Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

TIỂU LUẬN Hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (670.46 KB, 32 trang )

Hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu

CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VÔ
HIỆU
1.1

Khái niệm hợp đồng dân sự vô hiệu.

1.1.1 Khái niệm hợp đồng dân sự
Chế định hợp đồng đã hình thành từ lâu đời trong trong lịch sử pháp luật thế
giới. Điển hình nhất chính là pháp luật La Mã, một hệ thống pháp luật ra đời từ rất
sớm, đánh dấu những nguyên tắc quan trọng đầu tiên cho chế định hợp đồng. Ở
nước ta, hợp đồng cũng đã xuất hiện từ rất lâu, nhưng được ghi nhận chính thức
sớm nhất trong văn bản pháp luật là Bộ luật Hồng Đức 1483.
Hợp đồng là thuật ngữ pháp lý được sử dụng dùng để chỉ các giao dịch dân
sự thông qua việc thỏa thuận để chuyển giao cho nhau các lợi ích nhất định giữa các
bên thỏa thuận. Thuật ngữ này chỉ mới được sử dụng chính thức trong văn bản pháp
luật từ khi Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989 và Pháp lệnh hợp đồng dân sự 1991
được ban hành. Bộ luật Dân sự 1995 (BLDS 1995) và Bộ luật Dân sự 2005 ( BLDS
2005) tiếp tục sử dụng thuật ngữ “hợp đồng dân sự”1.
Hợp đồng là phương tiện pháp lý quan trọng để cho công dân thỏa mãn các
nhu cầu vật chất, tinh thần trong sản xuất, kinh doanh cũng như sinh hoạt tiêu dùng.
Hợp đồng được nhìn nhận dưới hai góc độ:
Theo phương diện khách quan, hợp đồng được hiểu là các quy phạm pháp
luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các qua hệ xã hội phát sinh trong quá
trình dịch chuyển các lợi ích vật chất giữa các chủ thể với nhau.
Theo phương diện chủ quan, hợp đồng được hiểu là sự thỏa thuận giữa các
chủ thể nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ trong những quan
hệ xã hội cụ thể. Hợp đồng trong Bộ luật Dân sự được hiểu theo nghĩa rộng, bao
gồm các quan hệ dân sự, thương mại, lao động. Theo nghĩa này tại Điều 388 BLDS
2005 đã đưa ra định nghĩa chung nhất về hợp đồng.



1

Trường Đại học Luật TPHCM (2013), Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng, NXB Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, Tr.123

Page 1


Hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu

Điều 388 BLDS 2005 quy định: “Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa
các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”.
1.1.2 Hợp đồng dân sự vô hiệu
1.1.2.1 Khái niệm
Các bên giao kết hợp đồng là để xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự, nhưng không phải khi nào hợp đồng đã giao kết rồi cũng đều có
hiệu lực pháp luật, tức là phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồn.
Hợp đồng có thể bị vô hiệu, không có hiệu lực pháp lý trong những trường hợp mà
pháp luật quy định.
Điều 127 BLDS 2005 quy định: “Các giao dịch dân sự không có một trong
các điều kiện được quy định tại Điều 122 của Bộ luật này thì vô hiệu”.
Khoản 1 Điều 410 BLDS 2005 quy định:
“Các quy định về giao dịch dân sự vô hiệu từ Điều 127 đến Điều 138 của Bộ
luật này cũng được áp dụng đối với hợp đồng vô hiệu”.
Nên chúng ta sẽ áp dụng các quy định về giao dịch dân sự vô hiệu từ Điều
127 đến Điều 138 để tìm hiểu về hợp đồng dân sự vô hiệu.
Theo quy định tại Điều 122 BLDS 2005 thì để một hợp đồng phát sinh hiệu
lực phải đáp ứng đủ các điều kiện sau:
“a, Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;

b, Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp
luật, không trái đạo đức xã hội;
c, người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện”
Ngoài quy định trên thì tại khoản 1 Điều 411 BLDS 2005 có quy định:
“Trong trường hợp ngay từ khi ký kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện
được vì lý do khách quan thì hợp đồng này bị vô hiệu”. Quy định này cũng nói đến
đối tượng thực hiện của hợp đồng cũng là một trong những điều kiện có hiệu lực
của hợp đồng nhưng quy định này chỉ được đề cập trong từng chế định cụ thể của
giao dịch dân sự chứ không được bao quát trong Điều 122 BLDS 2005. Nên chúng

Page 2


Hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu

ta cần bổ sung thêm điều kiện về đối tượng vào các điều kiện để giao dịch dân sự có
hiệu lực tại điều này.
Như vậy, nếu như hợp đồng vi phạm một trong các điều kiện trên thì hợp
đồng vô hiệu, không làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quyền và nghĩa vụ của
các bên.
1.1.2.2 Phân loại
Tùy theo từng tiêu chí khác nhau mà chúng ta có các cách phân loại hợp
đồng vô hiệu khác nhau.
-

Căn cứ vào thủ tục tuyên bố hợp đồng vô hiệu, thủ tục tuyên bố vô

hiệu của các loại hợp đồng vô hiệu khác nhau thì khác nhau và chia hợp đồng vô
hiệu thành hai loại hợp đồng vô hiệu tuyệt đối và hợp đồng vô hiệu tương đối.



Hợp đồng vô hiệu tuyệt đối là hợp đồng mặc nhiên bị coi là vô hiệu.



Hợp đồng vô hiệu tương đối thì chỉ trở nên vô hiệu khi có đủ các điều

kiện nhất định: khi có đơn yêu cầu cầu của người có quyền và lợi ích liên quan và
theo quyết định của Tòa án.
-

Căn cứ vào phạm vi bị vô hiệu, dựa vào điều khoản hợp đồng

bị vô hiệu
chia thành hai loại hợp đồng vô hiệu toàn bộ và hợp đồng vô hiệu từng phần.


Hợp đồng vô hiệu toàn bộ là hợp đồng có toàn bộ nội dung bị vô hiệu,

hoặc tuy chỉ có một phần nội dung bị vô hiệu nhưng phần đó lại ảnh hưởng đến hiệu
lực của toàn bộ hợp đồng.


Hợp đồng vô hiệu từng phần là hợp đồng có một phần nội dung không

có giá trị pháp lý nhưng không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần khác của hợp
đồng đó.
-

Căn cứ vào điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, có thể phân loại hợp


đồng vô hiệu thành các loại sau: hợp đồng vô hiệu do người tham gia là cá nhân
không có năng lực hành vi dân sự, hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm, đạo đức
xã hội, hợp đồng vô hiệu do không có sự tự nguyện của chủ thể, hợp đồng vô hiệu

Page 3


Hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu

do vi phạm hình thức nếu pháp luật có quy định hình thức là điều kiện bắt buộc của
hợp đồng.
Việc phân loại các loại hợp đồng vô hiệu theo các trường hợp khác nhau có ý
nghĩa trong việc xây dựng các quy định phù hợp với những dấu hiệu đặc trưng của
mỗi trường hợp vô hiệu, giải quyết hậu quả cũng như đưa ra các quy định mang tính
ngoại lệ cho từng trường hợp vô hiệu cụ thể.
1.2

Xác định hợp đồng dân sự vô hiệu theo quy định của pháp luật

Như đã phân tích ở trên thì hợp đồng sẽ bị vô hiệu khi không đáp ứng đầy đủ các
điều kiện có hiệu của hợp đồng. Nên chỉ cần một hợp đồng thiếu một trong các điều
kiện tại Điều 122 thì sẽ bị vô hiệu. Sau đây là các trường hợp mà một hợp đồng sẽ
bị vô hiệu.
1.2.1 Hợp đồng vô hiệu do chủ thể tham gia không có năng
lực hành vi dân sự
Theo quy định của BLDS 2005 thì những chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng
gồm có: các cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác. Tùy theo từng chủ thể khác
nhau và từng loại giao dịch khác nhau mà pháp luật có những quy định khác nhau
về năng lực chủ thể .



