Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Tâm lý học trong lao động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (441.8 KB, 20 trang )


TÂM LÝ HỌC LAO ĐỘNG

TÂM LÝ HỌC LAO ĐỘNG
(In lần thứ 3)
Tác giả: ĐÀO THỊ OANH
Chương 1. LAO ĐỘNG VÀ ĐỐI TƯỢNG CỦA TÂM LÍ
HỌC LAO ĐỘNG
Chương 2. HỆ THỐNG NGƯỜI - MÁY - MÔI TRƯỜNG
Chương 3. SỰ THÍCH ỨNG CỦA CON NGƯỜI VỚI
NHỮNG YÊU CẦU CỦA HỆ THỐNG
Chương 4. SỰ THÍCH ỨNG HỆ THỐNG VỚI CON
NGƯƠI
Chương 5. SỰ MỆT MỎI, CÁC TRƯỜNG HỢP BẤT
HẠNH TRONG SẢN XUẤT VÀ VẤN ĐỀ AN TOÀN LAO
ĐỘNG
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Created by AM Word2CHM


Chương 1. LAO ĐỘNG VÀ ĐỐI TƯỢNG
CỦA TÂM LÍ HỌC LAO ĐỘNG
TÂM LÝ HỌC LAO ĐỘNG

1. Khái niệm lao động
2. Cấu trúc của hoạt động lao động
3. Định nghĩa, đối tượng, nhiệm vụ của Tâm lí học lao
động
4. Tâm lí học lao động với các chuyên ngành tâm lí học
khác và với các khoa học khác về lao động
5. Sơ lược lịch sử phát triển của tâm lí học lao động


6. Các phương pháp của tâm lý học lao động
Created by AM Word2CHM


1. Khái niệm lao động

TÂM LÝ HỌC LAO ĐỘNG à Chương 1. LAO ĐỘNG VÀ ĐỐI TƯỢNG CỦA TÂM LÍ HỌC
LAO ĐỘNG

Để hiểu rõ hơn đối tượng của tâm lí học lao
động (TLHLĐ) và quá trình phát triển của nó, trước hết
chúng ta phải định nghĩa khái niệm lao động và phân
tích nó một cách toàn diện.
Hiểu theo nghĩa rộng, lao động là một hoạt
động thực tiễn nào đó do con người tiến hành theo
một nhiệm vụ xác định, nhằm đạt được một mục đích
nhất định. Trong tác phẩm kinh điển "Vai trò của lao
động trong quá trình chuyển hoá từ vượn thành người",
Ph.Ăngghen đã chỉ rõ rằng: "lao động là điều kiện cơ
bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người... lao
động đã sáng tạo ra bản thân con người. [C. Mác và
Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
1994, tr 20, 641]
C.Mác đã nêu ra một định nghĩa kinh điển về
lao động và vai trò của nó trong sự hình thành con
người như sau: "Lao động trước hết là một quá trình
diễn ra giữa con người với tự nhiên một quá trình trong


đó bằng hoạt động của chính mình con người làm

trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ
và tự nhiên...". [C. Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập. Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993, tr 23, 266]
Có thể xem xét khái niệm "lao động" ở nhiều
góc độ khác nhau để hiểu rõ hơn nội dung của nó.
Trước hết, lao động của con người có tính
chất xã hội. Ngay từ đầu, lao động của con người đã là
công việc của những nhóm xã hội chứ không do một
cá nhân riêng lẻ thực hiện và mục đích của bất kỳ hình
thức lao động nào cũng có tính chất xã hội. Trong tác
phẩm "Tư bản", C.Mác đã xác định bản chất xã hội và
mục đích chung của lao động như sau: "Lao động là
một hoạt động có mục đích để tạo ra những giá trị sử
dụng".
Xét về phương diện sinh lí học, theo ý kiến
của C.Mác: "Dù các dạng lao động có ích có khác nhau
như thế nào, dù những hoạt động sản xuất có khác
nhau đến đâu thì về phương diện sinh lí học, đó vẫn là
những chức năng của cơ thể con người và mỗi một
chức năng ấy, dù nội dung và hình thức của nó như thế
nào về thực chất vẫn chỉ là sự tiêu hao não, thần kinh,


