Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

QLVH xã hội hoá hoạt động văn hoá ở thành phố lào cai hiện nay thực trạng và giải pháp tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.09 KB, 24 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn hoá là một trong bốn lĩnh vực quan trong của xã hội - một thành tố
tất yếu của sự phát triển. Do vậy, việc xây dựng, phát huy nền văn hoá Việt Nam
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc đồng thời với giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối
sống đã trở nên cấp thiết và vô cùng quan trọng, đặc biệt trong giai đoạn hiện
nay. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khoá VIII của Đảng đã khẳng định:
Phải xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn
hoá dân tộc. Đến Đại hội IX, Đảng ta một lần nữa nhấn mạnh “Tăng trưởng kinh
tế đi đôi với phát triển văn hoá và giáo dục, xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân”.
Lào cai là một tỉnh miền núi với nhiều dân tộc anh em sinh sống. Cùng
với cả nước thực hiện tốt Nghị quyết của các kỳ Đại hội, trong thời gian qua,
hoạt động xã hội hoá văn hóa ở thành phố Lào Cai phát triển mạnh cả về số
lượng cũng như chất lượng của các loại hình, mang đến cho nhân dân cuộc sống
và diện mạo mới, đặc biệt là vấn đề kinh tế, chính trị xã hội, người dân từ trung
tâm thành phố đến đồng bào các xã, vùng sâu, vùng xa được tham gia, tiếp cận
với hoạt động này một cách tích cực. Điều này góp phần nâng cao dân trí cho
đồng bào các dân tộc trên địa bàn tỉnh Lào Cai nói chung và đồng bào thành phố
lào Cai nói riêng.
Tuy nhiên, hoạt động xã hội hoá văn hoá ở Lào Cai đang là một vấn đề
được các cấp uỷ đảng quan tâm. Đó là sự phát triển ồ ạt, không đồng bộ, nhiều
khi chồng chéo, mạng lưới cơ sở hạ tầng yếu không đáp ứng với sự phát triển
đó, đội ngũ cán bộ thiếu chuyên môn, nghiệp vụ dẫn đến công tác quản lý còn
hạn chế, một số cấp uỷ, chính quyền chưa quan tâm đến các loại hình xã hội hoá
các hoạt động văn hoá, đặc biệt là sự quản lý của hệ thống văn hoá ở các xã,
1


phường vùng sâu, vùng xa. Vì vậy, chưa phát huy hết được vai trò của các loại


hình và tinh thần tự nguyện của nhân dân. Có hình thức thúc đẩy các hoạt động
văn hoá phát triển đúng hướng, song không ít các hình thức gây nên các hoạt
động tuỳ tiện, lộn xộn thậm chí bị thương mại hoá.
Để công tác xã hội hoá các hoạt động văn hoá phát triển đúng hướng,
phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng cũng như đáp ứng nhu cầu về đời sống
tinh thần cho các tầng lớp nhân dân đòi hỏi các nhà quản lý văn hoá Lào Cai cần
thực hiện tốt chức năng quản lý, để văn hoá thực hiện đúng chức năng, vai trò
của mình trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay. Xuất phát từ những lý do
nêu trên, em chọn đề tài: “Xã hội hoá hoạt động văn hoá ở thành phố Lào Cai
hiện nay - thực trạng và giải pháp” làm tiểu luận môn học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Phân tích rõ những mặt tích cực, mặt hạn chế về công tác xã hội hoá hoạt
động văn hoá ở thành phố Lào Cai từ đó đưa ra các giải pháp nâng cao chất
lượng xã hội hoá các hoạt động văn hoá của thành phố để đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của quần chúng nhân dân, thực hiện tốt nhiệm vụ đặt ra của các kỳ đại
hội.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tiểu luận tìm hiểu thực trạng xã hội hoá các hoạt động văn hoá của thành
phố Lào Cai và đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường xã hội hóa hoạt động
văn hóa thành phố Lào Cai hiện nay.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Công tác xã hội hoá các hoạt động văn hoá ở thành phố Lào Cai.

2


4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử,
phương pháp lôgíc kết hợp với các phương pháp lịch sử, phân tích, tổng hợp.

5. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung
tiểu luận gồm 02 chương.

3


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
XÃ HỘI HOÁ HOẠT ĐỘNG VĂN HOÁ - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1.

Các khái niệm

1.1.1. Văn hóa
Đảng ta đã xác định lấy phát triển văn hóa làm nền tảng, là động lực cho
sự phát triển. Chính vì vậy công tác lãnh đạo và quản lý hiện nay lại cần thiết
hơn bao giờ hết để thúc đẩy phát triển văn hóa vì lợi ích dân tộc. Nghiên cứu
hoạt động quản lý văn hóa ta phải tìm ra một khái niệm văn hóa phù hợp. Hiện
nay đã có hàng trăm định nghĩa khác nhau về văn hóa.
Văn hóa được hiểu theo nghĩa chung nhất là toàn bộ các giá trị, sáng tạo
của con người và xã hội để đáp ứng các nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần
của con người. Văn hóa đánh dấu trình độ phát triển của con người và xã hội
trong những giai đoạn lịch sử nhất định. Ở một phương diện khác văn hóa là giá
trị, là kết quả của hoạt động con người và xã hội trong quá trình ứng xử đối với
môi trường tự nhiên và môi trường xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của
cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo
đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh
hoạt hằng ngày về mặt ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng

tạo và phát minh đó tức là văn hóa”. Với cách hiểu này, văn hóa sẽ bao gồm
toàn bộ những gì do con người sáng tạo và phát minh ra.
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng cho rằng: “Nói tới văn hóa là nói tới một
lĩnh vực vô cùng phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì không phải là
thiên nhiên mà có liên quan đến con người trong suốt quá trình tồn tại, phát
triển, quá trình con người làm nên lịch sử… (văn hóa) bao gồm cả hệ thống giá
trị: tư tưởng và tình cảm, đạo đức với phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy
cảm và sự tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh của
4


cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu bảo vệ mình và không ngừng
lớn mạnh”. Theo định nghĩa này thì văn hóa là những cái gì đối lập với thiên
nhiên và do con người sáng tạo nên từ tư tưởng tình cảm đến ý thức tình cảm và
sức đề kháng của mỗi người, mỗi dân tộc.
Hiện nay thường phổ biến cách hiểu: Văn hóa là hệ thống các giá trị vật
chất và tinh thần được sáng tạo, tích lũy trong lịch sử nhờ quá trình hoạt động
thực tiễn của con người. Các giá trị này được cộng đồng chấp nhận, vận động
trong đời sống xã hội liên tiếp truyền lại cho thế hệ sau. Văn hóa thể hiện trình độ
phát triển và các đặc tính riêng của mỗi dân tộc.
Trong văn hóa học hiện nay ta hay sử dụng khái niệm văn hóa của nguyên
Tổng Giám đốc UNESCO Federico Mayor: “Văn hóa là tổng thể sống động các
hoạt động sáng tạo của các cá nhân và cộng đồng, trong quá khứ và trong hiện
tại. Qua các thế kỷ hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành tạo nên các giá trị, các
truyền thống, thị hiếu – đặc trưng riêng của mỗi dân tộc”.
Tóm lại, văn hóa là những giá trị được sáng tạo bởi nhu cầu mang tính
nhân sinh. Văn hóa chứa đựng các tri thức và kinh nghiệm nhằm tôn vinh, phát
triển con người và làm cho xã hội có tình người. Quá trình đó được diễn ra trong
các hoạt động chủ yếu của đời sống xã hội. Văn hóa là hoạt động của con người
và chỉ có ở xã hội người, biểu hiện trình độ nhận thức của con người, thể hiện

khát vọng vươn tới cái chân, thiện, mỹ.
1.1.2. Xã hội hoá các hoạt động văn hoá
Hoạt động văn hoá không chỉ còn là của riêng ngành văn hoá mà được sự
tham gia của nhiều ngành và mọi tầng lớp nhân dân. Xã hội càng phát triển nhu
cầu văn hoá của con người càng cao. Văn hoá có tác động lớn trong sự phát
triển, trong chiến lược xây dựng con người. Qua thực tiễn nhiều nước trên thế
giới cho thấy, trong phát triển nếu như không cân bằng giữa phát triển kinh tế
với phát triển văn hoá thì sẽ rơi và tình trạng khủng hoảng trong đời sống tinh

5


thần của xã hội. Không phải ngẫu nhiên mà UNNESCO đề ra thập kỷ quốc tế
phát triển văn hoá và Việt Nam là nước hưởng ứng tích cực. Điều quan trọng
hiện nay là chúng ta phải biến những nhận thức này trở thành hiện thực trong
cuộc sống. Xã hội hoá các hoạt động văn hoá là một trong những biện pháp tích
cực để đưa văn hoá vào mọi lĩnh vực hoạt động trong đời sống xã hội, thúc đẩy
vai trò của nó trong phát triển.
Xã hội hoá các hoạt động văn hoá có nghĩa là biến các hoạt động văn
hoá trở thành của toàn xã hội, được xã hội quan tâm và nuôi dưỡng.
Công tác xã hội hoá các hoạt động văn hoá đã có trong xã hội trước đây,
như trong các ngày hội làng, nhân dân thường đóng góp tiền của và tích cực
tham gia các hoạt động trong ngày hội, phường Tuồng, phường Chèo được mời
về làng diễn, được nhân dân nuôi dưỡng. Ai hát hay thì được thưởng tiền…
nhân dân vừa hưởng thụ vừa sáng tạo, tuy các hoạt động ở mức sơ khai, chưa có
sự tổ chức, hướng dẫn chặt chẽ. Trong cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao
cấp, chúng ta cũng đề ra phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, song
nhiều nơi ỷ lại vào bao cấp nên chưa phát huy được hiệu quả. Cơ chế thị trường
thôi thúc chúng ta sang tạo ra nhiều hình thức để xã hội hoá, nhiều địa phương
đã cho nhiều hình thức hay, phong phú trong lĩnh vực này.

Hoạt động văn hoá trong cơ chế thị trường có hai mặt tích cực và tiêu cực:
Mặt tích cực của thị trường là đòi hỏi các hoạt động văn hoá phải đáp ứng được
yêu cầu của xã hội, thúc đẩy nó phải cạnh tranh giữa các mặt hoạt động, buộc nó
phải năng động, sáng tạo, luôn luôn đổi mới. Mặt tiêu cực của thị trường là dễ
đẩy các hoạt động văn hoá vào con đường thương mại hoá. Xã hội hoá các hoạt
động văn hoá cũng diễn biến phức tạp theo hai hướng đó, đòi hỏi chúng ta, các
nhà quản lý văn hoá phân định rõ ràng ranh giới hai mặt của một vấn đề này.
1.2.

Nội dung xã hội hóa các hoạt động văn hóa

6


Một số quan điểm cơ bản về xã hội hoá hoạt động văn hoá trên cơ sở tìm
hiểu chủ trương, định hướng chỉ đạo của Đảng và từ thực tiễn phong phú của đời
sống xã hội như sau:
Một là, xã hội hoá hoạt động văn hoá là sự vận động và tổ chức nhằm thu
hút toàn xã hội, mọi lực lượng trong và ngoài nước, các thành phần kinh tế
tham gia các hoạt động sáng tạo, cung cấp và phổ biến văn hoá, tạo điều kiện
cho văn hoá phát triển mạnh mẽ, rộng khắp, phong phú và nâng cao dần mức
hưởng thụ văn hóa của nhân dân trên cơ sở tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
và công tác quản lý Nhà nước trên lĩnh vực văn hoá.
Đây là quan điểm chỉ đạo và tổng quát về xã hội hoá hoạt động văn hoá.
Nó khẳng định động lực, nguồn lực của sự phát triển văn hoá là toàn xã hội; nó
nhấn mạnh mục đích đúng đắn của toàn bộ hoạt động xã hội hoá văn hoá, là làm
cho văn hoá phát triển mạnh mẽ, phong phú, đẹp đẽ, phục vụ tốt nhất nhu cầu đa
dạng, chính đáng, trong sáng của nhân dân về đời sống tinh thần – văn hoá;
đồng thời, nó yêu cầu như là một đòi hỏi khách quan về tăng cường vai trò lãnh
đạo của Đảng, quản lý hoạt động của Nhà nước trong toàn bộ quá trình thực

hiện xã hội hoá hoạt động văn hoá.
Hai là, xã hội hoá hoạt động văn hoá là xây dựng cộng đồng trách nhiệm
của tầng lớp nhân dân để tạo lập và cải thiện môi trường kinh tế - xã hội thuận
lợi cho sự phát triển văn hoá, trên cơ sở đó nâng cao quyền tổ chức và điều
hành các hoạt động văn hoá theo hướng đa dạng chủ thể hoạt động, tổ chức và
quản lý văn hoá.
Quan điểm này tập trung nhấn mạnh mối quan hệ hai chiều giữa chủ thể các tầng lớp nhân dân với văn hoá. Một mặt, nhấn mạnh tính cộng đồng trách
nhiệm của các chủ thể, mặt khác, chỉ ra các nhu cầu về quyền được tổ chức,
quản lý của các chủ thể đối với các loại hình hoạt động văn hoá cụ thể, về yêu

