài hình thứccổ đông hoá một cách rộng rãi trong các tầng lớp dân cư, hiện
nay đã bước đầu xuất hiện loại hình xí nghiệp do công nhân tự quản. Chẳng hạn nhà
nước Mĩ đã “ quốc hữu hoá “ chi nhánh của GMC và giao cho công nhân tự quản còn
nhà nước chỉ tham gia hỗ trợ thông qua chính sách vĩ mô. Điều này không có nghĩa là
các nhà tư bản tự nguyện chuyển quyền sở hữu cho người lao động và càng không có
nghĩa là “ cuộc cách mạng trong sở hữu tư liệu sản xuất “ ở thời đại ngày nay sẽ diễn
ra theo cách tiến hoá như một số người đã và đang cố tình nhầm lẫn và với ý đồ muốn
phê phán “ sự lỗi thời “ của chủ nghĩa Mác theo cách nghĩ của họ.
- Trong chủ nghĩa tư bản ngày nay, sở hữu không chỉ giới hạn trong việc sở hữu
tư liệu sản xuất ( tức là sở hữu hiện vật) mà chủ yếu là sở hữu về mặt giá trị ( vốn )
dưới nhiều hình thức như vốn tự có, vốn cổ phần, vốn cho vay. Nếu như thời kì đầu
trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền
quản lí gắn làm một trong một chủ sở hữu và khi xuất hiện tư bản cho vay đã làm hai
quyền đó tách rời( tức là tư bản sở hữu tách rời tư bản chức năng ) thì trong chủ nghĩa
tư bản ngày nay sự tách rời đó càng được đẩy mạnh và lao động quản lí đã trở thành
một nghề, giám đốc thực hiện chức năng quản lí thông qua hợp đồng là thuê. Tuy
nhiên ở đây không có nghĩa là nguyên lí về quyền sở hữu quyết định quyền quản lí, vì
thế không còn giá trị, mà trái lại điều đó chỉ thể hiện sự biến thể do sự phát triển của
phân công lao động xã hội ở trình độ mới, còn vai trò quyết định cuối cùng của người
sở hữu vẫn không có sự thay đổi.
Cùng với quá trình đó còn xuât hiện nhiều hình thức sở hữu khác, như sở hữu
trí tuệ, sở hữu các công trình khoa học, bằng phát minh sáng chế, kiểu dáng công
nghiệp, thông tin. Các hình thức này, nhất là sở hữu thông tin, đã ngày càng trở nên
quan trọng trong nền kinh tế thị trường hiện đại và mang tính quyết định đối với sự



tăng trưởng kinh tế. Bởi vì chính trí tuệ là nguồn gốc của việc sản sinh ra của cải xã
hội. Rất nhiều nhà Khoa học, trong đó có Các Mác, đã khẳng định và đề cao vai trò
của tri thức khoa học đối với sự phát triển kinh tế –xã hội giống như “ đôi đũa thần”
làm giàu cho xã hội.
- Sở hữu tư nhân đã có sự biến đổi lớn, tính độc lập tương đối bị mất dần, thay
vào đó là sở hữu hỗn hợp. Trong quá trình sản xuất, kinh doanh các nhà tư bản lớn đã
từng bước thôn tính các doanh nghiệp vừa và nhỏ, lôi cuốn chúng vào quĩ đạo hoạt
động của mình dưới những hình thức khác nhau theo cơ chế “tham dự”. Các doanh
nghiệp nhỏ này trở thành vệ tinh nhận thầu và thầu lại của các doanh nghiệp lớn mà
các doanh nghiệp lớn đó thường là doanh nghiệp độc quyền được tổ chức lại trong
một cơ cấu mới. Chẳng hạn Công ty GE một công ty hàng đầu thế giới của Mĩ về
ngành điện dân dụng, đã tập hợp quanh mình 3200 xí nghiệp thành viên (kể cả các hộ
gia đình) với những mối liên kết ở mức độ khác nhau, thực hiện những chức năng
khác nhau như sản xuất từng bộ phận chi tiết, đảm nhận từng công đoạn, từng khâu
trong sản xuất, lưu thông qua việc nhận thầu, thầu lại theo những hợp đồng của công
ty mẹ.
Điều cần nhấn mạnh là mặc dù với “hệ thống tham dự mới” trong đó có sự tham gia
của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, của các hộ gia đình và cả những người công nhân
lao động làm thuê, song có thể nói đó chủ yếu là sự biến đổi trong cách thức tổ chức
quản lí doang nghiệp nhằm nâng cao hiệu suất của tư bản chứ không có nghĩa là
người công nhân trở thành chủ sở hữu tư liệu sản xuất, bởi vì giá trị cổ phiếu mà họ
sở hữu là quá thấp so với giai cấp tư bản như đã nêu ở trên. Mặt khác với sở hữu đó
người công nhân chưa trở thành người chủ sở hữu thực sự, mà chỉ mang tính hình
thức nên chỉ là người bán sức lao động, chứ không phải vừa lao động, vừa quản lí
theo hình thức tiểu chủ. Về mặt lí luận, cần phân biệt khi là chủ sở hữu thực sự thì
phải có thực quyền chi phối cái mà mình sở hữu ( với những mức độ nhát định).
Đồng thời cũng cần phân biệt về mặt lượng cũng như mối quan hệ biện chứng giữa
lượng và chất.



