Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

MẤT CÂN BẰNG KINH TẾ: MÔ HÌNH, CHÍNH SÁCH ĐIỀU CHỈNH VÀ HÀM Ý CHO VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (496.87 KB, 15 trang )

Kỷ yếu công trình khoa học 2015 - Phần I

MẤT CÂN BẰNG KINH TẾ: MÔ HÌNH, CHÍNH SÁCH ĐIỀU
CHỈNH VÀ HÀM Ý CHO VIỆT NAM
Ths. Lê Văn Hinh
Khoa Kinh tế - Quản lý, Trường Đại học Thăng Long
Email:
Tóm tắt: Mất cân bằng kinh tế vĩ mô (macroeconomic imbalances), nhất là mất cân
bằng ngoại (external imbalance) được giải thích là một trong những nguyên nhân của khủng
hoảng tài chính (đặc biệt là khủng khoảng tài chính toàn cầu năm 2008, nổ ra ở Mỹ). Bài viết
tổng hợp một số vấn đề lý thuyết và thực tế về mất cân bằng kinh tế, các biểu hiện, các
nguyên nhân và hậu quả của tỉnh trạng này, các chính sách điều chỉnh... Bài viết cũng chỉ ra
bằng chứng về mất cân bằng kinh tế ở Việt Nam thời kỳ 2007-08 cùng với một số nhận định
về nguyên nhân và qua đó có một số hàm ý chính sách cho Việt Nam. Từ mô hình, tổng quan
nghiên cứu và phảt hiện ban đầu này là gợi ý cho nghiên cứu định lượng mà tác giả đang nỗ
lực thực hiện để công bố trong nghiên cứu tiếp theo.
Từ khóa: External imbalance, internal balance, Financial crises, Macroeconomic
imbalances.
1. Giới thiệu
Sau khủng hoảng tài chính toàn cầu (2008) giới nghiên cứu tỏ ra rất quan tâm đến vấn
đề mất cân bằng kinh tế vĩ mô dưới góc độ toàn cầu hay nền kinh tế. Một số đã ám chỉ mất
cân đối hay mất cân bằng ngoại (Extrnal Imbalances), biểu hiện là cán cân vãng lai giữa các
khu vực của thế giới là nguyên nhân của khủng hoảng tải chính (Karl Whelan, 2010; Recardi
J. Caballero, 2010). Một số nghiên cứu đã chỉ rõ tình trạng mất cân bằng kinh tế ở khu vực
đồng Euro, mất cân đối giữa nền kinh tế Mỹ và các nước mới nổi (Claudio Borio and Piti
Disyatat, 2011), hay mất cân bằng kinh tế củaTrung Quốc (John Knight và Wei Wang, 2011)
và hạ cánh cứng của nền kinh tế này cũng là một trong mối quan ngại gần đây (WEF,2014).
Với Việt Nam, nền kinh tế đã từng trải qua thời kỳ tăng trưởng khá nhanh do dựa vào
vốn nước ngoài (WB, 2012). Việc mở rộng đầu tư đã đưa đến tăng trưởng nhanh nhưng để lại
nhiều hiệu ứng tiêu cực trong nước đặc biệt giai đoạn từ 2006-2012. Nền kinh tế đã có một số
dấu hiệu về mất cân bằng là: lạm phát gia tăng hoặc sức ép lạm phát liên tục, thâm hụt ngân


sách đi đôi với thâm hụt cán cân vãng lai khá cao, nợ công gia tăng mạnh ...Đến nay, kinh tế
Việt Nam đã trở lại ổn định nhưng vấn đề mất cân bằng kinh tế cần được phân tích rõ hơn nữa
khi Chính phủ chủ trương tăng trưởng kinh tế bền vững, hội nhập quốc tế sâu rộng hơn trong
những năm tới. Trong bối cảnh như vậy, bài viết này khái quát một số mô hình và tổng quan
một số nghiên cứu về cân bằng, mất cân bằng kinh tế vĩ mô một số trường hợp về mất cân
bằng vĩ mô trên thế giới, trên cơ sở đó có một vài gợi ý chính sách cho Việt Nam .
2. Khung lý thuyết về mất cân bằng kinh tế
Theo định nghĩa cân bằng nội và cân bằng ngoại, có thể giải thích bởi các mô hình
kinh tế khá phổ biến như mô hình IS/LM và mô hình IS/LM/BP ...
2.1. Mô hình IS/LM và cân bằng nội.
- Mô hình IS-LM: Mô hình IS-LM xét đến sự cân bằng của hai thị trường quan trọng
của nền kinh tế là thị trường hàng hóa và thị trường tiền tệ:
Trường Đại học Thăng Long

171


Kỷ yếu công trình khoa học 2015 - Phần I

+ Trên thị trường hàng hóa: tổng cầu được mô tả theo phương trình:
(1). Trong đó C là chi tiêu dùng, I là chi đầu tư, G là chi tiêu chính
phủ và NX là xuất khẩu ròng. Và đặc biệt NX được xác định bởi phương trình:
(2); Với X0 là tổng giá trị xuất khẩu,
là tổng giá trị nhập khẩu. Phương
trình này cũng hàm ý xuất khẩu không phụ thuộc vào mức sản lượng (thu nhập) quốc gia Y
trong khi nhập khẩu là một hàm của Y. Thị trường hàng hóa cân bằng khi tổng cầu (Yd) bằng
tổng cung (Y) và khi đó ta xác định được đường IS và ta có: IS(r) = F(Y,r).
+ Trên thị trường tiền tệ: thị trường tiền tệ cân bằng khi cung tiền (MS) bằng cầu tiền
(Md) của nền kinh tế, khi đó ta có: Ms = Md;
+ Phương trình tổng quát của mô hình IS-LM là

(3)
(4)
Giao điểm của IS và LM hay mô hình IS-LM mô tả cân bằng nội của nền kinh tế khi
đó sản lượng ở dạng tiềm năng; và nếu mức chênh lệch sản lượng quá lớn (biểu lộ ra là tình
trạng lạm phát, hoặc thất nghiệp quá mức…) thì ta có thể nói là biểu hiện của tình trạng mất
cân bằng nội của một nền kinh tế.
2.2. Mô hình IS-LM-BP và cân bằng ngoại
Từ Bảng cán cân thanh toán của một nền kinh tế (Balance of Payment hay BP) bao
gồm hai thành phần chủ yếu là tài khoản vãng lai (CA) và tài khoản vốn (KA); khi đó theo
định nghĩa ta có phương trình:
(5)
Trong đó, NX chiếm tỷ trọng lớn trong tài khoản vãng lai nên NX được xem như là
tài khoản vãng lai (CA); KA là tài khoản vốn là tài sản ở trong nước nhưng sở hữu bởi công
dân nước ngoài trừ đi tài sản ở nước ngoài được sỡ hữu bởi công dân trong nước. Nếu trong
điều kiện chu chuyển vốn là hoàn hảo (perpect capital mobility), KA là một hàm của chênh
lệch giữa lãi suất trong nước và lãi suất nước ngoài, cụ thể là:
(6)
Từ các phương trình (2), (3), (4), (5) và (6) ta có cán cân thanh toán dưới dạng sau:
]
hoặc ta có
Trong đó