7


cầu đa dạng chủ thể này như là một hệ quả tất yếu của quá trình xã hội hoá hoạt
động văn hoá.
Thực hiện quan điểm này sẽ góp phần tạo ra diện mạo mới cho sự phát
triển văn hoá, đặc biệt ở tính đa dạng, phong phú, sự năng động và sáng tạo
trong tổ chức các hoạt động văn hoá. Thay thế cho quan niệm cũ về một chủ thể
duy nhất được quyền tổ chức, quản lý mọi hoạt động và sinh hoạt văn hoá đã trở
nên lỗi thời là sự xuất hiện những gương mặt chủ thể mới với những nỗ lực tìm
tòi trong tổ chức và quản lý văn hoá, tạo nên sự phát triển đa dạng của văn hoá,
đáp ứng nhu cầu tinh thần ngày càng phong phú, muôn vẻ của các tầng lớp nhân
dân.
Ba là, xã hội hoá hoạt động văn hoá là mở rộng các nguồn lực đầu tư,
khai thác các tiềm năng về nhân lực, vật lực và tài lực trong toàn xã hôị, phát
huy và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của nhân để phát triển sự nghiệp xây
dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Mở rộng các nguồn đầu tư cho văn hoá là kết quả của quá trình thực hiện
xã hội hoá, điều mà trong một thời gan dài trước đây, do cơ chế quan liêu bao
cấp và do quan niệm không đúng về quan hệ giữa vai trò chỉ đạo, quản lý của

Nhà nước với việc khai thác nguồn lực trong nhân dân, đã dẫn tới làm nghèo
nàn tiềm năng của văn hoá, hạn chế điều kiện phát triển của nó. Tất nhiên, cần
phải nhận thức cho đúng quan điểm này để tránh khuynh hướng biến nó thành
nhu cầu duy nhất hoặc chủ yếu nhất của việc thực hiện xã hội hoá hoạt động văn
hoá. Khai thác tiềm năng toàn diện trong xã hội, trong nhân dân, có nghĩa bao
gồm cả trí tuệ, năng lực sáng tạo, lực lượng tham gia văn hoá và cả vật lực. tài
lực, tuyệt đối không chỉ dừng lại ở việc khai thác tiền của, vật chất, coi đó chính
là xã hội hoá hoạt động văn hoá, biến công việc vốn đòi hỏi sự sáng tạo, tính
toàn diện và mang giá trị tinh thần tự nguyện này thành đơn thuần việc góp tiền,
thành gánh nặng vật chất đối với nhân dân.
8


Bốn là, xã hội hoá hoạt động văn hoá thực chất là thực hiện và trở lại
đúng quy luật vận động và phát triển của bản thân văn hoá, vì vậy, nó phải
được hiểu là một chính sách lâu dài, hợp quy luật của văn hoá và mang tính
khoa học, là phương châm thực hiện chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước.
Trở lại đúng với quy luật có nghĩa là không phải vì những khó khăn trước
mắt về đầu tư, về tài chính mà phải thực hiện xã hội hoá hay là một phương thức
áp đặt từ bên ngoài đối với hoạt động văn hoá. Sự phát triển của văn hoá dân tộc
trong lịch sử hàng nghìn năm đã gắn rất sinh động với việc thực hiện quy luật xã
hội hoá các hoạt động văn hoá, mà trước hết là sự tham gia tích cực, chủ động,
toàn diện của mọi tầng lớp nhân dân vào toàn bộ quá trình sản xuất, sáng tạo,
truyền bá, phổ biến, lưu giữ văn hoá. Không nên chỉ coi công việc này như một
phong trào, một đợt hoạt động, vận động, mà phải tạo ra được những cơ chế,
chính sách mang tính khoa học để thực hiện xã hội hoá hoạt động văn hoá cho
từng lĩnh vực cụ thể.
Năm là, trên cơ sở tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, xã hội hoá hoạt
động văn hoá phải đi đôi với việc nâng cao năng lực hiệu lực quản lý bộ máy
nhà nước.

Mặt khác, việc tăng cường và nâng cao này lại phải nhằm phát huy cho
được các lực lượng xã hội tham gia hoạt động văn hoá, tạo điều kiện tốt nhất cho
các chủ thể văn hoá sáng tạo, tổ chức và quản lý các loại hoạt động văn hoá. Vai
trò của Nhà nước còn thể hiện ở nhiệm vụ tiếp tục củng cố xây dựng các cơ sở
văn hoá nhà nước đủ mạnh để giữ vai trò chủ đạo và định hướng, đồng thời
không giảm bớt phần ngân sách nhà nước chi cho văn hoá, mà Nhà nước cần tìm
thêm các ngồn thu để tăng kinh phí và tỷ lệ ngân sách cho các hoạt động văn
hoá, xây dựng các văn bản pháp quy để điều chỉnh, điều hành các hoạt động xã
hội hoá, các quyền lợi và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động
văn hoá.
9


Năm nội dung trên đây có quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo thành hệ thống
quan điểm cơ bản về xã hội hoá hoạt động văn hoá. Tất nhiên, do thực tiễn đang
vận động, nhiều hoạt động đang ở giai đoạn thể nghiệm, nên các quan điểm trên
chưa thể coi là hoàn chỉnh. Thời gian qua, nó vừa có vai trò định hướng, chỉ đạo
hoạt động thực tiễn, vừa được chính thực tiễn bổ sung, điều chỉnh và làm phong
phú hơn. Việc tổng kết xã hội hoá hoạt động văn hoá chính là nhằm mục tiêu chỉ
ra đồng thời cả hai nội dung trên.
1.3.