Ngoài ra nguồn gốc của gía trị cổ phiếu mà họ có là do tiền lương tiết kiệm
được chứ không phải từ nguồn gốc chiếm đoạt lao động của người khác, những
phần tiết kiệm đó lại chỉ bù đắp ( thậm chí không đủ bù đắp) được phần mà họ mắc
nợ do phải đứng ra mua chịu tư bản cố định gia đình do nhà nước đứng ra điều tiết.
Trên thực tế giá trị của cái gọi là tư liệu sản xuất mà họ sở hữu nằm trong hệ thống
quản lí ngân hàng và sự khống chế của tư bản tài chính chứ họ không có quyền tự do
sử dụng theo ý riêng của mình.
Hình thức sở hữu độc quyền vẫn tồn tại nhưng không còn độc quyền thuần tuý
mà là dạng hỗn hợp và dưới hình thức sở hữu của các công ty xuyên quốc gia, hoặc
chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, tư bản tài chính.
Đây là hình thức vận động rất mới mẻ của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
mà ở thời Lênin mối chỉ có mầm mống.
+Về hình thức sở hữu độc quyền xyên quốc gia
Do quá trình tích tụ và tập trung sản xuất được đẩy mạnh hơn nữa, dưới tác động của
qui luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản, cùng với những điều kiện quốc tế hoá
sản xuất, tư bản và thông tin, các tổ chức độc quyền quốc gia đã vượt biên giới quốc
gia, thực hiện kinh doanh quốc tế dưới nhiều hình thức và trở thành các công ty
xuyên quốc gia.
Khi ra ngoài biên giới quốc gia, các công ty này đã thực hiện sự liên kết để
bành trướng thế lực và khai thác tiềm năng của nước chủ nhà. Thông qua con đường
đó các công ty xuyên quốc gia ngày càng thâu tóm nhiều tư liệu sản xuất, vốn, trí tuệ
quốc tế, tạo ra nhiều hình thức sở hữu hỗn hợp mang tính quốc tế hoá. Hiện nay trên
70% các xí nghiệp chi nhánh của các công ty xuyên quốc gia là các xí nghiệp liên
doanh với tỉ lệ vốn góp khác nhau, ít nhất là 2và thông thường có 3-4 chủ sở hữu
trong một xí nghiệp. Hiện nay các công ty xuyên quốc gia thường tồn tại dưới dạng
concern và CM(conglomerate) mà concern và CM là những tổ hợp đa ngành với
những mức độ khác nhau. Điều đó phản ánh tính đa dạng, phức tạp và tính hỗn hợp
và sở hữu xuyên quốc gia.



Có thể nói hiệ tượng đa quốc gia hoá trong sở hữu ở các xí nghiệp chi nhánh
của các công ty xuyên quốc gia đã trở thành phổ biến, làm cho tính hỗn hợp của sở
hữu tăng lên mạnh mẽ.
Hình thức sở hữu độc quyền xuyên quốc gia là hình thức sở hữu hỗn hợp và đã
được quốc tế hoá. Đó cũng chính là hình thức sở hữu mang tính khách quan do các
tác động của quá trình xã hội hoá sản xuất dưới hình thức quốc tế trong điều kiện của
chủ nghĩa tư bản, nhất là trong thời đại ngày nay.
+Về hình thức sở hữu tư bản tài chính
Tư bản tài chính là hình thức hỗn hợp về tư bản giữa tư bản công ngiệp và tư
bản ngân hàng do quá trình tích tụ sản xuất dẫn tới. Ngày nay mặc dù hạt nhân của nó
không thay đổi, nhưng tư bản tài chính đã lôi cuốn hầu như toàn bộ tư bản ở các
ngành sản xuất, lưu thông và cơ cấu tổ chức của mình, hình thành nên một cơ cấu
mang tính hỗn hợp, trước hết về mặt sở hữu. Lênin khẳng định : tư bản tài chính bao
giờ cũng có tính quốc tế hoá trong mọi hoạt động. Ngày nay đặc tính ấy biểu hiện rất
rõ rệt và mang tính phổ biến. Đó là trường hợp khá điển hình về sự phát triển những
đặc tính vốn có của độc quyền và cũng là trương hợp điển hình về tính hỗn hợp và
tính quốc tế hoá của hình thức sở hữu của chủ nghĩa tư bản đương đại –kế thừa và
phát triển đặc tính của nó ở giai đoạn trước –giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh
tranh thống trị.
+Hình thức sở hữu độc quyền nhà nước
Xét về bản chất giai cấp của nhà nước tư sản, sở hữu nhà nước chính là sở hữu
của tư bản tập thể. Điều này đúng như nhận xét của Ăng ghen rằng nhà nước tư sản là
nhà nước của các nhà tư bản, là nhà tư bản tập thể lí tưởng và nhà nước ấy càng
chyển nhiều lực lượng sản xuất thành tài sản của nó bao nhiêu thì nó lại biến thành
nhà tư bản tập thể thực sự bấy nhiêu.
Sở hữu độc quyền nhà nước được hình thành thông qua nhiều con đường khác
nhau trong đó có quốc hữu hoá các xí nghiệp của tư bản tư nhân, xây dựng mới bằng
việc chi ngân sách nhà nước, góp vốn cổ phần và mua lại một phần xí nghiệp tư bản

tư nhân trong trường hợp cần thiết. Song ngay trong trường hợp quốc hữu hoá hoặc


xây dựng mới bằng việc chi ngân sách nhà nước thì tính hỗn hợp của sở hữu không vì
thế mà thay đổi, vì nhà nước tư sản chẳng qua là “ nhà tư bản tập thể” hoặc chỉ là “
một công ty cổ phần” như Ăng ghen đã nhận xét.
Sự biến đổi của hình thức sở hữu trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa là
một đặc trưng rất cơ bản của chủ nghĩa tư bản ngày nay bởi vì sở hữu là quan hệ xã
hội của nền sản xuất, là tổng thể các quan hệ kinh tế và theo đó là tổng thể các quyền
sử dụng, chi phối, quản lí, định đoạt gắn liền với nó trong một xã hội nhất định.
Đồng thời nó cũng chính là sự thốn nhất biện chứng giữa điều kiện cần phái có của
sản xuất với mặt kết quả thực tế trong quá trình tái sản xuất. Việc biến đổi về hình
thức quan hệ sở hữu nêu trên là sự biến đổi dưới tác động của qui luật về sự phù hợp
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Do tính chất xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất, đòi hỏi quan hệ sản xuất
phải có sự biến đổi để thích ứng. Trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản sự hỗn hợp
hoá và quốc tế hoá theo kiểu tư bản chủ nghĩa là một sự đáp ứng đòi hỏi ấy. Đó chính
là quá trình kinh tế mang tính khách quan ngoài ý muốn chủ quan của nhà tư bản.
Sự biến đổi của hình thức sở hữu trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa để
thích ứng với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất đã có tác động trở lại nhất
định đến sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tuy sự tác động này còn có tính hạn
chế, song đây là quá trình mang tính khách quan và là xu thế vận động cơ bản trong
thời đại ngày nay. Đông thời sự biến đổi cúa hình thức sở hữu cũng đã đặt ra những
vấn đề mới đòi hỏi quan hệ quản lí và phân phối phải có sự biến đổi tương ứng.