cơ bắp và các cơ quan cảm giác...". [Phạm Tất Dong,
Tâm lý học lao động - Tài liệu dùng cho học viên cao
học, viện KHGD, 1979]
Việc hiểu bản chất xã hội và bản chất sinh lí
học của lao động giúp chúng ta hiểu rõ hơn bản chất
tâm lí của lao động bởi vì cái tâm lí trong lao động
không thể tách rời và cô lập với những hiểu biết về

những bản chất đó.
Trong lao động cái tâm lí chung nhất được
bộc lộ ra là tính tích cực, tính mục đích, là những hình
ảnh nảy sinh trong đầu con người mà nhờ nó con
người xác định được kết quả hoạt động của mình.
Dù hoạt động lao động có khác nhau về mục
đích, đối tượng, công cụ và điều kiện như thế nào
chăng nữa, bao giờ nó cũng gồm hai cơ chế đặc thù:
trước hết đó là quá trình đối tượng hoá sức mạnh bản
chất của con người. Nói cho cùng, mọi sản phẩm lao
động đều là những biểu hiện cụ thể của tài năng, đức
độ, tình cảm... con người. Cái tâm lí đã hoá thân vào
toàn bộ thế giới đồ vật do con người tạo ra. Kết quả
của quá trình đối tượng hoá sức mạnh bản chất con
người trong lao động là loài người có được một nền


văn hoá xã hội - lịch sử ngày càng phát triển. Đến lượt
mình, nền văn hoá đó lại là hiện thân trực tiếp của sự
tiến hoá của loài người - một hình thức tiến hoá đặc
thù ở loài người - sự tiến hoá theo quy luật xã hội – lịch
sử. Lao động của con người cứ từng bước thay đổi thế
giới đồ vật xung quanh họ. Cứ mỗi thay đổi được ghi
dấu trong thế giới đồ vật này đều có thể được coi như
là một điều kiện góp phần vào việc tạo ra những bước
phát triển của loài người.
Song, để thực hiện được quá trình đối tượng
hoá sức mạnh bản chất của mình, con người lại phải
sử dụng công cụ lao động (mà công cụ lại là kết quả
của quá trình đối tượng hóa nói trên). Phải nắm được

cách thức sử dụng công cụ lao động thì lúc đó công cụ
mới tồn tại với đúng tư cách là một công cụ. Người ta
phải học cách sử dụng công cụ. Thực chất của quá
trình học cách sử dụng công cụ là sự lĩnh hội cái tâm lí
chứa bên trong công cụ đó. Ta gọi quá trình này là sự
người hoá sức mạnh bản chất của con người trong
lao động.

Created by AM Word2CHM


2. Cấu trúc của hoạt động lao động

TÂM LÝ HỌC LAO ĐỘNG à Chương 1. LAO ĐỘNG VÀ ĐỐI TƯỢNG CỦA TÂM LÍ HỌC
LAO ĐỘNG

Hoạt động lao động là đối tượng nghiên cứu
của nhiều khoa học trong đó có tâm lí học. Đối với các
nhà tâm lí học, điểm cơ bản trong lao động mà họ
quan tâm là tính mục đích, tính tự giác, tính tích cực
của con người. Hoạt động lao động là sự thống nhất
của cái tâm lí và cái sinh lí. Trong khái niệm hoạt động
lao động, những hiện tượng tinh thần (động cơ, mục
đích, hứng thú,...) bạo giờ cũng ở trong một thể thống
nhất hữu cơ với những biểu hiện bề ngoài của chúng
là những vận động thực hiện. Vì vậy, phải nghiên cứu
hoạt động lao động với đầy đủ những thành phần nêu
trong cấu trúc của nó.
Hoạt động lao động là một dạng hoạt động
đặc biệt của con người. Khi tiến hành lao động, con

người sử dụng công cụ, phương pháp, cách thức và
nghệ thuật sử dụng công cụ được gọi là thuật lao
động.. Hoạt động lao động của con người bao giờ
cũng nhằm đạt được một mục đích nhất định do họ tự