Vai trò của xã hội hóa hoạt động văn hóa hiện nay
Để khẳng định vai trò, tầm quan trọng của công tác xã hội hóa hoạt động

văn hóa, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 05/2005 đưa ra một số định hướng
lớn nhằm phát triển xã hội hóa văn hóa như: Tăng cường quản lý Nhà nước các
hoạt động văn hóa; tăng cường đầu tư cho văn hóa, trong đó ưu tiên các vùng
nghèo, miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa và bảo tồn, tôn tạo, phát
huy các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể; tiến hành chuyển một số cơ sở

thuộc loại hình công lập sang loại hình ngoài công lập để tập thể hoặc cá nhân
quản lý và hoản trả vốn cho Nhà nước.
Thực hiện tinh thần của Nghị quyết, cùng với sự quan tâm đầu tư của
Đảng và Nhà nước, trong những năm gần đây công tác xã hội hoá các hoạt động
văn hoá đang được phát triển mạnh mẽ. Xã hội hoá các hoạt động văn hoá
không chỉ thu hút trí tuệ, nhân lực, vật lực của toàn xã hội cho lĩnh vực này mà
còn là nhân tố thúc đẩy các hoạt động văn hoá phải biến đổi về chất cả nội dung
lẫn hình thức, đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần của nhân dân trong thời kỳ
mới.
Thứ nhất, xã hội hoá các hoạt động văn hoá mang ý nghĩa cấp bách, trước
hết nó góp phần giải quyết những khó khăn mà hoạt động văn hoá đang vấp
phải, đó là sự hạn chế về kinh phí hoạt động, đầu tư cho các hoạt động văn hoá.

10


Trong thời kỳ mở cửa, với sự bùng nổ thông tin, hàng ngày người dân tiếp xúc
với nhiều hoạt động văn hoá tiên tiến của nhiều nước trên thế giới, phương tiện
nghe nhìn đến tận các gia đình, nhu cầu, thị hiếu văn hoá ngày càng cao, đòi hỏi
các hình thức hoat động văn hoá phải có chất lượng cao. Và chính vì chất lượng
hoạt động chưa cao mà số người tham gia các hoạt động văn hoá giảm dần. Vì
vậy hiện nay xã hội hoá các hoạt động văn hoá được xem như là một trong
những vấn đề nổi bật vừa là mục tiêu và cũng là phương thức nhằm khắc phục
những khó khăn mà hoạt động văn hoá đang phải gặp phải, điều tiết nó cho phù
hợp với cơ chế thị trường. Nghiên cứu vấn đề này chính là đi tìm những biện
pháp đổi mới các hình thức hoạt động văn hoá. Vì vậy, xã hội hoá không chỉ là
những vấn đề trước mắt mà còn là vấn đề lâu dài trong quá trình xây dựng nền
văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trên đất nước ta.
Thứ hai, xã hội hóa các hoạt động văn hóa đáp ứng sự đòi hỏi phát triển
nội tại của hoạt động này. Hoạt động văn hoá chỉ có thể trở thành của toàn xã

hội, có vai trò thực sự trong các lĩnh vực của đời sống khi nó có chất lượng cao
và đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Ở đây thể hiện rõ quy luật cung và cầu của
cơ chế thị trường. Hoạt động văn hoá chất lượng thấp không đáp ứng được nhu
cầu của xã hội thì không thể tồn tại và cũng không bao giờ xã hội hoá được.
Trong thời kỳ mở cửa, nhiều hình thức hoạt động văn hoá của chúng ta và thế
giới cùng tồn tại, cạnh tranh nhau để phát triển, thì việc đổi mới và nâng cao
chất lượng các hoạt động văn hoá là vấn đề sống còn, là tiền đề của xã hội hoá
hoạt động văn hoá.

11


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP XÃ HỘI HOÁ HOẠT ĐỘNG VĂN HOÁ
Ở TP LÀO CAI HIỆN NAY
2.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến xã hội hóa hoạt động văn hóa ở thành phố
Lào Cai
2.1.1. Điều kiện tự nhiên thành phố Lào Cai
Thành phố Lào Cai là một thành phố biên giới phía bắc, một đô thị loại 3,
tỉnh lỵ của tỉnh Lào Cai. Thành phố được thành lập vào năm 2004 trên cơ sở sáp
nhập hai thị xã Lào Cai và Cam Đường. Thành phố Lào Cai có Cửa khẩu Quốc
tế Lào Cai là nơi giao thương quan trọng ở phía bắc Việt Nam với phía
nam Trung Quốc. Là địa đầu của đất nước, thành phố Lào Cai là cửa ngõ quan
trọng mở cửa thị trường Việt Nam với các tỉnh phía tây nam Trung Quốc và cả
các tỉnh nằm sâu trong nội địa Trung Quốc. Toàn thành phố Lào Cai gồm 17
đơn vị hành chính trực thuộc. trong đó có 12 phường và 5 xã.
Thành phố Lào Cai giáp các huyện Mường Khương, Bảo Thắng, Bát
Xát, Sa Pa cùng của tỉnh Lào Cai. Với diện tích tự nhiên: 22.150 ha và 102.000
dân số, trong đó dân số nội thành là 79.960 người, dân số ngoại thành 22.040
người. Thành phố Lào Cai là đô thị loại 3, nằm ở vùng Tây Bắc của Tổ Quốc,

giáp biên giới Việt Nam - Trung Quốc. Phía Bắc giáp Hà Khẩu tỉnh Vân Nam
Trung Quốc với đường biên giới là sông Hồng và sông Nậm Thi, phía Nam giáp
huyện Bảo Thắng và Sa Pa, phía Tây giáp huyện Bát Xát và Sa Pa, phía Đông
và Đông Bắc giáp huyện Bảo Thắng.
Địa hình có xu thế dốc dần từ Tây Bắc - Đông Nam và bị chia cắt nhỏ bởi
các sông suối, khe tụ thuỷ, đồi núi... Ranh giới thành phố nằm ở cả hai bên bờ
sông Hồng, xung quanh có các dãy đồi núi bao bọc. Phần địa hình đồi núi chiếm
60% diện tích của thành phố tập trung ở các xã Tả Phời và Hợp Thành, một
phần của Vạn Hoà và Đồng Tuyển có độ cao trung bình từ 80 - 100 m so với
12


