Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Biện pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại ngân hàng TMCP công thương việt nam – chi nhánh hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (451.19 KB, 59 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lí do lựa chọn đề tài
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, hệ thống ngân hàng được ví như hệ thần
kinh của nền kinh tế, trong đó NHTM đã trở thành một trung tâm tài chính đáng tin
cậy, giúp nền kinh tế khơi thông vốn. Với chức năng là điều chỉnh sự luân chuyển vốn
nền kinh tế từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn. Song song với các hoạt động đầu tư
xây dựng và phát triển đất nước đang ngày càng mở rộng thì nhu cầu về một lượng
vốn tương ứng để phục vụ cho hoạt động đó là không nhỏ. Điều này đòi hỏi các ngân
hàng phải phát triển tương xứng, luôn không ngừng cải tiến và cung cấp các dịch vụ
Ngân hàng cho nền kinh tế và dân cư.
Khác với các doanh nghiệp khác, NHTM là một loại hình doanh nghiệp đặc
biệt, đặc thù là kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ nên hoạt động của Ngân hàng gắn hầu
hết với các hoạt động của nền kinh tế, các NHTM trở thành kênh dẫn vốn vô cùng
quan trọng. Chính vì thế, muốn tồn tại và đứng vững NH phải cần có một nguồn vốn
dồi dào, trong khi vốn chủ sở hữu chiếm một tỉ lệ rất nhỏ trong nguồn vốn nên hoạt
động kinh doanh chủ yếu từ nguồn vốn huy động từ bên ngoài. Mục tiêu kinh doanh
của Ngân hàng là lợi nhuận và phần lớn lợi nhuận thu được là từ hoạt động tín dụng.
Nền kinh tế nước ta hiện nay đang không ngừng phát triển, hội nhập với nền
kinh tế thế giới, nhưng trong vài năm gần đây do ảnh hưởng mạnh mẽ từ khủng hoảng
kinh tế thế giới nên đã ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế nước ta, và hệ thống ngân
hàng trong nước cũng bị ảnh hưởng. Nhiều tập đoàn, công ty rơi vào tình trạng khó
khăn không đủ vốn để tiếp tục đầu tư, các ngân hàng không thu hồi được vốn buộc
phải sát nhập với các ngân hàng khác. Sự cạnh tranh khốc liệt trong của các NHTM
trong việc tìm kiếm nguồn vốn hoạt động đặt ra cho các nhà quản lí ngân hàng phải
làm cách nào để đủ vốn với một cơ cấu tối ưu và chi phí thấp nhất cho đầu tư.
Nhận thấy được tầm quan trọng và tính cấp thiết của việc huy động vốn trong
NHTM nên em lựa chọn đề tài “ Biện pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại
ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam – Chi nhánh Hà Nội” để làm đề tài
nghiên cứu cho chuyên đề tốt nghiệp.

2. Mục đích nghiên cứu


1


- Nghiên cứu cơ sở lí luận về hiệu quả huy động vốn của NHTM
- Phân tích, đánh giá thực trạng hiệu quả huy động vốn của NHTMCP CT VN –
chi nhánh Hà Nội
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn tại chi nhánh
NHTMCP CT Hà Nội

3. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử, các phương pháp chủ yếu được sử dụng trong quá trình viết chuyên đề
là : thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh, điều tra, chọn mẫu…

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là hiệu quả huy động vốn của NHTM trong nền kinh tế
- Phạm vị nghiên cứu là hiệu quả huy động vốn tại CN NHTMCP CT Hà Nội từ
năm 2011 đến 2013

5. Kết cấu chuyên đề
Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu
chuyên đề được kết cấu theo 3 phần:
- Chương 1 : Lí luận chung về hiệu quả huy động vốn của NHTM
- Chương 2 : Thực trạng hiệu quả huy động vốn tại NHTMCPTC Việt Nam –
chi nhánh Hà Nội
- Chương 3 : Biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn tại NHTMCP
CTVN – chi nhánh Hà Nội

2



CHƯƠNG 1 : LÍ LUẬN CHUNG VỀ HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG
VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Tổng quan về NHTM
1.1.1 Khái niệm về ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh tế, hoạt động kinh doanh trên lĩnh
vực tiền tệ, tín dụng, nó cung cấp một số dịch vụ cho khách hàng và ngược lại nó nhận
tiền gửi của khách hàng với các hình thức khác nhau. Nghiệp vụ kinh doanh của Ngân
hàng thương mại rất phong phú và đa dạng cùng với sự phát triển của khách hàng,
khoa học kỹ thuật kinh tế và xã hội, hoạt động của Ngân hàng thương mại cũng có
nhiều phương pháp mới, nhưng các nghiệp vụ kinh doanh về cơ bản không thay đổi là
nhận tiền gửi và hoạt động cho vay, đầu tư. Qua Ngân hàng thương mại các chính sách
tài chính tiền tệ của Quốc gia sẽ được thực hiện một cách nhanh chóng và cũng nhờ nó
mà việc kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp theo đúng luật pháp được dễ dàng
hơn. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của Ngân hàng luôn gắn liền với sự phát triển của
nền kinh tế và đời sống xã hội. Trong cơ chế thị trường, các Ngân hàng thương mại và
các tổ chức tín dụng cũng là các doanh nghiệp nhưng chúng là những doanh nghiệp
đặc biệt vì tài sản trong quá trình kinh doanh của các Ngân hàng thương mại đều phụ
thuộc vào các khách hàng.
1.1.2 Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
Huy động vốn; cho vay, tài trợ dự án; Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực
hiện thanh toán; Cung cấp các dịch vụ môi giới và đầu tư chứng khoán; Kinh doanh
ngoại tệ; Cho thuê thiết bị trung và dài hạn; Bảo quản vật có giá; Bảo lãnh; Cung cấp
dịch vụ ủy thác và tư vấn; Cung cấp các dịch vụ đại lí; Tài trợ các hoạt động của chính
phủ; Quản lý ngân quỹ.

1.2 Những vấn đề cơ bản về huy động vốn của NHTM
1.2.1 Nguồn vốn của ngân hàng thương mại
1.2.1.1 Khái niệm nguồn vốn


3


Vốn của ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do Ngân hàng thương
mại tạo lập hoặc huy động được, dùng để cho vay đầu tư hoặc để thực hiện các dịch vụ
kinh doanh khác.
Nguồn vốn của Ngân hàng là một bộ phận thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong
quá trình sản xuất phân phối và tiêu dùng. Ngân hàng đã thực hiện vai trò tập trung và
phân phối lại vốn dưới hình thức tiền tệ, tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn, phục
vụ kích thích mọi hoạt động kinh tế phát triển.
1.2.1.2 Ý nghĩa nguồn vốn
- Đối với bản thân ngân hàng : Hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ vốn chính để
hình thành nên các hoạt động của một ngân hàng. Nguồn vốn là yếu tố quyết định quy
mô hoạt động của ngân hàng, là một trong những yếu tố quyết định đến kết quả và
hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.
- Đối với khách hàng : Nguồn vốn ngân hàng có ý nghĩa rất quan trọng đối với
các doanh nghiệp trong liên kết các hoạt động kinh doanh hiện nay. Nguồn vốn ngân
hàng là nguồn lực tài chính chủ yếu, tài trợ vốn tín dụng cho nhu cầu vốn của các cá
nhân tổ chức, đặc biệt là nhu cầu vốn đầu tư kinh doanh, nó chiếm một phần lớn trong
tổng nguồn vốn của doanh nghiệp, quyết định khả năng và quy mô kinh doanh của
doanh nghiệp.
- Đối với nền kinh tế : Không chỉ góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh
tế thông qua các hoạt động đầu tư, nguồn vốn của ngân hàng còn góp phần thực hiện
chính sách tiền tệ của nhà nước, chống lạm phát và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
trong nền kinh tế thông qua chức năng huy động và cho vay.
1.2.1.3 Phân loại nguồn vốn
Cũng giống như bất cứ một doanh nghiệp nào, để tồn tại và phát triển NHTM
phải có vốn. Vốn tác động đến kết cấu tài sản và khả năng sinh lời, hạn chế các loại rủi
ro trong hoạt động NHTM. Vốn của NHTM gồm 2 loại cơ bản là vốn tự có (vốn chủ
sở hữu) và vốn bổ sung (vốn huy động từ bên ngoài).