3.2 Sự điều chỉnh về quan hệ tổ chức quản lí

Sự biến đổi về tổ chức quản lý trong nền kinh tế của CNTB hiện đại diễn ra cả
trong lĩnh vực vi mô và vĩ mô, từ trong các công ty, xí nghiệp đến hoạt động quản lý
của nhà nước tư sản. Trên cơ sở những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công

nghệ thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin, tự động hoá các thiết bị điều khiển chương
trình số, thiết kế và chế tạo với sự giúp đỡ của máy tính điện tử, các hẹ thống sản


xuất linh hoạt, người máy. . . phương thức tổ chức quản lý sản xuất vật chất có sự
thay đổi từ sản xuất lớn hàng loạt sang tổ chức quản lý theo loạt nhỏ hay đơn chiếc
đáp ứng yêu cầu thị hiếu đa dạng của khách hàng tức là thực hiện phi hàng loạt hoá
và đa dạng các sản phẩm: phi chuyên môn hoá sản xuất theo tổ hợp các khối cấu
kiện, phụ kiện chứ không phải từ những cấu kiện rời được chuyên môn hoá như
trước, phi tập trung hoá - quá trình sản xuất được phân tán thành những đơn vị sản
xuất nhỏ và vừa trên phạm vi rộng của cả quốc gia và quốc tế; vi tiểu hình hoá sản
phẩm với phương châm “nhỏ là đẹp”. Các sản phẩm sản xuất ra có kích cỡ ngày càng
nhỏ, thậm chí nhỏ cỡ nanomet như Robot y học dùng trong chuẩn đoán và chữa bệnh.
Thực hiện tổ chức quản lý từ xa được thực hiện trên cơ sở xuất hiện các siêu lộ thông
tin cho phép điều khiển quá trình sản xuất trên diện rộng ở nhiều vùng khác nhau,
nền kinh tế mang tính chất toàn cầu và hoạt động như một đơn vị kinh tế cấp toàn
cầu, vì vậy hoạt động quản lý cũng mang tính chất quốc tế hoá, toàn cầu hoá. Tất cả
các biến đổi trên cho thấy, việc tổ chức quản lý sản xuất và hoạt động kinh tế đã dịch
chuyển từ kiểu đại trà, được tiêu chuẩn hoá theo loạt lớn sang kiểu sản xuất loạt nhỏ
và linh hoạt theo đơn đặt hàng, cũng như dịch chuyển từ các tổ chức có quy mô lớn
được liên kết theo chiều dọc sang phi liên kết theo chiều dọc và sang các mạng lưới
theo chiều ngang giữa các đơn vị kinh tế trong nước và ngoài nước.
Trước sự phát triển của khoa học công nghệ và phân công lao động quốc tế
hình thức quản lý chuyển đổi từ loại tập chung cao độ quyền lực quản lý vào công ty
mẹ theo kiểu “kim tự tháp” sang các công ty chi nhánh, các đơn vị sản xuất theo kiểu
“màng lưới”. Như A. Toffer nhận xét: “Tổ chức quản lý theo kiểu hình tháp, cồng
kềnh và quan liêu, hiện đang bị các công ty chạy đua giải thể” đã làm cho các loại
hình tổ chức mới theo kiểu ma trận, nhóm dự án ngày càng được đề cao và ưa
chuộng, đây sẽ là loại hình tổ chức quản lý chủ yếu của xã hội dựa trên tri thức.
Bởi vì trong xã hội thông tin ngày nay, sự truyền đạt tin tức quản lý phải được

nhanh chóng, chính xác, trong khi mô hình quản lý cũ đã làm chậm và mất tính
chuẩn của tin do việc truyền tin qua nhiều tầng lớp trong không gian từ trên xuống
dưới và ngược lại, không linh hoạt, cồng kềnh kém hiệu quả. Thể chế truyền thống đã


tỏ ra bất cập trước những vấn đề mới phát sinh như: tính nhất trí của lợi ích, sự khác
nhau về văn hoá, tuổi thọ sản phẩm…Thể chế quản lý màng lưới không co trung tâm,
mỗi một tầng quản lý trong mạng lưới, mỗi người quản lý đều là một trung tâm, giữa
chúng có mối liên hệ phức tạp giao chéo kiểu rẻ quạt. Mục tiêu quản lý của nó
không chỉ có quản lý kinh doanh, tiêu thụ, quản lý nhân viên, mà còn cả việc thiết kế
hình tượng xí nghiệp, với tôn chỉ là hoạt động có hiệu quả nhất tàI năng và ưu thế của
mỗi người trong mạng lưới công ty. Trong hình thức này, tin tức lan truyền như hệ
thống thần kinh, đảm bảo cho mọi cấp quản lý đều nhận được thông tin mới nhất và
hoàn chỉnh để đưa ra quyết sách, do đó mà có khả năng ứng phó với mọi điều kiện
sản xuất tiêu thụ sản phẩm trước mọi biến động của thị trường thế giới hiện nay.
Mô hình tổ chức quản lý của thể chế này có hai loại, theo quá trình nằm ngang
và theo kiểu “tế bào sản xuất”
 Mô hình tổ chức quản lý theo quá trình nằm ngang được xây dựng là nhằm
khắc phục những khuyết tật của kiểu quản lý truyền thống, giảm bớt nhiều
tầng lớp trung gian, chuyển từ việc lấy chức năng công việc làm hạt nhân sang
quá trình làm hạt nhân để tổ chức nhân viên. Nội dung chủ yếu của kết cấu tổ
chức quản lý theo kiểu nằm ngang là việc tập hợp những viên chức có kỹ năng
khác nhau vào một “tế bào sản xuất” để họ thấy được đầy đủ mục tiêu của một
“quả trình tác nghiệp”. Từ đó họ tự quản lý sản xuất, phát huy cao độ tinh
thần hợp tác và ưu thế của một tập thể hoàn chỉnh để giành thắng lợi trong
cạnh tranh. ở đây, đội sản xuất trỏ thành nền tảng và đảm nhiệm một quá trình
sản xuất, thực hiện tự kiểm soát, kiểm tra chất lượng sản phẩm của mình, giảm
được việc tổ chức giám sát, kiểm tra và loại bỏ được mọi hoạt động không làm
tăng giá trị của sản phẩm, kích thích thi đua hợp tác của nhân viên, tăng khả
năng tiếp xúc, cuốn hút khách hàng, do vậy mà nó hiệu quả hơn.