mực nước biển, độ dốc trung bình 12-180. Đỉnh cao nhất có độ cao 1.260 m ở
phía Tây Nam thành phố. Phần địa hình thấp nằm ở ven sông Hồng và giữa các
quả đồi, phân bố chủ yếu ở khu vực các phường nội thành và các xã ngoại thành
như Cam Đường và một phần Vạn Hoà, Đồng Tuyển với độ dốc trung bình từ 690, độ cao trung bình từ 75-80 m so với mực nước biển.
Khí hậu Lào Cai là khí hậu gió mùa chí tuyến, á nhiệt đới có mùa đông
lạnh và khô. Khí hậu chia làm hai mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 9,
mùa khô từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau. Nhiệt độ trung bình 22,8 0C và lượng
mưa 1792 mm. Sự phân hoá về nhiệt độ, lượng mưa và độ ẩm trên địa bàn thành
phố không lớn. Nhiệt độ trung bình tháng lạnh nhất cũng chỉ là 16 0C, biên độ
dao động nhiệt năm là 110C, trong năm có trung bình 1 ngày có sương muối.
Với lợi thế là một đô thị vùng biên giới, việc phát triển du lịch và kinh tế
cửa khẩu là ưu tiên hàng đầu của thành phố. Là một thành phố có lượng khoáng
sản thiên nhiên lớn, lợi thế phát triển về công nghiệp, lại có đường cao tốc xuyên
Á chạy song song, việc phát triển công nghiệp tại Lào Cai là một lợi thế phát
triển của thành phố. Lợi thế biên giới, và ảnh hưởng của 2 điểm du lịch nổi tiếng
Sa Pa, Bắc Hà mà thành phố Lào Cai là điểm dừng chân mang đến cho thành
phố tiềm năng du lịch khá lớn. Do đặc điểm của Lào Cai là một đô thị miền núi,
mang đặc trung khí hậu nhiệt đới gió mùa, mùa đông lạnh khô mùa hè nóng,

mưa nhiều nên ngoài việc tạo những thuận lợi về giao thông, tạo cảnh quan
hướng ra sông Hồng còn có nhiệm vụ điều hòa không khí cho thành phố.
2.1.2. Đặc điểm kinh tế - văn hóa xã hội thành phố Lào Cai
Lào Cai có 25 dân tộc trong đó thành phố có 16 dân tộc; dân tộc kinh
chiếm 64%; dân tộc thiểu số chiếm 36%. Vì vậy bản sắc dân tộc Lào Cai rất đa
dạng và phong phú. Các dân tộc thiểu số ở Lào Cai đều có truyền thống văn hoá
giàu bản sắc, được lưu truyền qua nhiều thế hệ, trở thành vốn quí để Lào Cai xây
dựng một nền văn hoá đa dạng về sắc thái. Tuy vậy do trình độ dân trí còn thấp
13


và không đồng đều nên vẫn còn tàn dư của các phong tục, tập quán lạc hậu tập
chung rải rác ở các phường đặc biệt là các xã vùng cao.
Về kinh tế tỉnh đã thực hiện quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội
giai đoạn 2005-2010, 2011-2015 trong những năm qua, mặc dù phải đối mặt với
những khó khăn và thách thức to lớn, nhưng nhờ nắm vững chủ trương, đường
lối của Đảng, vận dụng thực hiện tốt các chính sách của nhà nước phù hợp với
đặc điểm của tỉnh nên thành phố Lào Cai đã phát huy mạnh được nội lực, khơi
dậy tiềm năng của các thành phần kinh tế, khai thác có hiệu quả các lợi thế thúc
đẩy phát triển kinh tế xã hội của địa phương, kinh tế tăng trưởng cao và ổn định,
có tính chất đột phá trong nhiều lĩnh vực. Kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội được
tập trung đầu tư, có bước phát triển vượt bậc, tạo nền tảng quan trọng cho giai
đoạn tới. Lĩnh vực thương mại - dịch vụ có bước phát triển tương đối nhanh.
Các ngành dịch vụ có bước chuyển dịch tích cực theo hướng đáp ứng tốt hơn
các nhu cầu về sản xuất, kinh doanh và phục vụ đời sống dân cư. Kinh tế cửa
khẩu, du lịch tiếp tục được khẳng định là ngành kinh tế mũi nhọn của thành phố.
Trong những năm qua lĩnh vực văn hoá - xã hội của thành phố đạt được
nhiều thành tựu quan trọng, đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân được cải
thiện rõ rệt: công tác giáo dục - đào tạo có những chuyển biến tích cực quy mô
giáo dục tăng nhanh nhất là các xã vùng cao, đáp ứng nhu cầu học tập của nhân

dân. Cơ sở vật chất trường lớp tiếp tục được củng cố và tăng cường, đã xoá được
phòng học 3 ca, thay thế được phòng học tạm bằng các phòng học kiên cố hoá.
Công tác y tế, chăm sóc sức khoẻ nhân dân ngày càng được cải thiện, mạng lưới
y tế cơ sở được củng cố và nâng cấp. Hệ thống cung cấp các dịch vụ y tế được
mở rộng, các cơ sở y tế tư nhân từng bước phát triển 100% số xã, phường có
trạm xá và cán bộ y tế. Công tác xây dựng đời sống văn hoá cơ sở được triển
khai mạnh mẽ, phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng nếp sống văn hoá ở nơi
dân cư được triển khai rộng khắp ở các phường, xã.
14


Tuy vậy thành phố Lào Cai cũng như một số thành phố miền núi khác, có
những khó khăn cơ bản đó là: Địa hình phức tạp nên giao thông đi lại khó khăn,
tỷ lệ đồng bào dân tộc thiểu số cao, trình độ dân trí thấp và không đồng đều,
trong nhân dân còn nhiều tập quán sản xuất và sinh hoạt lạc hậu; hơn nữa khi
bước vào thời kỳ đổi mới thành phố Lào Cai còn là một trong những thành phố
trẻ. Tổ chức thực hiện một số lĩnh vực hiệu quả chưa cao. Văn hoá xã hội còn
một số vấn đề bức xúc chưa được giải quyết có hiệu quả, tỷ lệ đói nghèo ở 5 xã
vùng cao vẫn còn.
2.2. Thực trạng xã hội hóa hoạt động văn hóa ở thành phố Lào Cai thời
gian qua
2.2.1. Thành tựu
Một là, thành phố đã thực hiện tu bổ, bảo quản công trình di sản văn hóa
vật thể, phục hồi, duy trì và phát huy di sản văn hóa phi vật thể theo phương
thức Nhà nước và nhân dân cùng làm.
Hai là, toàn thành phố có 870 câu lạc bộ thuộc các trung tâm, nhà văn
hoá, thành lập 1.350 đội văn nghệ quần chúng. Hàng năm trung bình tổ chức
trên 6.000 cuộc thi, liên hoan, hội diễn, biểu diễn văn nghệ quần chúng. Có 453
thư viện của các cơ quan, đoàn thể, trường học và vận động xây dựng 218 tủ
sách, phòng đọc sách cơ sở; góp phần đáp ứng nhu cầu về hưởng thụ văn hóa

của nhân dân.
Ba là, thành phố cũng đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp
tham gia đầu tư và phát triển trong lĩnh vực văn hóa (trên 400 cơ sở dịch vụ văn
hóa: Kinh doanh - phát hành văn hóa phẩm, karaoke,...); góp phần đáp ứng đa
dạng nhu cầu vui chơi giải trí, nâng cao đời sống tinh thần cho nhân dân thành
phố.
Năm là, các đơn vị sự nghiệp văn hóa công lập đã chuyển sang hoạt động
theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính theo Nghị định số
15