giác đặt ra.
Mục đích của hoạt động lao động là hình ảnh
về kết quả công việc sắp được tiến hành. Hình ảnh đó
tồn tại trong đầu óc con người trước khi họ thực sự bắt
tay vào công việc. Mục đích lao động nảy sinh trong ý
thức trên cơ sở những nhu cầu tinh thần và nhu cầu
vật chất của con người. Sự nảy sinh mục đích lao động
còn phụ thuộc vào kinh nghiệm lao động đã tích luỹ
được. Mục đích có thể là gần nhưng cũng có thể là xa.
Song, nhìn chung hoạt động lao động bao giờ cũng có
mục đích xa, bao trùm lên những mục đích gần có tính
chất bộ phận. Quá trình tiến hành một hoạt động lao
động là quá trình đạt từ mục đích bộ phận này sang
mục đích bộ phận khác cho đến khi đạt được mục đích
cuối cùng. Như vậy, ta có được một sơ đồ giản lược,
mô tả một quá trình hoạt động như sau:
Mục đích có tính chất bao trùm các mục đích
bộ phận chính là động cơ của hoạt động. Mục đích bao
trùm (động cơ) có tác dụng thúc đẩy việc thực hiện các
mục đích bộ phận được kết lại thành một hệ thống.
Chính vì vậy, khi nói đến một hoạt động, bao giờ người
ta cũng xét đến động cơ tương ứng với nó.



Một hoạt động diễn ra trong từng giai đoạn
đạt được những mục đích nhất định. Quá trình hoạt
động để đạt được mục đích bộ phận được gọi là hành
động.
Hành động là yếu tố của hoạt động, cụ thể
hơn, đó là một đơn vị của hoạt động. Kết quả của hành
động là đạt đến một
“Mục đích 1 -> Mục đích 2 -> … -> Mục đích
cuối cùng”
mục đích cụ thể nào đó mà con người đã
nhận thức được. Có thể nói, mỗi hành động bao giờ
cũng nhằm giải quyết một nhiệm vụ sơ cấp cơ bản,
nghĩa là nhiệm vụ không thể phân nhỏ hơn được nữa.
Như vậy là, muốn xem một hoạt động lao động có bao
nhiêu hành động, ta cần phải xác định có bao nhiêu
nhiệm vụ sơ cấp cơ bản trong đó, hoặc có bao nhiêu
mục đích cụ thể. Vì vậy, khi tổ chức một hoạt động sản
xuất, điều quan trọng bậc nhất là phải chỉ ra cho được
những mục đích bộ phận và trình tự đạt tới những mục
đích đó.
Trong lao động sản xuất, muốn đạt tới mục
đích, người ta cần tính xem phải hành động theo


phương thức nào (bằng công cụ gì? với những
phương tiện nào? Cách thức sử dụng công cụ ra
sao?...).
Nói đến phương thức thực hiện hành động là
nói đến thao tác Trong công nghiệp, thuật ngữ "thao
tác" có khi được dùng để chỉ một yếu tố của một quá

trình công nghệ được thực hiện trên một vị trí làm việc,
do một hoặc nhiều nhóm công nhân tiến hành để làm
ra một chi tiết hoặc một số các chi tiết được gia công
đồng thời, hoặc tạo ra một số bán thành phẩm cho
đến khi chuyển sang những chi tiết sau.
Trong hoạt động lao động, thao tác là "đơn vi
cơ động" của hành động. Một hành động có thể có một
hoặc nhiều thao tác. Nhưng, để xác định được số
lượng những thao tác trong một hành động, ta phải
căn cứ vào công cụ và phương thức thực hiện hành
động đó. Cùng một hành động, người ta có thể dùng
một hệ thống thao tác này hoặc một hệ thống thao tác
khác. Điều đó phụ thuộc vào điều kiện trang bị kỹ thuật.
Như vậy là, một hành động được tiến hành thông qua
một hoặc nhiều thao tác. Nhiều thao tác khác nhau có
thể dẫn đến một mục đích như nhau. Chính vì vậy ta
nói thao tác là đơn vị cơ động của hành động.