(7)
(8)

là lãi suất trong nước,

là lãi suất trên thị trường quốc tế (nước ngoài);

là là mức độ chu chuyển vốn quốc tế đối với nền kinh tế đó (độ nhậy của tài khoản vốn

với mức độ chênh lệch lãi suất trogn nước và quốc tế);

là mức chu chuyển vốn đối với mỗi

quốc gia mà không phụ thuộc vào chênh lệch lãi suất.
Từ các phương trình trên ta có thể giải thích rằng, khi lãi suất trong nước tăng tương
đối so với lãi suất nước ngoài thì lợi nhuận đầu tư trong nước cao hơn lợi luận đầu tư ra
nước ngoài, công dân trong nước và nước ngoài có khuynh hướng tăng mua tài sản ở trong
Trường Đại học Thăng Long

172


Kỷ yếu công trình khoa học 2015 - Phần I

nước và giảm mua tài sản ở nước ngoài; Khi đó vốn có khuynh hướng chảy vào trong nước
(Net capital ìnflows). Nói một cách khác, nếu lãi suất trong nước ( ) cao hơn lãi suất nước
ngoài ( ) thì tài khoản vốn sẽ có khuynh hướng thặng dư và ngược lại. Mặc nhiên theo
định nghĩa, các khoản mục của một cán cân thanh toán có thể có sự thâm hụt hoặc thặng
dư nhưng cán cân thanh toán tổng thể phải luôn luôn cân bằng1. Mô hình Mundell-Fleming
là một đóng góp quan trọng khi đưa yếu tố nước ngoài vào phân tích do đư đường cán cân
thanh toán BP.
Đường BP được thiết lập trên hệ trục tọa độ (Y,r) với tập hợp tất cả các điểm mà tại đó
cán cân thanh toán cân bằng (BP=0). Như vậy tất cả các điểm trên BP là điểm cân bằng ngoại
của nền kinh tế và các điểm ngoài đường này là tình trạng mất cân bằng ngoại.
Nếu đặt đường IS, LM và BP trên cùng một hệ trục tọa độ, ba đường này có khả năng
cát nhau ở trung một điểm thì nền kinh tế có được điểm cân bằng cả nội và cân bằng ngoại.
3. Một số nghiên cứu đáng chú ý về cân bằng và mất cân bằng kinh tế
Từ trước đến nay đã có khá nhiều nghiên cứu đáng chú ý về mất cân bằng kinh tế;
Trong phạm vi bài viết, tác giả giới thiệu một số kết quả nghiên cứu đáng chú ý và có gắn với

với khủng hoảng tài chính.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, với mức độ hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay,
trong điều hành chính sách kinh tế vĩ mô, các chính phủ thay vì chỉ tập trung vào một cực, mà
đã đều phải tính đến dung hòa giữa hai cực của nền kinh tế; đó là khu vực kinh tế trong nước
(internal sector) và khu vực kinh tế đối ngoại (external sector) (Robert J.Carbaugh, 2007, tr
474)[ 2].
Nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng, một nền kinh tế có thể đặt được cân bằng kinh tế vĩ
mô tổng thể (overall macroeconomic balance) khi đồng thời “cân bằng nội” (Internal Balance)
và “cân bằng ngoại” (External Balance) (Peter Iard, 1995, tr.94-95; và 2007, tr.14). Các chính
phủ do đó cũng đưa ra mục tiêu cân bằng kinh tế vĩ mô trên cơ sở đặt được sự cân bằng nội và
cân bằng ngoại đồng thời.
- Các nghiên cứu dường như đã đồng thuận rằng cân bằng nội (Internal Balance) là
tình trạng nền kinh tế đạt được khi (1) nền sản xuất đạt mức sản lượng tiềm năng (”potential
output”); Tức là tại mức toàn dụng, không có thất nghiệp (full employment), (2) giá cả ổn
định (price stability) tức là không có lạm phát, hoặc thực tế hơn là lạm phát ở mức thấp
(Krugman, Obstfeld và Melitz, 2012; và Robert J.Carbaugh , 2007, tr 474); và một số tài liệu
khác cho rằng cần có điều kiện dài hạn hơn như tăng trưởng kinh tế liên tục và vững chắc,
phân phối thu nhập quốc dân công bằng ...

Khi tồng lượng ngoại tệ đi vào trong nước lớn hơn (nhỏ hơn) tổng lượng ngoại tệ đi ra khỏi nước thì cán cân
thanh toán thặng dư (thâm hụt). Khi cán cân thanh toán thâm hụt hay thặng dư sẽ xuất hiện khoản tài trợ chính
thức (OF: official financing). Khoản tài trợ chính thức phản ánh lượng dự trữ ngoại tệ mà NHTW phải chi ra khi
cán cân thanh toán thâm hụt hay thu về khi cán cân thanh toán thặng dư để giữ cho cán cân thanh toán tổng thể
luôn cân bằng. Trong cơ chế tỷ giá thả nổi hoàn toàn, cán cân thanh toán luôn cân bằng, do đó khoản tài trợ chính
thức luôn bằng 0

1

2


External Sector được hiểu là khu vực có tương tác với phần còn lại của thế giới

Trường Đại học Thăng Long

173


Kỷ yếu công trình khoa học 2015 - Phần I

Theo IMF (Chorng Huey Wong, 2002), “cân bằng nội” (internal balance) là tình trạng
mà sản lượng thực tiệm cận gần sát với sản lượng tiền năng hay mức năng lực sản xuất của
nền kinh tế, hoặc lạm phát ở mức thấp và không có sự gia tăng.Theo quan điểm này, nếu một
nền kinh tế có tình trạng lạm phát thấp cùng với tăng trưởng thấp hay tăng trưởng âm, hay
tăng trưởng kinh tế nhanh cùng với lạm phát cao ... thì nền kinh tế này không được coi là có
cân bằng nội (mà phải nói là mất cân bằng nội).
- Các nghiên cứu cũng cho rằng cân bằng ngoại (External Balance) đạt được khi cán
cân thanh toán (BP) không ở tình trạng quá mức thâm hụt (BP deficits) và cũng không quá
thặng dư (BP surpluses) (Robert J.Carbaugh , 2007, tr 475); Thực tế và một số nghiên cứu
của Robert J.Carbaugh, Krugman, Obstfeld và Melitz đề cập gián tiếp đến cán cân vãng lai
không bị rơi vào tình trạng quá thâm hụt đến mức mà quốc giá đó không trả nước nợ hay tình
trạng thặng dư cán cân vãng lai quá mức như trường hợp Nhật Bản những năm 1980s hay
Trung Quốc những năm 2000s (Krugman, Obstfeld và Melitz, 2012 và Robert J.Carbaugh ,
2007, tr 474);
theo IMF (Chorng Huey Wong, 2002), “Cân bằng ngoại” (external balance), được coi
là tình trạng cán cân vãng lai (curreny account) ở mức có thể chịu đựng được hay tương xứng
với các dòng vốn (capital flows) theo nghĩa tương hợp, phù hợp với triển vọng phát triển của
nền kinh tế mà không cần bất kỳ sự can thiệp nào về thương mại hay thanh toán, và như thế
mức dự trữ ngoại hối được giữ ở mức đủ an toàn và ổn định. Theo quan điểm này. Cân bằng
ngoại không nhất thiết phải là tình trạng cán cân vãng lai cân bằng (CA=0) hay cán cân tổng
thể cân bằng (BOP=0). Tuy nhiên, việc đơn giản hóa có thể được chấp nhận và lưu ý rằng các