43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ quy định quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối
với đơn vị sự nghiệp công lập. Có 3 đơn vị tự đảm toàn bộ kinh phí hoạt động
thường xuyên là Trung tâm Triển lãm và Mỹ thuật, Trung tâm Tổ chức biểu
diễn, Trung tâm Phát hành phim và chiếu bóng. Các đơn vị sự nghiệp công lập
còn lại chưa có các dịch vụ văn hóa tự cân đối thu chi. Tổng thu sự nghiệp và
dịch vụ của các đơn vị sự nghiệp công lập văn hóa chiếm tỷ trọng thấp so tổng
kinh phí hoạt động; cụ thể: Năm 2012, tổng kinh phí hoạt động của các đơn vị
sự nghiệp văn hóa công lập cấp thành phố (12 đơn vị) là 35,4 tỷ đồng, trong đó
kinh phí thu sự nghiệp và dịch vụ văn hóa 8,6 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 24,3%
(không đạt chỉ tiêu Nghị quyết 14/2006/NQ-HĐND).
Sáu là, thành phố hình thành thiết chế văn hoá cơ sở ở 2.558 làng, tổ dân
phố văn hoá (100%), với sự đóng góp kinh phí của nhân dân để tổ chức và duy
trì phong trào văn hoá; xây dựng 670 Nhà văn hoá thôn, tổ dân phố và mua sắm
trang thiết bị cho các nhà văn hóa được thực hiện từ một phần kinh phí đóng góp
của nhân dân. Kinh phí tổ chức các hoạt động tại nhà văn hoá cơ sở đều huy
động xã hội hóa 100%, kinh phí ngân sách chỉ hỗ trợ trao những giải thưởng
lớn; qua đó đã phục vụ tốt nhu cầu sáng tạo, hưởng thụ văn hoá và giải trí của
nhân dân.

Bảy là, toàn thành phố hiện có: 11 hội và liên đoàn thể thao cấp thành
phố, gần 100 chi hội cơ sở; 2.355 câu lạc bộ thể dục - thể thao quần chúng; trong
đó, có 4 đơn vị công lập, 2.351 đơn vị ngoài công lập, 390 cơ sở, tụ điểm thể
dục - thể thao ở quận huyện. Về cơ sở vật chất, trên địa bàn thành phố có 26 bể
bơi, 8 phòng tập Billiars, 81 sân quần vợt, 254 sân bóng đá, 545 sân bóng
chuyền, 42 sân điền kinh, 10 sân bóng rổ, 15 sân vận động, 66 nhà tập luyện
phục vụ nhu cầu tập luyện thể dục - thể thao cho nhân dân ....

16


Về huy động kinh phí xã hội hóa: Lĩnh vực văn hóa đã huy động được
nguồn kinh phí ngoài ngân sách Nhà nước đầu tư cho văn hóa là 355 tỷ đồng,
bao gồm: Xây dựng Trung tâm Văn hóa - Thể thao, Nhà văn hóa các cấp 100 tỷ
đồng; hoạt động thông tin cổ động, phát triển thư viện và văn nghệ quần chúng
15 tỷ đồng; bảo tồn di sản văn hóa 80 tỷ đồng; sản xuất, kinh doanh dịch vụ văn
hóa 70 tỷ đồng; hoạt động điện ảnh 90 tỷ đồng.
2.2.2. Hạn chế
Công tác xã hội hoá hoạt động văn hóa trên địa bàn thành phố thời gian
qua tuy đã đạt được những kết quả quan trọng bước đầu nhưng vẫn còn một số
tồn tại, hạn chế; đó là:
Một là, nhiều mục tiêu xã hội hoá được nêu trong Nghị quyết 14/2006/NQ
– HĐND của thành phố không đạt, cụ thể: Chuyển các cơ sở công lập sang hoạt
động theo cơ chế tự chủ cung ứng dịch vụ công ích; Chuyển đổi các cơ sở bán
công thành cơ sở dân lập hoặc tư thục; tỷ lệ học sinh ngoài công lập nhà trẻ, mẫu
giáo, trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học; tỷ lệ
học sinh học nghề theo cơ chế cung ứng dịch vụ công; tỷ lệ người dân tham gia
bảo hiểm y tế; có bệnh viện quốc tế trên địa bàn; sắp xếp các đoàn nghệ thuật
công lập; diện tích đất dành cho hoạt động thể dục - thể thao. Thậm chí có mục
tiêu đến năm 2012 còn giảm đi so với năm 2006, như: Tỷ lệ học sinh trong các

trường trung học phổ thông ngoài công lập giảm từ 32,6% xuống còn 23%.
Hai là, công tác quản lý văn hóa trên địa bàn thành phố còn bất cập cả
trong định hướng phát triển, quy hoạch và chỉ đạo thực hiện. Việc triển khai
thực hiện còn chậm và nhiều lúng túng. Quản lý nhà nước vừa gò bó, vừa buông
lỏng; cơ chế chính sách chưa cụ thể, rõ ràng, thiếu đồng bộ, còn chưa phù hợp
với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các lực lượng xã hội chưa
được tổ chức và phối hợp tốt để chủ động, tích cực tham gia vào quá trình xã hội
hoá.
17