Nội dung của mỗi thao tác là do đặc điểm cấu
trúc của công cụ quy định. Tuỳ thuộc vào hình dáng,
kích thước và những đặc trưng cơ cấu của công cụ mà
xác định tư thế và những vận động (động tác) phù hợp.
Như vậy, trong mỗi thao tác cụ thể có một hệ thống
những tư thế và vận động riêng. Tư thế cũng có thể coi
là một dạng của động tác. Hơn nữa, động tác cũng
chưa phải là yếu tố hợp thành nhỏ nhất trong thao tác.
Người ta còn phân động tác thành những "vi động tác".
Một hành động lao động được lặp lại nhiều
lần trong quá trình luyện tập và trở nên tự động hoá

được gọi là kỹ xảo. Tuy nhiên, khi người công nhân
thực hiện thành thạo, điêu luyện các thao tác trong
hành động không có nghĩa là ý thức của họ không
kiểm tra lại cách thức tiến hành thao tác. Ta gọi là sự
tự động hoá của kỹ xảo chỉ với nghĩa là thao tác đã
thành thạo, không cần sự tập trung chú ý mà vẫn bảo
đảm độ tin cậy, độ chính xác.

Created by AM Word2CHM


3. Định nghĩa, đối tượng, nhiệm vụ của
Tâm lí học lao động
TÂM LÝ HỌC LAO ĐỘNG à Chương 1. LAO ĐỘNG VÀ ĐỐI TƯỢNG CỦA TÂM LÍ HỌC
LAO ĐỘNG

Như trên ta đã thấy, lao độnglà một hình thức
cơ bản của sự tác động qua lại có ý thức giữa con
người với hiện thực xung quanh. Hiệu quả của lao
động phụ thuộc vào rất nhiều các yếu tố bên trong và
bên ngoài. Thậm chí, các yếu tố bên ngoài (thiết bị kỹ
thuật, sự tổ chức, môi trường vật lí và xã hội v.v...) quy
định phần lớn hiệu quả lao động thông qua các yếu tố
bên trong (năng lực, tri thức, kinh nghiệm, động cơ,
hứng thú, thái độ,...).
Như vậy, nghiên cứu lao động được đặt trên
yếu tố trung tâm - con người, cần xuất phát từ việc
nhận thức các quy luật điều khiển hành vi con người
trong lao động. Theo nghĩa này, tâm lí học lao động là
một khoa học nhằm xây dựng một hệ thống tri thức

thống nhất và hệ thống hành động của con người
trong lao động. A.Roger nhấn mạnh rằng bằng vai trò
khoa học của mình, nhà tâm lí học lao động quan sát,
mô tả và tìm cách giải thích hành động của con người


trong tư cách họ những người lao động.
Đồng thời, việc hiểu một hiện tượng không
thể là một mục đích tự thân. Hiểu biết về một hiện
tượng là nhằm làm thay đổi nó cho phù hợp với những
mục đích nhất định. Chính vì vậy, tâm lí học lao động
sử dụng những hiểu biết về hành động của còn người
trong lao động cùng với những tri thức của các chuyên
ngành khoa học khác nhằm làm thay đổi lao động
theo nghĩa hoàn thiện nó.
Nói cách khác, tâm lí học lao động vừa là một
khoa học vừa là một công nghệ kỹ thuật. Việc phân biệt
hai thành phần đó trong hoạt động của nhà tâm lí học
lao động là cần thiết nhưng không nên đối lập chúng
với nhau, trong khi những hiểu biết về lao động giúp
chúng ta làm thay đổi lao động thì việc thay đổi đó sẽ
làm tăng nhận thức của chúng ta về lao động. Từ góc
độ thuần tuý tâm lí học, có thể quan tâm tới việc thiết
lập một số quan hệ giữa các chức năng tâm lí, tới việc
phát hiện một số cơ chế tâm lí của những hành động
lao động. Từ góc độ ứng dụng, có thể đưa các tri thức
thu được của tâm lí lao động vào nghiên cứu hoàn
thiện một số tiêu chuẩn đánh giá lao động. Các tiêu
chuẩn có thể rất khác nhau: sự an toàn, sự thuận tiện,