Vốn tự có
Vốn tự có của NHTM bao gồm : Giá trị thực vốn điều lệ của tổ chức tín dụng
hoặc vốn được cấp của chi nhánh ngân hàng nước ngoài và quỹ dự trữ của một số tài

4


sản khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Vốn tự có chiếm tỷ trọng
rất nhỏ trong hoạt động của NHTM ( thường 5% đến 10% tổng nguồn vốn), nhưng có
vai trò rất lớn đối với NHTM. Đây là nguồn vốn mà NHTM có thể sử dụng lâu dài và
ổn định.
+ Vốn điều lệ : là số vốn đầu tư khi thành lập ngân hàng và được ghi trong bản
điều lệ hoạt động của ngân hàng. Theo quy định của pháp luật vốn điều lệ thực tế ít
nhất phải bằng vốn pháp định do Ngân hàng nhà nước công bố vào mỗi năm tài chính.
Vốn điều lệ ít hay nhiều tùy thuộc vào quy mô và phạm vi hoạt động của mỗi ngân
hàng.
Tùy theo từng loại hình ngân hàng mà vốn điều lệ có nguồn hình thành khác nhau:
+ Quỹ dự trữ và dự phòng
-Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ: Quỹ này được thành lập nhằm mục
đích bổ sung vốn điều lệ của ngân hàng khi cần thiết, để đáp ứng yêu cầu mở rộng quy
mô hoạt động của ngân hàng. Hiện nay ở Việt Nam, các ngân hàng được trích lập theo
tỉ lệ 5% tính trên lợi nhuận ròng hàng năm, mức tối đa của quỹ này không được vượt
mức vốn điều lệ thực có của ngân hàng.
-Các quỹ dự phòng :
Quỹ dự phòng tài chính : Tỉ lệ trích lập bằng 10% lợi nhuận ròng hàng năm của
Ngân hàng, số dư của quỹ không được phép vượt quá 25% vốn điều lệ của ngân hàng,
quỹ này được dùng để bù đắp phần còn lại của những tổn thất, thiệt hại về tài sản xảy
ra trong quá trình hoạt động sau khi đã được bù đắp bằng tiền bồi thường của các tổ
chức, các nguyên nhân gây ra tổn thất của tổ chức bảo hiểm và sử dụng dự phòng để
xử lí rủi ro trích lập trong chi phí.

Quỹ dự phòng để xử lí rủi ro : được hình thành bằng cách trích lập dự phòng
trên từng nhóm tài sản có của ngân hàng bao gồm nhóm hoạt động cấp tín dụng, các
dịch vụ thanh toán đối với khách hàng, và được tính vào chi phí của ngân hàng.
Quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ : Quỹ này để đầu tư mở rộng quy mô kinh
doanh và đổi mới công nghệ, trang thiết bị, điều kiện làm việc của một tổ chức tín
dụng. Mức quỹ này bằng 50% lợi nhuận ròng hàng năm của ngân hàng.

5


Lợi nhuận không chia : phản ánh phần thu nhập ròng của Ngân hàng có được
trong hoạt động sản xuất kinh doanh, nhưng không chi trả lãi cho cổ đông mà được
ngân hàng giữ lại để tăng thêm vốn
Vốn bổ sung
Bao gồm vốn huy động và nguồn vốn khác
- Vốn huy động : là tất cả các nguồn vốn của các chủ sở hữu khác nhau trong xã
hội được ngân hàng sử dụng vào để kinh doanh, tùy theo tính chất, đối tượng, thị
trường huy động mà nguồn vốn này được chia thành : vốn tiền gửi, vốn phát hành giấy
tờ có giá, vốn vay. Nguồn vốn huy động là tài sản nợ, là nguồn vốn chiếm tỷ trọng lớn
nhất trong cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng, có tính chất không ổn định, chi phí sử
dụng vốn cao. Việc quản lí sử dụng nguồn vốn này đòi hỏi ngân hàng phải có kế hoạch
chiến lược hết sức thận trọng.

- Vốn bổ sung khác : bao gồm các nguồn vốn được hình thành trong quá trình
thanh toán, nguồn vốn ủy thác…Nguồn vốn này có tính chất bất ổn định và khó kiểm
soát, và thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn bổ sung.
1.2.2 Các hình thức huy động vốn
Huy động vốn là hoạt động tiền đề có ý nghĩa quan trọng đối với bản thân ngân
hàng cũng như đối với toàn xã hội, đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì và tiến
hành các hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Trong nghiệp vụ này, ngân hàng

thương mại sử dụng các biện pháp và công cụ cần thiết trong giới hạn của pháp luật để
huy động các nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội, tăng nguồn tín dụng. Từ kết quả của
hoạt động này là tạo ra các nguồn vốn đáp ứng các nhu cầu của nền kinh tế. Hoạt động
huy động vốn của NHTM thông qua các hình thức:
1.2.2.1 Nhận tiền gửi
Đây là hình thức huy động vốn thường xuyên, được thực hiện qua các chủ thể :
Tổ chức kinh tế , dân cư, kho bạc nhà nước, các tổ chức tín dụng, ngân hàng khác.
+ Nhận tiền gửi từ các tổ chức kinh tế:
- Tiền gửi thanh toán : là hình thức ngân hàng nhận tiền gửi của các tổ chức
kinh tế để thực hiện việc thanh toán hộ cho họ thông qua các lệnh chuyển tiền, hay ủy
nhiệm chi, sec…Ngân hàng huy động tiền gửi thông qua việc mở các tài khoản thanh

6


toán (giao dịch) cho các tổ chức kinh tế có nhu cầu. Vì đây là nguồn tiền gửi phục vụ
cho mục đích thanh toán an toàn nên mang tính chất không kỳ hạn, không ổn định. Chi
phí phải trả cho nguồn vốn này tùy theo quy định của ngân hàng, hoặc trả với lãi suất
thấp ( lãi suất không kỳ hạn) và thu phí dịch vụ hoặc không trả lãi hoặc không thu phí
dịch vụ. Hiện nay để thu hút khách hàng cũng như huy động được nguồn vốn giá rẻ
này, các ngân hàng sẽ quy định khách hàng không trả phí hoặc sẽ trả một khoản lệ phỉ
rất nhỏ nếu số tiền gửi trong tài khoản cao hơn một mức nhất định và ngược lại.
- Tiền gửi có kỳ hạn : đây là dạng đầu tư tài chính của các tổ chức kinh tế cho
ngân hàng vay một nguồn vốn tạm thời nhản rỗi của mình trong một khoảng thời gian
xác định. Thông thường ngân hàng sẽ định ra một kỳ hạn nhất định với nguyên tắc: kỳ
hạn gửi càng dài, lãi suất càng cao. Mục đích của khoản tiền này là an toàn và sinh lợi,
có kỳ hạn nên tính ổn định cao, chi phí huy động cao.
- Tiền gửi kí quỹ: Là những khoản tiền gửi vào ngân hàng với mục đích sử
dụng xác định trước (tiền gửi ký quỹ mở L/C, bao chi séc, chờ thanh toán…)với khoản
tiền này ngân hàng có thể sử dụng và không cần phải trả phí, nhưng tính ổn định của

nó rất kém vì khách hàng có thể sử dụng bất cứ lúc nào
+ Nhận tiền gửi từ dân cư:
-Tiền gửi thanh toán : Ngân hàng thực hiện mở tài khoản phục vụ cho nhu cầu
nhận và chuyển tiền của chủ tài khoản. Ngược lại, ngân hàng cũng huy động được
nguồn vốn dưới dạng tiền gửi có tính chất không kì hạn và sử dụng vào các hoạt động
khác của mình. Thông thường số dư tài khoản này tăng lên khi khách hàng nhận
lương, nhận một khoản tiền của một khách hàng khác chuyển đến, hay khách hàng tự
nộp tiền vào tài khoản của mình và giảm đi khi khách hàng có nhu cầu chi tiêu.
Tính chất của nguồn vốn này : kém ổn định do phụ thuộc vào nhu cầu thanh
toán, chi trả cho người gửi tiền, là loại tiền gửi có số lượng lớn, quy mô tiền gửi nhỏ.
Lãi suất ngân hàng trả cho loại tiền này là lãi suất không kỳ hạn hoặc không tính lãi.
Tuy nhiên, khi sử dụng nguồn vốn này ngân hàng phải có kế hoạch phòng ngừa khi
khách hàng có nhu cầu sử dụng vốn bất cứ khi nào.