khái niệm này cần được đi kèm với các ghi chú rõ ràng. (Chorng Huey Wong, 2002).
Tổ hợp của các tình trạng mất cân bằng kinh tế vĩ mô: Cả cân bằng nội và cân bằng
ngoại phụ thuộc vào hai biến cơ bản sau: (i) mức cầu nội địa thực (level of real domestic
demand) và (ii) tỷ giá hối đoái, mà chính nó lại phản ánh tình trạng nền kinh tế và các chính
sách kinh tế có liên quan (Chorng Huey Wong, 2002). Ví dụ cán cân vãng lai thâm hụt xảy ra
khi tỷ giá hối đoái thực tăng và đồng nội tệ lên giá, có tình trạng cầu nội địa cao quá mức,
hoặc cả hai; Và tình trạng ngược lại khi cán cân vãng lai thặng dư. Tương tự, và nếu có tình
trạng đồng nội tệ lên giá (tỷ giá hối đoái thực tăng) hoặc cầu thực nội địa tăng quá mức sẽ tạo
ra sức ép lạm phát; và tình huống ngược lại sẽ dẫng đến giảm sút sản lượng kinh tế. Một nền
kinh tế khi cán cân thanh toán có vấn đề thường dẫn đến chính phủ điều chỉnh các mục tiêu
chính sách khác như điều chỉnh hoặc tốc độ tăng trưởng kinh tế hoặc mức lạm phát.
Cân bằng nội và cân bằng ngoại có thể đạt được một cách riêng rẽ thông qua sự kết
hợp khác nhau giữa tỷ giá hối đoái thực và cầu nội địa thực. Tuy nhiên các chính phủ thường
tìm mọi nỗ lực để đạt được đồng thời cả cân bằng nội và cân bằng ngoại, điều đó lại cần sự
kết hợp đặc biệt giữa tỷ giá hối đoái thực và cầu nội địa thực.
Theo nguyên tắc của định nghĩa về cân bằng nội và cân bằng ngoại của IMF, các tình
trạng kết hợp của mất cân bằng kinh tế vĩ mô có thể được chia ra làm bốn loại như bảng dưới
đây (bảng 1).
Các quốc gia thường coi cân bằng nội là quan trọng hơn và các chính sách thường
được thiết kế để đặt được mục tiêu này trước sau đó mới đến mục tiêu cân bằng ngoại. Tuy
nhiên, một số trường hợp mất cân bằng ngoại liên tục và quá mức cũng đã làm các quốc gia
phải thay đổi chính sách và coi mục tiêu cân bằng ngoại là quan trọng (Robert J.Carbaugh ,
2007, tr 474).
Trường Đại học Thăng Long

174


Kỷ yếu công trình khoa học 2015 - Phần I


Nghiên cứu về mất cân bằn kinh tế ở Việt Nam: Từ trước tới nay, không có nhiều
nghiên cứu về vấn đề cân bằng nội và cân bằng ngoại ở Việt Nam. Một số nghiên cứu liên
quan đến cân bằng nội và cân bằng ngoại cần phải kể đến như sau:
Nguyễn Đình Tài (1994) đã đề cập đến vấn đề cân bằng nội và cân bằng ngoại. Tác gỉ
đã sử dụng mô hình lý thuyết thông qua lược đồ SWAN và gợi ý chính sách điều chỉnh trung
và dài hạn cho Việt Nam duy trì cân bằng kinh tế;
Một số nghiên cứu gần đây thuộc Diễn đàn phát triển kinh tế Việt Nam như Nguyễn
Ngọc Sơn. (20093) cũng đã chỉ ra tình trạng mất cân bằng nội hay cân bằng ngoại ở Viêt Nam
thời kỳ 2006-2007. Trong đó chỉ rõ tình trạng mất cân bẳng tiết kiệm đầu tư giữa khu vực Chính
phủ và khu vực tư nhân và chỉ ra tác động của mất cân bằng tiết kiệm và đầu tư được phản ánh
vào thâm hụt cân cân vãng lai; Tác giả cũng chỉ ra nguyên nhân của tình trạng này là vấn đế chính
sách tăng trưởng cao và đầu tư công kém hiệu quả. Tác giả chỉ ra đây là rủi ro tiềm ẩn;
Nguyễn Văn tiến (2010), tác giả tổng hợp các vấn đề lý luận về cân bằng nội và cân
bằng ngoại; Tuy nhiên tác giả chưa đề cập nhiều đến mất cân bàng nội, mất cân bằng ngoại và
hệ lụy của nó và những gợi ý chính sách cho Việt Nam (vì đây sách giao khoa).
Nguyễn Thị Hà Trang (2011) nghiên cứu về thâm hụt tài khoảng vãng lai Việt Nam
thực chất là mất cân bằng ngoại ở Việt Nam. Theo đó, tác già chỉ ra thâm hụt cán cân vãng lai
là do mất cân đối vĩ mô mà cụ thể là do mất cân đối tiết kiệm (S) và đầu tư (I) của nền kinh tế
mà nguyên nhân sâu xa là do chính sách tăng trưởng cao dựa vào vai trò đầu tư công...
Đinh Tuấn Minh và Tô Trung Thành (2012) đề cập đấn tác động của dầu tư công của Việt
Nam yếu kém và hàm ý là tác nhân dẫn đến các mất cân đối, thâm hụt ngân sách ở Việt Nam ...
Các vấn đề mà các tác giả đã kết luận chưa gắn với vấn đề về khủng hoảng tài chính.
Lý do là mục tiêu của các tác giả là về các vấn đề khác hơn là về khủng hoảng tài chính.
Bảng 1: Các dạng kết hợp của mất cân bằng kinh tế
(Nguồn: Chorng Huey Wong, 2002)
Loại mất cân bằng kinh tế vĩ mô

Các nền kinh tế đã từng bị tác động

Cầu nội địa quá mức, lạm phát và


Hầu hết các nền kinh tế được hưởng SBA

Thâm hụt cán cân vãng lai
Nền kinh tế nội địa suy thoái

Một số nền kinh tế PRGF và EFF

Thâm hụt cán cân vãng lai

Liên hiệp Anh và cuối những năm 1980 và đầu
những năm 1990

Cầu nội địa quá mức và lạm phát

Một số nước sản xuất dầu hỏa

Thặng dư cán cân vãng lai

Trung Quốc vào nửa đầu những năm 1990

Nền kinh tế nội địa suy thoái

Nhật Bản từ 1992 đến nay

Thặng dư cán cân vãng lai
Ghi chú: Những khoản hỗ trợ tài chính của IMF: SBA (Stand By Arrangement)= khoản (thể
thức) vay dự phòng; PRGF (Poverty Reduction and Growth Facility)= Tín dụng giảm nghèo
và hỗ trợ tăng trưởng; EFF (Extanded Fund Facility)= Thể thức (khoản) vay tăng cường;
3


