Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

on tap triet hoc mac le nin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (294.88 KB, 36 trang )

Câu 1: Hãy phân biệt sự khác nhay giữa TGQ duy vật và TGQ duy tâm? Tại sao nói
TGQ triết học Mác-LêNin là TGQ duy vật biện chứng?
Trả lời:
Vđ 1:
- Thế giới quan: là hệ thống quan niệm về thế giới, về bản thân con người và vị trí của con
người trong thế giới đó.
- Thế giới quan có 3 loại hình: thế giới quan huyền thoại, thế giới quan tôn giáo và thế giới
quan triết học.
- Thế giới quan triết học là hình thức phát triển cao nhất trong thế giới quan, vì thế giới quan
triết học có chức năng định hướng cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người.
- Thế giới quan triết học bao gồm: thế giới quan duy tâm và thế giới quan duy vật.
*Khác nhau:
TGQ duy vật
TGQ duy tâm
- Giữa vật chất và ý thức thì vật - Cho rằng ý thức là cái có trước, vật
Bản chất của thế giới
chất là cái có trước, cái quyết chất là cái có sau, ý thức là cái sinh
định ý thức
ra và quyết định giới tự nhiên
Từ sự phát triển khoa học và Từ nhận thức và XH
Nguồn gốc
thực tiễn
Có 3 hình thức cơ bản: chủ Có 2 hình thức cơ bản: CN duy tâm
nghĩa duy vật chất phác, chủ khách quan và CN duy tâm chủ quan
Hình thức
nghĩa duy vật siêu hình và chủ
nghĩa duy vật biện chứng
VĐ2:
Thế giới này bắt nguồn từ vật chất, vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau. Cho nên chúng
ta cần tìm hiểu vật chất và ý thức có mối quan hệ như thế nào từ đó chứng minh được tại sao TGQ triết
học Mác – Lê Nin là TGQ duy vật biện chứng.


- Đn vật chất của Lê Nin: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách
quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại,
phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
- Kn Ý thức: là sự phản ánh TGKQ vào trong não người một cách năng động và sáng tạo
thông qua hoạt động thực tiễn sản xuất vật chất, chính trị xã hội và khoa học thực nghiệm.
- Ý thức có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội:
+ Nguồn gốc TN: ý thức là thuộc tính phản ánh của bộ óc người và sự phản thế giới khách
quan vào bộ óc người.
+ Nguồn gốc XH: thể hiện ở chổ phải có lao động và cùng với lao động là ngôn ngữ thì mới có
ý thức được. Lao động là hành vi lịch sử đặc trưng của con người; ngôn ngữ là cái võ v/c của tư duy.
- Thông qua hoạt động có ý thức của con người, con người hoàn toàn có thể tác động trở lại thế
giới vật chất.
- V/c quyết định ý thức thể hiện ở chỗ:
+ Vật chất có trước, ý thức có sau. Vật chất là cơ sở, nguồn gốc của ý thức, giữ vai trò quyết
định đối với ý thức.
VD: Về thế giới quan cũng như trình tự về mặt thời gian, yếu tố vật chất xuất hiện trước yếu tố
ý thức. Cụ thể, phải có yếu tố vật chất mới sinh ra loài người có ý thức. Trong đời sống hiện thực,
nhân tố vật chất có trước nhân tố tinh thần. Trong đời sống xã hội của con người, kinh tế quyết định
chính trị, đời sống vật chất quyết đinh đời sống tinh thần.
- Ý thức có vai trò tác động trở lại vật chất: Sự tác động này theo hai hướng:
+ Tích cực: Nếu ý thức năng động, sáng tạo, nhận thức đúng quy luật khách quan, hành động
đúng thực tiễn thì sẽ thúc đẩy sự phát triển của vật chất.
VD: Trong tất cả các cuộc kháng chiến chống ngoại tộc của dân tộc ta, chúng ta thường yếu
hơn kẻ thù về tiềm năng vật chất, binh lực nhưng cuối cùng, chúng ta là người chiến thắng. Vì ta có


sức mạnh tinh thần đoàn kết dân tộc, có lòng yêu nước nồng nàn và có nghệ thuật đánh giặc rất tài tình
(lấy nhu thắng cương, lấy ít địch nhiều, lấy yếu thắng mạnh).
+ Tiêu cực: Nếu không năng động sáng tạo, rơi vào tình trạng chủ quan duy ý chí sẽ kìm hãm
sự phát triển của vật chất.

VD: Sau năm 1975, người dân Thái Lan rất ngưỡng mộ Sài Gòn – “hòn ngọc Viễn Đông”.
Nhưng chỉ sau 10 năm, Việt Nam sai lầm về đường lối kinh tế xã hội, còn Thái Lan nhanh chóng thể
chế hóa theo đường lối kinh tế thị trường nên họ đã bứt lên nhanh chóng và vượt qua Việt Nam.
→ Sự tác động trở lại của ý thức đ/v vật chất dù đến đâu đi nữa vẫn phụ thuộc vào các điều
kiện vật chất. Cho nên xét đến cùng, v/c luôn quyết định ý thức.
- Ý nghĩa:
+ Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn đòi hỏi phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn
trọng và hành động theo quy luật KQ.
+ Phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố chủ quan của con
người:

Nếu nhận thức đúng, ý thức phát triển.

Nhận thức sai sẽ kìm hãm sự phát triển của ý thức.
+ Cần chống bệnh chủ quan duy ý chí, bệnh bảo thủ, trì trệ, ỷ lại, ngồi chờ.
- Kết luận: Như vậy, vất chất và ý thức luôn có sự tác động qua lại lẫn nhau. Tuyệt đối hóa bất
cứ mặt nào cũng đều sai lầm. Điều đó có ý nghĩa phương pháp luận hết sức to lớn đối với hoạt động
thực tiễn của con người.
*Liên hệ thực tế:
- Khi thừa nhận vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức thì trong nhận thức và trong hoạt
động thực tiễn phải tôn trọng quy luật khách quan. Mọi hành động đều phải xuất phát từ thực tế khách
quan, phải căn cứ vào những điều kiện vật chất và năng lực vật chất hiện có khi đề ra các quyết sách;
không được xuất phát từ ý chí, nguyện vọng cá nhân.
VD: Đối với nước ta: trong mọi đường lối chính sách, Đảng ta luôn xuất phát từ thực tiễn
khách quan, tôn trọng các quy luật khách quan. Vì vậy, đã đưa cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này
đến thắng lợi khác. Nhất là trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Tuy nhiên, thời kỳ trước đổi
mới, nước ta đã vấp phải những sai lầm chủ quan trong hoạch định chiến lược kinh tế - xã hội. Hạn
chế đó đang được từng bước khắc phục. Đảng ta khẳng định: mọi đường lối, chủ trương phát triển đất
nước đều lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng HCM làm nền tảng tư tưởng lý luận. Đồng thời, xuất
phát từ hiện thực của đất nước, quốc tế và thời đại. Do đó, mọi mặt đời sống của nhân dân được nâng

lên, vị thế của đất nước được nâng cao.
*Đối với bản thân:
- Phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức trong quá trình học tập và công tác.
- Chống bệnh chủ quan duy ý chí, trông chờ, thu động; tích cực trong học tập và công tác.
- Đòi hỏi tư duy của chúng ta phải nhận thức sự vật với tư cách khách quan, tồn tại và phát
triển ngoài ý thức của con người.
- Cần phải nâng cao trình độ văn hoá, chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin,
nâng cao lòng nhiệt tình cách mạng, rèn luyện cả tài lẫn đức... Xuất phát từ ý nghĩa đó, Đảng ta luôn
xác định: Một trong những điều kiện cơ bản để đảm bảo sự lãnh đạo đúng đắn của mình là phải luôn
luôn đề ra các chủ trương chính sách xuất phát từ các yêu cầu bức xúc cần giải quyết của thực tiễn,
đồng thời trong quá trình thực hiện phải tôn trọng và thực hiện đúng quy luật khách quan.


Câu 2: Vận dụng cặp phạm trù nguyên nhân – kết quả vào phân tích nguyên nhân
và KQ của 1 vấn đề XH nào đó?
Trả lời:
Theo phép duy vật biện chứng, bất kỳ một sự vật hiện tượng nào trong thế giới đều tồn
tại trong mối liên hệ nhân quả, các sự vật hiện tượng luôn nằm trong quá trình vận động, phát
triển không ngừng. Sự tác động qua lại, tương tác giữa các mặt, các yếu tố bên trong sự vật
hiện tượng, hoặc giữa các sự vật hiện tượng với nhau, dẫn đến sự ra đời của sự vật, hiện tượng
mới, từ đó làm xuất hiện mối liên hệ nhân quả.
Nguyên nhân là phạm trù triết học dùng để chỉ sự tác động qua lại giữa các mặt, các bộ
phận, các thuộc tính, các yếu tố trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra một sự
biến đối nhất định.
Kết quả là phạm trù triết học dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do nguyên nhân tạo
ra.
Ví dụ NN – KQ: như sự tương tác lẫn nhau giữa các yếu tố trong hạt ngô là nguyên
nhân làm cho từ hạt ngô nảy mầm lên cây ngô. Hay sự tác động giữa xăng, không khí, áp suất
v..v.. là nguyên nhân gây ra tiếng nổ cho động cơ – kết quả.
Sự biến đổi mầm giống trong hạt lúa là (nguyên nhân) sinh ra cây lúa (kết quả); bảo

(nguyên nhân) gây ra thiệt hại mùa màn (kết quả xấu); thực hiện đường lối đổi mới (nguyên
nhân) dẫn đến dân giàu, nước mạnh (kết quả)
*Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả:
Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, nên nguyên nhân có trước kết quả về mặt thời gian,
tuy nhiên không phải sự nối tiếp nhau về thời gian đều là quan hệ nhân quả. Ví dụ: Ngày và
đêm không phải là nguyên nhân của nhau, một nguyên nhân có thể sinh ra nhiều kết quả khác
nhau, tùy thuộc vao điều kiện cụ thể. Ví dụ: Gạo và nước được đun sôi có thể thành cơm,
thành cháo.vv..điều này phụ thuộc vào việc điều chỉnh nhiệt độ, mức nước, bởi người nấu.
Ngược lại một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân gây ra. Ví dụ: sức khỏe của chúng ta tốt
do nhiều nguyên nhân như luyện tập thể dục đều đặn, ăn uống điều độ, cho chăm sóc y tế
tốt.vv.. các nguyên nhân này có vai trò không như nhau nhưng cùng nhau làm cho sức khỏe
con người tốt lên.
- Căn cứ vào tính chất, vai trò của nguyên nhân đối với sự hình thành kết quả, triết học
duy vật mác xít phân chia thành nguyên nhân chủ yếu( là nguyên nhân quyết định sự ra đời
của kết quả) và nguyên nhân thứ yếu( nguyên nhân chỉ ảnh hưởng tới kết quả hoặc quyết định
những mặt, những bộ phận không cơ bản của kết quả); nguyên nhân bên trong( sự tác động
qua lại giữa các bộ phận các yếu tố bên trong tạo thành sự vật) và nguyên nhân bên ngoài ( sự
tác động qua lại giữa sự vật ấy với sự vật khác ); nguyên nhân khách quan( là những sự tác
động độclập với chủ thể hành động) và nguyên nhân chủ quan( là những sự tác động phụ thuộc
vào một chủ thể nhất định, sự phân chia này cũng là tương đối. Chẳng hạn, một nguyên nhân
trong mối liên hệ này được coi là nguyên nhân bên trong, nhưng trong mối liên hệ khác được
coi là nguyên nhân bên ngoài.
- Trong những điều kiện nhất định, nguyên nhân và kết quả có thể chuyển hóa lẫn nhau.
Nghĩa là cái trong quan hệ này được coi là nguyên nhân thì trong quan hệ khác lại có thể là kết
quả. Ví dụ: chăm chỉ làm việc là nguyên nhân của thu nhập cao. Thu nhập cao lại là nguyên
nhân để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho bản thân,v..v