7


- Tiền gửi tiết kiệm : Mục đích của nguồn tiền gửi này là an toàn và sinh lợi.
Tiền gửi tiết kiệm của dân cư được thực hiện dưới các hình thức : tiền gửi tiết kiệm có
kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
Tiền gửi tiết kiệm không kì hạn: là loại tiền gửi tích lũy, có thể rút bất cứ lúc
nào. Khách hàng sử dụng loại tiền gửi này với mục đích an toàn và sinh lãi nhưng
không định trước được thời gian sử dụng vốn trong tương lai của mình. Với loại hình
tiết kiệm không kỳ hạn cũng giống như loại tiền gửi thanh toán là khách hàng có thể
rút bất cứ lúc nào. Nhưng có khác với tiền gửi thanh toán là mỗi lần giao dịch là khách
hàng phải đem sổ tiết kiệm và chỉ thực hiện các giao dịch gửi tiền, rút tiền mà không
thực hiện các giao dịch thanh toán cho tiền gửi thanh toán. Do loại tiền này mang tính
chất phi giao dịch nên thời gian và lượng tiền gửi này tồn tại tại ngân hàng tương đối
dài hơn so với tiền gửi thanh toán. Lãi suất loại tiền gửi này được trả theo lãi suất
không kì hạn và thường rất thấp.

Tiền gửi tiết kiệm có kì hạn : là loại tiền gửi mang tính chất truyền thống của
ngân hàng và chiếm tỷ trọng lớn trong các loại tiền gửi của ngân hàng. Đối tượng của
loại tiền gửi này là các cá nhân muốn có thu nhập ổn định và thường xuyên đáp ứng
các nhu cầu chi tiêu hàng tháng của mình. Kỳ hạn của loại tiền này do các ngân hàng
quy định, thường là theo tuần theo tháng hoặc theo năm. Tương ứng với kỳ hạn mà
khách hàng chọn ngân hàng cũng ổn định mức lãi suất tương ứng với kỳ hạn đó theo
nguyên tắc kỳ hạn càng dài lãi suất càng cao. Do có tính kỳ hạn nên nguồn vốn này có
tính ổn định cao, đây là nguồn vốn sử dụng hết sức cần thiết và ổn định của ngân hàng.
1.2.2.2 Phát hành giấy tờ có giá
Ngoài hình thức huy động vốn qua tài khoản tiền gửi thanh toán, tiết kiệm, các
ngân hàng thương mại có thể huy động vốn bằng cách phát hành giấy tờ có giá. Giấy
tờ cớ giá là công cụ nợ do ngân hàng phát hành. Tùy theo nhu cầu vốn cần có ngân
hàng sẽ phát hành các loại giấy tờ có giá phù hợp tương ứng với thời gian huy động
vốn: giấy tờ có giá ngắn hạn và giấy tờ có giá dài hạn.
+ Huy động vốn ngắn hạn: Để huy động vốn ngắn hạn, các tổ chức tín dụng có
thể phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn. Giấy tờ có giá ngắn hạn là giấy tờ có giá có thời

8


hạn dưới 12 tháng, bao gồm kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn, tín phiếu và các
giấy tờ có giá ngắn hạn khác
+ Huy động vốn trung và dài hạn: muốn huy động vốn trung và dài hạn ( 3 năm,
5 năm hay 10 năm ) các NHTM có thể phát hành kỳ phiếu, trái phiếu và cổ phiếu. Trái
phiếu do ngân hàng phát hành có thể xem như một loại trái phiếu công ty. So với trái
phiếu chính phủ thì trái phiếu ngân hàng rủi ro hơn nên chi phí để huy động cao hơn so
với trái phiếu kho bạc hay trái phiếu chính phủ.
1.2.2.3 Đi vay
Ngoài hình thức nhận tiền gửi và phát hành giấy tờ có giá, các ngân hàng
thương mại còn có thể huy động vốn thông qua việc đi vay từ các tổ chức tín dụng

khác trong và ngoài nước hoặc vay ngân hàng nhà nước dưới hình thức tái chiết khấu
giấy tờ có giá. Đây là hình thức huy động vốn thường xuyên và mang tính nhất thời.
Hoạt động đi vay của NHTM gồm: vay từ các tổ chức tín dụng khác, vay từ ngân hàng
trung ương.
- Vay vốn giữa các tổ chức tín dụng khác :
Khi các NHTM không đủ thỏa mãn để vay tiền của NHNN nữa thì họ có thể vay
tiền của các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Trong khi đó có một số
ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu do có kết dư gia tăng bất ngờ về các khoản tiền
huy động hoặc giảm cho vay sẽ có thể sẵn lòng cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm
mức lãi suất cao hơn. Ngược lại các ngân hàng đang có lượng dự trữ bị thiếu hụt có nhu
cầu vay để đảm bảo thanh toán. Do đó nguồn vay mượn từ các ngân hàng khác là để đáp
ứng nhu cầu dự trữ cấp bách và trong nhiều trường hợp nó bổ sung hoặc thay thế cho
nguồn vay mượn từ NHNN. Việc vay mượn trong thị trường liên ngân hàng rất đơn giản,
chỉ cần ngân hàng có yêu cầu vay mượn gọi điện hoặc liên lạc trực tiếp cho ngân hàng
cho vay. Và khoản vay không cần đảm bảo hoặc cũng có thể được đảm bảo bởi các chứng
khoán kho bạc. Nghiệp vụ này sẽ làm cho dự trữ của ngân hàng đi vay tăng lên và dự trữ
của ngân hàng cho vay giảm đi.
- Vay Ngân hàng nhà nước.
Ở Việt Nam thì các ngân hàng thương mại để đáp ứng nhu cầu chi trả thanh
toán cho khách hàng thì ngân hàng cần phỉ đi vay, đầu tiên là ngân hàng sẽ đi vay

9


NHNN hay còn gọi là ngân hàng trung ương và ngân hàng trung ương sẽ cho ngân
hàng thương mại vay theo hình thức tái chiết khấu (hoặc tái cấp vốn). Các thương
phiếu đã được các ngân hàng thương mại chiết khấu (hoặc tái chiết khấu) trở thành
tài sản của họ. Khi cần NHTM mang những thương phiếu này lên tái chiết khấu tại
NHNN. Nghiệp vụ này sẽ làm cho thương phiếu của NHTM giảm đi đồng thời dự trữ
(tiền mặt hoặc tiền gửi trong NHNN) tăng lên. NHNN điều hành vay mượn này một cách

rất chặt chẽ, các NHTM phải đảm bảo thực hiện một số điều kiện đảm bảo và kiểm soát
nhất định. Thông thường thì NHNN chỉ tái chiết khấu cho những thương phiếu đảm bảo
chất lượng (có khả năng trả nợ cao, thời gian đáo hạn ngắn và khả năng trả nợ cao) và
đảm bảo phù hợp với mục tiêu của ngân hàng trong từng thời kì. Trong điều kiện
NHTM chưa có thương phiếu thì NHNN sẽ cho các NHTM vay dưới hình thức tái cấp
vốn theo hạn mức tín dụng theo quy định.
- Vay trên thị trường vốn.
Cũng như các doanh nghiệp, các ngân hàng cũng vay mượn bằng cách phát
hành các giấy tờ nợ như kỳ phiếu, tín phiếu, trái phiếu trên thị trường vốn. Nhiều khi
khoản tiền gửi trung và dài hạn không đáp ứng được nhu cầu cho vay trung và dài hạn.
Do vậy các khoản đi vay bằng việc phát hành các giấy từ có giá này là một khoản đáp
ứng nhu cầu cho vay trung và dài hạn. Thông thường đây là những khoản tiền vay
không có đảm bảo do đó ngân hàng nào lớn có uy tín và lãi suất càng cao thì sẽ càng
vay được nhiều hơn các ngân hàng khác. Còn những ngân hàng nhỏ không có khả
năng vay vốn được trên thị trường này thì phải vay thông qua các ngân hàng đại lý hoặc
thông qua các sự bảo lãnh của các ngân hàng lớn.