Diễn đàn phát triển Việt Nam 2009 ( xem Website Đại Học kinh tế Quốc dân)

Trường Đại học Thăng Long

175


Kỷ yếu công trình khoa học 2015 - Phần I

4. Mất cân bằng kinh tế: hệ lụy và chính sách cân bằng
4.1. Lý thuyết về phối hợp chính sách tiền tệ và tài khóa cho cân bằng kinh tế
Từ các mô hình lý thuyết cho thấy, các mất cân bằng kinh tế có thể dẫn đến lạm phát,
mất giá tiền tệ, kinh tế sau đó suy thoái, dòng tiền chảy vào hay chảy ra quá nhiều và dẫn đến
khủng hoảng tài chính. Theo mô tả dòng thu nhập theo quan điểm của lập trình tài chính
(Financial programing) cho thấy mối quan hệ và cân đối/ mất cân bằng giữa các khu vực của
nền kinh tế với nhau bao gồm bên trong nền kinh tế (cân bằng nội) và cả khu vực kinh tế đối
ngoại (hàm ý cân bằng ngoại). Mô tả này cho thấy mối quan hệ giữa khu vực sản xuất vật chất
(real sector) và khu vực ngân sách (fiscal sector), khu vực tiền tệ (money sector) hay với khu
vực kinh tế đối ngoại (external sector). Sâu sắc hơn, bảng có thể cho thấy sự mất cân đối
mang tính chất cơ cấu của nền kinh tế của từng khu vực nhỏ và mất cân bằng nội tác động
như thế nào với các cân đối khác của nền kinh tế. Trong đó đáng chủ ý là mất cân đối giữa
đầu tư (I) và tiết kiệm (S). Theo đồng nhất thức về thu nhập quốc dân (X-M) = (I-S); trong đó
X là xuất khẩu, M là nhập khẩu và I là đầu tư, S là tiết kiệm của nền kinh tế. Từ quan điểm
lập trình tài chính nêu trên ta thấy nếu nền kinh tế tăng đầu tư quá mức thì dẫn đến thiếu hụt
vốn và ngay lập tức là sức ép lên khu vực ngân hàng (mà biểu hiện là lãi suất cao và căng
thẳng thanh khoản của hệ thống ngân hàng…). Các đồng nhất thức theo quan điểm này có thể
cho ta suy ra để nhìn rõ các cân đối về tài chính trong nội bộ khu vực kinh tế tư nhân là “IpSp“ và mất cân đối vốn giữa thu và chi của khu vực chính phủ Ig-Sg; Với khu vực chính phủ ta
lại có “ Ig-Sg= G-T” , trong đó “G” là chi tiêu chính phủ và “T “ là tổng thu của chính phủ và
đó chính là cán cân ngân sách của chính phủ.

Theo các mô hình khủng hoảng tài chính, các yếu tố mất cân đối kinh tế vĩ mô như
đầu tư tiết, tiết kiệm, thâm hụt cán cân ngân sách … tạo nên dòng vốn vào … Đầu tư quá mức
(chính phủ), bùng nổ thanh khoản, bùng nổi tín dụng, lạm phát gia tăng và khi dòng vốn quay
đầu, thị trường tài sản sụt giảm, trong điều kiện chính phủ cố định tỷ giá buộc phải can thiệp
và dự trữ ngoại hối cạn kiệt … Sự thay đổi giá trị trên bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp
và ngân hàng dẫn đến hệ thống mất khả năng thanh toán và thị trường hàng hóa ứ đọng …
Doanh nghiệp không trả được nợ và nợ xấu gia tăng … Ngân hàng mất vốn từng phần và
chính phủ phải bơm vốn, cứu vớt … và lại dẫn đến khủng hoảng nợ công. Sự can thiệp của
chính phủ thường bằng giải pháp tiền tệ và tài khóa, đó có thể lại là nguyên nhân dẫn đến
khủng hoảng tiền tệ và tài khóa tiếp theo cuộc khủng hoảng ngân hàng (Kaminsky và
Reinhart, 1999; Reinhart và Rogoff, 2011).
Nhiều nghiên cứu cũng chỉ ra rằng chính sách đầu tư quá mức (chạy theo tăng trưởng
nhanh), dễ dàng với dòng vốn nước ngoài (không có điều kiện) dẫn đến mất cân đối cùng với
sự yếu kém về quản lý, thể chế, sự minh bạch thường dẫn đến các cuộc khủng hoảng tài
chính (IOSOCO, 1999). Điều này càng cho thấy mối quan hệ giữa mất cân bằng kinh tế (mất
cân bằng nội và cân bằng ngoại).

Trường Đại học Thăng Long

176


Kỷ yếu công trình khoa học 2015 - Phần I

Hình 1: Các mục tiêu kinh tế và Chính sách kinh tế vĩ mô
Nguồn: Dựa theo Robert J.Carbaugh , 2007, tr 476 và điều chỉnh của tác giả

Một nền kinh tế đạt được cân bằng tổng thể khi đồng thời đạt được cân bằng nội và
cân bằng ngoại. Khi nền kinh tế mất cân bằng (cân bằng tổng thể không đặt được), các
chính phủ có thể thực hiện chính sách thay đổi chi tiêu (như chính sách tiền tệ/chính

sách tài khóa), hoặc chính sách chuyển đổi chi tiêu (như phá giá/nâng giá nội tệ) nhằm
giảm bớt tình trạng mất cân bằng nội hay giảm bớt tỉnh trạng mất cân bằng ngoại, và
đưa nền kinh tế về vị trí cân bằng tổng thể (nguồn: Robert J.Carbaugh , 2007, tr 476).
Sự mất cân đối kinh tế toàn cầu giữa các khu vực kinh tế như nền kinh tế Mỹ và các
nền kinh tế mới nổi là một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng tài chính thế giới
năm 2007-9 vừa qua. Nhiều nghiên cứu gồm Maurice Obstfeld và Kenneth Rogoff (2009)
cho rằng, sự thặng dư cán cân vãng lai ở Trung Quốc (và các nền kinh tế mới nổi nói chung)
trong những năm 2000 đã đưa đến tình trạng nền kinh tế Mỹ có điều kiện vay được nguồn vốn
giá rẻ từ nước ngoài hơn để tài trợ cho các hoạt động kinh tế trong nước một cách kém bền
vững hay dễ dãi đã thúc đẩy quá trình bong bóng tài sản hay bong bóng bất động sản nơi đây.
Với cách lập luận như vậy, nhiều quan điểm đều cho rằng cùng với các nguyên nhân khác,
tình trạng mất cân bằng kinh tế thế gới đã đẫn đến khủng hoảng ở Mỹ và sau đó là khủng
hoảng tài chính thế giới năm 2007-2009 (M. Obstfeld và K. Rogoff, 2009).
4.2. Chính sách cân bằng kinh tế vĩ mô.
Các chính phủ thường sử dụng rất nhiều biện pháp chính sách nhằm tác động đến việc
làm, giá cả và cán cân thanh toán quốc tế để cố gắng đưa nền kinh tế về trạng thái cân bằng.
Các chính sách tác động này có thể được phân loại thành các loại loại thành: (i) Chính sách
thay đổi chi tiêu (Expenditure-changing policies), (ii) Chính sách chuyển hướng chi tiêu
(Expenditure-switching policies) và (iii) Can thiệp trực tiếp (direc controls).
Khi nền kinh tế mất cân bằng, các chính phủ có thể thực hiện chính sách tiền tệ hay
chính sách tài khóa, hoặc phá giá/nâng giá nội tệ nhằm và đưa nền kinh tế về vị trí cân bằng
tổng thể (nguồn: Robert J.Carbaugh , 2007, tr 476). Tuy nhiên, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng
sự thành công của các chính sách này phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố như liều lượng và
hướng của chính sách, năng lực mà một quốc gia có thể đáp ứng được bằng cách gia tăng
thêm cung hàng sản xuất trong nước (Robert J.Carbaugh , 2007, tr 475).
Trường Đại học Thăng Long