- Ý nghĩa của phương pháp luận:
Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn cần tôn trọng tính khách quan của

mối liên hệ nhân quả. Mọi sự vật hiện tượng điều có nguyên nhân ra đời, cho nên muốn hiểu
rõ hay cải tạo chúng thì phải tìm hiểu rõ nguyên nhân của chúng. Khi xem xét nguyên nhân thì
nguyên nhân cơ bản, nguyên nhân bên trong là quan trọng nhưng không được xem nhẹ các
nguyên nhân khác, nhất là những nguyên nhân bên ngoài.
Muốn KQ hình thành phải tạo nguyên nhân, ngược lại muốn k có KQ thì k tạo ra ng
nhân sinh ra nó.
Trong hoạt động thực tiễn muốn cho hiện tượng nào đó xuất hiện cần tạo nguyên nhân
cũng những điều kiện cho nguyên nhân đó phát huy tác dụng và ngược lại. Đồng thời phải biết
xác định đúng nguyên nhân để giải quyết vấn đề nảy sinh vì các nguyên nhân có vai trò không
như nhau.
*Chủ đề 1: Phân tích nguyên nhân, kết quả của tình trạng tội phạm vị thành niên
ngày càng gia tăng (cách làm 1)
Đối với tình hình tội phạm ở lứa tuổi vị thành niên có chiều hướng gia tăng hiện nay, có
rất nhiều nguyên nhân gây nên tình trạng phạm tội nhưng có thể thấy nổi bật nhất là 03 nhóm
nguyên chính sau đây.
- Hoàn cảnh gia đình: Hoàn cảnh gia đình là một trong những nguyên nhân cơ bản
nhất dẫn đến việc trẻ em vị Thành niên phạm tội. Cha mẹ thiếu trách nhiệm trong vi ệc giáo
dục con cái hoặc quá nuông chiều con cái hoặc qua kỳ vọng vào con cái đều là nguyên nhân
dẫn đến tình trạng tội phạm của trẻ. Trong số các trẻ Vị thành niên ở Việt Nam phạm pháp ở
việt nam thì có đến hơn 70% trẻ không được quan tâm, chăm sóc đầu đủ từ gia đình. Hoàn
cảnh gia đình có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống, tâm sinh lý của trẻ cụ thể như: trẻ phạm tội
có bố mẹ nghiện ma túy, ham mê cơ bạc; gia đình làm ăn phi pháp; có anh chị tiền án tiền sự;
trẻ mồ côi cha lẫn mẹ; bố, mẹ ly hôn; thường xuyên bị cha, mẹ đánh đập chửi mắng; trẻ được
nông chiều quá mức, trẻ không được gia đình quan tâm, quản lý….
Từ những nguyên trên, có thể thấy được nếu trẻ không được sự quan tâm của bố, mẹ dễ
bị lôi kéo vào các hoạt động phạm pháp hoặc các em sẽ dễ tái phạm tội nếu sau khi hết thời gia
giáo dưỡng cải tạo về địa phượng mà không được gia đình quan tâm quản lý. Từ những yếu tố
tiêu cực trong gia đình đã ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình hình thành nhân cách của trẻ. Cha
mẹ các anh, chị thấy con mình hư hỏng, có mằng chửi thì trẻ cải lại, hoặc càng tái phạm với
mức độ cao hơn. Bố mẹ trẻ cho rằng đưa trẻ vào trung tâm giáo dưỡng với suy nghĩ gia đình

không giáo dục được trẻ thì để cơ quan có thẩm quyền sử lý. Đó chính là những hành động
như giọt nước làm tràn ly, chỉ khiến những tư tưởng phá phách của trẻ phát triển với cường độ
mạnh hơn, tính chất cũng phức tạp hơn rất nhiều.
Khi trẻ không còn thấy sức hấp dẫn của gia đình, lại bị tấn công từ nhiều phía, các em
bị rơi vào cảm giác bị xúc phạm nhiều dẫn đến mất tự chủ, có nhiều phản ứng không không
kiềm chế được. việc trể bỏ nhà ra đi là dấu hiệu sớm báo trẻ chuẩn bị phạm tội. Phần lớn trẻ
thường hoạt động theo băng nhóm vì đó là thế giới riêng của trẻ mà chúng không tìm thấy khi
ở gia đình. Do đó, đối với trẻ vị thanh niên, gia đình nên quan tâm một cách khoa học, không
nên dùng đòn roi trừng phạt, mà phải dùng lời lẽ tế nhị để giáo dục con cái. Đối với trẻ đã
phạm tội, gia đình nên mở rộng lòng đón nhận trẻ quay trở lại cộng đồng, giúp trẻ lấy lại thăng
bằng và sự tự tin. Đó là phương pháp tốt nhất và có tác dụng nhất.


- Sự thay đổi quá nhanh của xã hội cùng với sự phát triển khai các tệ nạn xã hội:
Sự thay đổi quá nhanh của xã hội khiến trẻ không được kịp thích ứng, tâm lý trẻ trong gia
đoạn vị thành niên thiếu ổn định, xốc nổi nên dẫn đến thái độ sống không đúng đắn, trong khi
đó, người lớn ít quan tâm hơn đến đời sống của con cái mà chạy theo sự chuyển biến của xã
hội. Bên cạnh đó, việc bùng nổ công nghệ thông tin cũng là nguyên nhân dẫn đến tình trạng
phạm tội của trẻ vị thanh niên. Nhiều học sinh, bỏ học vào các điểm truy cập internet chơi các
trò chơi trên mạng thiếu lành mạnh như bạo lực đẩm máu, kích động mạnh lại được phô
trương tràn lan, phù hợp với tâm lý nổi loạn của trẻ vị thành niên. Truy cập những trang web
xấu để xem phim hoặc do tác động của những văn hóa đồi trụy, đó cũng là những nguyên nhân
dẫn đến tinh trạng phạm tội của trẻ vị thành niên. Sự ảnh hưởng của văn hóa đồ trụy, bạo lực
có tác động đến sự hình thành nhân cách của trẻ vị thành niên
- Tâm lý trẻ em giai đoạn vị thành niên: Trẻ vị thành niên có tâm lý thiếu ổn định,
thích độc lập và thích khẳng định mình, điều này dẫn đến thái độ sống không đúng đắn và
những hành vi xấu của trẻ. Trẻ vị thành niên thất bại trong việc xử lý những xung đột với cha
mẹ, với thầy cô, bạn bè trong lớp, trong trường có thể bỏ nhà đi lang thang, có thể bỏ lớp, bỏ
trường gia nhập vào các nhóm bạn xấu… Vì vậy, nếu không kịp uốn nắn trẻ em dễ phạm tội.
Trên cơ sở quán triệt mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả, đánh giá

đúng những nguyên nhân dẫn đến tội phạm ở lứa tuổi vị thành niên có chiều hướng gia tăng
hiện nay, để đề ra những giải pháp phòng ngừa trẻ vị thành niên phạm tội.
Thứ nhất: Do quá trình hình thành nhân cách của người chưa thành niên được bắt đầu từ
gia đình cho nên việc hoàn thiện giáo dục trong gia đình là điều cần thiết trước tiên, thể hiện ở
những việc sau:
- Mọi thành viên trong gia đình phải là tấm gương cho trẻ học tập. Cha, mẹ và các thành
viên trong gia đình phải gương mẫu, không nên làm việc sai trái hoặc vi phạm pháp luật để
cho trẻ vị thành niên bắt chước.
- Thường xuyên quan tâm đến cử chỉ, việc làm của trẻ vị thành niên, không để trẻ nhiễm
những tiêu cực từ ngoài xã hội. Thực tế đã chỉ ra, trong gia đình có biểu hiện tích cực, có trách
nhiệm đầu đủ với con mình, luôn quan tâm kiểm tra các hoạt động của trẻ thì trẻ ít hư hỏng,
ngược lại nếu ít quan tâm, quả lý trẻ thì trẻ dễ pham tội.
- Thường xuyên hướng trẻ vị thành niên tham gia các hoạt động có ích cho xã hội, giáo
dục các trẻ tôn trọng pháp luật, chấp hành pháp luật. Chính những việc làm này sẽ tác động
tích cực đến nhân cách của trẻ.
Thứ hai: Nâng cao trách nhiệm giáo dục trẻ vị thành niên từ nhà trường, thể hiện một số
biện pháp sau:
- Nâng cao chất lượng công tác giáo dục đạo đức cho học sinh, kết hợp giáo dục văn hóa
với giáo dục đạo đức, hướng các em vào các hoạt động lành mạnh. Hướng các em biết tôn
trọng pháp luật.
- Phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình nhằm ngăn ngừa kịp thời những sai
phạm mà trẻ vị thành niên mắc phải.
Thứ ba: Tập hợp những trẻ vị thành niên vào các đoàn thể nhất định để họ nhận thức
được sự giáo dục phẩm chất lý tưởng, đạo đức xã hội chủ nghĩa. Qua đó, giúp trẻ vị thành niên
có điều kiện phấn đấu, rèn luyện xây dựng bản thân hoàn thiện. Tổ chức các hoạt động thể dục
thể thao, văn hóa văn nghệ nhằm nâng cao nhận thức về thẩm mỹ, về cái đẹp.


Thứ tư: Các cơ quan pháp luật tăng cường ngăn chặn kịp thời hành vi vi phạm pháp luật
của trẻ vị thanh niên để có biện pháp xử lý kịp thời.

Giải quyết các tệ nạn xã hội như ma túy, bụi đời, cờ bạc…đang tồn tại trong xã hội để
chúng không ảnh hưởng đến trẻ vị thành niên.
*Vận dụng thực tế:
Với TH này đối với hộ gia đình A, nguyên nhân này giữ vai trò quyết định, còn những
nguyên nhân khác….
Với TH này đối với hộ gia đình A, thì những giải pháp này giữ vai trò quyết định, còn
những giải pháp khác….
Theo tôi, để giải quyết tình trạng tội phạm vị thành niên hiện nay cần tập trung xây dựng
con người về nhân cách, đạo đức, lối sống, chủ yếu là giới trẻ, vị thành niên, tránh lo làm ăn
kinh tế, buông lỏng giáo dục rèn luyện đạo đức, nhân cách, kỹ năng sống. Đồng thời xây dựng
một xã hội nhân ái, công bằng, dân chủ, thương tôn pháp luật, xây dựng môi trường văn bóa,
đạo đức lành mạnh. Gia đình, nhà trường, cộng đồng phải quan tâm giải quyết khẩn trương,
mạnh mẽ với hệ thống giải pháp toàn diện, đồng bộ.
*Chủ đề 2: “Vận dụng ý nghĩa phương pháp luận của cặp phạm trù nguyên nhân
và kết quả để làm rõ thực trạng bạo lực học đường”. (cách làm 2)
Trong một vài thập kỷ gần đây bạo lực học đường là một hiện tượng đang trở thành vấn
đề nghiêm trọng ở nhiều nước, đặc biệt là những nước đang phát triển như Việt Nam ta. Bạo
lực học đường đang trở thành mối lo ngại của ngành giáo dục, cha mẹ học sinh và toàn xã hội.
Nó tác động trực tiếp đến tinh thần, thái độ học tập của học sinh và việc giảng dạy của các
thầy giáo, cô giáo. Bạo lực học đường ở Việt Nam diễn ra không chỉ ở các thành phố lớn mà
còn có ở các vùng nông thôn, không chỉ xảy ra ở học sinh nam mà còn cả học sinh nữ và
dường như xảy ra ở các cấp học. Câu hỏi được đặt ra là: Nguyên nhân từ đâu lại có bạo lực
học đường, hậu quả của bạo lực học đường là như thế nào?
- Khái niệm nguyên nhân và kết quả
- MQH nhân – quả
- Ý nghĩa phương pháp luận
1. Nguyên nhân của hiện tượng bạo lực học đường ở Việt Nam hiện nay
1.1.Nguyên nhân xuất phát từ cá nhân học sinh:
Bạo lực học đường đa phần xảy ra với các em còn đang trong độ tuổi vị thành niên, cơ
thể phát triển mạnh, độ hưng phấn tăng cao và khả năng kiềm chế thì kém. Hơn nữa, các em