1.3 Hiệu quả huy động vốn của NHTM
1.3.1 Quan điểm về hiệu quả huy động vốn
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, ngân hàng cũng như các tổ chức tín dụng
khác đang phải đối mặt với các cuộc cạnh tranh khốc liệt. Bất kỳ biến động nào dù nhỏ
hay lớn đều ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và hoạt
động huy động vốn nói riêng. Vì vậy, hiệu quả trong hoạt động huy động vốn không
chỉ đánh giá chính xác đúng đắn hoạt động huy động vốn nói riêng mà còn phản ánh
khả năng thích nghi và khẳng định sự phát triển trên thị trường của ngân hàng.

10


Hiệu quả là sự so sánh giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra. Khi so sánh giữa

kết quả và chi phí thì cần phải so sánh dưới dạng thương số, hoặc kết quả/chi phí hoặc
chi phí/kết quả. Mỗi cách so sánh đó đều cung cấp các thông tin có ý nghĩa khác nhau.
Như vậy, hiệu quả huy động vốn được thể hiện ở khả năng đáp ứng cao nhất nhu cầu
sử dụng vốn của ngân hàng. Đó chính là sự đáp ứng kịp thời, đầy đủ, nhu cầu sử dụng
vốn với chi phí hợp lý.
Hiệu quả huy động vốn được thể hiện trên các mặt sau:
- Hiệu quả đối với xã hội: Hiệu quả huy động vốn của NHTM đối với xã hội
được nhìn nhận trên góc độ các lợi ích mà lượng vốn này được sử dụng để bổ sung
lượng vốn cho nền kinh tế và nâng cao mức sống của người dân thay vì sử dụng đồng
vốn đó vào các chỉ tiêu khác.
- Hiệu quả đối với khách hàng: khi khách hàng tham gia vào hoạt động huy động
vốn thì hiệu quả của hoạt động này được hiểu là các lợi ích mà người dân thu được
khi gửi tiền vào ngân hàng. Hiệu quả này có được là nhờ sinh lời từ khoản tiền người
dân cho ngân hàng sử dụng trong một thời gian nhất định và các tiện ích khác khi
tham gia vào dịch vụ ngân hàng.
- Hiệu quả đối với NHTM: Hiệu quả huy động vốn của NHTM dựa trên mối
tương quan so sánh giữa kết quả thu được từ vốn huy động và chi phí bỏ ra để huy
động. Hiệu quả này càng cao khi kết quả đạt được ( chính là doanh thu của của việc sử
dụng khoản vốn huy động từ dân cư) càng cao và lượng chi phí bỏ ra càng thấp ( bao
gồm lãi phải trả và các chi phí khác).
Để đạt được lợi nhuận cao, các ngân hàng phải đảm bảo cho các hoạt động đạt
được hiệu quả cao. Chính vì vậy một trong các mục tiêu của NHTM là đảm bảo cho
hoạt động huy động vốn đạt hiệu quả cao.
1.3.2 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả công tác huy động vốn tại NHTM
1.3.2.1 Tốc độ tăng trưởng VHĐ
Quy mô vốn là một chỉ số tuyệt đối và nếu chỉ được dùng đơn lẻ, nó không
phản ánh được đầy đủ khả năng huy động vốn của một Ngân hàng. Dựa vào chỉ tiêu
quy mô vốn, nhiều chỉ số tương đối được xác định. Các chỉ tiêu này cho thấy một cách
đầy đủ hơn khả năng huy động vốn của NHTM. Nếu quy mô vốn cho biết độ lớn của


11


lượng vốn Ngân hàng huy động được thì tốc độ tăng trưởng phản ánh sự tăng (giảm)
của vốn tại các thời điểm khác nhau cũng như sự tăng (giảm) đó là nhiều hay ít.
Để phản ánh sự biến động của lượng VHĐ, ngân hàng thường dùng chỉ tiêu tốc
độ tăng trưởng:
Quy mô vốn năm i

Tốc độ tăng trưởng vốn năm i =

Quy mô vốn năm i – 1

x 100

Tốc độ tăng trưởng > 100: vốn của Ngân hàng tăng.
Tốc độ tăng trưởng < 100: quy mô vốn của Ngân hàng giảm.
Vốn của Ngân hàng gia tăng với những tỷ lệ xấp xỉ nhau trong nhiều năm thể
hiện một sự tăng trưởng vốn ổn định. Điều đó, một mặt, giúp Ngân hàng thuận lợi hơn
trong việc dự kiến lượng vốn huy động được để có kế hoạch điều hoà vốn, tạo được sự
phù hợp giữa phương án mở rộng huy động vốn với mở rộng tín dụng. Trên khía cạnh
khác, sự tăng trưởng vốn ổn định còn cho thấy phần nào hình ảnh tốt của Ngân hàng
trong mắt công chúng .
1.3.2.2 Tỷ lệ % hoàn thành kế hoạch
Để phân tích hiệu quả huy động vốn tại Ngân hàng thương mại, đầu tiên ta sẽ căn
cứ vào quy mô huy động vốn huy động, thể hiện qua chỉ tiêu : Tỷ lệ hoàn thành kế
hoạch huy động vốn(TLHTKHHĐV), chỉ tiêu này dùng để đánh giá quy mô vốn huy
động.
Lượng vốn huy động thực tế
Kế hoạch huy động


TLHTKHHĐV =
1.3.2.3 Tỷ trọng VHĐ trong tổng vốn

Tỷ trọng của các loại vốn huy động (ngắn hạn, trung dài hạn, nội tệ, ngoại tệ)
với nhu cầu sử dụng vốn ở mức hợp lý, phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn của ngân
hàng thì hiệu quả huy động vốn của ngân hàng mới cao. Quy mô của loại vốn i được
sử dụng để tính tỷ trọng của nó trong tổng vốn.
Tỷ trọng của VHĐ i

=

Quy mô của VHĐ i
Tổng vốn

1.3.2.4 Chi phí huy động vốn

12


Chi phí huy động vốn là toàn bộ số tiền ngân hàng phải bỏ ra để có được số vốn đó,
bao gồm chi phí trả lãi và các chi phí khác. Để phục vụ cho việc quản lý chi phí huy động
vốn và xác định các mức lãi suất tiền gửi, tiền vay một cách hợp lý, các ngân hàng thường
tính toán lãi suất huy động vốn bình quân, được tính bằng công thức:
Lãi suất HĐV

Tổng lãi phải trả
=
Tổng tiền gửi và tiền vay
bình quân

Cách tính này gặp phải một số nhược điểm như không bao gồm các chi phí liên
quan đến việc huy động vốn và không thể dùng làm cơ sở quyết định sẽ lựa chọn nguồn
vốn nào để huy động. Để khắc phục, ta có thể sử dụng công thức:
Chi phí bình
quân gia quyền

=

Chi phí trả lãi + Chi phí huy động
Nguồn huy động trả lãi

Phương pháp này chỉ xem xét được ở trong quá khứ nên để xem xét đến chi phí
trong tương lai, ta sử dụng công thức tính chi phí huy động vốn biên.