Ba là, trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao, các cơ sở công
lập chiếm tỷ trọng lớn vẫn áp dụng cơ chế quản lý như các cơ quan hành chính
nên đã không phát huy được tính năng động, tự chủ và trách nhiệm. Các cơ sở
ngoài công lập chưa nhiều, cơ sở vật chất còn đơn sơ, nghèo nàn, đội ngũ cán bộ
còn thiếu và yếu. Chất lượng và hiệu quả hoạt động chưa cao, còn có những biểu
hiện tiêu cực, thậm chí có những cơ sở đã vi phạm pháp luật.
Các cơ sở ngoài công lập có thái độ phục vụ tốt, tuy nhiên quy mô các cơ
sở ngoài công lập hầu hết còn nhỏ bé, số lượng dịch vụ còn hạn chế, chất lượng
chuyên môn sâu chưa đạt được như khối công lập, phát triển không đồng đều
giữa các vùng và các lĩnh vực, mới chủ yếu tập trung ở nội thành, nội thị, nơi
đông dân; nhiều đơn vị chạy theo số lượng, lạm dụng kỹ thuật đã phần nào làm
giảm chất lượng dịch vụ cung cấp cho người dân.
Bốn là, một số cơ chế, chính sách được Chính phủ ban hành nhằm khuyến
khích xã hội hoá đối với các hoạt động trong lĩnh vực văn hóa chưa được thành
phố triển khai áp dụng kịp thời, đầy đủ; cụ thể: Các chính sách khuyến khích xã
hội hóa về đất đai, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng, cho thuê
nhà và cơ sở hạ tầng, hỗ trợ vốn vay ưu đãi đầu tư, hỗ trợ lãi suất vay đầu tư,
đào tạo nhân lực ... được quy định trong Nghị định số 53/2006/NĐ-CP ngày
25/5/2006 của Chính phủ, Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 của

Chính phủ, Quyết định số 1466/QĐ-TTg ngày 10/10/2008 của Thủ tướng Chính
phủ.
Năm là, phương thức phân bổ, bố trí kinh phí từ ngân sách Nhà nước cho
các đơn vị sự nghiệp công lập còn mang tính bình quân, chưa gắn với chất lượng
dịch vụ, chưa có sự bình đẳng giữa các đơn vị trong và ngoài công lập trong việc
tiếp cận nguồn kinh phí ngân sách Nhà nước.
Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế:

18


- Khả năng ngân sách thành phố đáp ứng cho nhu cầu về các loại hình văn
hóa còn eo hẹp; mặt bằng thu nhập của các tầng lớp dân cư của thành phố còn
thấp và không đồng đều, có sự chênh lệch lớn giữa khu vực thành thị và nông
thôn; do vậy khó khăn trong triển khai các cơ chế, chính sách xã hội hóa phù
hợp với điều kiện của ngân sách thành phố và thu nhập của các tầng lớp dân cư.
- Đầu tư cho các cơ sở xã hội hóa về giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa, thể
dục - thể thao đạt chuẩn cần có số vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn chậm
nên chưa thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư.
- Các chính sách khuyến khích xã hội hóa chưa tách biệt vùng thuận lợi
với vùng khó khăn một cách rõ ràng và đủ mạnh để thu hút các doanh nghiệp, tổ
chức, cá nhân đầu tư vào những vùng khó khăn.
- Nhận thức của một bộ phận cán bộ các cấp, các ngành của thành phố về
xã hội hóa chưa thật sự đầy đủ, chưa thấy rõ tầm quan trọng của công tác xã hội
hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của thành phố; tư tưởng bao cấp, dựa
vào ngân sách Nhà nước vẫn còn tồn tại ở nhiều cấp, ngành, đơn vị sự nghiệp
công lập.
- Công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát việc triển khai
thực hiện chủ trương, chính sách về xã hội hóa hoạt động văn hóa có lúc, có nơi
còn chưa được quan tâm đúng mức nên kết quả đạt được còn chưa tương xứng

với tiềm năng.
- Các Sở chuyên ngành chưa hoàn thành quy hoạch ngành, quy hoạch
mạng lưới thiết chế văn hóa đến năm 2015, định hướng đến năm 2020; chưa có
kế hoạch phát triển các cơ sở xã hội hóa của từng lĩnh vực; chưa xác định được
danh mục các dự án đầu tư ưu tiên thực hiện xã hội hóa kèm theo các điều kiện
khuyến khích cụ thể để làm cơ sở kêu gọi, thu hút đầu tư.
2.3. Giải pháp tăng cường xã hội hóa hoạt động văn hóa ở
thành phố Lào Cai hiện nay
19


2.3.1. Quan điểm xã hội hóa hoạt động văn hóa của thành
phố Lào Cai hiện nay
Một là, xã hội hoá là mục tiêu, là động lực, là chính sách lâu dài phát triển
sự nghiệp giáo dục - đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hoá, thể dục - thể thao, thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội của thành phố.
Hai là, đẩy mạnh xã hội hoá gắn với đổi mới căn bản toàn diện các lĩnh
vực văn hóa; đồng thời tăng cường vai trò của các cấp chính quyền trong việc
cung ứng các dịch vụ văn hóa nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng phục vụ
người dân tốt hơn; tăng cường quản lý để nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn
lực xã hội hoá.
Ba là, xã hội hóa không chỉ đơn thuần là huy động vốn mà còn là tạo điều
kiện để toàn xã hội, mọi người dân quan tâm, được tham gia đóng góp, quản lý,
kiểm tra, giám sát đối với các hoạt động trong các lĩnh vực này.
Bốn là, xã hội hoá phải đảm bảo công bằng trong việc tiếp cận các nguồn
lực chung của thành phố đối với mọi đối tượng xã hội; đảm bảo quyền lợi cơ
bản của mọi người dân, trợ giúp người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn, hỗ
trợ phát triển các vùng sâu, vùng xa và thực hiện công bằng xã hội.
Năm là, xã hội hoá hoạt động văn hóa nhưng không giảm chi ngân sách
Nhà nước mà tiếp tục tăng chi cho các lĩnh vực này trên cơ sở chất lượng dịch

vụ và trực tiếp tới đối tượng thụ hưởng, tốc độ tăng chi phù hợp với với tốc độ
tăng thu của ngân sách thành phố.
2.3.2. Một số giải pháp cụ thể
2.3.2.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nghiên cứu lý luận, nâng cao nhận
thức về xã hội hoá
- Tuyên truyền sâu rộng chủ trương, chính sách về xã hội hoá để các cấp
ủy Đảng, chính quyền các cấp, các đơn vị công lập, ngoài công lập và nhân dân