đang muốn chứng tỏ bản thân, khẳng định cái TÔI cá nhân cao, nhưng lại không biết thể hiện
bằng cách nào, do đó muốn dùng vũ lực như một cách thể hiện sự vượt trội của mình so với
bạn bè.
1.2. Nguyên nhân xuất phát từ gia đình:
Gia đình là nơi hình thành cho các em nhân cách sống, cách ứng xử văn minh trong xã
hội, ..v..v.. Nhưng khi gia đình không ổn định: cha mẹ ly hôn, ly thân; hoặc cha mẹ có tiền
án,tiền sự, đang ngồi tù; đặc biệt là cha mẹ không quan tâm con cái, bạo lực gia đình xảy ra
thường xuyên…
1.3. Nguyên nhân xuất phát từ nhà trường:


Học sinh bị bạn bè hắt hủi hay bắt nạt, thầy cô và nhà trường không quan tâm đến đời
sống tâm lý, tình cảm của học sinh.
Nhà trường, lớp học thiếu các tấm gương tích cực trong đời sống, thiếu các chương
trình lành mạnh .v..v..
1.4. Nguyên nhân xuất phát từ cộng đồng, xã hội:
Bạo lực ngoài cộng đồng xã hội cũng là “đường link” dẫn tới các hành vi bạo lực của
trẻ em Việt Nam. Với công nghệ thông tin phát triển như vũ bão, trẻ em được tiếp cận với các
trò chơi điện tử và mạng Internet từ khi còn rất nhỏ, từ đó dẫn đến các hiện tượng nghiện game
online, nghiện internet cũng như các trang mạng xã hội, ảnh hưởng từ các trò chơi mang tính
bạo lực cao, các em bất chấp pháp luật, chuẩn mực đạo đức để được thỏa mãn “nhu cầu bạo
lực” thông qua các trò chơi online, rời xa cuộc sống thực tìm đến thế ảo của internet.
2. Hậu quả của hành vi bạo lực học đường
2.1. Hậu quả đối với học sinh:
Về mặt thể xác: Các em có thể gặp các chấn thương trên cơ thể, nhiều hành vi bạo lực
đã gây ra án mạng, làm mất đi vĩnh viễn cơ hội được sống, được học tập của chính mình và
bạn bè mình.
Về mặt tinh thần: Các em tham gia vào các hành vi bạo lực học đường, dần dần mất tự
tin khi đến trường, trở nên lầm lì, ít nói, luôn ở trong trạng thái lo lắng, việc ăn ngủ cũng gặp
khó khăn, cơ thể suy nhược. Có em trở nên trầm cảm, tự ti, lo sợ và có những trường hợp đã

tìm đến cái chết để giải thoát chính mình.
Về học tập: Lơ là học tập, kết quả học tập sa sút, có những trường học bỏ học thường
xuyên hoặc bỏ học vĩnh viễn.
2.2.Hậu quả đến với gia đình – nhà trường – xã hội
Với gia đình: Cha mẹ, người thân gặp khó khăn trong việc hiểu con em mình, không
biết nguyên nhân vì sao mà con em mình khác bình thường. Từ đó thường đưa ra những cách
thức tìm hiểu làm tổn thương các em, tình cảm, hòa khí trong gia đình bị rạn nứt.
Với nhà trường – xã hội: Hành vi bạo lực học đường làm cho hoạt động giáo dục của
nhà trường bị ảnh hưởng nghiêm trọng, thay vì tổ chức các hoạt động giáo dục đầy ý nghĩa thì
nhà trường phải tổ chức các Hội đồng kỷ luật, các cuộc họp phụ huynh và học sinh để giải
quyết các hệ quả của các em. Thầy cô, bạn bè lo lắng, mất tinh thần học tập, tình đoàn kết,
giúp đỡ lẫn nhau bị rạn nứt. Bạo lực học đường giống như những hồi chuông cảnh báo cho
toàn xã hội về một bộ phận thế hệ trẻ đang “lệch lạc” giữa ngã ba đường của tuổi mới lớn, nó
ảnh hưởng nghiêm trọng tới trật tự an toàn xã hội, đặc biệt là với thanh thiếu niên – lực lượng
nòng cốt và thiết yếu của tương lai quốc gia.
3. Kết luận
Thực trạng hiện tượng bạo lực học đường ở Việt Nam những năm gần gây diễn ra phức
tạp với đối tượng tham gia trực tiếp vào các vụ việc chủ yếu là học sinh với học sinh, bao gồm
cả học sinh nữ và học sinh nam, tập trung ở cấp học THCS và THPT, diễn ra cả ở các thành
phố lớn và các khu vực nông thôn. Nguyên nhân của hiện tượng này xuất từ bản thân học sinh,
từ nhà trường, gia đình và cộng đồng xã hội, hậu quả để lại nặng nề nhất là đối với những học
sinh trưc tiếp tham gia vào hành vi bạo lực học đường, bên cạnh đó nó cũng tác động tiêu cực
đến gia đình, nhà trường và xã hội.


Trên cơ sở của mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả, rút kinh
nghiệm từ những sai lầm đã mắc phải, đề ra phương hướng, biện pháp khắc phục, nhằm từng
bước sửa chữa những sai lầm trong việc giáo dục thế hệ trẻ của nước ta hiện nay. Việc nhận
thức đúng về mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả, xác định được mức độ vai
trò của những nguyên nhân ấy đối với những hậu quả mà nền giáo dục của Việt Nam ta còn

mắc phải, để có biện pháp khắc phục, những tác động thích hợp nhằm đạt được mục tiêu mong
muốn là xóa bỏ bạo lực học đường và có một nền giáo dục tốt nhất.
*Chủ đề 3: Vận dụng cặp phạm trù nguyên nhân – kết quả để làm rõ đối tượng bị
bạo lực gia đình. (nt)
- Kn Nn và KQ.
- KN bạo lực gia đình: Bạo hành gia đình là một dạng thức của bạo lực xã hội, là
“hành vi cố ý của các thành viên gia đình gây tổn hại hoặc đe dọa gây tổn hại… với các thành
viên khác trong gia đình” (Điều 1, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình).
- Nguyên nhân của bạo lực gia đình:
+ do phong tục, tập quán, truyền thống, do giao thoa văn hóa giữa phương đông và
phương tây, tính gia trưởng.
+ do chồng sau rượu, cờ bạc, nghiện hút đánh đập vợ, đòi tiền để thỏa mản cơn nghiện
hoặc do căng thẳng, thần kinh không ổn định, thất vọng trong cuộc sống.
+ Nguyên nhân sâu xa nhất là nhận thức về bình đẳng giới còn hạn chế, cụ thể: nhiều
ông chồng cho mình quyền được đánh vợ, coi đánh vợ như là một sự “giáo dục”, thể hiện
quyền lực của “bề trên” đối với “kẻ dưới”.
+ Đừng nhìn một chiều (xuất phát từ người phụ nữ…..)
+ Nguyên nhân bạo lực gia đình cũng k hoàn toàn do KQ bên ngoài tác động mà còn
xuất phát từ CQ của những người bị hại. (từ hai phía vợ chồng)
+ Do tự ti mặc cảm, điều kiện kinh tế khó khăn, từ sự quản lý của nhà nước như luật
pháp chưa nghiêm, chưa răn đe, còn kẻ hở…
+ Do những nguyên nhân khác: mâu thuẩn gia đình.: nuôi dạy con cái, tình dục có thể
là nguyên nhân dẫn đến bạo lực nhưng k phải là nguyên nhân trực tiếp và người chồng phải
tìm những lý do “hợp lý” khác như làm trái ý chồng để có thể đánh đập, chửi mắng vợ.
+ Trình độ văn hóa thấp, tình trạng kém hiểu biết về pháp luật hay tư tưởng trọng nam
khinh nữ còn quá nặng nề…mà bản thân những người trong cuộc cũng chưa nhận thức được.
- Kết quả của BLGĐ: BLGĐ dù nặng hay nhẹ đều cũng để lại hậu quả nhất định. Phụ
nữ là nạn nhân chính của nạn bạo lực.
+ Đe dọa đến cuộc sống hiện tại của những người bị hậu quả BLGĐ, những hậu quả về
mặt kinh tế: chi phí chăm sóc và phục hồi sức khỏe cho nạn nhân; chi phí điều tra truy tố, xét

xử cùng nhiều chi phí gián tiếp khác dẫn đến tình trạng bệnh tật, mất khả năng lao động. Tác
động xấu đến cuộc sống hôn nhân.
+ Ngoài những hậu quả về mặt kinh tế, BLGĐ còn để lại hậu quả về mặt tinh thần:
bệnh trầm cảm, hoảng loạn, sợ tiếp xúc dẫn đến có thể tự sát, mà nguyên nhân này luôn để lại
hậu quả nặng nề nhất.


+ BLGĐ không những làm mất giá trị truyền thống mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến
những thế hệ tương lai. VD: như con cái đã lặp lại hành vi BLGĐ mà khi còn nhỏ chúng đã
chứng kiến.
+ Gánh nặng cho hệ thống giáo dục, gánh nặng lên các cơ quan tư pháp.
- Giáp pháp chống BLGĐ:
+ Phải nâng cao nhận thức về giới, bình đẳng giới cho người dân để cả nam và nữ đều
nhận thức được vị trí, vai trò và trách nhiệm của mình trong XH.
+ Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng, chống BLGĐ. Đặc biệt, cần có
hình thức trừng trị nghiêm khắc đối với những kẻ gây bạo lực đối với phụ nữ.
+ Ngăn ngữa tệ nạn XH
+ Phát triển KT, nâng cao đời sống v/c
+ Nâng cao trình độ nhận thức
+ Phát huy vai trò của đoàn thể - 9 trị XH trong tuyên truyền, giáo dục, vận động….
+ Xây dựng mô hình phòng chống bạo lực gia đình ở địa phương, làm cho mỗi gia đình
hiểu rõ vai trò, trách nhiệm của mình để xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc, bền vững; nêu
cao truyền thống yêu thương trong gia đình VN.
+ Cần có sự cạn thiệp của cộng đồng và pháp luật, nếu gia đình thật sự tan vỡ thì ly
hôn là biện pháp tốt nhất.
- Kết luận:
Từ những vấn đề trên, chúng ta cần có cái nhìn một cách đúng đắn và có những biện
pháp khắc phục một cách sáng suốt, hiệu quả. Góp phần xây dựng những giá trị đạo đức, nhân
cách, giữ gìn và phát triển XH ngày càng giàu đẹp hơn về mọi mặt. Bảo vệ phụ nữ - nạn nhân
chính của BLGĐ không còn là trách nhiệm của riêng ai mà là trách nhiệm của toàn XH.