Chi phí biên

=

Chi phí trả lãi tăng thêm
Tổng vốn huy động tăng thêm

1.3.2.5 Khả năng đáp ứng nhu cầu kinh doanh trong ngân hàng
Để đánh giá khả năng đáp ứng nhu cầu kinh doanh, thường sử dụng các chỉ tiêu
so sánh nguồn vốn huy động được với các nhu cầu tín dụng, thanh toán và các nhu cầu
khác để thấy nguồn vốn huy động có thể đáp ứng được bao nhiêu, ngân hàng phải vay
thêm bao nhiêu để thoả mãn nhu cầu ấy. Để đạt được mục tiêu này, ngân hàng phải có
cơ cấu vốn hợp lý. Cơ cấu vốn huy động ở đây bao gồm cơ cấu vốn theo ngắn hạn và
trung hạn, dài hạn, cơ cấu vốn theo nội tệ và ngoại tệ, theo tiền gửi dân cư và tiền gửi
doanh nghiệp. Cơ cấu vốn hợp lý có thể đáp ứng được tối đa nhu cầu sử dụng vốn,
không có tình trạng bất hợp lý giữa vốn huy động với nhu cầu sử dụng vốn. Ví dụ: khi

phân tích cơ cấu vốn để đánh giá về khả năng và quy mô thu hút vốn từ nền kinh tế
của NHTM ta có chỉ số:
KN đáp ứng
nhu cầu KD

=

Vốn huy động

x

100(%)

Sử dụng vốn

13


1.3.2.6 Tỷ suất lợi nhuận/VHĐ
Để xem xét hiệu quả huy động vốn, người ta cũng thường xuyên sử dụng thêm
chỉ tiêu: Tỷ suất lợi nhuận vốn huy động (TSLNVHĐ). Chỉ tiêu này được tính theo
công thức sau:
TSLNVHĐ

=

Thu nhập sau thuế vốn huy động
Tổng vốn huy động

%


1.3.2.7 Tỷ lệ chi phí VHĐ/Tổng chi phí
Để đánh giá mức độ sử dụng chi phí huy động vốn so với tổng chi phí, ngân hàng
sử dụng chỉ tiêu Tỉ lệ chi phí VHĐ/ Tổng chi phí :
TLCPVHĐ/Tổng
chi phí

=

Chi phí huy động vốn
Tổng chi phí

%

1.4. Các nhân tổ ảnh hưởng đến huy động vốn của NHTM
1.4.1. Các nhân tố thuộc về Ngân hàng
1.4.1.1. Quan điểm của lãnh đạo Ngân hàng về huy động vốn
Vai trò và tính quyết định của các nhà lãnh đạo trong một Ngân hàng là không
thể phủ nhận. Họ có nhiệm vụ hoạch định chính sách đối với từng hoạt động của Ngân
hàng. Những chính sách này được áp dụng vào thực tiễn thông qua việc thực hiện các
biện pháp, nghiệp vụ cụ thể.
Huy động vốn giữ vị trí nhất định trong chính sách của các nhà lãnh đạo Ngân
hàng, tuỳ thuộc vào quan điểm của họ về hoạt động này cũng như về các hình thức
huy động vốn khác nhau. Huy động tiền gửi tiết kiệm từ dân cư có thể được chú trọng
nhưng cũng có thể tiền gửi từ các doanh nghiệp và tổ chức mới là vấn đề được ưu tiên.
Điều đó không chỉ khác nhau giữa các Ngân hàng mà còn thay đổi với một Ngân hàng
trong những điều kiện cụ thể.
Sự coi trọng hoạt động huy động vốn của nhà lãnh đạo ảnh hưởng tới sự quan tâm
của họ đến việc triển khai có hiệu quả các hình thức huy động vốn.
1.4.1.2 Uy tín của ngân hàng

Trong nền kinh tế thị trường để tồn tại và phát triển các NHTM phải có uy tín
trên thị trường. Uy tín thể hiện ở khả năng sẵn sàng thanh toán chi trả cho khách hàng

14


của Ngân hàng, thể hiện ở chất lượng hoạt động có hiệu quả của ngân hàng. Chính vì
vậy mà các NHTM phải không ngừng nâng cao và đảm bảo uy tín của mình trên
thương trường, từ đó có điều kiện để mở rộng hoạt động kinh doanh của mình, thu hút
được nguồn tiền nhàn rỗi của dân cư. Ngoài ra một ngân hàng có bề dày lịch sử hoạt
động sẽ được nhiều khách hàng lựa chọn hơn các ngân hàng ít kinh nghiệm và uy tín
trên thị trường. Mặc dù không phải lúc nào Ngân hàng có lâu năm cũng luôn là một lợi
thế so với ngân hàng mới thành lập. Nhưng đối với một khách hàng khi cần giao dịch
với ngân hàng nào đó họ cũng tin tưởng vào ngân hàng có nhiều thâm niên hơn. Bởi vì
họ nghĩ rằng Ngân hàng hoạt động lâu thì có thế lực, uy tín trên thị trường, có kinh
nghiệm trong thực hiện các nghiệp vụ, nguồn vốn và có khả năng thanh toán cao.
1.4.1.3. Đạo đức nghề nghiệp và trình độ chuyên môn của cán bộ, nhân viên Ngân
hàng
Đội ngũ nhân viên, nhất là các giao dịch viên được coi là bộ mặt của một Ngân
hàng. Vai trò của giao dịch viên càng trở nên quan trọng khi các Ngân hàng triển khai
hình thức giao dịch “một cửa”. Thái độ thân thiện, vui vẻ, phong cách chuyên nghiệp
của giao dịch viên giúp tạo tâm lý thoải mái, an tâm cho khách hàng và góp phần tạo
nên nét đặc trưng cho chất lượng dịch vụ của một Ngân hàng. Trong điều kiện lĩnh vực
Ngân hàng – tài chính ngày càng phát triển, chất lượng dịch vụ là nhân tố quyết định
sự thắng lợi của một Ngân hàng trong cạnh tranh.
Tiền gửi và vốn từ phát hành công cụ nợ là bộ phận chiếm tỷ trọng cao nhất
trong vốn của Ngân hàng. Khách hàng không thể gửi tiền vào nơi họ không tin tưởng
hay không cảm thấy mình được coi trọng và phục vụ tốt. Trái lại, khi khách hàng cảm
thấy thoả mãn với những gì họ nhận được, họ có thể mở rộng giao dịch với Ngân
hàng, không chỉ gửi tiền mà còn mua kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, đi vay và thanh

toán qua Ngân hàng.
1.4.1.4. Cơ sở vật chất của Ngân hàng
Các hoạt động mà NHTM thực hiện không cung cấp tới khách hàng những sản
phẩm hữu hình có thể nắm giữ được. Điều đó tất yếu gây cho khách hàng tâm lý bất
an. Ngân hàng có thể giảm thiểu bất lợi này thông qua việc củng cố, hoàn thiện những
yếu tố vật chất tác động trực tiếp đến giác quan của khách hàng. Những yếu tố đó là