tốc độ thực hiện, thời gian học tập v.v... Để hoàn thiện
được các tiêu chuẩn này cần có sự góp phần của một
số ngành khoa học và kỹ thuật khác.
Tâm lí học lao động đề cập tới hành động lao
động nói chung. Do hoạt động của con người được
diễn ra trong các lĩnh vực rất khác nhau nên tâm lí học
lao động cũng bao hàm một phạm vi rộng lớn, gồm:
tâm lí học công nghiệp, tâm lí học giao thông, tâm lí
học nông nghiệp, tâm lí học kinh doanh, tâm lí học
hành chính.
Trong tài liệu này chúng ta chỉ quan tâm tới
tâm lí học lao động công nghiệp. Ở lĩnh vực này, hành
động lao động nằm trong phạm vi tác động tương hỗ
giữa con người - các đối tượng và môi trường vật lí, xã
hội của lao động, tức là trong hệ thống người - máy môi trường. Do đó, tâm lí học lao động công nghiệp
nhằm nghiên cứu và hoàn thiện sự tác động qua lại
này với mục đích nhân bản hoá lao động, tăng năng
suất và chất lượng lao động, sự an toàn của các hệ
thống kỹ thuật xã hội, tăng hiệu quả và tăng sự thuận
tiện trong lao động.
Trong việc nghiên cứu sự tác động qua lại


giữa người - máy và môi trường, các chức năng tâm lí
của con người (tri thức, thói quen, ý muốn, chú ý, tình
cảm, động cơ, hứng thú v.v...) đóng một vai trò đặc biệt
quan trọng. Nhưng, hiệu quả lao động không chỉ phụ
thuộc vào những khả năng hay những hạn chế của
con người, vào chất lượng các chức năng tâm lí của

người đó, mà phụ thuộc vào tất cả các yếu tố vật chất
và xã hội của môi trường lao động. Vì vậy, tâm lí học
lao động công nghiệp, trong khi nghiên cứu trước hết
là con người với tư cách là thành tố chủ yếu trong hệ
thống, đã xuất phát từ luận đề cho rằng: hiệu quả vận
hành của hệ thống người - máy - môi trường phụ
thuộc vào phương thức thích ứng lẫn nhau giữa các
thành phần của nó: người máy, môi trường vật lí và xã
hội.
Từ đó có thể rút ra được đối tượng của tâm lí
học lao động công nghiệp: nghiên cứu và áp dụng các
tri thức nhằm thích ứng, về mặt tâm lí học, con người
với máy móc, với môi trường tìm việc của mình, đồng
thời thích ứng máy móc và môi trường làm việc với
những đặc điểm tâm lí của con người. Các phương
tiện chủ yếu của sự thích ứng lẫn nhau này là: a) Định
hướng, tuyển chọn, đào tạo và thích ứng nghề nghiệp


cho con người; b) Thích ứng các đặc điểm cấu trúc và
vận hành của máy móc, các yếu tố của môi trường vật
lí và xã hội, yếu tố tổ chức lao động với những đặc
điểm tâm lí của con người. Như vậy, rõ ràng là, sự
thích ứng lẫn nhau trong hệ thống sẽ chỉ được bao
quát đầy đủ khi có sự tham gia của tất cả các bộ môn
khoa học nghiên cứu về lao động.
Như vậy, hoạt động của nhà chuyên môn
trong lĩnh vực tâm lí học lao động công nghiệp bao
gồm những vấn đề rất phong phú và đa dạng. Nhà tâm
lí học cần phân tích bản chất thao tác và hành động

của các nhiệm vụ lao động, phân tích yêu cầu của các
chức năng tâm lí trong quá trình thực hiện các nhiệm
vụ đó. Từ đây, phải nghiên cứu và xác định khả năng
cũng như những giới hạn tâm lí của con người (được
hiểu như là một kênh truyền thông tin). Trong khi lưu ý
đến cấu trúc và bản chất của các nguồn thông tin, của
tất cả cá yếu tố vật chất và xã hội, nhà tâm lí học sẽ xác
định các cơ chế tâm lí của những hành động đúng và
những hành động sai, xác định mức độ huy động tối
ưu, sự yêu cầu một cách hợp lí và cân bằng của các
chức năng tâm lí và những khả năng sáng tạo của
người lao động.