- Liên hệ thực tế:
Mỗi năm trên địa bàn tỉnh Hậu Giang xảy ra khoảng từ 40 đến 50 vụ bạo lực gia đình.
Trong đó nguyên nhân chủ yếu là do áp lực kinh tế của gia đình, nhận thức pháp luật chưa cao,
hụt hẫng về tinh thần, say rượu… dẫn đến bạo lực. Bên cạnh đó, do người vợ cam chịu, sợ ảnh
hưởng uy tín gia đình, con cái hay vấn đề phụ thuộc về kinh tế của người vợ đối với chồng nên
cũng dẫn đến tình trạng này. Đến khi không chịu được nữa thì mọi chuyện cũng đã rồi.
Chỉ vì trong cơn nóng giận mà người chồng không làm chủ được bản thân mình, gây
nên hậu quả đau lòng, làm tình cảm vợ chồng mất đi. Dù trong hoàn cảnh nào đi nữa, thì cuối
cùng, nạn nhân, người thiệt thòi nhất vẫn chính là người vợ.
Chủ đề 4: phân tích đói nghèo
*Nguyên nhân của đói nghèo ở Việt Nam
Ở Việt nam nguyên nhân chính gây ra đói nghèo có thể phân theo 3 nhóm:
-Nhóm nguyên nhân điều kiện tự nhiên: khí hậu khắc nghiệt, thiên tai, bão lụt, hạn hán,
sâu bệnh, đất đai cằn cỗi, địa hình phức tạp, giao thông khó khăn đã và đang kìm hãm sản
xuất, gây ra tình trạng đói nghèo cho cả một vùng, khu vực.


- Nhóm nguyên nhân chủ quan của người nghèo: thiếu kiến thức làm ăn, thiếu vốn,
đông con, thiếu lao động, không có việc làm, mắc các tệ nạn xã hội, lười lao động, ốm đau, rủi
ro...
- Nhóm các nguyên nhân thuộc về cơ chế chính sách: Thiếu hoặc không đồng bộ về
chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các khu vực khó khăn, chính sách khuyến khích
sản xuất, vốn tín dụng, hướng dẫn cách làm ăn, khuyến nông,lâm, ngư,chính sách trong giáo
dục đào tạo, ytế, giải quyết đất đai, định canh định cư, kinh tế mới và nguồn lực đầu tư còn
hạn chế.
*Hậu quả của cái nghèo:
- Bần cùng sinh đạo tặc. Vì nghèo nên sống chui rúc, thiếu vệ sinh từ đó đẻ ra bệnh tật.
Vì thiếu dinh dưỡng nên thân thể gầy còm, nhỏ thó, tính tình cau có, ăn nói thô lỗ tục tằn, dễ
nóng giận. Vì nghèo nên thường hay gây gổ, cãi lộn, mắng chửi nhau sinh ra bạo hành, ly dị.
Nếu nghèo biến thành đói thì không chuyện gì không dám làm… từ cắp vặt, gian dối, lừa đảo,

buôn gian bán lận…cho đến cướp của giết người chỉ trong gang tấc. Cái tệ hại hơn nữa là từ
nghèo mà thành túng. Từ túng thiếu sinh ra trộm cắp và nhất là phá hại của công. Tất cả các
hành vi phá rừng, phá núi, xâm phạm các nơi bảo tồn sinh thái, săn bắt trái phép thú hiếm quý,
vào chùa ăn trộm chuông đồng, tượng Phật… đều xuất phát từ căn bệnh nghèo đói mà ra.
- Cái nguy hiểm nhất của bệnh nghèo là con cái thất học hay bỏ học. Vì thất học cho
nên không công ăn việc làm từ đó các em trở thành miếng mồi ngon cho các băng đảng và các
trùm buôn lậu ma túy.
- Nghèo quá không nuôi nổi cha mẹ già, đành cam tội bất hiếu. Nghèo quá khiến bán
con hoặc đem con bỏ chợ, bỏ chùa hay quăng vào đống rác khiến gây cảnh thương tâm và tạo
thêm gáng nặng cho xã hội.
- Nghèo quá bỏ làng, bỏ xứ ra đi, lang thang khắp thành phố để kiếm sống, gây khó
khăn cho vấn đề gia cư, y tế và đời sống xã hội và tạo nên một hình ảnh rất xấu cho đất nước.
- Nghèo quá đành phải lấy chồng Đài Loan, Đại Hàn dù là khuyết tật để cải tiến thân
phận và có chút tiền nuôi cha mẹ, rồi thì bị hành hạ, ngược đãi hay ép làm nô lệ tình dục,
chẳng còn danh dự, phẩm giá gì nữa, khiến thế giới phải nhọc tâm can thiệp. Nhưng can thiệp
sao cho thấu?
- Nghèo thì thường đi đôi với hèn. Người đời thường nói “nghèo hèn” và bị người ta
khinh khi. Cùng là công dân với đầy đủ quyền hạn ghi trong hiến pháp nhưng tiếng nói của
người nghèo như tiếng kêu trong sa mạc, chẳng ai buồn nghe, trong khi tiếng nói của tài phiệt
thì “có gang có thép”, bởi vì “Tay mang túi bạc kè kè. Nói khuếch nói khoác người nghe ầm
ầm”. Khi đất nước có chiến tranh, thường con nhà giàu, hoặc có thế lực, trốn quân dịch bằng
cách du học để con nhà nghèo chết thế trên chiến trường… từ đó gây bất công rồi bất mãn rồi
đi tới bạo loạn.
*Giải pháp:
Thứ nhất, các bộ, ngành, địa phương phải nâng cao nhận thức về ý nghĩa và tầm quan
trọng của công tác giảm nghèo trong thực hiện mục tiêu phát triển bền vững của đất nước; phải
coi công tác giảm nghèo là nhiệm vụ chính trị trọng tâm, là một tiêu chí đánh giá hoàn thành
nhiệm vụ của cấp ủy, chính quyền.
Thứ hai, tập trung rà soát chính sách để loại bỏ những điểm không còn phù hợp và bổ
sung những chính sách mới, phù hợp. Các chính sách sửa đổi, bổ sung phải hướng vào hỗ trợ



hộ nghèo, hỗ trợ vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số theo
hướng hỗ trợ sản xuất và hỗ trợ tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.
Hỗ trợ sản xuất tập trung vào hỗ trợ trồng cây lương thực, cây công nghiệp, cây ăn quả,
chăn nuôi gia súc; giao đất, giao rừng cho người dân gắn với phát triển và bảo vệ rừng, điều
chỉnh các chính sách về giữ rừng, bảo vệ rừng; hỗ trợ lương thực, giống, khuyến nông, đào tạo
nghề, lãi suất cho vay phát triển sản xuất; hỗ trợ cho doanh nghiệp đầu tư vào địa bàn khó
khăn và thu hút lao động tại chỗ gắn với hỗ trợ đào tạo nghề thông qua doanh nghiệp.
Hỗ trợ các dịch vụ xã hội cơ bản như nhà ở, nước sạch, bảo hiểm y tế, giáo dục, tiếp
cận thông tin, đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội.
Thứ ba, huy động các nguồn lực cho công tác giảm nghèo và thực hiện lồng ghép, sử
dụng hiệu quả các nguồn lực. Cùng với nguồn đầu tư từ ngân sách, cần huy động và sử dụng
hiệu quả các nguồn lực của các tổ chức chính trị - xã hội, doanh nghiệp, cộng đồng; khuyến
khích sự nỗ lực của người nghèo, hộ nghèo.
Ngân hàng Chính sách xã hội tăng thêm dư nợ tín dụng người nghèo so với chỉ tiêu
10% hiện nay để tăng mức hỗ trợ và mở rộng đối tượng hộ nghèo được hỗ trợ tín dụng chính
sách; bảo đảm mục tiêu thoát nghèo bền vững.
Thứ tư, Ban Chỉ đạo Trung ương về giảm nghèo bền vững giai đoạn 2011-2020 tổng
kết, đánh giá chương trình giảm nghèo giai đoạn 2011-2015 và xây dựng Chương trình giảm
nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020 với những tiêu chuẩn, tiêu chí cao hơn, gắn với việc xây
dựng, ban hành và thực hiện chuẩn nghèo mới. Khẩn trương hoàn thiện dự thảo Nghị định về
chính sách bảo vệ và phát triển rừng gắn với chính sách xóa đói, giảm nghèo và hỗ trợ đồng
bào dân tộc trong thời gian tới.
- Sửa chửa, nâng cấp, mở rộng hệ thống giao thông vận tải.
- Khi đời sống của người dân được cải thiện thì khả năng chăm lo cho sức khỏe, điều
kiện cho con em đến trường, ý thức sẽ được năng cao.
- Cải cách tình trạng giáo dục nhằm hướng tới người nghèo.
- Tranh thủ nguồn viện trợ của các tổ chức và doanh nghiệp trong và ngoài nước.
- Cho học sinh nghèo vai tiền đi học, tăng lương và phụ cấp khi dạy ở vùng sâu.

- Chính sách xóa đói giảm nghèo
- Xây dựng nông thôn mới
- Mở các lớp dạy nghề phù hợp với từng vùng.
- Về sức khỏe, y tế: tặng thẻ bảo hiểm cho người nghèo, tăng cường và nâng cao chất
lượng y tế về địa phương, đưa cán bộ y tế về phục vụ tại địa phương.
- Giáo dục tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân.

Câu 3: Tư tưởng của Mác-Angghen về thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNCS và tư tưởng
của Lênin về thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH?
* Tư tưởng của Mác-Angghen về thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNCS:


- CNTB tất yếu sẽ được thay thế bằng chế độ kinh tế - XH mới cao hơn:
+ CNTB là chế độ KT-XH tiến bộ hơn nhiều so với các chế độ KT-XH trước đó và nhờ vận
dụng các quy luật của kinh tế thị trường CNTB đã tạo ra rất nhiều của cải vật chất cho XH, có vai trò
to lớn trong việc nâng cao năng suất lao động xã hội, thúc đẩy nhanh chóng sự phát triển KT-XH.
+ Song song với những thành tựu mà CNTB đạt được thì CNTB vẫn là chế độ bất công, thể
hiện: Phân hóa giàu nghèo sâu sắc (nhất là ở nước phát triển); khoảng cách giữa nước giàu và nước
nghèo (giữa các khu vực trên thế giới như: Châu Phi-Mỹ); Khủng hoảng kinh tế (2 lần: 1929-1933;
2008); Chiến tranh thế giới (2 lần).
+ Quá trình phát triển của CNTB, những tiến bộ về kinh tế chủ yếu được sử dụng để phục vụ
lợi ích của giai cấp tư sản chứ không phải phục vụ lợi ích của LLSX chủ yếu của xã hội là giai cấp
công nhân làm thuê, do đó, CNTB càng phát triển thì mâu thuẫn nội tại của nó càng trở nên sâu sắc, xu
thế xã hội hóa sản xuất càng trở nên không thể chịu đựng nổi trong vỏ bọc của sở hữu tư nhân TBCN
cho nên CNTB tất yếu phải được thay thế bằng chế độ KT-XH mới.
- Giữa CNTB và CNCS là thời kỳ quá độ lâu dài:
CNCS là chế độ KT-XH cao hơn CNTB nên sẽ thay thế CNTB, song không thể thay thế toàn
bộ CNTB ngay lập tức được mà phải có thời gian và trải qua 2 giai đoạn với thời kỳ lịch sử đặc biệt là
thời kỳ quá độ:
+ Giai đoạn thấp: còn tồn tại Nhà nước và phân phối theo lao động.