15


nhà cửa, trang thiết bị hay chính những nhân viên làm việc trong Ngân hàng. Sự bề thế
của trụ sở, văn phòng, sự hiện đại của các trang thiết bị cùng với không khí làm việc
chuyên nghiệp của cán bộ, nhân viên sẽ tạo cho khách hàng sự tin tưởng. Đây là cơ sở
để Ngân hàng có thể duy trì và thu hút khách hàng, khuyến khích khách hàng tham gia
các hoạt động huy động vốn của họ.
Cũng về vấn đề cơ sở vật chất, mạng lưới Chi nhánh, phòng giao dịch, quỹ tiết
kiệm ảnh hưởng rất nhiều đến khả năng tiếp cận khách hàng của Ngân hàng. Qua đó,
nó chi phối việc Ngân hàng có thu hút được vốn dồi dào hay không. Các Ngân hàng
tìm mọi cách để tới gần dân cư nhất. Họ có thể tiếp cận doanh nghiệp tương đối dễ
dàng thông qua những hoạt động không thể thiếu với mỗi doanh nghiệp như: mở tài
khoản, thực hiện thanh toán, đăng ký mã số thuế với cơ quan thuế...
1.4.1.5. Các hình thức huy động vốn và sự tích hợp các tiện ích
Khách hàng của Ngân hàng rất đa dạng, thuộc nhiều tầng lớp, ngành nghề khác
nhau. Yêu cầu của họ với những dịch vụ được Ngân hàng cung cấp cũng có điểm khác
biệt. Để thu hút vốn từ khách hàng, Ngân hàng cần nắm bắt và đáp ứng được nhu cầu,
mong muốn của họ.
Những người gửi tiền tiết kiệm đều hướng tới mục tiêu bảo toàn và sinh lời
khoản tiền họ sở hữu. Tuy vậy, số tiền và thời gian cần gửi của mỗi người không giống
nhau. Khách hàng gửi số tiền lớn hy vọng được hưởng một mức lãi suất cao hơn so
với lãi suất áp dụng cho khoản tiền nhỏ hơn có cùng kỳ hạn. Tương tự như vậy, khách

hàng thường xuyên giao dịch với Ngân hàng mong muốn nhận được một sự đối xử ưu
đãi hơn so với khách vãng lai. Trong khi đó, doanh nghiệp gửi tiền lại chú trọng đến
các tiện ích thanh toán họ được hưởng. Việc đa dạng hoá hình thức huy động giúp
Ngân hàng đáp ứng được nhiều hơn nhu cầu của khách hàng đồng thời có thể gia tăng
thêm những lợi ích khách hàng được hưởng.
Đối với NHTM, người gửi tiền cũng có thể trở thành khách hàng để Ngân hàng
cấp tín dụng và thực hiện thanh toán hộ. Khi nhận tiền gửi, Ngân hàng huy động được
vốn nhàn rỗi. Trong khi thực hiện cho vay và thanh toán, họ có được thu nhập. Đối với
khách hàng, sự kết hợp các dịch vụ mang lại cho họ nhiều lợi ích, thoả mãn được các
nhu cầu thay đổi giữa những thời điểm khác nhau. Khi các hình thức huy động vốn của

16


NHTM đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, họ sẽ chủ động giao dịch với Ngân
hàng. Những tiện ích kèm theo các hình thức huy động đó là sự hấp dẫn các Ngân
hàng tạo ra để duy trì và mở rộng hệ thống khách hàng. Đây là cơ sở để Ngân hàng
tăng cường huy động vốn từ dân cư cũng như từ các tổ chức.
1.4.2. Các nhân tố bên ngoài Ngân hàng
1.4.2.1. Môi trường kinh tế - xã hội
NHTM hiện diện với tư cách là một chủ thể trong nền kinh tế, tiến hành các hoạt
động đều phải chịu tác động từ môi trường xung quanh. Huy động vốn của NHTM
cũng bị ảnh hưởng bởi các biến động của môi trường kinh tế - xã hội.
Vấn đề bao trùm lên hoạt động của mọi cá nhân, tổ chức là tốc độ phát triển của
nền kinh tế. Kinh tế tăng trưởng cao, ổn định trong một thời gian dài tạo điều kiện để
đời sống người dân được nâng cao. Dân cư có thu nhập cao có khả năng tích lũy nhiều
hơn. Dù tỷ lệ chi tiêu trên tổng thu nhập của họ có thể tăng nhưng số tuyệt đối của
phần dành cho tiết kiệm vẫn lớn lên. Đó là cơ sở để NHTM huy động được nhiều vốn
hơn. Trái lại, nền kinh tế trì trệ khiến đời sống người dân khó khăn thì lượng vốn huy
động của Ngân hàng cũng bị thu hẹp.

Sự phát triển kinh tế còn ảnh hưởng đến khả năng huy động vốn của NHTM theo
một con đường khác. Trong một nền kinh tế phát triển, nhu cầu của người dân và
doanh nghiệp đối với các dịch vụ do Ngân hàng cung cấp là rất lớn. Những nhu cầu đó
không phải chỉ để phục vụ sản xuất kinh doanh mà còn vì cuộc sống sinh hoạt hằng
ngày.
Một yếu tố khác của môi trường vĩ mô tác động mạnh đến việc huy động vốn của
NHTM là tình hình lạm phát. Đối với NHTW, lãi suất là một trong những công cụ
kiểm soát lạm phát. Còn với NHTM, điều kiện để dòng vốn không bị chảy khỏi hệ
thống Ngân hàng là đảm bảo lãi suất thực dương. Trong điều kiện tỷ lệ lạm phát cao
hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm, người dân không tiếp tục gửi tiền vì lo sợ sự mất giá. Vì
vậy, đối phó với lạm phát, Chính phủ và NHTW thực thi các chính sách vĩ mô trong
khi NHTM tính toán và điều chỉnh lãi suất cho phù hợp.
1.4.2.2. Tâm lý dân cư

17


Do vai trò quan trọng của tiền gửi, nhất là tiền gửi của dân cư trong tổng vốn của
NHTM, nhân tố khách quan tác động đến huy động vốn của Ngân hàng được đề cập tới đầu
tiên chính là yếu tố thuộc về đối tượng này: tâm lý dân cư.
Khách hàng doanh nghiệp mang đến cho Ngân hàng một lượng tiền gửi khá lớn,
chủ yếu là tiền gửi thanh toán. Tuy nhiên, như đã đề cập, việc tiếp cận và mở rộng
giao dịch với đối tượng khách hàng này không thực sự quá khó khăn với một NHTM.
Vấn đề nằm ở khách hàng cá nhân. Nhiều Ngân hàng không quan tâm đến đối tượng
này. Tuy nhiên, đối tượng khách hàng này khi được khai thác tốt lại mang đến cho
Ngân hàng những lợi ích và ưu thế mà khách hàng doanh nghiệp không có được. Đã
có nhiều NHTM chọn khách hàng cá nhân làm khách hàng chiến lược và thu được
thành công. Đây là điều không dễ dàng vì khách hàng cá nhân có những đặc điểm tâm
lý khá phức tạp:
- Lo sợ rủi ro khi giao dịch bằng tiền với Ngân hàng

- Ngại phiền phức thủ tục trong quá trình giao dịch
- Không muốn để lộ thông tin với Ngân hàng trong trường hợp khách hàng là
người có thu nhập cao
- Mặc cảm không giao dịch với Ngân hàng trong trường hợp khách hàng là người có
thu nhập thấp.
Những đặc điểm tâm lý trên cùng với sự ưa thích sử dụng tiền mặt là rào cản
khiến huy động vốn từ khách hàng cá nhân trở nên rất khó khăn với NHTM.
1.4.2.3. Sự cạnh tranh từ các đối thủ
Đối thủ của một NHTM trong việc huy động vốn không chỉ là những Ngân hàng
khác, những tổ chức tín dụng có cùng nghiệp vụ nhận tiền gửi hay phát hành giấy tờ có
giá. NHTM còn phải cạnh tranh với các Công ty Bảo hiểm và thị trường chứng khoán để
thu hút vốn từ các chủ thể trong nền kinh tế.
Tại những nước đang phát triển, sự tăng trưởng cao đột ngột của thị trường
chứng khoán có thể là nguyên nhân khiến nhiều khách hàng rút tiền khỏi hệ thống
Ngân hàng để chuyển sang đầu tư trên thị trường chứng khoán. Điều này khác biệt lớn
với những nền kinh tế phát triển. Tại đây, chỉ một bộ phận nhỏ dân cư tham gia đầu tư

18


chứng khoán. Gửi tiền Ngân hàng vẫn là lựa chọn gần như tốt nhất của công chúng
trong điều kiện kinh tế bình thường.
Khác với thị trường chứng khoán, các công ty bảo hiểm cạnh tranh với Ngân
hàng ngay cả trong điều kiện nền kinh tế phát triển cao. Đời sống người dân được cải
thiện, nhu cầu bảo vệ của con người cũng gia tăng, các loại hình bảo hiểm càng được
mở rộng đa dạng. Những hợp đồng bảo hiểm, đôi khi, có giá trị rất lớn. Cùng với đó là
số phí bảo hiểm cao được dân chúng đóng vào công ty bảo hiểm. Điểm hạn chế của
hình thức gửi tiền Ngân hàng so với Bảo hiểm là không mang tính bảo vệ. Trong khi
những hợp đồng bảo hiểm nhân thọ vẫn có tính tiết kiệm như gửi tiền Ngân hàng. Kết
quả là một dòng vốn không nhỏ không tới các NHTM nữa mà chuyển sang các Công

ty Bảo hiểm.