177



Kỷ yếu công trình khoa học 2015 - Phần I

Chính sách thay đổi tỷ giá thông thường hướng tới chuyển đổi chi tiêu và có tác động
đến cán cân thanh toán (Balance of payment) một cách gián tiếp thông qua tác động đến cơ
chế giá và thu nhập quốc dân;
Bảng 2: Hiệu quả của chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa trong việc đặt được
mục tiêu cân bằng nội (với giả định chu chuyển vốn tự do; nguồn: Robert J.Carbaugh ,
2007, tr 478).
Cơ chế tỷ giá

Chính sách tiền tệ

Chính sách tài khóa

Cơ chế tỷ giá thả nổi

Hiệu quả

Không hiệu quả

Cơ chế tỷ giá cố định

Không hiệu quả

Hiệu quả

Chính phủ có thể thực hiện các chính sách can thiệp trực tiếp như hạn chế, ngăn cấm
sự tham gia của một số thị trường nào đó trong nước.
Một điều đáng chú ý rằng, chính phủ cũng có thể không sử dụng biện pháp gì để điều
chỉnh nền kinh tế về trạng thái cân bằng. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng mỗi chính sách chỉ có

chức năng riêng của nó và khó có thể làm được tất cả những điều mà chính phủ mong muốn.
5. Việt Nam: mất cân bằng kinh tế ở Việt Nam
5.1. Một số bằng chứng về mất cân bằng kinh tế ở Việt Nam
Dữ thiệu thực tế và mô tả cũng như một vài nghiên cứu đã chỉ ra rằng nền kinh tế Việt
Nam đã từng bị mất cân bằng khá trầm trọng vào thời kỳ 2005-2010 (nhất là năm 2007/08). Ở
một số giai đoạn mức sản lượng thực tế vượt xa sản lượng tiềm năng (Nguyễn Đình Cung,
2012).. Mức chênh lệch sản lượng càng cao phản ánh nền kinh tế tăng trưởng nóng cũng đã
đi kèm với tỷ lệ lạm phát gia tăng mạnh (hay sức ép mạnh) trong thời kỳ 2006-2010. Hay nói
cách khác nền kinh tế ở vào trình trạng mất cân bằng nội khá đáng kể (Đồ thị 1) Từ góc độ
đối ngoại, cho thấy từ khi Việt Nam gia nhập WTO vào năm 2007, với tình trạng mất cân
bằng nội, chính sách tăng trưởng cao, nhờ mở rộng tài khóa và tiền tệ (chính sách kích thích
kinh tế), nền kinh tế cũng rơi vào mất cân bằng ngoại khá trầm trọng (Hình 2).
Đồ thị 1: Việt Nam: tăng trưởng kinh tế nóng
25%

Vietnam: Output gap
% yoy; Source: 2000-2009 IMF and Dr. Nguyen Dinh Cung, CIEM

20%
15%
10%
5%
0%
-5%

2015

2014

GDP actual (%)


2013

2012

2011

2010

2009

GDP Potential(%)

2008

2007

2006

2005

2004

2003

2002

2001

2000


GDP-Gap (%)

CPI ( %)

Giai đoạn đoạn kinh tế tăng trưởng quá nóng 2006-2010: do mô hình tăng trưởng kinh tế dựa vào
chính sách tiền tệ và tài khóa cởi mở, cộng với dòng vốn chảy vào rất mạnh 2007. Thời điểm này
là lạm phát gia tăng, bùng nổ tín dụng (bất động sản, chứng khoán …)….
Trường Đại học Thăng Long

178


Kỷ yếu công trình khoa học 2015 - Phần I

Cụ thể từ năm 2006, nền kinh tế đã phải đối mặt với tình trạng thâm hụt cán cân vãng
lai cùng với thâm hụt ngân sách khá đáng kể; Dòng vốn chảy vào mạnh, thặng dư cán cân
tổng thể (mất cân bằng ngoại); Trong nội bộ nền kinh tế, việc lạm phát thường tăng cao hay
liên tục là áp lực đã phản ánh các chính sách mở rộng của chính phủ, gồm chính sách tài khóa
mở rộng đầu tư công và chính sách tiền tệ mở rộng cho tăng trưởng tín dụng cao liên tục trong
nhiều năm. Từ lý thuyết có thể giải thích rằng, từ chính sách tăng trưởng cao đã dẫn đến thâm
hụt ngân sách và từ đó lại dẫn đến thâm hụt cán cân vãng lai và làm gia tăng dòng vốn vào và
khi không có can thiệp trung hòa từ NHNN là dẫn đến lạm phát gia tăng vào năm 2008-2011.
Đồ thị 3: Việt Nam: Tình trạng mất cân đối vốn theo các khu vực (đơn vị tính %
GDP; S–I : chênh lệch vốn và đầu tư của cả nền kinh tế ; Sh-Ih: chênh lệch vốn và đầu
tư của khu vực hộ gia đình; Sp-Ip: chênh lệch vốn và đầu tư của khu vực doanh nghiệp;
Sg-Ig: chênh lệch vốn và đầu tư của khu vực công);
( Dữ liệu theo Nguồn: Nguyễn Ngọc Sơn, 2009: "Cân đối, tiết kiệm, đàu tư và tăng
trưởng kinh tế ở Việt Nam: Tính toán trên cơ sở dữ liệu của Vụ tài khoản quốc gia,
TCTK. Diễn Đang phát triển kinh tế Việt Nm 2009: " Nguồn tài chính trong nước và

nước ngoài cho tăng trưởng ở Việt Nam"

Nếu nhìn nhận về cân đối cơ cấu cũng có thể quan sát thấy khá nhiều sự mất cân bằng
của nền kinh tế Việt Nam. Từ 1995 đến 2008, tình hình mất cân đối vốn (tiết kiệm và đâu tư)
của Việt Nam ngày càng trầm trọng. Khu vực chính phủ có mức mất cân đối vốn khá trầm
trọng (Sg-Ig) và liên tục bắt đầu từ năm 1998 mức thiếu hụt vốn của khu vực tư nhân (Sp-Ip)
đã tạo nên sự mất cân đối vốn của cả nền kinh tế trầm trọng hơn từ từ 2003 sự mất cân đối
vốn của Việt Nam thường xuyên ở mức gần 10 % GDP. Sự mất cân đối này do nguyên nhân
chủ yếu từ chính sách đầu tư công và được tài trợ bởi dòng vốn vào từ 2007, phản ánh bởi
thâm hụt CA và thẳng dư KA của Việt Nam từ 2007 khi Việt Nam trở thành thành viên chính
thức của WTO vào năm 2007.