+ Giai đoạn cao: Nhà nước tự tiêu vong và phân phối theo nhu cầu.
+ Thời kỳ quá độ: Giữa XH TBCN và XH CSCN là một thời kỳ cải biến cách mạng XH nọ
sang XH kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một TKQĐ chính trị và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là
gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản.
- Khả năng quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN:
Khi nghiên cứu về CNCS với tư cách là chế độ KT-XH cao hơn CNTB, Mác-Angghen đã cho
rằng CNCS phải thắng lợi trên toàn thế giới và trong dự báo của mình Mác-Angghen đã nêu luận điểm
về khả năng quá độ lên XHCS từ những nước đang ở giai đoạn phát triển tiền TBCN.
Tuy nhiên, chưa đề cập tới nội dung và những nhiệm vụ cụ thể của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa cộng sản tại các nước có trình độ phát triển thấp.
→liên hệ thực tế ở VN: phát triển LLSX thông qua CNH-HĐH nền kinh tế quốc dân; xây
dựng QHSX mới, nền văn hóa mới; mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, ứng dụng KHCN
vào phát triển nền kinh tế của nước ta. Cải tạo nền kinh tế củ, xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng
là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài.
* Tư tưởng của Lênin về thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH:
- Tính tất yếu khách quan và đặc điểm của thời kỳ quá độ lên CNXH:
Theo Lenin: TKQĐ lên CNXH là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để, toàn diện từ XH
cũ sang XH mới - XH XHCN.
Đồng thời, TKQĐ được bắt đầu khi: CMVS thắng lợi, gcvs giành được chính quyền, bắt tay
vào việc xây dựng XH mới và kết thúc khi: xây dựng thành công cơ sở của XH XHCN về vật chất –
kỹ thuật, kinh tế, văn hóa, XH.
Kế thừa quan điểm của Mác-Angghen về thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNCS, Lênin đã khẳng
định tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên CNCS giai đoạn thấp – CNXH và còn chỉ ra đặc
điểm nổi bật nhất của thời kỳ này.
+ Tính tất yếu khách quan:
. Do đặc điểm của phương thức sản xuất CSCN quyết định.
. Do bản chất của cuộc cách mạng XHCN.
. Công cuộc xây dựng CNXH là 01 công việc mới mẻ, khó khăn và phức tạp.



+ Đặc điểm:
. Về kinh tế: Sự tồn tại nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.
. Về chính trị - XH: tồn tại nền chuyên chính vô sản. Chuyên chính vô sản là sự chuyên chính
của giai cấp vô sản để bảo vệ quyền lợi cho giai cấp vô sản và quần chúng lao động. Và trong TKQĐ
lên CNXH chuyên chính vô sản có 4 nhiệm vụ: (Đập tan sự phản kháng của kẻ thù; Cải tạo và xây
dựng XH mới; Xây dựng và củng cố quốc phòng; Ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc của các nước
trên thế giới).
TKQĐ lên CNCS là tất yếu khách quan nhưng quá độ ở giai đoạn thấp là CNXH và việc quá
độ lên CNXH là thời kỳ vô cùng khó khăn, phức tạp và có thể rất lâu dài không thể đạt ngay tức khắc
được.
- Tính quy luật chung và đặc thù của thời kỳ quá độ lên CNXH:
+ TKQĐ lên CNXH không những tuân theo tính quy luật chung mà còn tuân theo tính đặc thù
theo sự phát triển của từng dân tộc, từng quốc gia. Trong đó, tính quy luật chung được thể hiện ở chỗ
là tồn tại nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần (trong đó tồn tại 3 thành phần kinh tế cơ bản gồm:
CNTB tư nhân, SX hàng hóa nhỏ, CNCS); tính quy luật riêng thể hiện ở chỗ tùy vào từng điều kiện
phát triển của mỗi quốc gia sẽ có thêm một hoặc 1 số thành phần kinh tế khác (Nga:có thêm: KT nông
dân kiểu gia trưởng, CNTB Nhà nước).
+ Lênin chỉ rõ: “Vậy thì danh từ quá độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế, có phải nó có
nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận, những mãnh của chủ nghĩa tư
bản và chủ nghĩa xã hội không? Bất cứ ai cũng đều thừa nhận là có. Đồng thời, Lenin đã nêu: Những
hình thức cơ bản ấy của nền kinh tế xã hội là: chủ nghĩa tư bản, tiểu sản xuất hàng hóa, chủ nghĩa cộng
sản”.
Từ đó, để tận dụng cơ hội phát triển không được vận dụng máy móc tính quy luật chung mà
phải kết hợp vận dụng sáng tạo những tính quy luật chung vào hoàn cảnh đặc thù của từng dân tộc
trong quá trình đi lên CNXH.
- Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN:
Kế thừa chủ nghĩa Mác và trên cơ sở kết quả nghiên cứu về CNTB, Lenin đã phát triển sáng
tạo lý luận cách mạng XHCN của chủ nghĩa Mác và khẳng định rằng cách mạng vô sản có thể thắng
lợi đầu tiên ở một nước. Từ đó, Lenin khẳng định các dân tộc lạc hậu có thể đi lên CNXH mà không
phải chờ tới khi CNTB phát triển.

Đồng thời, Lenin đã chỉ ra những điều kiện bên ngoài, những điều kiện bên trong để quá độ lên
CNXH bỏ qua chế độ TBCN đối với các dân tộc lạc hậu:
+ ĐK bên ngoài: Sự ủng hộ kịp thời của cách mạng XHCN ở 01 số nước tiên tiến (Hiện nay,
thông qua hợp tác, đầu tư, tiếp thu vốn, KHKT, kinh nghiệm,…)
+ ĐK bên trong: Sự thống trị của gcvs ở trong nước và có sự liên minh giữa gcvs với đại đa số
nông dân.
Qua 2 quan điểm trên cho thấy từ CNTB lên CNCS phải trải qua 1 thời kỳ quá độ và 2 giai
đoạn (giai đoạn đầu/giai đoạn thấp: CNXH; giai đoạn cao: CNCS). Trong đó, quan điểm Mác-Ăng
ghen thì quá độ lên CSCN; còn Lenin thì quá độ lên CSCN giai đoạn thấp là CNXH.


Câu 4: Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư? Liên hệ thực tiễn chứng minh?
Mở bài:
Sản xuất tư bản chủ nghĩa trước hết là quá trình lao động, thể hiện sự kết hợp giữa các
yếu tố sản xuất là sức lao động và tư liệu sản xuất để tạo ra giá trị sử dụng. Tư liệu sản xuất
bao gồm đối tượng lao động và tư liệu lao động. Đồng thời đó cũng là quá trình sản xuất giá trị
và đặc biệt là làm tăng giá trị. Sản xuất tư bản chủ nghĩa mang hai đặc điểm cơ bản là người
công nhân phải làm việc dưới sự kiểm soát của nhà tư bản và toàn bộ sản phẩm làm ra thuộc
về nhà tư bản.
Thân bài:
Giá trị thặng dư là bộ phận giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động, do công nhân
làm thuê tạo ra và thuộc về nhà tư bản. Giá trị thặng dư là lao động không công của công nhân
làm thuê, thể hiện bản chất bốc lột của quan hệ sản xuất TBCN.
Tỷ suất giá trị thặng dư được tính theo công thức: m/= t//t x 100%
Để bốc lột giá trị thặng dư, nhà tư bản thường sử dụng hai phương pháp sau:
Một là, phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.
Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được bằng cách kéo dài ngày lao
động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất lao động, thời gian lao động tất
yếu và giá trị sức lao động không đổi.
Ví dụ: ngày lao động có độ dài 8 giờ, thời gian lao động tất yếu là 4 giờ, thời gian lao

động thặng dư là 4 giờ, giá trị thặng dư tuyệt đối được tạo ra trong thời gian lao động thặng
dư là 4 giờ, tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là 100%. Nếu ngày lao động kéo dài thành 10 giờ,
trong khi năng suất lao động không đổi, thời gian lao động tất yếu và giá trị sức lao động
không đổi, giá trị thặng dư tuyệt đối được tạo ra trong thời gian lao động thặng dư là 6 giờ và
tỷ suất giá trị thặng dư sẽ tăng lên thành 150%.
Để có được giá trị thặng dư tuyệt đối có thể sử dụng các biện pháp như kéo dài ngày lao
động vượt quá thời gian lao động tất yếu càng dài càng tốt, hoặc tăng cường độ lao động. Do
đó, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối bị giới hạn bởi thời gian trong ngày và tình hình sức
khoẻ, tâm lý của người công nhân. Việc áp dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt
đối thường gây ra sự phản kháng của công nhân làm thuê.
*Ý nghĩa:
- Thấy được cách thức mà nhà tư bản bóc lột người công nhân, bóc lột NLĐ ntn, cụ thể
là bằng cách kèo dài ngày lao động, tăng cường độ lao động làm hao phí về thể chất, tinh thần
của NLĐ.
- Có ý nghĩa trong quá trình tổ chức quản lý SX đối với nền kinh tế của chúng ta (nền
KT còn thấp, lạc hậu)→ cần ứng dụng p2 GTTD để nâng cao đời sống v/c tinh thần của chúng
ta tốt hơn.
*Liên hệ: người nông dân cũng có GTTD, tất cả sản phẩm làm ra đều thuộc về nhà
TB→ quan hệ bóc lột giữa người với người. Ai sở hữu TLSX thì là chủ sở hữu của sản phẩm,
mình có nhiều TLSX thì càng nhiều giá trị, nhiều sản phẩm. Việc nghiên cứu này có ý nghĩa
đối với việc phát triển KT. Hiện nay, vẫn còn tồn tại bóc lột GTTD, vấn đề sẽ chia cho ai công
bằng hợp lý để k có GTTD. Vấn đề này đảng ta cho rằng, trong TKQĐ lên CNXH còn nhiều
thành phần kinh tế (nhà nước, tập thể, tư nhân, KT có vốn đầu tư nước ngoài) → sẽ có cách
thức khác nhau về sở hữu TLSX. Vì thế cần có cách phân chia hợp lý tùy vào chức năng
nhiệm vụ thì sẽ không có bóc lột GTTD nữa.
Hai là, phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối.


Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được bằng cách rút ngắn thời gian
lao động tất yếu, nhờ đó kéo dài thời gian lao động thặng dư, trong khi ngày lao động có thể

không đổi hoặc thậm chí rút ngắn.
Ví dụ: ngày lao động có độ dài 8 giờ, thời gian lao động tất yếu là 4 giờ, thời gian lao
động thặng dư là 4 giờ, giá trị thặng dư tuyệt đối được tạo ra trong thời gian lao động thặng
dư là 4 giờ, tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là 100%. Nếu ngày lao động không đổi, thời gian lao
động tất yếu giảm xuống còn 3 giờ, thì tỷ suất giá trị thặng dư sẽ tăng lên thành 167%. Nếu
ngày lao động rút ngắn còn 7 giờ, thời gia lao động tất yếu giảm xuống còn 2 giờ, thì tỷ suất
giá trị thặng dư sẽ tăng lên thành 250%.
Để thu được giá trị thặng dư tương đối, cần rút ngắn thời gia lao động tất yếu. Để rút
ngắn thời gian lao động tất yếu cần phải hạ thấp giá trị sức lao động. Mà muốn hạ thấp giá trị
sức lao động thì phải tìm cách hạ giá trị tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất sức lao động
thông qua các biện pháp tăng năng suất lao động trong những ngành sản xuất tư liệu sản xuất
để sản xuất tư liệu sinh hoạt và trong những ngành sản xuất tư liệu sinh hoạt.
Quá trình tăng năng suất lao động diễn ra trong thực tế trước hết ở một hoặc một số
doanh nghiệp.
Những doanh nghiệp đi đầu trong việc ứng dụng công nghệ mới, cải tiến quản lý hay
tận dụng được những điều kiện sản xuất thuận lợi sẽ tăng năng suất lao động cá biệt, giảm giá
trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị thị trường, từ đó sẽ thu được một số giá trị thặng dư
vượt trội so với các doanh nghiệp khác. Phần giá trị thặng dư trội hơn đó là giá trị thặng dư
siêu ngạch.
Đối vời từng doanh nghiệp, giá trị thặng dư siêu ngạch là một hiện tượng tạm thời, xuất
hiện rồi mất đi, nhưng xét toàn bộ xã hội tư bản, thì giá trị thặng dư siêu ngạch lại là hiện
tượng tồn tại thường xuyên; nó có thể mất đi chỗ này, lúc này nhưng lại xuất hiện chỗ khác,
lúc khác. Giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực mạnh nhất thúc đẩy các nhà tư bản ra sức cải
tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động.
Hoạt động riêng lẽ đó của từng nhà tư bản đã dẫn đến kết quả làm tăng năng xuất lao
động xã hội, hình thành giá trị thặng dư tương đối, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Trong thực tiễn lịch sử, để thu được giá trị thặng dư tương đối, giai cấp các nhà tư bản
đã thực hiện ba cuộc cách mạng nhằm không ngừng nâng cao năng suất lao động:
Thứ nhất, cách mạng về tổ chức quản lý lao động thông qua hiệp tác lao động giản đơn
tư bản chủ nghĩa, trong đó hoạt động lao động của một số công nhân làm thuê để sản xuất