19


CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG HUY
ĐỘNG VỐN TẠI NHTMCP CT VIỆT NAM – CHI NHÁNH HÀ
NỘI
2.1 Khái quát về NHTMCP CT VN – Hà Nội
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển NHTMCP CT VN – Hà Nội
Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam (Vietinbank) được thành lập từ năm
1988 sau khi tách ra từ NHNN Việt Nam, là NHTM lớn giữ vai trò quan trọng, trụ cột
của ngành Ngân hàng VIệt Nam. Và đây cũng là Ngân hàng có tổng tài sản lớn, chiếm
thị phần cao trong lĩnh vực tài chính ngân hàng.
Vietinbank hệ thống mạng lưới trải rộng toàn quốc với 3 Sở Giao dịch, 141 chi
nhánh và trên 700 điểm/phòng giao dịch; có 4 Công ty hạch toán độc lập là Công ty
Cho thuê Tài chính, Công ty TNHH Chứng khoán, Công ty Quản lý Nợ và Khai thác
Tài sản, Công ty TNHH Bảo hiểm và 3 đơn vị sự nghiệp là Trung tâm Công nghệ
Thông tin và Trung tâm Thẻ, Trường Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.
Vietinbank Chi nhánh TP Hà Nội là một chi nhánh của Vietinbank có tiền thân
là Ngân hàng nghiệp vụ khu vực 1 Hà Nội, trực thuộc Chi nhánh NHCT Thành phố Hà
Nội. Vào năm 1988, tại thời điểm bắt đầu, nguồn vốn huy động đạt 42 tỷ đồng và 37 tỷ
đồng dư nợ cho vay. Sản phẩm dịch vụ Ngân hàng còn nghèo nàn, đơn điệu, chủ yếu
là cho vay ngắn hạn và huy động tiết kiệm.
Từ tháng 12/1989 đến tháng 11/1992, Ngân hàng nghiệp vụ khu vực 1 Hà Nội
đổi tên thành Trung tâm giao dịch NHCT hà Nội, nguồn vốn huy động đã đạt 270 tỷ
và dư nợ cho vay là 125 tỷ đồng, đây cũng là năm Trung tâm giao dịch NHCT Hà Nội
triển khai hoạt động kinh doanh đối ngoại.
Ngày 24/3/1995, Tổng giám đốc NHCT Việt Nam ra quyết định số 93/NHCTTCCB chuyển hoạt động của Chi nhánh NHCT Thành phố Hà Nội vào hội sở chính
NHCT Việt Nam.

Ngày 30/03/1993, Tổng giám đốc NHCCT Việt Nam ra quyết định số
83/NHCT-QĐ chuyển bộ phận giao dịch trực tiếp tại Hội sở chính NHCT Việt Nam để
thành lập Sở giao dịch NHCT Việt Nam. Trong giai đoạn này, cùng với những thành
quả ban đầu của công cuộc đổi mới, hoạt động kinh doanh của Sở giao dịch đã thu

20


được hiêu kết quả quan trọng như củng cố và mở rộng mạng lưới, trang thiết bị cơ sở
vật chất kỹ thuật, đa dạng hóa sản phẩm dich vụ nên đã có sự tăng trưởng cao. Đến
năm 1998, nguồn huy động đạt 5.572 tỷ đồng, dư nợ cho vay đạt 870 tỷ đồng.
Ngày 30/12/1998, Chủ tịch HĐQT NHCT Việt Nam ra quyết định số 134/QĐHĐQT-NHCT1 chuyển hoạt động của Sở giao dịch thành Sở giao dịch I-NHCT Việt
Nam kể từ ngày 1/1/1999. Một lần nữa cơ cấu tổ chức thay đổi, các phòng ban được
sắp xếp lại để đáp ứng yêu cầu kinh doanh trong tình hình mới. Kế thừa thành quả và
kinh nghiệm sau 10 năm hoạt động, Sở giao dịch I vẫn duy trì được sự phát triển
nhanh, vững chắc, toàn diện. Từ năm 1999 đến năm 2007, các mặt hoạt động cơ bản
đều có tốc độ tang trưởng hàng năm từ 20%-25%. Sở giao dịch I đã trở thành đơn vị
có quy mô hoạt động lớn, kinh doanh đa năng, hiệu quả, có uy tín cao trong coognj
đồng tài chính ngân hàng trong cả nước. Từ ngày 1/7/2009, Sở giao dịch I đổi tên
thành Chi nhánh thành phố Hà Nội theo quyết định của Chủ tịch HĐQT Vietin bank.
Hiện nay, Chi nhánh có trụ sở đặt tại số 6 Ngô Quyền-Quận Hoàn Kiếm-Hà Nội và có
13 phòng chức năng, 14 phòng giao dịch trực thuộc.
2.1.2 Mô hình tổ chức
Sơ đồ tổ chức bộ máy:
Sơ đồ 2.1. Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Vietinbank chi nhánh TP Hà Nội
GIÁM ĐỐC

Phó giám
đốc 1


Phòng
tổ
chức
hánh
chính

Phòng
tổng
hợp
tiếp
thị

Phó giám
đốc 2

Phòng
kế
toán
giao
dịch

Phòng
tài
chính
kế
toán

Phó giám
đốc 3


Phòng
quản
lý rủi
ro

Phòng
thông
tin
điện
toán

Phó giám
đốc 5

Phó giám
đốc 4

Phòng
KH1

Phòng
KH2

Phòng

nhân

Các
phòng
giao

dịch

Phòng
kho
quỹ

21


Trong đó, chức năng và nhiệm vụ quyền hạn của mỗi phòng ban như sau:
-

Ban giám đốc: Gồm giám đốc và 5 phó giám đốc. Giám đốc là người

đứng đầu bộ máy quản lý, chỉ đạo và chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của
Chi nhánh. Phó giám đốc được phân công phụ trách một số mặt công tác của chi
nhánh và chịu trách nhiệm trước giám đốc về những quyết định của mình.
-

Phòng khách hàng doanh nghiệp lớn (KH1): là phòng nghiệp vụ trực tiếp

giao dịch với khách hàng là doanh nghiệp lớn.
-

Phòng khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ (KH2) : là phòng nghiệp vụ

trực tiếp giao dịch với khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ
-

Phòng khách hàng cá nhân: là phòng nghiệp vụ trực tiếp giao dịch với


khách hàng cá nhân.
-

Phòng quản lý rủi ro: có trách nhiệm tham mơu cho giám đốc Chi nhánh

và công tác quản lý rủi ro của Chi nhánh.
-

Phòng kế toán giao dịch: là phòng nghiệp vụ thực hiện các giao dịch trực

tiếp với khách hàng. Các nghiệp vụ và công việc liên quan tới quản lý tài chính, chi
tiêu nội bộ tại Chi nhánh.
-

Phòng tiền tệ kho quỹ: là phòng nghiệp vụ quản lý an toàn kho quỹ, quản

lý tiền mặt theo quy định của NHNN và Vietinbank.
-

Phòng tổ chức hành chính: là phòng nghiệp vụ thực hiện công tác tổ

chức cán bộ và đào tạo lại chi nhánh. Thực hiện công tác quản lý, duy trì hệ thống
thông tin điện toán tại Chi nhánh. Bảo trì bảo dưỡng máy tính đảm bảo thong suốt hoạt
dộng của hệ thống mạng, máy tính.
-

Phòng tổng hợp tiếp thị: là phòng nghiệp vụ tham mưu cho giám đốc Ci

nhánh dự kiến kế hoạch kinh doanh, tổng hợp, phân tích đánh giá tình hình hoạt động

kinh doanh, thực hiện báo cáo hoạt động hàng năm của Chi nhánh.