Trên cơ sở những nghiên cứu này, chuyên
gia tâm lí học lao động phải xác lập họa đồ tâm lí nghề
nghiệp với những yêu cầu của công việc, xây dựng các
phương pháp đo nghiệm nhằm kiểm tra năng lực và
nhân cách của những người dự tuyển để tuyển dụng
và đào tạo nghề nghiệp (hướng nghiệp, lựa chọn,
hướng nghiệp lại, phân phối, huy động). Tương tự,
phải đề ra các yêu cầu, phương pháp và những tiêu
chuẩn đào tạo nghề nghiệp cũng như đánh giá việc
đào tạo và hoà nhập nghề nghiệp.
Đồng thời, cùng với những chuyên gia khác
trong lĩnh vực nghiên cứu lao động, nhà tâm lí học lao
động công nghiệp góp phần làm cho các thiết bị kỹ
thuật, các yếu tố môi trường và tổ chức phù hợp và
những khả năng cũng như hạn chế của con người
(trong giai đoạn thiết kế hoặc chỉnh sửa những hệ

thống hiện có, trong việc phân bố các chức năng thao
tác giữa người và máy). Và, vì người công nhân là
thành viên của một tập thể lao động cho nên cần thiết
phải nghiên cứu phân công nhiệm vụ một cách hợp lí,
nghiên cứu tổ chức các mối quan hệ người - người,
nghiên cứu sự tác động và giáo dục các động cơ, thái
độ cho người lao động.


Trên đây đã trình bày về cơ bản các hướng
chính của toàn bộ vấn đề mà nhà tâm lí học lao động
công nghiệp quan tâm nghiên cứu.
Qua việc tìm hiểu đối tượng và những nhiệm
vụ cơ bản của tâm lí học lao động, ta có thể khẳng
định rằng, tri thức của khoa học này rất cần thiết cho
nhiều nhà chuyên môn của nhiều lĩnh vực khác nhau
như tâm lí học, giáo dục học, y học, kỹ thuật... Chính vì
vậy, ở nước ta hiện nay, nghiên cứu tâm lí học lao
động là cần thiết đối với nhiều người. Công việc đó có
liên quan và ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả lao động
nhằm xây dựng công nghiệp hiện đại, đẩy mạnh nhịp
độ sản xuất xã hội chủ nghĩa.

Created by AM Word2CHM


4. Tâm lí học lao động với các chuyên
ngành tâm lí học khác và với các khoa
học khác về lao động
TÂM LÝ HỌC LAO ĐỘNG à Chương 1. LAO ĐỘNG VÀ ĐỐI TƯỢNG CỦA TÂM LÍ HỌC

LAO ĐỘNG

4.1. Với các chuyên ngành tâm lí học khác
Trong hệ thống các khoa học tâm lí hiện đại,
tâm lí học lao động thuộc vào một trong những chuyên
ngành phát triển mạnh nhất. Những vấn đề lí luận và
thực tiễn mà tâm lí học lao động đề cập tới ngày càng
được mở rộng. Tính chất ứng dụng của nó ngày càng
đa dạng. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của
mình, tâm lí học lao động luôn luôn nằm trong một
quan hệ và tác động qua lại mật thiết với các chuyên
ngành tâm lí học khác cũng như với các khoa học lân
cận.
Tâm lý học lao động có quan hệ qua lại với
Tâm lí học đại cương. Giữa chúng có sự chuyển đổi
lẫn nhau ở hai nghĩa: từ tâm lí học lao động đến tâm lí
học đại cương và ngược lại. Đối với tâm lí học đại
cương, tâm lí học lao động là một chuyên ngành đề
cập thường xuyên và cụ thể tới một hoạt động chủ yếu
của con người - hoạt động lao động đến lượt mình,



×