cùng một loại hàng hoá diễn ra trong cùng một thời gian trên cùng một địa điểm dưới sự điều
khiển của cùng một nhà tư bản.
Thứ hai, cách mạng về sức lao động, thông qua phân công trong công trường thủ công.
Thứ ba, cách mạng về công cụ lao động thông qua cách mạng công nghiệp với kết quả
là sự hình thành cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản – nền đại công nghiệp cơ khí.
Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại đã trực tiếp làm tăng năng
suất lao động xã hội, làm giảm giá trị sức lao động, do đó phương pháp sản xuất giá trị thặng
dư tương đối trở thành phương pháp chủ yếu trong việc tăng giá trị thặng dư cho nhà tư bản.
*ý nghĩa:
- Thấy được cách thức bóc lột GTTD của nhà tư bản đ/v NLĐ ntn.
- Nghiên cứu KH, cải tiến CCLĐ, đào tạo trình độ LĐ để thích ứng với trình độ LLSX
đó. Nâng cao chất lượng nguồn lao động trong nước.
- Nắm được phương pháp sản xuất GTTD giúp nhà nước đưa ra các biện pháp bảo vệ
chính đáng của NLĐ bằng luật và các chế tài cụ thể.


*Liên hệ: Quá trình sản xuất và tái sản xuất XH gắn chặt với quan hệ hàng hóa – tiền
tệ, quan hệ cung – cầu…Nguồn lao động VN dồi dào, trẻ, có trình độ học vấn nhưng thiếu kỷ
năng và tay nghề. Nhà nước quy định mức lương tối thiểu và thời gian làm việc chung áp dụng
cho tất cả các doanh nghiệp tại VN. Với việc sử dụng lao động ngoài giờ quy định, nhà nước
quy định người sử dụng lao động phải trả lương ngoài giờ cho công nhân. KHCN không
ngừng được áp dụng vào sản xuất, quản lý kinh doanh nhằm nâng cao năng suất lao động.
Kết luận:
Sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Nội dung của
quy luật là tạo ra ngày càng nhiều giá trị thặng dư cho nhà tư bản bằng cách tăng cường các
phương tiện kỹ thuật và quản lý để bóc lột ngày càng nhiều lao động làm thuê. Quy luật giá trị
thặng dư có tác dụng mạnh mẽ trong nhiều mặt của đời sống xã hội. Một mặt, nó thúc đẩy kỹ
thuật và phân công lao động xã hội phát triển, làm cho lực lượng sản xuất trong xã hội tư bản
chủ nghĩa phát triển với tốc độ nhanh và nâng cao năng suất lao động. Mặt khác, nó làm cho
các mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản, trước hết là mâu thuẫn cơ bản của nó → mâu

thuẫn giữa tính chất xã hội của sản xuất với sự chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu
sản xuất - ngày càng gay gắt.
Mục đích chung của mọi nhà tư bản cũng như của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đều là
sản xuất giá trị thặng dư tối đa. Nó không chỉ phản ánh mục đích của nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa mà còn vạch rõ phương tiện, thủ đoạn mà các nhà tư bản sử dụng để đạt được mục đích,
đặc biệt là thông qua nghiên cứu về các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư. Bởi vậy, nó có
tính thực tiễn sâu sắc.
*So sánh 2 phương pháp sản xuất giá trị thặng dư:
- Giống nhau:
+ Đều là cách mà nhà tư bản sử dụng để bóc lột công nhân để tạo giá trị thặng dư.
+ Đều dựa trên cơ sở thời gian lao động thặng dư được kéo dài.
+ Đòi hỏi độ dài ngày lao động nhất định, cường độ lao động và năng suất lao động
nhất định.
+ Các khái niệm GTTD, thời gian lao động tất yếu, thời gian lao lao động thặng dư, tỷ
suất GTTD, Tư bản khả biến, Tư bản bất biến đều có ý nghĩa giống nhau.
- Khác nhau:
GTTD tuyệt đối

GTTD tươngt đối

- Kéo dài t/g làm việc trong ngày

- T/g làm việc trong ngày không đổi

- T/g lao động tất yếu không đổi

- Giảm t/g lao động tất yếu.

- Năng suất lao động k đổi


- Năng suất lao động nâng cao lên

- Giá trị sức lao động k đổi.

- Giá trị sức lao động giảm xuống

- Áp dụng thời kỳ đấu của CNTB, lúc KHKT - Áp dụng trong giai đoạn CNTB phát triển
chưa phát triển.
cao, KHKT phát triển cao.


Câu 5: Phân tích làm rõ vai trò bộ tham mưu của Đảng cộng sản cho giai cấp công
nhân? Liên hệ thực tế ở ĐCSVN hiện nay?
Giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử là một sự thật khách quan nhưng muốn cho sứ
mệnh lịch sử đó trở thành hiện thực thì phải thông qua vai trò của nhân tố chủ quan, đặc biệt
là vai trò của Đảng Cộng sản.
Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với
quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất
có tính chất xã hội hóa ngày càng cao; là lực lượng lao động cơ bản tiên tiến trong các quy
trình công nghệ, dịch vụ công nghiệp, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất,
tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; đại biểu cho lực lượng sản xuất
và phương thức sản xuất tiên tiến trong thời đại hiện nay.
Vì những đặc điểm, thuộc tính cơ bản của GCCN cho nên GCCN mang SMLS, nội
dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xoá bỏ chế
độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân
loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột; xác lập hình thái KT- XH cộng sản chủ nghĩa trên phạm vi
toàn thế giới.
Ngoài điều kiện là đại diện cho PTSX tiến bộ vơi năng xuất lao động cao hơn, cách tổ
chức lao động XH phù hợp và tiến bộ hơn thì để đảm nhận SMLS, GCCN phải có được một
hệ tư tưởng riêng phản ánh nhận thức về quy luật lịch sử và có được hạt nhân chính trị của giai

cấp mình (Chính đảng).
Đảng chính trị là tổ chức cao nhất, đại biểu tập trung cho trí tuệ và lợi ích của toàn thể
giai cấp. Đối với giai cấp công nhân đó là đảng cộng sản.
Đảng cộng sản là lãnh tụ chính trị, là hình thức tổ chức cao nhất, bộ phận tiên tiến nhất
của giai cấp công nhân,đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động. Lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động,lấy
nguyên tắc tập trung dân chủ nghĩa làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.
- Giữa ĐCS với g/c công nhân có mối liên hệ hữu cơ như sau:
+ Giai cấp công nhân coi ĐCS là hạt nhân chính trị của mình và sự ra đời của Đảng là
mốc đánh dấu sự trưởng thành của g/c.
+ Đảng coi g/c công nhân là cơ sở xã hội hàng đầu của mình, là nguồn bổ sung lực
lượng của đảng. Quan hệ giữa ĐCS và g/c công nhân là quan hệ máu thịt.
Từ sứ mệnh lịch sử của g/c công nhân dẫn đến không thể thiếu vai trò tham mưu của
ĐCS.
Vai trò tham mưu của đảng là vai trò đưa ra những quyết định của đảng, sáng suốt
vạch ra đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn thể hiện lợi ích của toàn giai cấp và toàn
bộ phong trào để giai cấp công nhân có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, nhất là trong
những thời điểm lịch sử quan trọng. Những quyết định đúng đắn sẽ tạo điều kiện đưa phong
trào cách mạng tiến lên, ngược lại có thể gây ra những tổn thất cho cách mạng. Sở dĩ đảng
cộng sản trở thành bộ tham mưu của giai cấp công nhân vì đảng bao gồm những người tiên
tiến trong giai cấp công nhân, được trang bị lý luận khoa học, cách mạng và là những người
được tôi luyện từ trong thực tiễn phong trào cách mạng.
Để thực hiện sứ mệnh này, ĐCS có 3 vai trò, trong đó vai trò “bộ tham mưu của giai
cấp công nhân” giữ quyết định sự thắng lợi, được thể hiện qua các nội dung sau:


- Bằng hiểu biết lý luận và kinh nghiệm thực tiễn, ĐCS định ra cương lĩnh, đường lối,
chiến lược, sách lược đấu tranh.
Khi chưa có Đảng Cộng sản lãnh đạo giai cấp công nhân chỉ có thể tự phát đấu tranh vì
mục đích kinh tế, vì cơm ăn áo mặc, cải thiện sinh hoạt chứ không phải đấu tranh với tư cách

là một giai cấp nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình nên cuối cùng đều bị thất bại. Trước
phong trào ngày càng lớn mạnh của GCCN, nhu cầu cần có lý luận riêng để làm cơ sở cho
cuộc đấu tranh được đặt ra cấp thiết. Bằng việc tiếp thu lý luận khoa học và từ khi học thuyết
M-LN ra đời, các nhà lãnh đạo của GCCN đã tiếp thu, đưa những lý luận đó vào thực tiễn,
biến nó thành một vũ khí lý luận sắc bén, giúp cho phong trào đấu tranh của giai cấp công
nhân chuyển từ tự phát lên tự giác và trở thành phong trào chính trị lan rộng trên toàn thế giới.
Sự ra đời của ĐCS là mốc đánh dấu sự trưởng thành của GCCN, bởi vì ĐCS là sự kết hợp của
CN M-LN với PTCN, là kết quả của quá trình CNH và đấu tranh GC hiện đại; Ngoài ra ĐCS
còn mang tính tiền phong trong lý luận và thực tiễn, tính khoa học và chặt chẽ.
Vận dụng học thuyết Mác – Lenin và kinh nghiệm thực tiễn (Nhất là kết quả thành công
của cuộc CMT10 Nga) Đảng CS đã làm cho GC công nhân nhận thức được vai trò, vị trí của
mình trong xã hội, hiểu được mục tiêu, con đường, biện pháp đấu tranh, từ đó tập hợp được
đông đủ giai cấp nhân dân lao động thực hiện việc lật đổ CNTB giải phóng giai cấp công nhân
và nhân dân lao động và xây dựng xã hội mới trên mọi mặt.
- “Đảng cũng là người tổ chức, động viên các sức mạnh, nguồn lực chính trị xã hội
trong phong trào công nhân”.
SMLS của GCCN là thực hiện sứ mệnh CM của quần chúng và mang lợi lợi ích cho đa
số hướng tới xây dựng XH trên cơ sở Công hữu TLSX. GCCN chỉ có thể tự giải phog mình
thông qua việc đồng thời giải phóng các giai cấp bị áp bức và bóc lột khác.
SMLS của GCCN nhằm mục tiêu cao nhất là giải phóng triệt để con người, xd nền văn
hóa XHCN và cũng được phát triển tự do và toàn diện trong XH công bằng, dân chủ, văn
minh.
Một trong những nhiệm vụ của GCCN trong tiến trình CM của mình là xác lập hệ giá
trị tư tưởng của GCCN thay thế cho hệ giá trị tư tưởng TS.
Từ những nội dung trên có thể thấy, để đạt được nhiệm vụ SMLS của GCCN thì vai trò
tham mưu của ĐCS là rất quan trọng. Đảng là người tổ chức thực hiện tất cả các nhiệm vụ
trong phong trào CN đồng thời phải là người tập hợp động viên các sức mạnh, nguồn lực
chính trị xã hội. Nguồn lực chính trị xã hội đó chính là tất cả quần chúng nd (GCCN,). Không
chỉ riêng GCCN, nhân dân lđ và các giai tầng khác trong xã hội TSCN cũng bị áp bức bóc lột
và họ đều có nhu cầu được giải phóng và được hưởng lợi ích.