22


-

Phòng Tài chính – Kế toán: Tổ chức quản lý các hoạt động tài chính kế

toán của Chi nhánh, quản lý giá trị tài sản Có, tài sản Nợ, quản lý tài sản cố định, công
cụ lao động và những chứng từ hạch toán kế toán của Chi nhánh, tham gia quản lý kho
tiền.
-

Các phòng giao dịch: Thực hiện một số giao dịch với khách hàng như

huy động các giao dịch tiền gửi, chuyển tiền, mở thẻ: tiếp thị tìm kiếm khách hàng tiền
vay, tiền gửi…
2.1.3 Chức năng, nhiệm vụ của chi nhánh
Chức Năng:
+ Thực hiện một số nhiệm vụ theo ủy quyền của NHTMCPCT Việt Nam, theo
lệnh của Tổng giám đốc ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam.
+ Trực tiếp kinh doanh chủ yếu trên phạm vi thành phố Hà Nội.
Nhiệm Vụ:
+ Huy động vốn: bao gồm khai thác và nhận tiền gửi của khách hàng, phát hành
các giấy tờ có giá.
+ Cho vay vốn: Cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn và nhằm phục vụ cho
các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
+ Cung cấp các tài khoản giao dịch, thực hiện thanh toán, ủy thác và tư vấn.
+ Kinh doanh ngoại tệ: Mua bán ngoại tệ, thanh toán quốc tế, nhận bảo lãnh và

chiết khấu.
+ Cung cấp các dịch vụ ngân hàng: dịch vụ thẻ, bảo quản, cất giữ vật và giấy tờ
có giá.
+ Đầu tư dưới hình thức hùn vốn: Liên doanh, mua cổ phần và các hình thức
đầu tư khác với các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp khi được sự cho phép của
NHCT Việt Nam.
2.1.4 Khái quát tình hình hoạt động của NHCT chi nhánh TP. Hà Nội
*HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN

23


Tổng nguồn vốn huy động ngày 31/12/2013 đạt 46.125 tỷ đồng, tăng 3.403 tỷ
đồng sơ với đầu năm, tương ứng tăng trưởng 7,9% so với năm trước, đạt 92% kế
hoạch NHCT giao.
Trong năm NHNN đã giảm 1% lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi và từ cuối
tháng 6 cho phép các tổ chức tín dụng tự ấn định lãi suất huy động kỳ hạn từ 6 tháng
trở lên. Động thái này nhằm mục đích hỗ trợ doanh nghiệp vay vốn, nhưng cũng dẫn
tới cạnh tranh huy động vốn trên thị trường diễn ra phức tạp, ảnh hưởng không nhỏ
đến hoạt động huy động vốn của Chi nhánh. Tuy nhiên, với uy tín là một ngân hàng
lớn, cùng với sự cố gắng vượt bậc của toàn thể TBNV chi nhánh, chi nhánh TP Hà Nội
đã hoàn thành vượt mức kế hoạch được giao, tiếp tục là đơn vị có nguồn vốn huy động
lớn nhất trong hệ thống NHCTVN, góp phần quan trọng điều hòa vốn trong hệ thống
để cho vay phát triển kinh tế cả nước. Nguồn vốn huy động bình quân đầu người cũng
cao nhất hệ thống, đạt xấp xỉ 108 tỷ đồng/ người.
Trước áp lực cạnh tranh khốc liệt của thị trường, Chi nhánh NHCT Hà Nội vẫn
khẳng định được vị thế và tạo được niềm tin đối với khách hàng, lượng vốn huy động
liên tục tăng qua các năm. Điều này thể hiện ở bảng sau:

Bảng 2.1. Tình hình huy động vốn của NHTMCP chi nhánh TP.Hà Nội

(2011-2013)
Đơn vị: tỷ đồng

Chỉ tiêu

2011

2012

Chênh lệch 2012/2011

Chênh lệch 2013/2012

Giá trị

%

Giá trị

%

30,48

3.403

7,96

2013

Tổng


32.740 42.722 46.125
9.982
VHĐ
Nguồn: Báo cáo kinh doanh chi nhánh Tp. Hà Nội

*NGHIỆP VỤ TÍN DỤNG:
Hoạt động tín dụng của chi nhánh luôn bám sát chỉ đạo của NHCT và mục tiêu
phát triển KT-XH của chính phủ, bên cạnh tiếp tục cho vay đối với khách hàng truyền
thống, khách hàng chiến lược, cho vay phát triển nông nghiệp, cho vay hỗ trợ xuất
khẩu… chi nhánh còn đặt biệt quan tâm tiếp thị thu hút khách hàng tiềm năng mới có
tiền lực tài chính mạng, có dự án, phương án kinh doanh khả thi, cho vay tiêu dùng,

24


cho vay cá nhân, nhằm đa dạng thành phần khách hàng và đảm bảo cơ cấu tín dụng
bền vững, an toàn.
+ Chất lượng tín dụng: Do tình hình kinh tế năm qua rất khó khăn nên nhiều
doanh nghiệp đã lâm vào tình trạng phá sản hoặc sản xuất cầm chừng, một số khách
hàng của Chi nhánh TP Hà Nội cùng không nằm ngoài khó khăn chung của nền kinh
tế nên tại Chi nhánh đã phát sinh nợ xấu chiếm 0,26% tổng dư nợ. Tuy nhiên, số khách
hàng doanh nghiệp khó khăn, nợ tiềm ẩn còn khá cao.
+ Việc thu hồi nợ xấu XLRR, nợ xấu cũng được tiến hành khẩn trương, quyết
liệt ngay từ đầu năm. Căn cứ kế hoạch của NHCT, Chi nhánh đã thực hiện giao chỉ
tiêu thu nợ đến từng phòng, từng cán bộ tín dụng, đồng thời tập trung bằng mọi biện
pháp để thu hồi nợ: bán nợ, tiến hành khởi kiện ra tòa án, chuyển hồ sơ sang công
an…Kết quả đạt được là trong năm 2013 Chi nhánh thu được nợ nhóm 2, nợ xấu, nợ
XLRR với tổng số tiền là 81,314 triệu đồng, trong đó thu hồi được nợ XLRR là 15,3 tỷ
đồng, đạt 50,3% kế hoạch được giao.

Chi tiết dư nợ tín dụng được thể hiện qua bảng sau:

Bảng 2.2. Dư nợ tín dụng của NHTMCPCTVN CN Hà Nội (2011-2013)
Đơn vị: tỷ đồng
2011

2012

2013

Chênh lệch
2012/2011

Chỉ tiêu

100

Số
tiền
44.856

Tỷ
trọng
100

Số
tiền
50.120

Tỷ

trọng
100

Giá trị
3.140

%
7,52

Giá trị
5.264

%
11,73

7.963

19,08

8.505

18,96

8.644

17,24

542

6,80


139

1,63

2. Cho
vay

33.753

80,91

36.351

81,03

41.476

82,75

2.598

7,69

5.125

14,09

Ngắn
hạn


11.248

33,33

12.324

33,91

15.523

37,42

1.076

9,56

3.199

25,95

Trung
dài hạn

22.505

66,67

24.027


66,09

25.952

62,58

1.522

6,76

1.925

8,01

I. Tổng
dư nợ
1.Đầu tư

Số
tiền
41.716

Tỷ trọng

Chênh lệch
2013/2012

Nguồn: Báo cáo kinh doanh chi nhánh Tp. Hà Nội

25



×