Trường Đại học Thăng Long

179


Kỷ yếu công trình khoa học 2015 - Phần I

Đồ thị 4: Việt Nam, dòng vốn vào và bùng nổ giá tài sản từ 2006-2008
Nguồn: NHNN, Tổng cục thống kê và UBCKNN

Chính sách tăng trưởng nhanh giúp nền kinh tế có sản lượng tăng liên tục nhưng tình
trạng thiếu vốn là liên tục và phản ánh khá rõ vào thị trường tài chính, ngân hàng. Trong thời
kỳ này, tình trạng ở khu vực ngân hàng là lãi suất cao, thiếu thanh khoản, thiếu nguồn là căn
bệnh kinh niên. Đồ thị về nhu cầu tài trợ của Việt Nam (financing gap = S-I = CA) cũng cho
thấy có thời điểm, nhu cầu tài trợ lên tới gần 15% GDP.
Các tính toán và nhìn nhận của WB (2010) cũng cho rằng nền kinh tế tăng trưởng
nóng và dựa vào vốn là chính trong giai đoạn 2006-2010. Trong giai đoạn này, chỉ số ICOR
của Việt Nam khá cao so với các nước trong khu vực. Nếu nhìn vào chất lượng tăng trưởng

cũng có thể thấy nền sự đóng góp của cac yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) là khá thấp (Đồ thị
5)
Đồ thị 5: Việt Nam: tăng trưởng dựa vào vốn (Nguồn: Tổng cục Thống kê; Các chỉ số quan trọng của ADB
(2008): Đối với số liệu tăng trưởng, Trần Thọ Đạt, Nguyễn Quang Thắng và Chu Quang Khôi, "Nguồn gốc
tăng trưởng kinh tế của Việt Nam 1986-2004", mimeograhped, Đại học Kinh tế Quốc dân (2005) cho 19902004 và tính toán không chính thức do Sở SNA Tổng cục Thống kê cho giai đoạn 2005-2007, tính liên tục
giữa hai không được bảo đảm; 2008-2012 của WB và các nguồn khác)

12%

10%
9%8%9% 9%8%

10%
8%
6%

Capital (%)

Labour (%)

TFP (%)

Output (%)

9%
8%8%8%8%
7%7%7%7%
7%
6%5%5%6%
6%

5%
5%

5%6%

4%
2%
0%
-2%

2014

2013

2012

2011

2010

2009

2008

2007

2006

2005


2004

2003

2002

2001

2000

1999

1998

1997

1996

1995

1994

1993

1992

1991

1990


Trường Đại học Thăng Long

180


Kỷ yếu công trình khoa học 2015 - Phần I

5.2. Việt Nam đã có chính sách cân bằng hóa kịp thời
Dễ nhận thấy, kinh tế Việt Nam có đỉnh điểm của mất cân bằng là vào năm 20082010. Phản ứng của Chính phủ Việt Nam là Nghị quyết 11/NQ-CP ngày 24/2/2014. Các giải
pháp mà Chình phủ Việt Nam hướng tới cân bằng hóa nền kinh tế là thắt chặt tiền tệ và tài
khóa cùng với một số giải pháp trực tiếp mà giới quan sát gọi là biện pháp “can thiệp hành
chính”. Cho đến nay, rõ ràng rằng các giải pháp theo Nghị quyết 11 trong thời gian đã đưa
nền kinh tế lại sự cân bằng và ổn định mà biểu hiện rõ nhất là ở thị trường tiền tệ, hệ thống
ngân hàng Việt Nam (Hình 2).
Hình 2: Việt Nam mất cân bằng kinh tế (2007-2011 ) và điều chỉnh (20122015)
Nguồn: Tác giả, dựa trên các số liệu của TCTK và NHNN công bố các năm tương
ứng

6. Kết luận và một vài gợi ý chính sách
Mất cân bằng kinh tế gần đây được quan tâm đặc biệt, bao gồm mất cân bằng đối nội
và mất cân bằng đối ngoại; Biểu hiện của tình trạng mất cân bằng nội là tăng trưởng nóng
(sức ép lạm phát cao liên tục) và mất cân bằng ngoại là cán cân thanh toán ở vào tình trạng
thâm hụt hạy thặng dự quá mức. Các nghiên cứu kinh tế cho rằng mất cân bằng kinh tế có
nguyên nhân từ chính sách kinh tế không phù hợp của một quốc gia như theo đuổi mục tiêu
tăng trưởng cao và dựa vào đầu tư công và vốn ngoại. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng hệ lụy
của mất cân bằng kinh tế có liên quan đến bất ổn ở khu vực tài chính ngân hàng và có được
coi là một trong những nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2007-08.
Chính phủ có thể sử dụng chích sách tài khóa và chính sách tiền tệ và kể cả giải pháp can
thiệp trực tiếp để điều chinh nền kinh tế về trạng thái cân bằng.
Từ khi Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường và đặc biệt là từ khi gia nhập

WTO (2007,) nền kinh tế đã từng rơi vào tình trạng mất cân bằng nội và mất cân bằng ngoại.
Các biểu hiện mất cân bằng kinh tế của nền kinh tế Việt Nam là tăng trưởng khá cao nhưng
luôn phải đối mặt với nguy cơ bùng nổ lạm phát; thâm hụt tài khóa đi đôi với thâm hụt cán
cân vàng lai ở mức tương đối trầm trọng; Luồng vốn chảy vào nhiều nhưng đi đôi với tình
trạng bất ổn ở khu vực tài chính ngân hàng như tình trạng nợ xấu tăng cao lên cao, ngân hàng
liên tục thiếu hụt thanh khoản và đứng trước nguy cơ đổ vỡ, đồng nội tệ bị sức ép phá giá liên
Trường Đại học Thăng Long

181


Kỷ yếu công trình khoa học 2015 - Phần I

tục; bong bóng giá chứng khoán và bất động sản rất đáng quan ngại ...(đặc biệt thời kỳ 20062012);
Chính Phủ đã có phản ứng và điều chỉnh chính sách phù hợp; Cụ thể, theo Nghị
Quyết 11/NQ-CP ngày 24/2/2011 của Chính phủ, chính sách tiền tệ và tài khóa đã được
điều hành theo hướng thắt chặt, đồng thời với chính sách can thiệp trực tiếp; Đồng thời
với định hướng chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế của Đảng, nền kinh tế Việt Nam
đến nay đã từng bước trở lại trạng thái tương đối cân bằng; Cho dù vậy, phí trước vẫn còn
nhiều thách thức. Từ lý thuyết và phân tích nêu trên, tác giả rút ra một vài gợi ý chính
sách cho tăng trưởng bền vững mà nền kinh tế không bị cuốn vào khủng hoảng tài chính:
- Duy tri chính sách tài khóa cẩn trọng đi đôi với kiểm soát chặt chẽ đầu tư công
hợp lý hiệu quả; kiểm soát nợ công ở ngưỡng cho phép. Theo định hướng này, Nhà nước
phải thực hiện chính sách tài khóa có kỷ luật; có chính sách quản lý đầu tư công tập trung,
không phân cấp cho các địa phương; Đẩy nhanh cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước
để ngăn chặn tình trạng đầu tư kém hiệu quả và vay nợ tràn lan như thời gian vừa qua theo
kiểu Vinashin... Với các giải pháp pháp này sẽ nhu cầu vay của chính phủ sẽ giảm; Các
giải pháp hạn chế thâm hụt ngân sách cũng sẽ hạn chế sức ép giảm thâm hụt cán cân vãng
lãi (thâm hụt kép) của nền kinh tế trong trung hạn. Tăng cường quản lý nợ công, đảm bảo
nợ công ở mức giới hạn an toàn đi đôi với tái cơ cấu đầu tư công, tái cơ cấu các doanh