Đối với chủ thể là cá nhân, theo quy định của BLDS 2005 thì mỗi cá

nhân khi tham gia vào quan hệ hợp đồng cần phải có năng lực chủ thể tương ứng.
Cụ thể từ Điều 19 đến Điều 23 BLDS 2005 quy định năng lự hành vi dân sự của cá
nhân tương ứng như sau:
Người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ được tự mình xác lập,
thực hiện các hợp đồng dân sự (Điều 19), người thành niên theo quy định của
BLDS là người từ đủ mười tám tuổi trở lên (Điều 18).
Người chưa thành niên từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi là người có
một phần năng lự hành vi dân sự, viêc xác lập, thực hiện hợp đồng của họ phải được
người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt
hàng ngày phù hợp với lứa tuổi hoăc pháp luật có quy định khác. Đối với trường
hợp người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi mà có tài sản riêng bảo
Page 4


Hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu

đảm thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập, thực hiện hợp đồng mà không
cần phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ trường hợp pháp luật
có quy định khác (Điều 20).
Người chưa đủ sáu tuổi là người không có năng lực hành vi dân sự, mọi hợp
đồng liên quan đến họ đều phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện
(Điều 21).
Người bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự thì hợp đồng liên
quan đến họ cũng phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện (Điều
22).
Người bị Tòa án tuyên hạn chế năng lực hành vi dân sự thì chỉ được thực

hiện những giao dịch nhằm phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày còn những
giao dịch liên quan đến tài sản của người đó thì phải có sự đồng ý người đại diện
theo pháp luật. (Điều 23).


Đối với chủ thể là pháp nhân, theo quy định tại Điều 86 BLDS 2005

thì năng lực chủ thể của pháp nhân phát sinh từ thời điểm pháp nhân được thành lập
và chấm dứt từ thời điểm chấm dứt pháp nhân. Hoạt động của pháp nhân
được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy
quyền, hai người này nhân danh pháp nhân trong quan hệ dân sự.


Đối với chủ thể là hộ gia đình, tổ hợp tác thì các giao dịch liên quan

đến hai chủ thể này được thực hiện thông qua người đại diện là chủ hộ và tổ trưởng
tổ hợp tác. Chủ hộ và tổ trưởng tổ hợp tác có thể ủy quyền cho các thành viên khác
trong hộ gia đình hoặc trong tổ hợp tác thực hiện một số công việc thay mình.
Như vậy, khi những chủ thể trên tham gia quan hệ hợp đồng thì hợp đồng
được ký kết đó phải trong phạm vi cho phép của pháp luật tương ứng với từng chủ
thể nhất định. Hay nói cách khác là những chủ thể khi tham gia xác lập quan hệ hợp
đồng, thì họ phải là người có đầy đủ năng lực hành vi để tham gia quan hệ đó, nếu
họ tham gia vào xác lập một hợp đồng mà năng lực hành vi của họ không đáp ứng
đủ điều kiện để tham gia thì hợp đồng đó sẽ bị vô hiệu. Ví dụ: A bị Tòa án tuyên
hạn chế năng lực hành vi dân sự, ký kết hợp đồng mua tài sản với B, hợp đồng này
Page 5


Hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu


A giao kết không có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, nên hợp đồng vô
hiệu. Vì A là người hạn chế năng lực hành vi dân sự, nên những giao dịch liên quan
đến tài sản của A đều phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật, nhưng
trong trường hợp này đã không có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật nên
hợp đồng vô hiệu do chủ thể tham gia giao dịch không có năng lực hành vi dân sự.
Hoặc hợp đồng của pháp nhân mà không được ký kết bởi người có thẩm quyền thì
cũng bị vô hiệu.
1.2.2 Hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã
hội
Theo quy định tại Điều 128 BLDS 2005 thì hợp đồng có mục đích và nội
dung vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu.


Điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật không cho

phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định.


Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với

người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.
Theo quy định tại Điều 123 BLDS 2005 thì mục đích của giao dịch dân sự là
lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch đó, tức là
các bên ký kết hợp đồng với mục đích bất hợp pháp thì hợp đồng đó vô hiệu. Mục
đích của hợp đồng thường được thể hiện trong các điều khoản của hợp đồng hoặc
có thể được ghi ra trong lời nói đầu của hợp đồng. Ví dụ mục đích của hợp đồng vi
phạm pháp luật như, hợp đồng tặng cho ký kết nhằm mục đích là tẩu tán tài sản. Đối
với nội dung của hợp đồng thì tại Điều 402 BLDS 2005 có quy định những nội
dung chủ yếu như là: đối tượng của hợp đồng là tài sản phải giao, công việc phải
làm hoặc không được làm; giá, phương thức thanh toán; thời hạn, địa điểm, phương

thức thực hiện hợp đồng; quyền nghĩa vụ của các bên… Chúng ta có thể hiểu nội
dung của hợp đồng ở đây là tất cả những điều khoản mà các bên đã giao kết nhằm
xác lập quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng, bao gồm cả điều khoản cơ
bản và những điều khoản khác. Ví dụ một điều khoản của hợp đồng vi phạm điều
cấm của pháp luật như là: hợp đồng mua bán tài sản có đối tượng mua bán là vũ khí
Page 6


Hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu

quân dụng hay là hợp đồng mua bán có điều khoản phương thức thanh toán là ngoại
tệ, hoặc có thể là hợp đồng mua bán nội tạng cơ thể người.
Như vậy, khi một hợp đồng mà có mục đích và nội dung vi phạm điều cấm
của pháp luật, trái đạo đức xã hội thì sẽ bị vô hiệu.
1.2.3 Hợp đồng vô hiệu do vi phạm hình thức của hợp đồng
Trong một vài trường hợp pháp luật có quy định hình thức của hợp đồng là
điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, như vậy trong những trường hợp pháp luật có
quy định này mà hình thức của hợp đồng không phù hợp với quy định của pháp luật
thì hợp đồng sẽ bị vô hiệu.
Theo quy định tại Điều 401 BLDS 2005 thì hợp đồng có thể được giao kết
bằng các hình thức bằng lời nói, văn bản hoặc hành vi cụ thể. Trong trường hợp,
pháp luật có quy định hợp đồng phải đươc thể hiện bằng văn bản có công chứng
hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân thủ các quy định đó.
Theo như quy định trên thì hợp đồng sẽ vi phạm về hình thức trong các trường hợp
sau:
Trường hợp thứ nhất, hợp đồng không được giao kết bằng văn bản. Khi pháp
luật có quy định văn bản là hình thức bắt buộc của hợp đồng thì khi không giao kết
hợp đồng bằng văn bản thì tức là đã vi phạm hình thức của hợp đồng. Ví dụ, tại
Điều 570 có quy định “hợp đồng bảo hiểm phải được lập thành văn bản” thì khi
giao kết hợp đồng bảo hiểm thì phải lập thành văn bản, nếu như không lập văn bản

thì đã vi phạm hình thức của hợp đồng và hợp đồng vô hiệu.
Trường hợp thứ hai, hợp đồng không được công chứng, chứng thực. Quy
định buộc hợp đồng phải có công chứng, chứng thực nhằm mục đích để nhà nước
quản lý, kiểm tra, giám sát các hoạt động liên quan đến những đối tượng đặc biệt
như nhà ở, đất đai… Ví dụ: hợp đồng mua bán nhà phải được lập thành văn bản, có
công chứng hoặc chứng thực; hợp đồng tặng cho bất động sản phải được lập thành
văn bản, có công chứng, chứng thực hoặc phải đăng ký nếu theo quy định của pháp
luật bất động sản phải đăng ký quyền sở hữu. Việc công chứng, chứng thực này còn
có một ý nghĩa quan trọng đó là thời điểm công chứng, chứng thực chính là thời
Page 7


Hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu

điểm có hiệu lực của hợp đồng, ngoài ra nó còn làm tăng tính công khai của hợp
đồng khi có sự tham gia của chủ thể đăc biệt mang quyền lực nhà nước.
Trường hợp thứ ba, hợp đồng giao kết nhưng không xin phép hoăc đăng ký.
Mục đích của quy định này là để bảo vệ quyền lợi của người thứ ba, cũng như giúp
hỗ trợ giải quyết một số hậu quả pháp lý trong một số hợp đồng có yêu cầu thủ tục
đăng ký. Ví dụ: quy định tại khoản 1 Điều 3 Nghị định 83/2010/ NĐ-CP về đăng ký
giao dịch bảo đảm thì trong những trường hợp sau phải đăng ký giao dịch bảo đảm:
“a) Thế chấp quyền sử dụng đất;
b) Thế chấp quyền sử dụng rừng, quyền sở hữu rừng sản xuất là rừng trồng:
c) Thế chấp tàu bay, tàu biển:
d) Thế chấp một tài sản để đảm bảo thực hiện nhiều nghĩa vụ;
đ) Các trường hợp khác, nếu pháp luật có quy định”.
Quy định này ngoài việc có ý nghĩa xác định thời điểm có hiệu lực của hợp
đồng, còn có ý nghĩa quan trọng hơn đối với các chủ thế tham gia, là xác định thứ tự
ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản trong giao dịch.
Như vậy, hợp đồng vi phạm hình thức là trường hợp pháp luật có quy định

hình thức hợp đồng phải được thể hiện dưới dạng nhất định nhưng khi giao kết đã
không thực hiện đúng dạng hợp đồng đó. Như pháp luật quy định hợp đồng bảo
hiểm phải ký kết bằng văn bản mà lại ký kết bằng lời nói, hay hợp thế chấp tàu biển
buộc phải đăng ký nhưng không đăng ký.
1.2.4 Hợp đồng vô hiệu do vi phạm sự tự nguyện
Tự nguyện là nguyên tắc pháp lý cơ bản của pháp luật dân sự (Điều 4 BLDS
2005). Tự nguyện trong hợp đồng là sự tự nguyện trong việc xác lập thực hiện hợp
đồng, chủ thể tham gia tự mình quyết định có tham gia hay không tham gia vào hợp
đồng theo ý chí của bản thân mà không phải chịu sự chi phối, tác động, can
thiệp chủ quan nào từ những người khác. Theo quy định của BLDS 2005 hợp đồng
bị coi là vi phạm sự tự nguyện nếu thuộc các trường hợp sau đây:
Thứ nhất, hợp đồng giả tạo. Hợp đồng giả tạo là hợp đồng không phản ánh
đúng bản chất, sự thật của hợp đồng, hợp đồng này tạo lập chỉ để che dấu, trốn tránh
Page 8


Hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu

một giao dịch khác. Trong cuốn Bình luận Bộ luật Dân sự Việt Nam, Hoàng Thế
Liên viết hợp đồng dân sự giả tạo là hợp đồng “mà trong đó, việc thể hiện ý chí ra
bên ngoài khác với ý chí nội tâm và kết quả thực hiện của các bên tham gia”.
Điều 129 BLDS 2005 quy định hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo là hợp
đồng mà các bên xác lập “nhằm che dấu một giao dịch khác thì hợp đồng giả tạo vô
hiệu, còn giao dịch bị che giấu vẫn có hiệu lực trừ trường hợp giao dịch đó cũng bị
vô hiệu theo quy định của luật này”. Trường hợp hợp đồng giả tạo “nhằm trốn
tránh nghĩa vụ đối với người thứ ba thì hợp đồng đó vô hiệu”.
Thứ hai, hợp đồng được xác lập do bị nhầm lẫn. Nhầm lẫn được hiểu là sự
không trùng hợp ý chí của chủ thể được thể hiện với mong muốn của chủ thể đó.
Nhầm lẫn trong xác lập, giao kết hợp đồng là trường hợp không có sự thống nhất
giữa ý chí và sự thể hiện ý chí, cụ thể là những thỏa thuận, cam kết không phản ánh

đúng những gì mà các chủ thể xác lập đã biết và mong muốn đạt được. Theo quy
định tại Điều 131 BLDS 2005 thì hợp đồng dân sự bị nhầm lẫn bị tuyên vô hiệu khi:
hợp đồng này nhầm lẫn về nội dung, sự nhầm lẫn này là do hành vi có lỗi vô ý của
một bên, sau khi bên bị nhầm lần đã yêu cầu bên kia thay đổi nội dung nhưng bên
kia không chấp nhận thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu.
Thứ ba, hợp đồng xác lập do bị lừa dối. Điều 132 BLDS quy định: “Lừa dối
trong giao dịch dân sự là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm
làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của
giao dịch nên đã xác lập giao dịch đó”. Theo quy định này những hành vi bị coi là
lừa dối nếu có các dấu hiệu như: có hành vi của một bên hoặc bên thứ ba cung cấp
thông tin sai sự thật, nội dung lừa dối là về chủ thể, tính chất của đối tượng, nội
dung của giao dịch.
Thứ tư, hợp đồng xác lập do bị đe dọa. Điều 132 quy định “Đe dọa trong
giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải
thực hiện giao dịch nhằm tránh thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín,
nhân phẩm, tài sản của mình hoặc cha, mẹ, vợ, chồng, con của mình”. Sự đe dọa ở

Page 9


Hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu

đây có thể được thực hiện bằng hành vi bạo lực vật chất hoặc tinh thần, làm
cho bên kia sợ hãi, tê liệt tinh thần mà phải giao kết hợp đồng trái với ý chí, mong
muốn của mình. Hành vi đe dọa này có thể được thực hiện bởi một bên của giao
dịch hoặc bởi một người thứ ba nhằm buộc người khác phải giao kết hợp đồng với
mình, người bị đe dọa là người buộc phải xác lập hợp đồng với bên kia.
Thứ năm, xác lập hợp đồng trong lúc không nhận thức, điều khiển được
hành vi. Đây là trường hợp một người có năng lực hành vi dân sự dân sự đã giao kết
hợp đồng vào thời điểm người đó không nhận thức và làm chủ được hành vi của

mình. Thời điểm mà một người trong tình trạng không nhận thức và làm chủ được
hành vi của mình là khi người đó đang trong tình trạng bị bệnh tâm thần, bệnh thần
kinh tới mức không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình, hoặc người đó
đang sử dụng chất kích thích, chất ma túy dẫn đến việc mất khả năng nhận thức tạm
thời…khi cá nhân rơi vào những trường hợp này thì những hợp đồng mà họ đã giao
dịch có thể bị vô hiệu, vì khi giao kết hợp đồng không có sự tự nguyện của chủ thể
tham gia.
Như vậy, khi một hợp đồng được giao kết mà không có sự tự nguyện của các
bên tham gia thì hợp đồng đó có thể bị vô hiệu.
1.3

Tuyên bố hợp đồng vô hiệu

1.3.1 Chủ thể có quyền tuyên bố hợp đồng vô hiệu và chủ thể có quyền yêu
cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu
Theo quy định của BLDS 2005 thì thẩm quyền xem xét và tuyên bố hợp
đồng vô hiệu thuộc về Tòa án. Việc tuyên bố hợp đồng vô hiệu của Tòa án thường
được áp dụng trong trường hợp hợp đồng vô hiệu tương đối, còn đối với hợp đồng
vô hiệu tuyệt đối thì không cần Tòa án phải tuyên bố hợp đồng vô hiệu thì hợp đồng
đó vẫn bị coi là vô hiệu. Thông thường các bên tự thỏa thuận với nhau không thực
hiện hợp đồng nữa khi hợp đồng vô hiệu tuy nhiên, cũng có nhiều trường hợp các
bên phải nhờ đến sự can thiệp của cơ quan có thẩm quyền để giải quyết vì như thế
sẽ đảm bảo an toàn hơn, có tính cưỡng chế cao hơn. Hiện nay, theo quy định tại
BLDS 2005 thì Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền xem xét và tuyên bố hợp
Page 10


Hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu

đồng vô hiệu, quy định này còn thiếu sót vì Trọng tài cũng có thẩm quyết giải quyết

về hợp đồng vô hiệu. Điều 2 Luật Trọng tài Thương mại quy định: “Thẩm quyền
giải quyết các tranh chấp của Trọng tài:
1. Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại.
2. Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có
hoạt động thương mại.
3. Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được
giải quyết bằng Trọng tài”.
Theo pháp luật của nước ta hiện nay, những tranh chấp thương mại thường
được giải quyết bằng một trong hai con đường: Một là, giải quyết tại Tòa án theo
quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; hai là, giải quyết bằng trọng tài theo quy
định của Luật Trọng tài thương mại số 54/2010/QH12 ngày 17/6/2010. Với tình
hình quá tải trong công tác xét xử tại Tòa án thiết nghĩ chúng ta nên thừa nhận
Trọng tài cũng có thẩm quyền tuyên bố hợp đồng vô hiệu để phù hợp với quy định
của pháp luật liên quan và giảm thiểu gánh nặng cho Tòa án.
Thẩm quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu thì tùy từng trường
hợp có thể bên có quyền yêu cầu là bên có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm;
người có quyền lợi liên quan hoặc tổ chức khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công công, lợi ích nhà nước.
1.3.2 Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu
Theo quy định tại Điều 136 BLDS 2005 thì thời hiệu yêu cầu tuyên bố hợp
đồng vô hiệu như sau:
Đối với trường hợp hợp đồng vô hiệu do người chưa thành niên, người mất
năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; hợp đồng dân sự
vô hiệu do bị nhầm lẫn; hợp đồng dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa; hợp đồng
dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận và làm chủ được hành vi của mình;
hợp đồng dân sự vô hiệu do không tuân thủ quy định về hình thức thì thời hiệu là
hai năm, kể từ ngày hợp đồng được xác lập. Trong đó, thời điểm hợp đồng được xác
lập là khi các bên đặt bút ký vào hợp đồng nếu hợp đồng là văn bản, thỏa thuận
Page 11



Hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu

xong các điều khoản chủ yếu nếu hợp đồng bằng lời nói, hành vi nhận được sự đồng
ý, chấp nhận của bên được đề nghị giao kết,…nếu hợp đồng được giao kết gián tiếp.
Đối với trường hợp hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật,
trái đạo đức xã hội; hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo thì thời hiệu là không bị hạn
chế.
CHƯƠNG 2
HẬU QUẢ PHÁP LÝ KHI HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU
2.1 Khái niệm hậu quả pháp lý
Theo cách hiểu thông thường chúng ta thường nghĩ hậu quả là kết quả không
tốt của một việc làm, một hành động nào đó. Ví dụ như: hậu quả của chiến tranh;
hậu quả của thiên tai, lũ lụt; hậu quả của việc sử dụng chất kích thích; hậu quả do
kinh tế lạm phát…Như chúng ta thấy thì khi nói đến hậu quả thì chúng ta nói đến
một kết quả không hay từ một hành vi, sự việc nào đó. Như vậy, hậu quả trước hết
phải là một kết quả và kết quả đó xuất phát từ một hành vi, sự việc xảy ra trước đó.
Tuy nhiên, không phải tất cả mọi kết quả đều là hậu quả, hậu quả chỉ là một phần
không hay, không tốt của kết quả mà thôi. Tùy từng trường hợp khác nhau mà có
những hậu hậu quả khác nhau, ví dụ: sau một trận động đất đã để lại những hậu quả
kinh tế như là có khoảng 200 ngôi nhà bị phá hủy, hơn 5000 km đường giao thông
bị hư hỏng chẳng hạn; hay hậu quả về tính mạng sức khỏe thì có bao nhiêu người
thiệt mạng và bao nhiêu người bị thương. Hậu quả pháp lý được hiểu là những biện
pháp pháp lý do pháp luật quy định áp dụng để xử lý các hành vi vi phạm. Đối với
những hành vi vi phạm pháp luật thì để lại những hậu quả pháp lý và tùy từng lĩnh
vực pháp luật khác nhau mà có những hậu quả pháp lý khác nhau. Ví dụ: hậu quả
của một hành vi vi phạm pháp luật hình sự thì sẽ khác với một hành vi vi phạm
pháp luật hành chính, kinh tế… thậm chí ngay cả trong cùng một lĩnh vực nhưng
hậu quả của mỗi hành vi vi phạm khác nhau thì hậu quả cũng sẽ khác nhau, ví dụ
như hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu khác với hậu quả của viêc hủy bỏ hợp

đồng hay đơn phương chấm dứt hợp đồng.

Page 12


Hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu

Như vậy, hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu là hệ quả pháp lý phát sinh,
thay đổi, chấm dứt theo quy định của pháp luật trong trường hợp hợp đồng vô hiệu.
2.2 Hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu
Khi một hợp đồng dân sự bị vô hiệu thì sẽ không làm phát sinh, thay đổi,
chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên kể từ thời điểm xác lập. Khi hợp đồng dân
sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì
đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì hoàn trả bằng tiền, trừ trường
hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp
luật. Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường (Điều 137 BLDS). Như vậy khi một
hợp đồng dân sự bị vô hiệu sẽ làm phát sinh nhiều hậu quả pháp lý khác nhau: giá
trị hiệu lực của hợp đồng, các khoản lợi ích đã chuyển giao và thu được từ hợp
đồng, thiệt hại thực tế đã gây ra cho các bên khi hợp đồng vô hiệu… Sau đây, chúng
ta cùng phân tích những hậu quả pháp lý sẽ phát sinh khi một hợp đồng dân sự bị vô
hiệu.
2.2.1 Về mặt giá trị pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu
Hợp đồng dân sự vô hiệu thì không làm không làm phát sinh, thay đổi, chấm
dứt quyền và nghĩa vụ của các bên kể từ thời điểm xác lập, có nghĩa là hợp đồng
không còn giá trị pháp lý kể từ thời điểm xác lập. Tuy nhiên, không phải hợp đồng
nào cũng được phát hiện là vô hiệu ngay từ thời điểm được xác lập, nên việc giải
quyết hậu quả của hợp đồng dân sự vô hiệu cũng khác nhau.
Nếu hợp đồng đã được xác lập mà chưa thực hiện thì các bên không được
tiếp tục thực hiện hợp đồng nữa; nếu hợp đồng đã được thực hiện một phần thì
không được thực hiện nữa và các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận; nếu hợp

đồng đã được thực hiện xong thì các bên phải hoàn trả lại cho nhau những gì đã
nhận và phải khôi phục lại tình trạng ban đầu.
Như vậy, khi một hợp đồng vô hiệu thì hợp đồng đó sẽ không còn giá trị
pháp lý nữa. Trường hợp, hợp đồng vô hiệu do vi phạm về hình thức của hợp đồng
theo quy định tại Điều 134 BLDS 2005 thì khi có yêu cầu của một hoặc các bên,
Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc các bên thực hiện quy định về
Page 13


Hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu

hình thức của hợp đồng trong một thời hạn nhất định, quá thời hạn đó mà không
thực hiện thì hợp đồng vô hiệu.
Như vậy, trong trường hợp vi phạm về hình thức của hợp đồng, hợp đồng đó
không bị vô hiệu ngay mà các bên được có một thời gian để thực hiện quy định về
hình thức của hợp đồng đó, nếu thực hiện quy định về hình thức của hợp đồng trong
thời hạn thì hợp đồng đó được công nhận, nếu như quá thời hạn mà không thực hiện
quy định thì mới bị vô hiệu.
2.2.2 Về mặt lợi ích vật chất
Khi hợp đồng vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu và
hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận. Nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì
hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch
thu theo quy định của pháp luật.
“Tình trạng ban đầu” là tình trạng tồn tại liền trước thời điểm xác lập hợp
đồng. Khi hợp đồng chưa xác lập thì không có phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các
bên, nên luật đã quy định hiệu lực ở đây là kể từ thời điểm xác lập mà không phải là
từ thời điểm phát hiện hợp đồng vô hiệu hay thời điểm Tòa án tuyên hợp đồng vô
hiệu, luật quy định như vậy còn với mục đích là vô hiệu hóa những nội dung trong
hợp đồng mà các bên đã thực hiện.
“Hoàn trả cho nhau những gì đã nhận” các bên phải trả lại cho nhau toàn bộ

những gì đã nhận, trên thực tế hậu quả pháp lý này chỉ áp dụng cho những trường
hợp hợp đồng đã được thực hiện một phần hoặc toàn bộ nhưng bị tuyên vô hiệu,
còn đối với hợp đồng chưa được thực hiện, thì bởi vì các bên chưa thực hiện quyền
và nghĩa vụ gì với nhau nên các bên chưa nhận gì từ nhau nên không thể hoàn trả
cho nhau những gì đã nhận được. Vì vậy, hậu quả này không phải trong trường hợp
hợp đồng vô hiệu nào cũng được áp dụng.
Khi hoàn trả thì các bên hoàn trả cho nhau toàn bộ những gì đã nhận, tuy
nhiên, không phải trường hợp nào cũng có thể hoàn trả được những gì đã nhận. Vì
thời gian từ thời điểm ký kết hợp đồng cho đến khi hợp đồng bị tuyên vô hiệu là
một khoảng thời gian khá dài, nên tài sản lúc này có thể không còn hoặc giá trị sử
Page 14


Hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu

dụng đã thay đổi, hoặc tài sản phải hoàn trả là vật đặc định không còn tồn tại, hoặc
một công việc đã được thực hiện. Vì vậy, các nhà làm luật đã quy định thêm “nếu
không hoàn trả được bằng hiện vật thì hoàn trả bằng tiền”, điều khoản này tạo nên
một hành lang pháp lý mới chặt chẽ hơn khi giải quyết vụ việc. Tuy nhiên, việc
hoàn trả bằng tiền cũng đặt ra một số vấn đề cần phải chú ý, đó là việc xác định giá
trị tài sản phải hoàn trả được tính như thế nào? Giá trị tài sản đó được xác định tại
thời điểm nào?, tại thời điểm ký kết hợp đồng hay tại thời điểm hợp đồng bị tuyên
vô hiệu? Trường hợp nào thì được xem là không hoàn trả được bằng hiện vật.Trên
thực tế việc này thường do các bên thỏa thuận với nhau.
Ở các nước theo hệ thống thông luật và luật dân sự, trong trường hợp vật đặc
định bị mất hoặc thực hiện một dịch vụ, thì được giải quyết bằng các học thuyết
“thực hiện công việc không có ủy quyền”, “được lợi không chính đáng”, “coi như
không có hợp đồng”. Theo những học thuyết này, người đã nhận tài sản hoặc tiền
một cách không công bằng hoăc được lợi một cách không chính đáng phải hoàn trả
tài sản hoặc tiền cho người chủ sở hữu hợp pháp để không làm giàu bất chính hoặc

có quyền sử dụng tài sản không công bằng. Khi này, để được hoàn trả lại nguyên
đơn phải chứng minh bị đơn được lợi bất chính và sự được lợi đó phải được
thiết lập trên phí tổn của nguyên đơn hoặc do sự vi phạm các quyền của nguyên
đơn. Phạm vi hoàn trả được giới hạn ở khoản bị đơn được lợi chứ không phải là các
tổn thất của nguyên đơn.
Việc xác định giá trị tài sản cũng khó xác định trong trường hợp giá trị của
tài sản bị giảm sút hoặc được tăng lên thì xác định như thế nào? Theo quan điểm
của pháp luật Pháp, Mỹ tài sản được hoàn trả là tài sản thực tế các bên đã nhận được
từ nhau và có giá trị tai thời điểm giao kết. Khi tài sản mà các bên đã nhận mà tài
sản đã được sử dụng hoăc giá trị tài sản đã bị giảm so với ban đầu thì trong hệ thống
pháp luật Pháp có quy định giải quyết như sau:


Thứ nhất, nếu tài sản đã được sử dụng và bên nhận tài sản đã làm cho

tình trạng của tài sản xấu đi thì trong trường hợp này nguyên đơn có quyền từ chối

Page 15


Hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu

không nhận lại tài sản hoặc có thể nhận lại tài sản đồng thời yêu cầu bên kia bồi
thưởng thiệt hại.


Thứ hai, nêu bên hoàn trả lại tài sản đã sử dụng tài sản nhưng lại làm

tăng giá trị của tài sản thì khi hoàn trả lại tài sản bên hoàn trả có quyền yêu cầu bồi
thường những chi phí hợp lý để làm tăng giá trị sử dụng của tài sản.

Việc hoàn trả tài sản là hiện vật cũng khác khi hoàn trả lại tài sản là dịch vụ.
Thông thường, việc hoàn trả một tài sản dễ thực hiện hơn hoàn trả một dịch vụ.
Trong trường hợp này việc hoàn trả được giải quyết bởi chế định được lợi không có
căn cứ pháp luật. Được lợi không có căn cứ pháp luật là phát sinh quyền tài sản mà
trước đó họ không có, không dựa trên cơ sở pháp luật nào. Người được lợi về tài
sản có nghĩa vụ phải hoàn trả lại cho chủ sở hữu tài sản đó. Người phải hoàn trả lại
tài sản trong trường hợp này là sự được lợi về tài sản của một người đồng thời gây
ra sự thiệt thòi tương ứng của một người khác và sự được lợi này không có căn cứ
pháp luật.
Đối với tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được theo quy định tại BLDS
1995 thì khi hợp đồng vi phạm điều cấm thì tài sản, hoa lợi, lợi tức bị tịch thu sung
quỹ nhà nước. Tuy nhiên, BLDS 2005 đã bỏ quy định này vì: trong thực tiễn xét xử
các hành vi bị pháp luật cấm như: mua bán ma túy, mua bán tàng trữ vũ khí quân
dụng quân dụng,… đều bị coi là tội phạm và bị xử lý về hình sự. Bên cạnh đó, một
số hành vi vi phạm các điều cấm của pháp luật hoặc các hành vi trái đạo đức xã hội
thì cũng có thể bị xử phạt hành chính, trong đó có biện pháp sung công. Như vậy,
khi các hành vi đó đã bị áp dụng các biện pháp xử lý về hình sự hoặc hành chính
(phạt tù, phạt tiền, tịch thu sung công, tiêu hủy) thì việc áp dụng chế tài sung công
của BLDS 1995 khi hợp đồng vô hiệu do vi phạm điều cấm, trái đạo đức xã hội là
trùng lặp với chế tài hình sự, chế tài hành chính. Ngoài ra, biện pháp tịch thu sung
công không phải là một chế tài dân sự.
2.2.3 Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hợp đồng bị vô hiệu
Khi một hợp đồng bị vô hiệu có thể gây tổn thất về vật chất hoặc tinh thần
cho các bên. Thường thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng không bao
Page 16


Hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu

gồm bồi thường thiệt hại về tinh thần. Tuy nhiên, trong trường hợp bồi thường thiệt

hại đối với hợp đồng vô hiệu không phải là trường hợp bồi thường thiệt hại trong
hợp đồng nên bồi thường thiệt hại về tinh thần được xem xét. Để có thể được bồi
thường thì bên bị thiệt hại phải có đầy đủ những căn cứ sau đây:


Phải có thiệt hại xảy ra;



Hành vi gây thiệt hại phải là hành vi trái pháp luật;



Phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật gây ra thiệt

hại và thiệt hại xảy ra;


Phải có lỗi của người gây thiệt hại.