- Sự kết hợp chặt chẽ thống nhất về tư tưởng và tổ chức dựa trên nền tảng tư tưởng của
CNXH khoa học cho đảng có khả năng trở thành lực lượng thu hút đông đảo QCND hướng
theo GCCN, tiến hành cuộc đấu tranh lật đổ ách thống trị của GCTS, xây dựng chủ nghĩa cộng
sản
V.I.Lênin khẳng định: Giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền còn khó hơn. Sau
thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc, Đảng Cộng sản là lực lượng duy nhất có thể tập
hợp được đông đảo quần chúng nhân dân để bảo vệ thành quả cách mạng. Có được khả năng
đó là do Đảng gồm những người tiên tiến nhất của giai cấp và dân tộc, trung thành, kiên định
với lợi ích của dân tộc, luôn đi đầu, sẵn sàng hy sinh vì nền độc lập dân tộc nên được nhân dân
tin tưởng và đi theo.
Tóm lại, từ thực tiễn cách mạng vô sản trên tòan thế giới đã cho thấy không thể phủ
nhận Đảng Cộng sản có vai trò vô cùng to lớn đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp công


nhân và nhân dân lao động. Đó là nhân tố bảo đảm cho giai cấp công nhân thực hiện hoàn
thành sứ mệnh lịch sử của mình.
*Liên hệ thực tế ở ĐCSVN:
- Đảng Cộng sản Việt Nam: là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội
tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của
giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng cộng sản lấy CN Mác –
LeeNin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động; lấy tập
trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.
- Giai cấp công nhân Việt Nam: là một tập đoàn người, mà lao động của họ gắn với
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ công nghiệp hiện đại, thu nhập chủ yếu của họ bằng làm công ăn
lương; là lực lượng sản xuất chủ yếu và là lực lượng lãnh đạo sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá gắn liền với phát triển kinh tế tri thức vì một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam: là giai cấp lãnh đạo cách mạng
thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện cho phương thức sản
xuất tiên tiến; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng CNXH, lực lượng đi đầu trong sự

nghiệp CNH, HĐH đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh; lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ
trí thức do sự lãnh đạo của Đảng.
- Vai trò tham mưu của ĐCSVN được thể hiện qua một số thành tựu sau:
+ Tháng 02/1930 ĐCSVN ra đời bắt đầu có cương lĩnh xác định cách mạng VN bây giờ
là CMTS dân quyền và thổ địa cách mạng (về lực lượng CM xác định CN, ND là lực lượng
chủ yếu của cách mạng, do GCCN lãnh đạo; phương pháp CM: CMVN phải đi theo con
đường CM bạo lực….đó là đề ra cương lĩnh). Sau đó tới tháng 10/1930 tiếp tục đề ra cương
lĩnh thứ hai. (do có sự khác biệt trong quan điểm của HCM nên cương lĩnh này sửa đổi, bổ
sung cho phù hợp với tình hình của quốc tế cộng sản). Điều đó cũng thể hiện vai trò tham mưu
kịp thời của đảng ta cho phù hợp với tình hình hiện giờ.
+ Đảng đã tham mưu cho giai cấp công nhân việt nam những sách lược, chiến lược
quan trọng trong hai cuộc kháng chiến chống pháp mỹ. Thống nhất đất nước 30/4/1975, tiến
hành hai cuộc chiến tranh chống xâm lược ở biên giới. Đưa đất nước quá độ đi lên CNXH,
phấn đấu năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
+ Trong mở cửa hội nhập quốc tế của chúng ta từ 1986, ngay từ đầu mở cửa đảng ta đã
đề ra chiến lược, đường lối: VN sẵn sàng là bạn với các nước trên TG, là thành viên tích cực,
chủ động và có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế, thể hiện ở chổ: đẩy mạnh phát triển kinh tế
- xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, và tích cực
đóng góp cho cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội./.
*Về huy động, tổ chức các nguồn lực sức mạnh thể hiện ở chổ: tuyên truyền, định
hướng cho nhân dân trong sản xuất; huy động nguồn lực trong nhân dân; xây dựng nông thôn
mới, phát triển đảng viên…
*Về huy động quần chúng nhân dân là làm sao thực hiện được mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Để làm được điều này thì phải phát triển nền kinh
tế thị trường theo định hướng XHCN, tạo ra của cải dồi dào, tiếp cận KHCN hiện đại, thúc đẩy


phát triển LLSX, xóa bỏ chế độ bóc lột. Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN nhằm xây

dựng đất nước giàu đẹp, mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân.
- Bên cạnh những thành tựu đạt được trong việc thực hiện vai trò tham mưu, còn
những mặt hạn chế sau: 1986, NQ TW4, một bộ phận công nhân chưa tha thiết phấn đấu vào
Đảng; sự hiểu biết về chính sách, pháp luật còn hạn chế. Nhiều chính sách, pháp luật xây dựng
GCCN còn nhiều hạn chế, bất cập; GCCN có nhiều nỗ lực vươn lên nhưng chưa đáp ứng được
yêu cầu CNH, HĐH đất nước…
- Giải pháp để nâng cao, bảo đảm vai trò bộ tham mưu của giai cấp công nhân:
+ Phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy lí luận, nâng cao trình độ trí tuệ và năng lực
lãnh đạo của Đảng.
+ Phát huy tích cực, nâng cao
+ Tích cực ngăn ngừa
+ Quan tâm bồi dưỡng, nâng cao trình độ chính trị cho giai cấp công nhân, ý thức giai
cấp, tinh thần dân tộc cho giai cấp công nhân.
+ Tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh.


Câu 6: Phân tích đặc trưng “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”. Liên hệ thực tiễn.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển
2011) có 08 đặc trưng. Trong đó đặc trưng “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh” là đặc trưng tổng quát chi phối các đặc trưng khác, bởi nó thể hiện mục tiêu của CNXH
ở Việt Nam là làm sao cho dân giàu, nước mạnh…là công bằng, hợp lý, mọi người đều được
hưởng quyền tự do, dân chủ, được sống cuộc đời hạnh phúc.
Để hiểu được đặc trưng này, cần đi sâu phân tích những vấn đề sau:
- Về dân giàu:
+ dân giàu: là dân phải có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Cụ thể là giàu về thu nhập và
giàu về tư liệu sinh hoạt.
+ Làm sao để dân giàu: xã hội phải công bằng với những cơ chế cho phép mỗi cá nhân,
mỗi cơ sở kinh tế được làm giàu một cách hợp pháp, chính đáng; có lực lượng sản xuất hiện

đại dựa trên trình độ khoa học công nghệ hiện đại, năng suất lao động xã hội cao, có tiềm lực
về tài nguyên “chất xám”, có một nền kinh tế tri thức phát triển cao, chống tham nhũng và lãng
phí.
+ Dân giàu là giàu cả đời sống vật chất và văn hóa, tinh thần; dân giàu nhưng phải làm
cho nước mạnh, dân có giàu nước mới mạnh, phải nâng cao sức mạnh tổng hợp quốc gia; dân
giàu nhưng phải đảm bảo công bằng xã hội, CNH – HĐH đất nước.
+ Dân nghèo thì đất nước có kinh tế kém phát triển, dân đói khổ, không lo làm ăn, thu
nhập thấp, đất nước chậm phát triển, dân không có cuộc sống đầy đủ về v/c và tinh thần.
*liên hệ thực tế:
- Nếu dân giàu, thì khả năng đáp ứng nhu cầu của đời sống nhân dân tốt hơn: thu nhập
cao, mua sắm, phát triển kinh tế, cuộc sống ấm no, hạnh phúc, mọi người đều được học hành,
đi làm….
- Nếu dân nghèo thì đời sống nhân dân khó khăn, cuộc sống không ổn định, cán bộ
tham nhũng, quan liêu; nãy sinh tội phạm, sẽ có chiếm hữu xuất hiện, dễ bị bọn phản động lợi
dụng để chống phá đất nước; dễ bị chảy máu chất xám, sinh viên tốt nghiệp ra nước ngoài
phục vụ, không có cơ chế để thu hút nhân tài cho đất nước.
- Về nước mạnh:
+ Nước mạnh: tức là mạnh về KT, CT, VH, XH.
+ Làm sao để nước mạnh: bảo đảm khả năng bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ; bảo đảm
khả năng tranh thủ tối đa những cơ hội phát triển thông qua mở rộng hợp tác quốc tế, khả năng
bảo vệ chủ quyền quốc gia, lợi ích dân tộc trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế; bảo đảm
nâng cao địa vị quốc tế của đất nước và có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các
nước trên thế giới.
+ Nước mạnh thì sẽ tranh thủ được về nguồn vốn, phát triển KH- CN, học tập cách thức
quản lý, đóng góp cho Ngân sách nhà nước, có cơ hội gia nhập nền kinh tế toàn cầu. Về kinh
tế phải tự lo được các cân đối lớn trong nước, có dự trữ lớn, đối phó được với thiên tai, địch
họa, không những đủ lo đời sống nhân dân mình mà còn dư lực giúp đỡ các dân tộc khác, các
quốc gia khác, khi cần. Về quốc phòng đủ ứng phó được với chiến tranh mà kẻ thù xâm lược
sử dụng vũ khí công nghệ cao, đủ sức bảo vệ Tổ quốc trong bất cứ tình huống nào.