 Mô hình tổ chức quản lý kiểu “tế bào sản xuất” là kiểu tổ chức quản lý trong
đó công nhân được chia ra từng ca, kíp nhỏ (thường từ 2-50 công nhân) có thể
chế tạo, kiểm tra và hoàn thành toàn bộ sản phẩm. Mỗi công nhân có thể làm
nhiều việc và mỗi tế bào phảI chịu trách nhiệm về chất lượng sản phẩm của


mình. “Tế bào sản xuất” là một “quá trình hẹp” nhựng lại rất linh hoạt, đáp
ứng được yêu cầu thay đổi kiểu dáng, mẫu mã của khách hàng một cách nhanh
chóng, đảm bảo cho việc sản xuất theo đơn đặt hàng phù hợp với sự biến động
mau lẹ của thị trường. Mỗi tế bào sản xuất một sản phẩm khác nhau, nếu rủi
ro thì chỉ ảnh hưởng tới tế bào “đương sự” tránh được rủi ro cho toàn xí
nghiệp. Do đó, tế bào sản xuất mang lại năng suất, chất lượng, hiệu quả cao
hơn.
Như vậy, một điều nổi rõ trong quá trình chuyển đổi hình thức tổ chức quản
lý là nhằm vào phát huy và sử dụng các nguồn lực của con người - đó là hệ thống
tổ chức sản xuất lấy con người làm trung tâm, định hướng vào loại nhân lực có
trình độ cao trong quá trình sản xuất, bồi dưỡng kiến thức và nâng cao trình độ
chuyên môn một cách liên tục và có hệ thống, với một đội ngũ công nhân năng
động và cách thức tổ chức linh hoạt từ trên xuống dưới đem lại hiệu quả kinh tế
cao hơn cả việc trang bị các thiết bị hiện đại. Việc hoàn thiện công tác quản lý
nguồn nhân lực con người mang lại một tác động mạnh mẽ hơn nhiều mặt về
thành tựu so với việc mua sắm các kỹ thuật tiên tiến hơn từ các máy cộng cụ điều
khiển bằng chương trình số cho tới các hệ thống sản xuất linh hoạt.
Trước hết, các xí nghiệp lớn ngày càng thực hiện chế độ cung ứng (hoặc
chế độ khoán), giao một số linh kiện hoặc giai đoạn nào đó của sản phẩm cho các
xí nghiệp khác hoàn thành. Cách làm này đã có từ lâu. Chỗ khác nhau giữa chế
độ cung ứng mới hiện nay và trướckia là ở chỗ, chẳng những các hãng chế tạo lớn
khoán việc sản xuất mà còn khoán toàn bộ công tác nghiên cứu khoa học, chế tạp
thử cho tới sản xuất những linh kiện đó cho các xí nghiệp khác, từ đó hình thành
nên mạng lưới xí nghiệp do hãng chế tạo lớn cầm đầu, có nhiều hãng nhận khoán

(hoặc hãng cung ứng) tham gia. Các xí nghiệp đều độc lập về mặt pháp luật,
nhưng về sản xuất là một chỉnh thể, về hành động thì nhất trí, mục tiêu và sự chú
ý của họ đều tập chung vào việc làm thế nào để sản phẩm có sức cạnh tranh lớn
nhất.


Thứ đến, để nâng cao hiêu quả công tác, các xí nghiệp lớn đang cải tiến cơ
chế quản lý trước đây là phân công ngành quá chi tiết, quá nhiều tầng nấc…. lần
lượt giảm bớt các tầng nấc, xoá bỏ một số ngành chức năng, hoặc phá bỏ “rào
chắn” giữa chúng, thực hiện tổng hợp hoá chức năng, cắt giảm hàng loạt nhân
viên quản lý trung gian.
Tóm lại, sự thay đổi trên thể hiện thông qua: Thứ nhất, việc chuyển từ chế độ
dự dựa trên sở hữu cổ phiếu khống chhé được thay thế bằng chế độ uỷ nhiệm, do
việc phát hành cổ phiếu với mệnh giá nhỏ, khối lượng lớn, bán rộng rãi để thu hút
nguồn vốn rộng rãi trong dân cư, làm cho cổ phiếu của công ty bị phân tán, quyền
lực khống chế của tư bản riêng biệt bằng sở hữư cổ phần đang bị lu mờ dần đi.
Thứ hai, do mức độ rủi ro trong đầu tư ngày càng cao, tư bản tiếp tục phân tán
giải ra các ngành, các công ty và cả các tập đoàn tư bản khác nhau, quyền lực lớn
sở hữu bị suy yếu, độc quyền dựa trên ý chí một vài cá nhân tư bản lớn hầu như
không còn cơ sở để tồn tại. Thứ ba, sự phát triển của kết cấu tập đoàn tư bản tài
chính mạng lưới, tạo nên quan hệ thống nhất và mâu thuẫn dựa trên mục tiêu,
hiệu quả và lợi ích của tư bản sở hữu và tư bản chức năng, là một hình thức quan
hệ kinh tế mới của tư bản tai chính. Trong kết cấu này tồn tại nhiều thế lực có sức
mạnh cân bằng và lợi ích xoắn xuýt vào nhau, vì chúng có cổ phần đan xen nhau,
các bên có sở hữu cổ phần ngang nhau, không bên nào độc quyền chiếm cổ phần
có quyền khống chế. Từ đó mà hình thành ra một hình thức tư bản tài chính tập
thể.
Quyền lực thực sự trong các tập đoàntư bản tài chính đã chuyển dần từ tay
những tư bản kếch sù cha truyền con nối, những người hoàn toàn tách rờiquá trình
sản xuất trực tiếp sang tay những người vạch đường cho doanh nghiệp phát triển