nghiệp nhà nước (DNNN). Như trên đã phân tích, kiểm soát được nợ công, đảm bảo đầu
tư công hiệu quả sẽ đảm bảo cân bằng nội, đặc biệt là đảm bảo cân đối tiết kiệm và đầu tư.
Đảm bảo sự cân đối này sẽ không dẫn đến mất cân đối trong nước và cân bằng đối ngoại
mà kết quả gần đây đã đạt được là lạm phát thấp, cán cân thanh toán quốc tế ở mức cân
bằng.
- Thực hiện chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế, hướng tới năng suất, chất
lượng hiệu quả: Việc hướng tới mô hình tăng trưởng kinh tế dựa vào năng suất, chất
lượng, hiệu quả sẽ đảm bảo Nhà nước điều hành bởi các chính sách trọng cung (supply
sides economics policy) hơn là các chính sách kinh tế trọng cầu (demand sides economics
policy)-thiên về hỗ trợ, hay kích cầu…Với chính sách tăng trưởng kinh tế như vậy sẽ hạn
chế được tình trạng thường xuyên gây ra các hiệu ứng mất cân đối kinh tế thường xuyên
như tình trạng lạm phát, tăng giá đột ngột mà nền kinh tế thường phải trải qua trong những
thập kỷ qua. Đây là giải pháp đảm bảo cân bằng trong dài hạn, và kinh nghiệm cho thấy,
nếu để tích tụ các mất câng bằng quá mức trong trung hạn sẽ đi kèm với khủng hoảng tài
chính.
- Duy trì tăng trưởng kinh tế ở mức vừa phải theo các mục tiêu tăng trưởng (GDP)
ở mức phù hợp với các nguồn nội lực là và ngoại lực cũng như năng lực quản lý của nền
kinh tế. Trong bối cảnh Việt Nam hiện nay, có thể hạn chế tình trạng chạy theo thành tích,
hay tăng trưởng bằng mọi giá ở các địa phương bằng cách coi chỉ tiêu đánh giá năng lực
cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) làm chỉ tiêu quan trọng. Kiểm soát tăng trưởng từ địa phương,
sẽ hạn chế đầu tư dàn trải ở địa phương theo quan điểm cát cứ và qua đó đảm bảo cân đối
giữa tiết kiệm và đầu tư (S-I) một cách tổng thể.

Trường Đại học Thăng Long

182


Kỷ yếu công trình khoa học 2015 - Phần I


Đồ thị 6: Việt Nam: Chính sách tăng trưởng kinh tế dựa vào kích cầu là chính: Đầu
tư phân theo thành phần kinh tế
(tỷ lệ %, Nguồn: Tổng cục thống kê, MPI; 2013= Ước tính)
46,5%
50,0%
41,5%42,7%41,9%
36,8%
35,6%
35,5%
35,4%
34,6%33,5%
80%
40,0%
31,2%32,9%
30,4%
27,1%28,1%28,3%
23,7%22,5%25,3%
60%
30,0%

100%

40%

20,0%

20%

10,0%


0%

0,0%

State (%)

Non-State (%)

FDI (%)

Investment /GDP (%, RHS)

2000 đến 2010: Một tỷ lệ lớn của đầu tư đến từ khu vực Nhà nước lên đến 40% tổng đầu
tư. Để đạt mục tiêu tăng trưởng GDP, đầu tư công đóng một vai trò nhất định vào sự tăng
trưởng trong những năm 2000. Từ 2011, tỷ lệ của đầu tư công đã giảm.
- Kiểm soát hiệu quả luồng vốn vào và hướng dòng vốn này vào khu vực hiệu quả hạn
chế tình trạng bong bóng chứng khoán, bất động sản quá mức. Việt Nam đang tích cực, chủ
động thực hiện các cam kết hội nhập quốc tế theo WTO và cũng như Hiệp định xuyên Thái
Bình Dương (TPP) vừa đạt được ngày 6/10/2015. Trong điều kiện đó và kinh nghiệm những
năm 2007-8 cho thấy, hội nhập đi đôi với dòng vốn vào và có thể làm nền kinh tế trở nên mất
cân bằng và nền kinh tế có thể dễ tổn thương cũng như và nguy cơ khủng hoảng tài chính.
- Duy trì chính sách tiền tệ thận trọng và có sự phối hợp hài hòa với chính sách tài
khóa. Như đã nêu trên, việc thực hiện chính sách tài khóa hay tiền tệ mở rộng để kích thích
tăng trưởng kinh tế (theo nguyên tác trọng cầu) sẽ dẫn đến các mất cân bằng kinh tế thường
xuyên như lạm phát, thất nghiệp, thâm hụt cán cân hay cả tình trạng bong bóng tài sản. Sự
không phối hợp giữa các chính sách (hay xung đột chính sách, hoặc tình trạng lấn át quá mức
của tài khóa) có thể dẫn đến chính sách này bị phá vỡ bởi chính sách kia;
- Từng bước chuyển đổi chế tỷ giá hối đoái linh hoạt, định hướng thị trường. Trong
điều kiện hội nhập quốc tế, mức độ tự do hóa dòng vốn quốc tế ngày càng cao, nếu có sự “bảo
lãnh ngầm định” về tỷ cố định sẽ kích thích dòng vốn vào (gia tăng nợ nước ngoài) và do đó

tính dễ tổn thương của nền kinh tế sẽ ngày một tích tụ. Sự tích tụ mất cân bằng ngoại có thể là
nguyên nhân của khủng hoảng tài chính;
- Tái cơ cấu khu vực ngân hàng theo phương pháp luận phù hợp, hạn chế gia tăng nợ
công, hay phá vỡ chính sách tiền tệ qua đó hạn chế tiềm ẩn của mất cân bàng kinh tế trong
trung hạn: Hiện tại vấn đề tái cơ cấu khu vực ngân hàng, trong đó vấn đề phân bổ chi phí của
tái cơ cấu (chi phí về xử lý nợ xấu, chi phí tăng vốn cho các ngân hàng...) đang được Quốc
hội và toàn dân rất quan tâm (Bích Diệp, 2015; Nguyên Vũ, 2015; Lê Hà, 2015) và tạo ra các
sức ép không nhỏ cho chính sách tiền tệ hay chính sách tài khóa; Tác giả cho rằng, định
Trường Đại học Thăng Long