+ Nước yếu thì dễ bị xâm lược, không ứng phó được với thiên tai, dịch bệnh; dễ bị các
nước khác chi phối hay lệ thuộc về mặt kinh tế và quân sự; không lo được cho đời sống v/c
cho nhân dân,
*liên hệ thực tế:
- Nếu nước mạnh, thì nhân dân được làm chủ KHCN, làm chủ các khí tài quân sự để
bảo vệ đất nước, sẽ thu hút được người tài và đức phục vụ cho đất nước. Mỗi người dân phải
tự ý thức trong việc học hành, chăm chỉ làm ăn, phát triển kinh tế tức là làm phát triển đất
nước hơn dẫn đến nước được vững mạnh hơn. Phát động phong trào “vì an ninh tổ quốc”
trong lực lượng toàn Công an tỉnh cũng tức là mỗi CBCS đang từng ngày thi đua ra sức bảo
vệ tổ quốc, làm cho tình hình chính trị ở địa phương được ổn định hơn, góp phần làm đất
nước vững mạnh hơn. Đối với nước ta, “nước mạnh” là điều kiện thuận lợi để phát huy chủ
nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân.
- Nếu nước yếu thì sẽ rất khó khăn trong công tác bảo vệ biển đảo, đặc biệt là hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Bị lệ thuộc và kinh tế và nguồn vốn bên ngoài
khiến các nguồn lực kinh tế trong nước chậm phát triển. Các thế lực thù địch sẽ lợi dụng để
chống phá và lật đổ chính quyền nhà nước ta. Nhân dân ta mất tin tưởng vào sự lãnh đạo của
Đảng dẫn đến sự mâu thuẩn giai cấp trong nước xuất hiên, đời sống nhân dân không được ấm
no, hạnh phúc.
- Về dân chủ:
+ Dân chủ: Tức là nhân dân làm chủ, làm chủ về CT, KT, VH, XH.
+ Làm sao để dân chủ: Đẩy mạnh CNH – HĐH đất nước, phát triển kinh tế. Có nền
hành chính công minh bạch để phục vụ dân, không phiền hà sách nhiễu dân, không quan liêu,
tham nhũng gây tổn hại tới dân. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống PL, cơ chế chính sách.
Đẩy mạnh giáo dục pháp luật, đưa pháp luật đi vào cuộc sống; nâng cao trình độ dân chí trên
mọi phương diện.
+ Dân chủ thì mọi người dân đều bình đẳng trước pháp luật, được tư do đi lại, không
phân biệt nam – nữ, đều được tham gia bỏ phiếu để bầu người đại diện cho đất nước mình.
Bảo vệ quyền con người của mọi công dân.
+ Không dân chủ thì quyền công dân trong một đất nước không đảm bảo, dẫn đến sự

độc quyền trong thống trị, chế độ tư hữu tư nhân về TLSX, mọi quyền lợi của nhân dân không
được thực hiện đầy đủ, dẫn đến mẫu thuẩn giai cấp và lật đổ chế độ để thiết lập chế độ mới
được dân chủ hơn.
*Liên hệ thực tế:
- Nếu dân chủ: phải có sự kiểm tra giám sát của nhân dân, cụ thể là “Dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra”, đây là phương châm quan trọng để dân có thể làm chủ. Phát triển và
đổi mới căn bản nền giáo dục của đất nước. Mở rộng dân chủ trong Đảng là điều kiện quyết
định bảo đảm và phát huy dân chủ trong xã hội; thực hiện quy chế dân chủ ở cở sở. Được dân
chủ trong tôn giáo và tín ngưỡng,
- Nếu không dân chủ thì sẽ xuất hiện tình trạng quan liêu, tham nhũng, đứng trên dân
dẫn đến xa rời quần chúng nhân dân của một số chính quyền các cấp, không có dân chủ thì
nhân dân cũng không đóng góp ý kiến cho chính quyền; một số thế lực thù địch lợi dụng dân
chủ ở VN để làm mất tình hình ANTT, ATXH.


- Về công bằng:
+ Công bằng: mọi người có quyền và lợi ích ngang nhau trong cùng một hoàn cảnh,
một khía cạnh nào đó.
+ Làm sao để công bằng: Xóa bỏ áp bức, bất công và những cơ sở nảy sinh áp bức bất
công, xây dựng các điều kiện để con người phát triển tự do và toàn diện, có cuộc sống ấm no,
tự do, hạnh phúc là mục đích của chủ nghĩa xã hội. Xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì
dân.
+ Công bằng thì được nhân dân làm chủ xã hội, tất cả mọi người đều có quyền làm
việc, quyền nghỉ ngơi, có công ăn việc làm; cuộc sống no đủ và hạnh phúc; có quyền và có
những điều kiện bảo đảm để được hưởng thụ các kết quả lao động của mình. Đó là nguyên tắc
làm theo khả năng, hưởng theo việc làm. Cống hiến ngang nhau thì hưởng thụ ngang nhau,
không ai có đặc quyền, đặc lợi.
+ Không công bằng thì tạo ra sự bất công trong XH, sự phân hóa giàu nghèo, quyền lực
thống trị sẽ rơi vào tiểu số, phục vụ cho nhu cầu lợi ích của họ. Niềm tin vào Đàng và chế độ
về một XH công bằng bị xói mòn, gây mất ổn định CT-XH. Sẽ có xuất hiện tình trạng tham

nhũng, ức hiếp quần chúng, ăn chơi sa đọa, gây phẩn nộ trong dự luận XH.
*liên hệ thực tế:
- Công bằng với tính cách mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở nước ta thì chỉ có thể đạt tới
khi chế độ sở hữu cơ bản của xã hội là chế độ công hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu như
Cương lĩnh đã nêu. Nhưng chế độ công hữu tư liệu sản xuất mà chúng ta đang nói phải dựa
trên lực lượng sản xuất hiện đại, từng bước thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa với sự
đa dạng hóa về các hình thức sở hữu, trong đó kinh tế tập thể, kinh tế nhà nước trở thành nền
tảng của nền kinh tế quốc dân, đồng thời đa dạng hóa các hình thức phân phối thì mới bảo đảm
công bằng xã hội. Bên cạnh đó phải xây dựng được nền văn hóa mới, lấy con người làm trung
tâm. Mọi việc phải được công khai minh bạch, được giám sát và phản biện
- Nếu không công bằng thì dẫn đến tình trạng làm ít cũng hưỡng như làm nhiều, gây bất
công trong XH, nếu nhà nước k điều tiết hợp lý để bỏ những thu nhập bất hợp pháp sẽ dẫn đến
giàu nghèo, không công bằng dẫn đến làm giảm lòng tin của nhân dân vào Đảng và chế độ. Sự
phân phối v/c k đồng đều trong XH. Cơ chế quản lý XH có nhiều bất cập, tình trạng độc
quyền, sự can thiệp của cơ quan nhà nước. Sẽ xuất hiện không tương hợp, cân xứng trong các
mối quan hệ với nhau trong XH.
VD: ở nước ta nếu không công bằng trong công tác cán bộ dẫn tới tình trạng người có
tài có đức không được trọng dụng, trong lúc có người kém tài, thiếu đức vẫn thông qua những
con đường khác nhau được giao nhiều trọng trách, để rồi làm thất thoát những khối tài sản lớn
của nhà nước.
- Về văn minh:
+ Văn minh: là sự phát triển tiên tiến toàn diện và nhân bản về KH-KT, trình độ chinh
phục thiên nhiên…
+ Làm sao để văn minh: văn minh nông nghiệp, văn minh cơ khí và văn minh kỷ thuật
và có một nền văn hóa lâu đời. Mọi người phải biết yêu chân, thiện, mỹ. Yêu sự thật, yêu cái
tốt, cái đẹp. Chỉ nói sự thật mà thôi, thế nào là yêu sự thật? Là ghét giả dối.


+ Văn minh thì trình độ kỹ thuật nông nghiệp đạt được mức độ cao, như là con người
sử dụng sức mạnh, canh tác luân canh và biết sử dụngthủy lợi. văn minh trong quan hệ giữa

người với thiên nhiên mà còn là văn minh trong quan hệ giữa người với người, văn minh trong
tổ chức xã hội, văn minh trong chất lượng cuộc sống và lối sống. Ở một thời điểm nào đó
trong lịch sử là nơi mà nhiều người muốn đến định cư và sinh sống nhất. Nơi đó thỏa mãn mọi
nhu cầu cũng như tạo nên những nhu cầu mới, xa xỉ và đem lại cơ hội để phát triển bản thân.
+ Không văn minh nền VH giáo dục thấp, xã hội kém về tín ngưỡng và giáo dục thấp.
Sự giàu có ở mức độ cao hơn. Xung đột tôn giáo, chủng tộc, hủy hoại lịch sử, văn hóa của dân
tộc.
*liên hệ thực tế:
- Nếu văn minh thì có sự phát triển mạnh mẽ về hội họa, bao gồm cả chữ viết. Nền văn
minh xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là kết quả của sự kế thừa những thành tựu của văn minh
nhân loại kết hợp với sự kế thừa những giá trị tốt đẹp của truyền thống dân tộc. Xã hội xã hội
chủ nghĩa phải là một xã hội hiện đại, văn minh, giàu bản sắc dân tộc.
- Nếu không văn min: Mọi người VN đều có hành vi xã rác bừa bãi, chặt phá rừng, ô
nhiễm môi trường.
- Kết luận: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” là những mục tiêu
không tách rời nhau, bổ sung cho nhau; mục tiêu này làm cơ sở, điều kiện, tiền đề cho mục
tiêu kia. Đó là những mục tiêu lâu dài, những giá trị bền vững, từng bước được hiện thực hóa
trong quá trình đổi mới đất nước trên con đường xã hội chủ nghĩa.


Câu 7: Phân tích nội dung văn hóa, xã hội của liên minh công – nông – trí thức
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Liên hệ thực tế ở Việt Nam.
Khái niệm: Liên minh công – nông – trí thức là sự đoàn kết, hợp lực, hợp tác,… của
công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức nhằm thực hiện nhu cầu và lợi ích của mỗi lực lượng
và của cả khối liên minh; đồng thời góp phần thực hiện lợi ích chung của dân tộc, của sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Văn hóa xã hội của liên minh thực chất là sự đoàn kết, hợp lực của công nhân, nông
dân, trí thức nhằm xây dựng nền văn hóa mới và con người mới xã hội chủ nghĩa.
*Phân tích nội dụng VH, XH của liên minh C-N-T trong TKQĐ lên CNXH:
1. Nội dung văn hóa xã hội của liên minh đòi hỏi phải đảm bảo kết hợp giữa tăng

trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, tiến bộ và công bằng xã hội; xây dựng nền văn hóa mới
xã hội chủ nghĩa; bảo vệ môi trường sinh thái; xây dựng nông thôn mới; nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, trong đó công nhân, nông dân, trí thức là nguồn nhân lực quan trọng và cơ
bản nhất của quốc gia.
2. Liên minh trên lĩnh vực văn hóa, xã hội đòi hỏi phải thực hiện xóa đói giảm nghèo,
giảm nghèo; thực hiện tốt các chính sách xã hội đối với công nhân, nông dân, tri thức; chăm
sóc sức khỏe và nâng cao chất lượng sống cho nhân dân; nâng cao dân trí. Đây là nội dung cơ
bản, lâu dài tạo điều kiện cho liên minh phát triển bền vững. Do vậy, phải phắt triển giáo dục
và đào tạo, nâng cao trình độ khoa học và công nghệ; chống các biểu hiện tiêu cực và tệ nạn
XH. Xây dựng quy hoạch tổng thể và phát triển khu CN, khu đô thị phải gắn với đảm bảo phát
triển nông thôn và nông nghiệp bền vững.
Đoạn thứ 1
+ “Tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái”. Đó chính là ưu việt của CNXH,
tất cả cho con người, vì con người và do con người, trong đó lực lượng đông đảo nhất, nòng
cốt là công nhân, nông dân, trí thức.
+ Văn hóa XHCN: là nền văn hóa được xây dựng và phát triển trên nền tảng hệ tư
tưởng của giai cấp công nhân, do ĐCS lãnh đạo nhằm thỏa mãn nhu cầu không ngừng tăng lên
về đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân, đưa nhân dân lao động thực sự trở thành chủ thể
sáng tạo và hưởng thụ văn hóa.
. Hệ tư tưởng của GCCN là nội dung cốt lõi, giữ vai trò chủ đạo, quyết định phương
hướng phát triển của nền văn hóa XHCN.
Nền văn hóa XHCN là nền văn hóa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.
+ Để xây dựng nền văn hóa XHCN thì cần phải:
Nâng cao trình độ dân trí, hình thành đội ngũ trí thức của xã hội mới.
Xây dựng con người mới phát triển toàn diện.
Xây dựng lối sống mới XHCN.
.Xây dựng gia đình văn hóa XHCN.
+ Phương thức xây dựng nền văn hóa XHCN.
Không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của hệ tư tưởng GCCN trong đời sống tinh thần

của xã hội.
Không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của ĐCS và vai trò quản lý của Nhà nước XHCN
đối với hoạt động văn hóa.
xây dựng nền văn hóa XHCN phải theo phương thức kết hợp giữa việc kế thừa những
giá trị trong di sản văn hóa dân tộc với tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của nhân
loại
Tổ chức và lôi cuốn quần chúng nhân dân vào hoạt động và sáng tạo văn hóa.


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×