và những người trực tiếp điều hành. Thống kê ở Mỹ cho thấy, giám đốc và chủ
tịch của 3500 công ty lớn đã kiểm soát gần 1/2 tàI sản công nghiệp cả nước, 1/2
tài sản ngân hàng, 1/2 tàI sản ngành GTVT và khu vực công cộng, 1/3 tài sản
ngành bảo hiểm. Trong đó chie có 10% là con cháu các gia đình giàu có, còn lại
là hàng ngũ giám đốc kể từ bậc thấp nhất của nấc thanh chi phối xí nghiệp đến vị


trí ngai vàng quyền lực. Trong các nhà tỷ phú có rất nhiều người thuộc hàng ngũ
giám đốc đI lên bằng con đường doanh nghiệp. Trong khi 3/5 tư bản có được từ
lợi nhuận của công ty, 1/5 từ nguồn vay tín dụng ngân hàng, 1/5 từ nguồn đầu tư
của các tổ chức ngoài ngành, và các nhà đầu tư cá thể tự do chỉ cung cấp có 5%
thì tấtnhiên sẽ hình thành hình thức sở hữu tập thể của tư bản độc quyền thông
qua hàng ngũ giám đốc trực tiếp quản lý xí nghiệp, các nhà tư bản độc quyền và
hàng ngũ giám đốc hoà làm một. Thực tế ở Nhật Bản, Cộng hoà liên bang Đức,
Anh, Pháp…. . cũng diễn ra sự di chuyển quyền lực như thế.
Giữa các bộ phận, các thành viên trong nội bộ tập đoàn tài chính có quan hệ
vừa cạnh trah với nhau, vừa phối hợp chặt chẽ với nhau vì lợi ích hơn của tập
đoàn. Quan hệ giữa chúng trước tiên là quan hệ đối tác được quyết định trên thị
trường và do các quy luật của thị trường chi phối. Song quan hệ cạnh tranh ở đây
không phải là cạnh tranh thuần tuý, mà là quan hệ cạnh tranh giữa các bộ phận có
sự lệ thuộc lẫn nhau chịu sự chỉ đạo điều khiển từ trung tâm, đảm bảo cho các bộ
phận chóp bu của tập đoàn khống chế được bộ phận ngoại vi để thu lợi nhuận cao
hơn. Mặt khác, nó còn bảo vệ cho các bộ phận đó không bị bóp chết trong cạnh
tranh, được nâng đỡ định hướng trong kinh doanh. Tuy vậy, các bộ phận của tập
đoàn cũng có tính độc lập tương đối của nó với bộ phận chóp bu, chúng cũng bị
đào thải khi kinh doanh không hiệu quả, hoặc trở thành bộ phận chủ đạo khi
chúng kinh doanh có hiệu quả và phát triển mạnh lên.
Việc kiểm soát trong tập đoàn của nhà tư bản sở hữu lớn vừa có tính trực tiếp,
lại vừa có tính gián tiếp. Việc kiểm soát trực tiếp được thực hiện bằng cách sử
dụng cổ phần khống chế để can thiệp vào xí nghiệp và các công ty thành viên.

Việc kiểm soát gián tiếp thông qua cơ chế thị trường bằng cách chủ động tạo ra sự
ổn định cho hoạt động của công ty, hoặc bơm vào nó những đợt sóng xung đột
lớn trên thị trường chứng khoán, để buộc các tư bản chức năng phảI tuân theo ý
chí của chủ sở hữu tư bản lớn.
Như vậy, quyền lực thống trị của tư bản tài chính đã có sự biến đổi cho phù
hợp với quá trình xã hội sản xuất ngày càng mở rộng. Dù cho cổ phiếu có phân


tán, tư bản có được xã hội hoá, quyền lực khống chế trực tiếp đối với tư bản có
chuyển vào tay các pháp nhân kinh tế, thì lợi ích của tư bản sở hữu không vì thế
mà không đảm bảo. Tư bản tài chính ngày càng mở rộng và bành trướng thế lực
của mình ra toàn bộ nền kinh tế thé giới.
Quyền lực của tư bản tài chính còn được tăng cường hơn nữa bởi có sự dung
hợp của nhà nước với tư bản tài chính, giữa sức mạnh của tư bản tài chính với sức
mạnh của nhà nước tư sản, tạo nên hình thức mới là tư bản tài chính nhà nước.
Ngày nay tư bản tài chính nhà nước đã bao trùm hầu như toàn bộ nền kinh tế xã
hội. Chúng khống chế cả theo chiều dọc và chiều ngang, xuyên qua tất cả các xí
nghiệp, các ngành, các khu kinh tế và các quốc gia tạo thành một mạng lưới liên
hệ kinh tế chằng chịt neo chặt những mảng kinh tế chủ yếu vào một khối thống
nhất chịu sự chi đạo của tư bản tàI chính nhà nước. Từ đó mà tư bản tài chính
ngày càng bành trướng, nó tạo điều kiên thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội,
tạo ra thích ứng tương đối giữa quan hệ sản xuất TBCN với sự phát triển cao của
sức sản xuất xã hội, đồng thời cũng làm tăng nguy cơ xảy ra khủng hoảng kinh tế
toàn cầu.

3.3 Sự biến đổi trong quan hệ phân phối

Để thoát khỏi khủng hoảng, các nhà kinh tế học của CNTB, đại biểu là J. M.
Keynes đã chủ trương kích cầu bằng cách nâng cao tiêu dùng và tăng đầu tư, việc
nâng cao tiền lương và cải thiện đời sống của công nhân không những không tổn

hại đến lợi nhuận của nhà tư bản mà nó còn có lợi cho quá trình tái sản xuất mở
rộng TBCN, làm dịu mâu thuẫn giữa tư bản và lao động, thúc đẩy sản xuất có lợi
cho nhà nước tư bản, giữ môI trương xã hội ổn định, củng cố chính trị.
Cách mạng khoa học công nghệ chẳng những tạo tiền đề để nâng cao sức sản
xuất mà còn tạo ra cơ sở vật chất để nâng cao mức sống người lao động. Thực tế
tại các nước tư bản phát triển chủ chốt cho thấy tốc độ tăng lương thực tế của
người lao động nhanh hơn tốc độ tăng giá. Trong vòng 30 năm, từ 1960 đến 1990