183


Kỷ yếu công trình khoa học 2015 - Phần I

hướng hiện tại của Chính phủ về tái cơ cấu ngân hàng là phù hợp cần kiên định thực hiện,
không quá nóng vội;Cụ thể, theo đề án tái cơ cấu khu vực ngân hàng (Thủ tướng 2012, Chính
phủ 2013), giải pháp mà Chính phủ đang thực hiện là phương pháp phân tán (decentraliztion);
Qua đó các chi phí của quá trình tái cơ cấu ngân hàng Việt Nam được phân bổ theo lộ trình
hợp lý vào các đối tượng của nền kinh tế. Cụ thể cac cách thức đó là: các ngân hàng tự sáp
nhập; khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào ngân hàng hay mua lại nợ; trái phiếu
đặc biệt qua VAMC (kết hợp ngân sách và chính sách tiền tệ); NHNN mua lại với giá không
đồng (kết hợp ngân sách và chính sách tiền tệ)… Theo định hướng này, việc tái cơ cấu khu
vực ngân hàng sẽ không gây nặng nợ công, phá với chính sách tiền tệ mà duy trì được kỷ
cương thị trường. /.
7. Tài liệu tham khảo
[1]. Bích Diệp, 2015 a “Yêu cầu công khai, minh bạch cơ chế mua ngân hàng giá 0
đồng”, tại thời điểm Thứ ba, 20/10/2015 - 15:00
[2]. Bích Diệp, 2015 b : “Mua ngân hàng giá 0 đồng: Lo khả năng thu hồi nợ” Báo
Dân trí Thứ sáu, 23/10/2015 - 10:48b, tại />[3]. Chính phủ, 2013: Nghị định 53/2013/NĐ-CP ngày 18/5/2013 về tổ chức và

hoạt động của công ty quản lý tài sản các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC),
[4]. Chính phủ, 2015: Nghị định 34/2015/NĐ-CP ngày 31/3/2015 về sửa đổi một
số điều của Nghị định 53/2013/NĐ-CP
[5]. Chorng Huey Wong, 2002: “ Adjustment and Internal-External Balance” trong
Macroeconomic Management Programs and Policies, Editors: M. S Khan, S.M.Nsouli C.H
Wong , IMF Institute Washington, DC 2002
[6]. Chủ nhật, 08/03/2015 - 06:49
[7]. Claudio Borio and Piti Disyatat, 2011: Global imbalances and the Financia;
Crisis: Link or no link ?, BIS Working papers No 346, May 2011
[8]. Đinh Tuấn Minh và Tô Trung Thành, 2012: “Đầu tư công của Việt Nam vì
sao yếu kém“ Báo cáo thường niên Kinh tế Việt Nam 2012” Đối diện với thách thức- Tái cơ
cấu kinh tế” – Chủ biên TS- Nguyễn Đức Thành, XXB Đại Học Quố Gia Hà Nôi, 2012
[9]. Ing. Helena Horska, “Open Economy- Exchange rate. Foreign trade. Balance
of Payments. Stabilization policy in open economy”
[10]. John Knight và Wei Wang, 2011 “China’ macroeconomic imbalances: Causes
anf consequences”. BOFIT Discussion Papers, Bank of Finlan, BOFIT, Institute for
Eonomies in Transition, 2011
[11]. Karl Whelan, 2010: Global Imbalances and the FinancialCrisis , European
Parliment , 8 March 2010
[12]. Krugman, Obstfeld và Melitz, 2012: “International Economics, Theory &
Policy” by Krugman Paul R., Obstfeld Maurice và Marc Melitz, ; 9th Edition, Copyright
2012, Pearson-Wesley.
[13]. Lê Hà, 2015 “Mua ngân hàng giá 0 đồng: Cứng rắn để ổn định”, tại
lúc Luc Laeven and Fabián Valencia, 2012: IMF working paper No

Trường Đại học Thăng Long

184



Kỷ yếu công trình khoa học 2015 - Phần I

WP/12/163 (2012), MF Working Paper, Research Department “Systemic Banking Crises
Database: An Update” Prepared by Luc Laeven and Fabián Valencia 2012
[15]. Maurice Obstfeld and Kenneth Rogoff, 2009: “Global Imbalances and the
Financial Crisis: Products of Common Causes” University of California, Berkeley, and
Harvard University. Paper prepared for the Federal Reserve Bank of San Francisco Asia
Economic Policy Conference, Santa Barbara, CA, October 18-20, 2009.
[16]. Nguyễn Ngọc Sơn, 2009": “Cân đối tiết kiệm và đàu tư và tăng trưởng kinh tế
ở Việt Nam “ (Chương I, tác giả Nguyễn Ngọc Sơn) , trong “ Nguồn tài chính trong nước và
nước ngoài cho tăng trưởng ở Việt Nam” Diễn Đàn phát triển kinh tế Việt Nm 2009, Dại Học
kinh tế quốc dân và RMIT, 2009, Chủ biên Nguyễn Ngọc Sơn và Trần Thị Thanh Tú
[17]. Nguyễn Đình Tài, 1994 “Cán cân thanh toán quốc tế, tỷ giá hối đoài và vấn đề
kinh tế đối ngoại”, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà nội 1994;
[18]. Nguyễn Thị Hà Trang, 2011: Thâm hụt tài khoảng vãng lai: Nguyên nhân và
giải pháp. Nguyễn Thị Hà Trang, Nguyễn Ngọc Anh, Nguyễn Đình Chúc – Trung tâm
nghiên cứu và chính sách (DEPOCEN), Hà Nội 17/3/2011
[19]. Nguyễn Văn Tiến, 2010: “Giáo trình kinh tế tiền tệ ngân hàng”, Nhà Xuất bản
thống kê, Hà nội 2010 (chủ Biên Nguyễn Văn Tiến.
[20]. Nguyên Vũ, 2015 "Nên có ủy ban giám sát mua ngân hàng 0 đồng”, tại
lúc 18:12 - Thứ Năm, 22/10/2015
[21]. Peter Iard, 1995: “ Exchange Rate Economic”, Cambridge University Press,
Forst Publishe in 1995, Reprinted 1997.
[22]. Peter Iard, 2007: “Equilibrium Exchange Rates: Assessment Methodologies”,
Working Paper IMF Institute, IMF 2007 (WP/07/296 );
[23]. Recardi J. Caballero, 2010: The “other” Imbalance and the Finanicla Crisis.
NBER Working paper 15636. National Bureau Economic Research 1050 Massachusettes
Avenue, Camridge, Ma 02138, January 2010
[24]. Robert J.Carbaugh , 2007:”International Economics”, Tenth Edition, by
Robert J. Carbaugh (Professor of Economics Central Washington University), Thomson,

South Western,
[25]. Thủ tướng Chính phủ: “Đề án tái cơ cấu khu vực ngân hàng giai đoạn 20112015” được Thủ tướng phê duyệt theo Quyết định 254/2012/QĐ-TTg ngày 1/3/2012;
[26]. Wikipedia, the free encyclopedia: tại />Fleming_mode

Trường Đại học Thăng Long

185



×