Yếu tố lỗi và trách nhiệm bồi thường có mối quan hệ với nhau: lỗi là một
trong những cơ sở làm phát sinh trách nhiệm bồi thường, tỉ lệ lỗi tương ứng với
mức độ bồi thường. Yếu tố trên được vận dụng triệt để để xác định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do hợp đồng vô hiệu gây ra. Chúng ta phải xác định bên nào có lỗi,
bên nào bị thiệt hại để xác định chủ thể phải bồi thường và chủ thể được bồi thường.
Nếu lỗi chỉ do một bên gây ra thì bên đó phải bồi thường toàn bộ thiệt hại do mình
gây ra, còn nếu các bên đều có lỗi thì tùy theo mức độ lỗi mà các bên phải bồi
thường theo mức độ lỗi mà mình đã gây ra.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại có ý nghĩa hạn chế, khắc phục những thiệt
hại, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng các bên, bên cạnh đó là nhằm khuyến khích

các bên thực hiện đúng quy định pháp luật vì khi có lỗi và gây ra thiệt hại thì bị
ràng buộc nghĩa vụ bồi thường thiệt hại. Ngoài ra trách nhiệm này cũng bổ sung cho
việc hoàn trả cho nhau những gì đã nhận để giúp khôi phục lại tình trạng ban đầu.
2.2.4 Bảo vệ quyền lợi cho người thứ ba ngay tình khi hợp đồng vô hiệu
Theo quy định tại Điều 138 BLDS 2005 thì trong trường hợp mà hợp đồng
vô hiệu nhưng, tài sản giao dịch là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu đã
được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch
với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp quy định tại Điều 257 của Bộ luật
này.

Page 17


Hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu

Trong trường hợp tài sản giao dịch là bất động sản hoặc là động sản phải
đăng ký quyền sở hữu đã được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người thứ
ba ngay tình thì giao dịch với người thứ ba bị vô hiệu, trừ trường hợp người thứ ba
ngay tình nhận được tài sản này thông qua đấu giá hoặc giao dịch với người mà
theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản
nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do bản án, quyết định bị
hủy, sửa. So với BLDS 1995 thì BLDS 2005 có nhiều điểm tiến bộ hơn, đó là
BLDS 2005 đã phân biệt tài sản trong hợp đồng vô hiệu thành hai loại là tài sản
phải đăng ký quyền sở hữu và tài sản không phải đăng ký quyền sở hữu, bên cạnh
đó cũng quy định cách thức giải quyết trong hai trường hợp khác nhau.
Trường hợp thứ nhất, đối với tài sản giao dịch là động sản không phải đăng
ký quyền sở hữu thì theo quy định khi tài sản này đã được chuyển giao bằng giao
dịch có đền bù khác cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch đó với người thứ ba có
hiệu lực, trừ trường hợp quy định tại Điều 257 BLDS 2005 là:



Hợp đồng không có đền bù với người không có quyền định đoạt tài



Hợp đồng có đền bù nhưng tài sản bi đánh cắp, bị mất;



Hợp đồng có đền bù nhưng tài sản bị ciếm giữ ngoài ý chí của chủ sở

sản;

hữu.
Ví dụ: A bán ngoại tệ cho B, sau đó B bán lại cho Ngân hàng C. Trong
trường hợp này C là người thứ ba ngay tình, nên giao dịch của C là có hiệu lực, do
đây là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu và giao dịch này có đền bù. Còn
hợp đồng mua bán giữa Avà B vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật về giao
dịch ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam theo quy định của Pháp lệnh ngoại hối.
Trường hợp thứ hai, đối với giao dịch là tài sản phải đăng ký quyền sở hữu,
theo quy định khi tài sản đó được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người
thứ ba ngay tình thì giao dịch đó với người thứ ba vô hiệu, trừ trường hợp:


Người thứ ba nhận được tài sản này thông qua bán đấu giá.

Page 18


Hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu




Giao dịch với người mà bản án, quyết định cơ quan nhà nước có thẩm

quyền là chủ sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài
sản do bản án, quyết định bị hủy, sửa.
Như vậy, pháp luật chủ yếu bảo vệ người thứ ba ngay tình trong trường hợp
tài sản không phải đăng ký quyền sở hữu, còn đối với tài sản phải đăng ký quyền sở
hữu thì pháp luật bảo vệ ở mức hạn chế hơn. Mục đích của quy định này là để bảo
vệ các quan hệ xã hội đã thiết lập trước đó để tránh có sự xáo trộn xảy ra. Ngoài ra,
cũng do người thứ ba trong trường hợp này là ngay tình, có nghĩa là họ không biết
hoặc không buộc phải biết tài sản giao dịch có hợp pháp hay không. Nên pháp luật
pháp luật cần phải bảo vệ họ trong trường hợp này, khi tài sản này không phải đăng
ký và họ không biết và cũng không buộc phải biết tính hợp pháp của tài sản này.
Còn với tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, họ sẽ biết được tính hợp pháp của tài
sản đó nên pháp luật hạn chế trong việc bảo vệ quyền lợi của người thứ ba trong
trường hợp này.
2.3 Bất cập khi xử lý hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu
Như vậy, khi hợp đồng dân sự vô hiệu thì theo quy định tại Điều 137 BLDS
2005 thì hợp đồng vô hiệu dẫn đến hậu quả là hợp đồng đó không làm phát sinh
quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập. Về hậu quả pháp lý
này như đã phân tích ở trên thì hậu quả này dễ giải quyết, khi hợp đồng bị vô hiệu
thì hợp đồng sẽ không được thực hiện nữa nếu như đang thực hiện, còn chưa thực
hiện thì không phải thực hiện, hợp đồng không có giá trị pháp lý. Việc xử lý hậu
quả của hợp đồng vô hiệu khó khăn đối với khoản 2 Điều 137 “các bên hoàn trả cho
nhau những gì đã nhận; nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả
bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo
quy định của pháp luật. Bên có lỗi phải bồi thường”. Khi đọc chúng ta thấy điều
khoản này đã rất rõ ràng và dễ thực hiện nhưng thực tế thì lại có nhiều khó khăn khi