giá tiêu dùng của Mỹ tăng 4, 5 lần, tiền lương giờ công nhân ngành chế tạo tăng
9, 5 lần; tương tự như vậy ở các nước Canada: 5 lần và 7, 3 lần, Nhật Bản: 3, 5
lần và 51, 4 lần, Pháp: 7 lần và 19 lần. Cộn hoà liên bang Đức: 2, 7 lần và 28 lần,
Italia: 13, 4 lần và 28, 9 lần, Anh: 10 lần và 16 lần.
Cùng với việc tăng lương thực tế, đời sống của công nhân được nâng cao, kết
cấu tiêu dùng của công nhân cũng có sự thay đổi lớn, tỷ lệ chi cho ăn, mặc giảm
xuống, chi cho cải thiện đời sống tăng lên. Hiện nay không còn hiện tượng thiếu
ăn thiếu mặc (trừ những trường hợp cá biệt do nghiện ngập, bệnh tâm thần…. ).
Việc sử dùng hàng tiêu dùng lâu bền như điện thoại, vô tuyến, máy giặt, ô tô, nhà
ở. . . đều tăng lên và được cảI thiện rất nhiều.
Tuy nhiên, tương quan giữa việc nâng cao chất lượng cuộc sống của người
công nhân với việc nâng cao khối lượng lợi nhuận của nhà tư bản là tương quan
cùng chiều nhưng không cùng mức độ. Thu nhập của nhà tư bản tăng nhanh hơn
thu nhập thực tế của người lao động. Đức, trong thời gian 1980 -1989 thu nhập
tiền lương của người lao động làm thuê tăng bình quân hàng năm là 3, 7%, thu
nhập kinh doanh xí nghiệp và tài sản bình quân hàng năm tăng 7, 4%. Theo báo
cáo tổng thống Mỹ 1992 cho thấy, thu nhập bình quân của 20% hộ ở bậc cao nhất
so với 20% hộ ở bậc thấp nhất chênh lệch 44, 8 lần (trước khi nhà nước tái phân
phối) 34, 4 lần (sau khi điều tiết qua thuế) 6, 6 lần (sau khi điều tiết qua thuế và
các khoản trích nộp khác). ở Anh, khoảng chênh lệch giữa các hộ giàu và hộ
nghèo là 3, 8 lần. Mức độ chiếm dụng tài sản của các hộ giàu ở Mỹ ngày càng

tăng, năm 1963: 10% số hộ giàu chiếm 65% toàn bộ của cải của tất cả các gia
đình Mỹ năm đó, năm 1983 tỷ trọng cảu cải của 10% hộ giàu chiếm 68, 8%. Và
hiện nay 20% số người nghèo nhất chiếm tổng thu nhập 3, 8% trong khi đó 30%
số người giàu nhất lại chiếm tới 48%.
Như vậy, mặc dù đời sống của công nhân có được nâng lên, nhưng chênh lệch
về thu nhập và tài sản giữa công nhân và tư bản càng tăng. Việc tăng lương thực
tế, tăng mức sống của công nhân chỉ là nhằm tăng lên mức cầu hiệu quả có lợi
cho quá trình tái sản xuất của CNTB mà thôi. Do vậy, trong lòng CNTB vẫn chứa


đựng những xung đột lợi ích gay gắt, vẫn chứa đựng khả năng khủng hoảng, đòi
hỏi nhà nước phải trực tiếp tham gia vào quá trình phân phối lợi ích, mới có thể
cứu vãn được CNTB.
Điều chỉnh quan hệ lợi ích của nhà nước được diễn ra bắt đầu từ những tác
động vào thị trường sức lao động, thông qua quan hệ mua bán giữa người bán
(người lao động) và người mua (nhà tư bản). Đây là một thị trường luôn biến
động bởi mối tương quan giữa nhà tư bản và người lao động, giữa giới chủ và
người thợ, là mối quan hệ vừa thống nhất vừa mâu thuẫn không thể thay thế cho
nhau được. Sự can thiệp của nhà nước vào các quan hệ trao đổi, mua bán này
bằng cách quy định các mức tối thiểu, độ dài ngày lao động, số ngày nghỉ việc
trong năm, quy tắc sa thải, quy chế làm việc trong doanh nghiệp, phương tiện bảo
hộ, bằng các luật và các quy định pháp luật khác nhau.
Những biến đổi trong quan hệ lợi ích trong CNTB hiện đại đã và đang đem
lại những cải thiện mới đối với đời sống người lao động và những tiến bộ xã hội
nói chung. Sở dĩ có sự tăng thêm đó thì nói chung vì sự trao đổi sản phẩm diễn ra
ngày càng nhiều hơn, sự trao đổi này làm cho dân cư ở thành thị và nông thôn,
dân cư ở các khu vực địa lý khác nhau…. . cũng tiếp xúc với nhau nhiều hơn. Sở
dĩ có sự tăng thêm đó lại còn là vì mật độ và sự tập trung đông đúc giai cấp công
nhân, làm cho trình độ giác ngộ và ý thức về nhân phẩm của giai cấp đó được
nâng cao khiến họ có thể đấu tranh thắng lợi chống những xu hướng tham tàn của

chế độ TBCN.
Trong CNTB hiện đại, quan hệ sản xuất đã có sự điều chỉnh. Đây là sự điều
chỉnh theo hướng xã hội hoá sản xuất ngày càng tăng, là cách thức giải quyết mâu
thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất với hình thức chiếm hữu tư nhân TBCN.
Quan hệ sở hữu được giải quyết theo hướng xã hội hoá ngày càng nhiều, quản lý
dân chủ hơn, phân phối lợi ích đã chú ý tới người lao động và được coi là nguồn
lực chủ yếu của sự phát triển xã hội. Đặc biệt, hình thức tư bản độc quyền nhà
nước là hình thức vận động mới của quan hệ sản xuất TBCN, là kết quả của quá
trình xã hội hoá sản xuất là “sự chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho chủ nghĩa xã


hội”. Sự điều chỉnh này là một quá trình khách quan buộc các nhà tư sản phải đưa
ra những hình thức quan hệ sản xuất thích hợp, vừa là để thúc đẩy nền kinh tế xã
hội phát triển, đảm bảo lợi ích của tư bản độc quyền, vừa là để làm dịu bớt những
mâu thuẫn căng thẳng xã hội, duy trì sự tồn tại và phát triển của CNTB.

4. Sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản hiện đại, xu hướng biến đổi cơ chế

Nguyên nhân sâu xa của việc tăng cường vai trò điều chỉnh của nhà nước tư
bản bắt nguồn từ sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất dưới tác động của
cuộc cách mạng khoa học, công nghệ, khiến trình độ xã hội hoá tăng lên một cách
mạnh mẽ, làm cho độc quyền tư nhân không thể thích ứng nổi. Cuộc cách mạng khoa
học - công nghệ đã đưa tới sự ra đời của nhiều ngành mới như: điện tử, năng lượng,
hàng không vũ trụ. Phát triển những ngành này một mặt đòi hỏi phải có nguồn vốn rất
lớn, cơ sở hạ tầng hiện đại, đội ngũ những người lao động lành nghề co tri thức cao
được đào tạo toàn diện, trong khi điều này các nhà tư bản không thể tự giảI quyết
dược và mặt khác, chính sự ra đời của những ngành sản xuất mới đòi hỏi các quốc gia
phải có chiến lược kinh tế - xã hội, khoa học - công nghệ để định hướng cho sự phát
triển, đồng thời nó còn đòi hỏi những khoản đầu tư lớn cho việc nghiên cứu khai
triển, đào tạo và đào tạo lại, xây dựng kết cấu hạ tầng mới. Những việc này chỉ có nhà

nước mới giải quyết nổi. Quá trình quốc tế hoá sản xuất và lưu thông được đẩy mạnh,
sự phân công hợp tác quốc tế ngày càng sâu rộng đã làm nảy sinh những mâu thuẫn
mới mang tính quốc tế, chỉ có nhà nước mới đứng ra điều chỉnh, giải quyết và phối
hợp được các hoạt động mang tính quốc tế.
Ngoài ra, để đối phó với những biến động kinh tế, chính trị, xã hội, diễn ra
trong và ngoài nước như: khôi phục nền kinh tế sau chiến tranh chạy đua kinh tế và
quốc phòng anh ninh trong việc đối đầu với phong trào giải phóng dân tộc và đối
phóvới những cuộc khủng hoảng kinh tế, nạn thất nghiệp và những khuyết tật của cơ
chế thị trường, không ngoài ai khác là nhà nước phải trực tiếp can thiệp vào các khâu


của quá trình tái sản xuất xã hội để đảm bảo cho sự vận động bình thường của nền
kinh tế.
Sự chuyển biến nền kinh tế của các nước tư bản từ nền kinh tế công nghiệp
sang nền kinh tế thông tin đã làm thay căn bản môi trường hoạt động của nhà nước.
Chính sách thuế khoá và những quy định về đầu tư cũng như các chính sách kinh tế
nói chung cần phải đáp ưng được nhiều hơn bao giờ hết các thông số của nền kinh tế
thế giới toàn cầu hoá. Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật đã mở ra những cơ hội mới cho phép mở rộng vai trò của thị trường. Những
thay đổi này làm cho chính phủ có một vai trò mới va khác biệt. Nó không còn là
người đảm bảo độc nhất nữa mà trở thành người tạo điều kiện và người điều tiết hoạt
động xã hội.
Cuộc cải cách hành chính được thực hiện trên cơ sở xác định lại vai trò của
nhà nước. Mục tiêu của cuộc cải cách hành chính là thực hiện “chính phủ gọn nhẹ”,
cơ cấu lại bộ máy chính quyền trung ương, thực hiện phi tập trung hoá, phân cấp
mạnh mẽ hơn cho chính quyền địa phương. Chính phủ trước đây vừa là người cầm lái
vừa là người bơi chèo con thuyền quốc gia. Ngày nay, cầm lái và bơi chèo được tách
riêng ra. Chính phủ cầm lái chứ không phải là bơi chèo. Việc cầm lái đòi hỏi phải có
những người nhìn nhận được toàn bộ tổng thể các vấn đề và các khả năng có thể cân
đối được các yêu cầu trái ngược nhau về nguồn lực. Việc bơi chèo đòi hỏi phải có

những người chú ý tập chung vào một nhiệm vụ và thực hiện tốt nhiệm vụ đó. Các tổ
chức cầm lái cần phải tìm ra những phương pháp tốt nhất để đạt được những mục tiêu
của mình.
Xã hội hoá và tư nhân hoá là con đường làm giảm nhẹ gánh nặng của nhà
nước trong việc cung ứng các dịch vụ xã hội, làm cho chính phủ gọn nhẹ, chỉ tập
chung vào việc cầm lái. Nhà nước không teo đi mà trái lại, mạnh mẽ, chắc chắn và
năng động hơn. Nhà nước “thực hiện” và “thi hành” được thay bằng một nhà nước
“cai trị “ mạnh vì nó chỉ làm cái việc quyết định và lãnh đạo và việc thực hiện giao
nhiệm vụ cho người khác.


Mục tiêu của sự điều tiết kinh tế nhà nước tư bản độc quyền là nhằm khắc phục
những khuyết tật của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, định hướng cho sự phát
triển kinh tế - xã hội nhằm tăng trưởng kinh tế, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của
chủ nghĩa tư bản, giải quyết những mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình phát triển,
thúc đẩy cạnh tranh và kích thích cạnh tranh.

4. 1. Trước hết, bắt đầu từ những năm 1980, các nước phương Tây lần lượt bắt
tay thực hiện tư nhân hoá các xí nghiệp quốc doanh.
Bởi vì hiệu quả phần lớn của xí nghiệp quốc doanh không cao, tài chính quốc
gia phải chịu gánh nặng; năng suất lao động của các xí nghiệp quốc doanh thấp khó
mà đương đầu được cạnh tranh quốc tế gay gắt; trước trào lưu thông tin hoá từ công
nghệ đến quản lý, các xí nghiệp quốc doanh đều tỏ ra rất lạc hậu. Họ cho rằng, con
đường duy nhất để cứu vãn cục diện đó là thực hiện tư nhân hoá.

4. 2. Thứ hai, nhà nước chuyển từ kiểm soát sang điều tiết thận trọng trong lĩnh
vực tài chính theo hướng tự do hoá.