20


có nhận thức đúng, đầy đủ, thực hiện có hiệu quả chủ trương xã hội hoá trong
các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao.
- Tăng cường công tác nghiên cứu lý luận, làm rõ các vấn đề về sở hữu,
về tính chất hoạt động lợi nhuận và hoạt động phi lợi nhuận, về trách nhiệm xã
hội của các tổ chức, về hình thức xã hội hoá trong mỗi lĩnh vực, để từ đó tiếp tục
hoàn thiện cơ chế, chính sách.
- Thực hiện nhiều hình thức tuyên truyền; trong đó chú trọng các hình
thức tuyên truyền như nói chuyện chuyên đề, qua hệ thống truyền thanh xã,
phường, thị trấn, qua báo viết, báo nói, báo hình; xây dựng chuyên mục hàng
tuần về xã hội hóa trên sóng Đài Phát thanh và Truyền hình và Báo Lào Cai;
phát động các phong trào thi đua ở các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị. Xây
dựng và nhân rộng các mô hình, điển hình thực hiện tốt chủ trương xã hội hóa.
- Xây dựng, ban hành các quy định về thi đua, khen thưởng phù hợp, đảm
bảo khuyến khích, động viên, khích lệ các đơn vị, tổ chức và cá nhân tích cực
tham gia thực hiện và nâng cao hiệu quả công tác xã hội hóa trên địa bàn thành
phố.
2.3.2.2. Thành phố phải tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý các loại hình văn hóa
Một là, đẩy mạnh việc hoàn thiện chính sách; tăng nguồn lực đầu tư, đồng
thời đổi mới mục tiêu, phương thức, cơ cấu và nguồn vốn đầu tư; tập trung cho

các mục tiêu ưu tiên, các chương trình quốc gia phát triển giáo dục, y tế, văn
hoá, thể dục thể thao; hỗ trợ các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít
người; ưu đãi các đối tượng chính sách và trợ giúp người nghèo trên cơ sở đổi
mới chế độ miễn, giảm phí theo hướng công khai, hợp lý và cấp trực tiếp tới đối
tượng thụ hưởng.
Hai là, cụ thể hóa các lĩnh vực ưu đãi đầu tư đối với văn hóa dân tộc; lĩnh
vực sản xuất, dịch vụ khác cần khuyến khích; lĩnh vực đào tạo, công tác sưu tầm
nghiên cứu bảo tồn các di sản văn hóa dân tộc; Có cơ chế hỗ trợ đối với các tư
21


nhân đã tham gia xã hội hóa các hoạt động văn hóa như các đoàn nghệ thuật tư
nhân, bảo tàng tư nhân; cơ chế thu hút sự đầu tư trong việc xây dựng các công
trình văn hóa, tu bổ, khai thác, sử dụng các di tích thắng cảnh... Có cơ chế ưu đãi
đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn; khu
kinh tế đặc thù; lĩnh vực đầu tư văn hóa có điều kiện.
Ba là, có chính sách thuế, phí, lệ phí khuyến khích đầu tư: Thuế thu nhập
doanh nghiệp; thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao; thuế nhập khẩu; phí,
lệ phí của các cơ sở ngoài công lập. Chính sách về vốn, tín dụng và bảo lãnh.
Chính sách khuyến khích và ưu đãi cho chuyên gia đầu ngành nước ngoài.
Doanh nghiệp hỗ trợ cho văn hóa được tính vào chi phí hợp lý của doanh nghiệp
khi xác định thuế thu nhập.
Bốn là, ưu đãi về sử dụng đất; giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng
mắc về đất đai, giải phóng mặt bằng để đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án; cho
phép các tổ chức, cá nhân đã được cấp quyền sử dụng đất lâu dài được cho nhà
đầu tư nước ngoài thuê lại đất trong thời hạn cấp quyền sử dụng đất và các ưu
đãi khác về xuất nhập cảnh, cung cấp điện nước, hoa hồng, chiết khấu.

22



KẾT LUẬN
Xã hội hóa trên lĩnh vực văn hóa được hiểu là quá trình vận động các cá
nhân, tổ chức, các lực lượng trong toàn xã hội, có sự kết hợp với Nhà nước để
huy động những khả năng về cơ sở vật chất, trí thức, sức sáng tạo nhằm từng
bước phát triển sự nghiệp và nâng cao mức hưởng thụ về văn hóa của nhân
dân. Xã hội hóa hoạt động văn hóa được coi là giải pháp quan trọng để thực hiện
chính sách công bằng xã hội không chỉ về mặt hưởng thụ mà cả về cống hiến
cho sự nghiệp văn hóa, là chính sách lâu dài, mang tính khách quan, khoa học,
phù hợp với quy luật phát triển văn hóa và cơ chế thị trường theo định hướng
XHCN.
Thực hiện Nghị quyết số 14/2006/NQ-HĐND ngày 21/7/2006 của Hội
đồng nhân dân thành phố về đẩy mạnh xã hội hoá hoạt động văn hóa giai đoạn
2006 - 2010, công tác xã hội hoá hoạt động văn hóa trên địa bàn thành phố đã
thu được những kết quả tích cực. Tuy nhiên, hiện nay công tác xã hội hóa hoạt
động văn hóa thành phố Lào Cai vẫn còn tồn tại một số khó khăn nhất định: việc
phát huy mọi tiềm lực tham gia vào xã hội hóa hoạt động văn hóa chưa nhiều,
chưa mạnh; nhìn chung tốc độ xã hội hóa hoạt động văn hóa còn chậm so với
tiềm năng, với yêu cầu của lộ trình phát triển; công tác quản lý nhà nước còn bất
cập, triển khai thực hiện còn chậm và nhiều lúng túng, cơ chế chính sách chưa
cụ thể, rõ ràng, thiếu đồng bộ.
Xã hội hóa hoạt động văn hóa ở thành phố Lào Cai hiện nay cần tăng
cường sự phối hợp với các Ban ngành, tổ chức đoàn thể trong quá trình triển
khai, tổ chức các hoạt động văn hóa, khai thác có hiệu quả các thiết chế văn hóa,
phát huy sức sáng tạo của nhân dân. Vì đây vừa là hạt nhân, vừa là lực lượng đi
đầu trong việc mở rộng, phát triển xã hội hóa hoạt động văn hóa, góp phần thực
hiện mục tiêu xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc văn hóa dân tộc.
23



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS, PTS Lê Như Hoa: Xã hội hoá hoạt động văn hoá. Nxb Văn hoá
Thông tin. Hà Nội – 1996
2. PGS, TS Đinh Xuân Dũng: Mấy cảm nhận về văn hoá. Nxb CTQG. Hà
Nội – 2004.
3. PGS, TS Phạm Duy Đức: Phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn 2011 –
2020, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2010.
4. Học viện Báo chí – Tuyên truyền: Giáo trình Quản lý hoạt động văn hóa
tư tưởng, Hà Nội, 2011.
5. Học viện Báo chí – Tuyên truyền: Giáo trình Lý luận văn hóa, Hà Nội,
2010.
6. Một số tài liệu, quyết định, văn bản của tỉnh Lào Cai và của thành phố
Lào Cai.

24



×