áp dụng.
Khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận

Page 19


Hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu

Trong thực tiễn áp dụng thì “khôi phục lại tình trạng ban đầu” được hiểu
đồng nhất với “hoàn trả cho nhau những gì đã nhận” nhưng hai khái niệm này lại
hoàn toàn khác nhau. Hai việc này khác nhau và không phải hoàn trả cho nhau
những gì đã nhận thì sẽ khôi phục lại được tình trạng ban đầu. Tòa án buộc các bên
khôi phục lại tình trạng ban đầu khi tài sản được hoàn trả không đúng với hiện trạng
tại thời điểm xác lập hợp đồng như vì tài sản đã bị hư hỏng, giá trị tài sản bị giảm
sút; tài sản đã được tu sửa, cải tạo làm tăng giá trị.
Đối với trường hợp các tài sản bị hư hỏng, giá trị tài sản bị giảm sút thì tài
sản đó phải được sửa chữa, phục hồi lại, câu hỏi đặt ra là đối với trường hợp thứ hai
khi tài sản đã được nâng cấp, cải tạo làm tăng giá trị thì có cần thiết phải phục hồi
tài sản trở về tình trạng ban đầu hay không? Trong thực tiễn xét xử cho thấy có
nhiều trường hợp bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã xây dựng công
trình, nhà ở trên đất khi hợp đồng bị vô hiệu, Tòa án buộc bên nhận chuyển nhượng
phải tháo dỡ công trình đã xây dựng trên đất để trả lại hiện trạng ban đầu. Mặc dù
trường hợp này chúng ta sẽ thực hiện được nhưng sẽ gây lãng phí rất lớn, khi đã bỏ
ra chi phí để xây dựng rồi lại phải bỏ ra một khoản chi phí lớn nữa để dỡ bỏ công
trình đó. Quy định “khôi phục lại tình trạng ban đầu” không thể thực hiện được
trong trường hợp đối tượng của hợp đồng là công việc đã được thực hiện, “các bên
hoàn trả cho nhau những gì đã nhận” đây là một công việc đã được thực hiện nên
việc hoàn trả lại không thể thực hiện được.
Quy định này có mục đích khôi phục lại tình trạng ban đầu của tài sản do của
các bên như trước khi giao kết hợp đồng, nhưng việc khôi phục lại như ban đầu,

hoàn trả cho nhau những gì đã nhận chỉ có thể áp dụng khi đối tượng hợp đồng còn
nguyên vẹn, chưa có hoặc ít có sự biến đổi. Khi tài sản đã được chuyển giao nhưng
không thể hoàn trả thì pháp luật đã đưa ra giải pháp là hoàn trả số tiền tương đương,
dù như vậy là vi phạm quy định về việc không công nhân quyền và nghĩa vụ của

Page 20


Hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu

các bên khi Tòa án đã tuyên bố hợp đồng dân sự bị vô hiệu2.. Đồng thời sẽ dẫn đến
những hệ quả sau:
Trong trường hợp đối tượng hợp đồng là tài sản không còn giữ được tình
trạng như ban đầu hay đối tượng là công việc đã được thực hiện mà có căn cứ xác
minh là hợp đồng vô hiệu thì không thể áp dụng “khôi phục lại tình trạng ban đầu”.
Thực tế cho thấy những hợp đồng vận chuyển, hợp đồng tư vấn việc hoàn trả rất
khó thực hiện. Ví dụ, hợp đồng vận chuyển có đối tượng hợp đồng được vận chuyển
đến một địa điểm khác xa so với địa điểm ban đầu, hợp dồng xây dựng khi đã thực
hiện công việc không thể bắt các bên phải phá bỏ công trình đã xây, hoàn trả lại số
tiền đã thanh toán, hay hợp đồng tư vấn thì bên được tư vấn hoàn trả lại công việc
đã được thực hiện như thế nào? Đối với hợp đồng thuê nhà, nguyên tắc xử lý khi
hơp đồng vô hiệu là các bên hoàn trả cho nhau những gì đã nhận: bên cho thuê lấy
lại nhà, bên thuê lấy lại tiền cọc. Các thỏa thuận về mất cọc, bồi thường tiền cọc
không được xem xét. Đã có nhiều bản án không buộc người cho thuê phải bồi
thường cho bên thuê, còn có một số trường hợp, khi hợp đồng bị vô hiệu Tòa án có
xem xét đến yếu tố lỗi của hai bên trong giao kết hợp đồng để phân chia trách
nhiệm bồi thường thiệt hại.
Thực tiễn xét xử cho thấy việc hoàn trả cho nhau những gì đã nhận chưa thực
sự đảm bảo được lợi ích của các chủ thể tham gia giao dịch. Đặc biệt là những giao
dịch có đối tượng là nhà ở, quyền sử dụng đất. Trong các vụ án yêu cầu tuyên bố

hợp đồng vô hiệu, bên nguyên đơn hầu hết là bên chuyển nhượng. Đối với bên
chuyển nhượng việc nhận lại đất là thỏa đáng, nhưng ngược lại bên nhận chuyển
nhượng phải trả lại đất lại là tổn thất lớn. Vì cho dù họ nhận lại được tiền nhưng họ
sẽ không mua lại được một thửa đất như lúc trước, về vị trí lô đất cũng khác, giá trị
lô đất cũng khác, giá trị đồng tiền, giá trị quyền sử dụng đất cũng khác. Mặc dù, có

2

Nguyễn Thị Thanh (2012), “Hoàn thiện các quy định về xử lý hậu quả của hợp đồng dân sự vô hiệu”,
Nghiên cứu lập pháp, số 24/2012, tr.39

Page 21


Hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu

thể bên nhận chuyển nhượng được bồi thường thiệt hại, nhưng cũng không thể bù
đắp được những tổn thất mà thực tế họ mất đi.
Việc xử lý hậu quả của hợp đồng vô hiệu cũng rất phức tạp trong trường hợp
tài sản đã được sửa chữa, cải tạo làm tăng giá trị. Theo hướng dẫn tại Nghị quyết số
01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 của Hội đồng thẩm phán “Về hướng dẫn áp
dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia
đình” đã quy định phương hướng giải quyết hậu quả pháp lý củ hợp đồng mua bán
nhà vô hiệu: “Nếu trong thời gian quản lý, bên mua đã cải tạo, sửa chữa nhà làm
tăng giá trị gắn liền với giá trị quyền sử dụng đất thì khi nhận lại nhà, bên bán phải
thanh toán cho bên mua phần giá trị tăng thêm đó, trừ trường hợp bên bán có phản
đối hoặc cơ quan có thẩm quyền không cho phép mà bên mua vẫn cố tình cải tạo,
sửa chữa nhà”; “Nếu các đương sự không thỏa thuận được về giá nhà, giá trị quyền
sử dụng đất và giá trị thiệt hại, thì Tòa án yêu cầu cơ quan chuyên môn định giá
hoặc ra quyết định thành lập hội đồng định giá. Giá nhà và giá trị quyền sử dụng đất

được xác định theo giá thị trường chuyển nhượng tại địa phương nơi có nhà, đất
đang tranh chấp đối với từng loại nhà, đất vào thời điểm xét xử sơ thẩm”. Hướng
dẫn chi tiết này chỉ áp dụng đối với hợp đồng mua bán nhà vô hiệu đối với những
hợp đồng mua bán tài sản khác không được dẫn chiếu đến.
Khoản tiền phải trả khi không hoàn trả được tài sản bằng hiện vật được xác
định như thế nào? Khi nào thì được xác định là không hoàn trả được bằng tài sản là
hiện vật? Đây cũng là vấn đề không đơn giản. Ví dụ, hợp đồng cho thuê máy móc
thiết bị bị tuyên vô hiệu, Tòa án tuyên hợp đồng vô hiệu và ra phán quyết là phải
hoàn trả lại tài sản mà tài sản đó đã bị hao mòn (bao gồm hao mòn vô hình và hao
mòn hữu hình) theo thời gian sẽ không đảm bảo quyền lợi cho bên cho thuê, nhưng
ngược lại, yêu cầu bên thuê phải thanh toán giá trị tài sản tính theo thời điểm xác
lập hợp đồng thì rõ ràng, cách giải quyết đó không đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp của bên thuê. Bởi vì, máy móc đó đã bị lạc hậu, hao mòn và bên thuê cũng đã
phải trả chi phí khấu hao tài sản trong giá thuê thiết bị.
Bên có lỗi phải bồi thường thiệt hại
Page 22


Hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu

Theo quy định tại Điều 137 BLDS 2005 thì bên có lỗi làm cho hợp đồng vô
hiệu phải bồi thường thiệt hại. Lỗi có thể chỉ do một bên, cũng có thể do cả hai bên
và vấn đề bồi thường thiệt hại cũng đặt ra tong trường hợp mức độ lỗi của hai bên
tương đương nhau. Nên vấn đề đặt ra là Tòa án phải xác định mức độ lỗi của
từng bên trong việc làm cho hợp đồng vô hiệu để xác định trách nhiệm bồi thường
thiệt hại: nếu mỗi bên đều có lỗi tương đương nhau thì mỗi bên đều phải chịu ½ giá
trị thiệt hại; nếu mức độ lỗi của họ không tương đương nhau thì trách nhiệm bồi
thường thiệt hại được xác định theo mức độ lỗi của mỗi bên.
Hiện nay, vấn đề xác định thiệt hại của hợp đồng dân sự nói chung chưa có
hướng dẫn cụ thể, nếu dựa trên các quy định tại điểm c tiểu mục 2.3 mục 2 Phần II

Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/4/2004 của Hội đồng thẩm phánTòa án
nhân dân tối cao về xác định thiệt hại của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất vô hiệu và điểm c tiểu mục 2.4 mục 2 phần I Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP
ngày 16/4/2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về xác định thiệt
hại của hợp đồng mua bán nhà ở vô hiệu, thì có thể xác định thiệt hại trong hợp
đồng vô hiệu nói chung bao gồm: khoản tiền mà các bên bỏ ra để khôi phục lại tình
trạng ban đầu khi tài sản là đối tượng của hợp đồng bị hư hỏng; khoản tiền mà các
bên bỏ ra để làm tăng giá trị của tài sản là đối tượng của hợp đồng bị vô hiệu; khoản
tiền chênh lệch giá do các bên thỏa thuận với giá trị tài sản tại thời điểm xét xử sơ
thẩm; các thiệt hại khác (nếu có)3.
Như phân tích ở trên, thì vấn đề bồi thường thiệt hại được xác định trên cơ sở
lỗi. Để xác định chủ thể nào có lỗi cũng rất khó xác định. Đối với trường hợp, hợp
đồng vô hiệu do vi phạm hình thức thì Tòa án sẽ cho các bên một thời hạn nhất định
để hoàn thiện hình thức, nếu không thực hiện đúng trong thời hạn đó thì mới có lỗi
và phải bồi thường thiệt hại. Đối với những trường hợp khác như: hợp đồng vô hiệu
do nhầm lẫn, hợp đồng vô hiệu do đối tượng của hợp đồng không thực hiện được,

3

Nguyễn Thị Thanh (2012), “Hoàn thiện các quy định về xử lý hậu quả của hợp đồng dân sự vô hiệu”,
Nghiên cứu lập pháp, số 24/2012, tr.41

Page 23


Hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu

hợp đồng vô hiệu do người giao kết không có quyền định đoạt tài sản mà bên kia
cũng biết thì việc xác định mức độ lỗi của các bên còn nhiều quan điểm tranh cãi.
Theo Nghị quyết số 01/2003/01/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 của Hội đồng thẩm

phán Tòa án nhân dân tối cao thì việc xác định lỗi của hợp đồng mua bán nhà ở,
quyền sử dụng đất căn cứ vào:
-

Một bên bị coi là có lỗi nếu bên đó có hành vi làm cho bên kia

nhầm tưởng là có đầy đủ điều kiện để mua nhà ở hoặc bán nhà, đất hợp pháp.
-

Trường hợp hợp đồng mua bán nhà, đất vô hiệu do lỗi của bên

nào thì tùy mức độ lỗi của mỗi bên để buộc các bên phải chịu thiệt hại, trừ
trường hợp vị phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội thì cần buộc các bên trả
lại cho nhau những gì đã nhận.
Tài sản giao dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của
pháp luật
Quy định này nhằm xử lý những tài sản là đối tượng của hợp đồng, nhưng
thuộc diện tài sản bị Nhà nước tịch thu, sung công. Tuy nhiên. BLDS 2005 chưa
quy định rõ thời điểm tài sản giao dich, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu là khi
nào, trước hay sau khi hợp đồng bị tuyên vô hiệu? Việc xác định thời điểm này rất
cần thiết, vì đó sẽ là một trong các căn cứ xác định chủ thể chịu trách nhiệm (đã có
trường hợp, tài sản là đối tượng của hợp đồng dân sự, những đã bị tịch thu trong
một vụ án khác, trước khi Tòa án tuyên hợp đồng này vô hiệu). Có thể nhận thấy
hợp đồng bị tuyên vô hiệu thuộc hai dạng sau:
Thứ nhất, do bản thân hợp đồng không đem lại lợi ích cho ít nhất một bên
chủ thể như mong muốn của họ. Ví dụ: hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn, hợp đồng vô
hiệu do bị lừa dối đe dọa.
Thứ hai, hợp đồng bị tuyên vô hiệu do một lý do, nhưng lý do này không làm
ảnh hưởng đến lợi ích mà các bên mong muốn. Ví dụ: hợp đồng vô hiệu do vi phạm
hình thức của hợp đồng.

Khi xử lý hậu quả của hợp đồng vô hiệu thì đối với trường hợp hợp đồng vô
hiệu ở dạng thứ nhất thì việc khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả lại cho nhau
Page 24


Hậu quả pháp lý của hợp đồng dân sự vô hiệu

những gì đã nhận sẽ đem lại lợi ích công bằng hơn cho bên có lợi ích không đạt
được. Nhưng đối với dạng thứ hai thì khi giao kết và thực hiện hợp đồng các bên đã
đạt được mong muốn của mình nên việc áp dụng một cách cứng nhắc quy định khôi
phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận rõ ràng là không
cần thiết4. Vì hợp đồng vô hiệu này không ảnh hưởng đến lợi ích của chủ thể nào.


Một vài trường hợp cụ thể

Hợp đồng vô hiệu do nhầm lẫn
Trường hợp hợp đồng vô hiệu do bị nhầm lẫn được quy định tại một điều
luật riêng, Điều 131 quy định: “Khi một bên có lỗi vô ý làm cho bên kia nhầm lẫn
về nội dung của giao dịch dân sự mà xác lập giao dịch thì bên bị nhầm lẫn có quyền
yêu cầu bên kia thay đổi nội dung giao dịch đó, nếu bên kia không chấp nhận thì
bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu”.
Điều chúng ta cần nói ở đây là, việc “thay đổi nội dung của giao dịch”, liệu
chúng ta có nên quy định như vậy hay không, nếu trong trường hợp việc thay đổi
này sẽ gây khó khăn, tốn kém cho các bên. Ví dụ, khi yêu cầu đó là không thể thay
đổi được, nếu việc nhầm lẫn xuất phát từ cả hai phía thì thi việc thay đổi nội dung
sẽ dề dàng thực hiện hơn, nhưng ngược lại nếu chỉ một bên bị nhầm lẫn thì sẽ khó
khăn hơn. Ví dụ: công ty A ký hợp đồng may đồng phục với xí nghiệp B, khi đó A
đã nhầm lẫn rằng B sẽ may đồng phục theo mẫu mới trong poster của xí nghiệp B,
còn B thì nghĩ là A đặt may mẫu đồng phục mà B đã may cho A trước kia. Hợp

đồng lại không kèm theo phụ lục kiểu mẫu sản phẩm, khi hợp đồng đang được thực
hiện thì A phát hiện sản phẩm không đúng với ý định ban đầu của A. Trong trường
hợp này, B không có lỗi, hợp đồng đã được thực hiện một phần, nếu thay đổi nội
dung của hợp đồng thì cả A và B đều bị thiệt hại. Thiết nghĩ, trong trường hợp này,
hai bên thỏa thuận lại nội dung hợp đồng cũng khó mà yêu cầu ra Tòa án tuyên bố

4

Nguyễn Thị Thanh (2012), “Hoàn thiện các quy định về xử lý hậu quả của hợp đồng dân sự vô hiệu”,
Nghiên cứu lập pháp, số 24/2012, tr.42

Page 25


×