Khu vực tài chính đã thay đổi nhanh chóng. Sự phát triển theo chiều sâu của khu
vực tài chính của một nước là nhân tố hùng mạnh quy định và thúc đẩy sự phát triển.

Tuy nhiên, tự do hoá trong khu vực tài chính không giống với phi điều tiết. Có những
lý do xác đáng để điều tiết ngân hàng. Nhưng mục tiêu điều tiết đã được thay đổi,
trước kia điều tiết ngân hàng là do tín dụng chạy theo các kênh được yêu thích, còn
nay là để bảo vệ sức mạnh của hệ thống tài chính ngân hàng.

4. 3. Thứ ba, điều tiết mở rộng cạnh tranh các ngành dịch vụ công cộng

Điều tiết của nhà nước có vai trò nổi bật đối với vai trò của các ngành dịch vụ
công cộng. Điều đó là sự thay đổi có tích chất cách mạng về công nghệ và tổ chức
chứ không chỉ do những chuyển biến có ý thức về chính sách. Lập luận về sự điều tiết


các ngành dịch vụ công cộng thường thấy rõ ràng. Các ngành dịch vụ có những độc
quyền tự nhiên. Do đó, nếu chúng không điều tiết thì các tư nhân làm dịch vụ sẽ trở
thành độc quyền, hạn chế sản lượng và làm tăng giá cả, gây tác hại cho tính hiệu quả
trong toàn bộ nền kinh tế và việc phân phối thu nhập.
Những tài sản của một ngành dịch vụ là nhân tố quyết định đối với hoạt động
kinh doanh của ngành đó và không thể được tái triển khai sử dụng cho những mục
đích khác. Điều này khiến các ngành dịch vụ đặc biệt dễ tổn thương trước các hoạt
động điều tiết của nhả nước.

4. 4. Thứ tư, cải cách cơ chế kinh tế và thay đổi mô hình kinh tế

Chế độ xã hội cơ bản của các nước phương Tây là chế độ tư bản chủ nghĩa và
nền kinh tế của nó là nền kinh tế thi trường tư bản chủ nghĩa phát triển. Nhưng tình
hình các nước không giống nhau, cơ chế kinh tế của họ cũng có sự khác nhau, mô
hình kinh tế của mỗi nước có nét độc đáo riêng của mình.
Giai đoạn CNTB độc quyền nhà nước sau chiến tranh thế giới thứ hai, chủ yếu
do quan hệ nhà nước và thị trường, cũng như do phương châm, chính sách, phương
thức và trọng điểm nhà nước can thiệp vào kinh tế ở mỗi nước một khác, mà hình

thành nên các mô hình kinh tế có đặc sắc riêng.
Nói chung người ta cho răng mô hình kinh tế thị trường TBCN ở các nước phát
triển hiện nay có thể chia ra làm mấy loại sau dây: mô hình Mỹ hoặc gọi là mô hình
thị trường tự do; mô hình Nhật Bản hoặc gọi là mô hình tư bản pháp nhân, cũng có
người gọi là mô hình tư bản xã hội; mô hình Đức hoặc gọi là mô hình kinh tế thị
trường xã hội; mô hình Bắc Âu hoặc còn gọi là mô hình nhà nước phúc lợi. Trong
nửa thế kỷ sau chiến tranh thế giới lần hai, các mô hình kinh tế thị trường TBCN khác
nhau này đều có vai trò nhất định trong sự phát triển kinh tế xã hội của các nước, đã
thúc đẩy kinh tế phát triển, làm dịu mâu thuẫn kinh tế và xã hội, giữ vững sự ổn định
tương đối của xã hội. Nhưng những mô hình này cũng tồn tại một số khuyết điểm và
hạn chế.


Nếu cải cách cơ chế quản lý xí nghiệp ở các nước tư bản là những biến đổi nào
đó được tiến hành nhằm làm cho quan hệ sản xuất thích ứng với lực lượng sản xuất ở
tầng vĩ mô, thì cải cách cơ chế kinh tế lại là cuộc cải cách được tiến hành nhằm làm
cho quan hệ sản xuất thích ứng sự phát triển mới của lực lượng sản xuất trên tầng vĩ
mô và giữa chúng có liên hệ qua lạivà thúc đẩy lẫn nhau.
Cuộc cải cách cơ chế kinh tế của các nước TBCN biểu hiện trên tất cả các mặt.
Trước hết, tư tưởng chỉ đạo và phương châm chính sách của sự can thiệp và điều
chỉnh của nhà nước đối với kinh tế vĩ mô đã có sự thay đổi.

4. 5. Thứ năm, tiến hành cải cách thể chế kinh tế

Trọng điểm cũng như bước đi và biện pháp mà các nước áp dụng không giống
nhau, nhưng nói chung, ngoài việc cải cách xí nghiệp quốc doanh như đã nói trên còn
cải cách hệ thống tài chính và thuế nhằm giảm bớt thâm hụt ngân sách; cải cách hệ
thống tiền tệ nhằm ổn định hệ thống tiền tệ, cải cách chế độ tiền lương lao động để hạ
thấp tỷ lệ thất nghiệp, cải cách chế độ phúc lợi xã hội nhằm giảm nhẹ gánh nặng tài
chính của nhà nước, điều chỉnh quan hệ giữa Trung ương và địa phương, giao nhiều

quyền lực của Trung ương cho địa phương, để địa phương đảm nhiệm nhiều hơn các
nhiệm vụ y tế, giáo dục đào tạo…. cải cách chế độ mậu dịch đối ngoại, giảm bớt các
rào chắn, thúc đẩy tụ do hoá.
Tất nhiên, để điều chỉnh, nhà nước tư bản độc quyền cũng đã cải cách bộ máy và
các công cụ điều tiết của mình.
Dưới bộ máy còn có các tiểu ban được tổ chức theo những hình thức khác nhau,
thực hiện “tư vấn”, “khuyến nghị” để “lái” đường lối theo mục tiêu riêng của các tổ
chức độc quyền.
Cùng với bộ máy điều chỉnh, nhà nước còn sử dụng các phương tiện công cụ điều tiết
như: khu vực kinh tế thuộc sở hữu của nhà nước, các công cụ hành chính pháp luật,
các chính sách và các đòn bẩy kinh tế nhằm đạt được các mục tiêu đã định.


×