Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài theo pháp luật hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (376.4 KB, 83 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công cuộc đổi mới và mở cửa nền kinh tế do Đảng cộng sản Việt
Nam đề xướng từ đại hội VI (12/1986) đã đem lại những thành quả to
lớn về kinh tế và xã hội. Nền kinh tế nước ta sau hơn hai mươi hai năm
đổi mới và mở cửa đã có những chuyển biến tích cực, hợp tác và giao
lưu thương mại ngày càng phát triển. Song cũng trong bối cảnh đó, các
quan hệ thương mại ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp. Các quan hệ
này không chỉ được thiết lập giữa các chủ thể kinh doanh trong nước mà
còn mở rộng tới các tổ chức nước ngoài. Chính vì vậy, tranh chấp
thương mại là điều không thể tránh khỏi và cần được quan tâm giải
quyết kịp thời.
Pháp luật Việt Nam nói chung cũng như pháp luật thương mại
Việt Nam nói riêng đã quy định nhiều hình thức giải quyết tranh chấp
như: thương lượng, hòa giải, tòa án hay trọng tài. Với những quy định
của pháp luật hiện hành đã góp phần giải quyết các tranh chấp trong
quan hệ thương mại một cách nhanh chóng, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của các đương sự. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền
kinh tế và xu thế hội nhập quốc tế, tranh chấp cũng ngày càng nhiều
với tính chất và mức độ ngày càng phức tạp. Trước tình hình đó, việc
lựa chọn phương thức nào để giải quyết tranh chấp có tầm quan trọng
đặc biệt bởi nó có thể quyết định mức độ thiệt hại của doanh nghiệp
một khi thương vụ bị đổ bể.

1


Hiện nay, không có phương thức giải quyết tranh chấp nào
chiếm vị thế tuyệt đối cả. Tuy nhiên, căn cứ vào những ưu điểm vượt
trội của trọng tài thì phương thức này đang được các doanh nghiệp lựa
chọn, đặc biệt là đối với các tranh chấp có yếu tố nước ngoài. Từ thực


tiễn trên, em đã chọn đề tài: “Giải quyết tranh chấp thương mại
bằng trọng tài theo pháp luật hiện hành” làm đề tài cho khóa luận
tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Khóa luận hướng tới mục đích là làm sáng tỏ các quy định của
pháp luật hiện hành về phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài, nêu lên thực trạng, bất cập của pháp luật, từ đó đưa ra một số kiến
nghị để hoàn thiện hơn pháp luật giải quyết tranh chấp thương mại
bằng trọng tài.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Khóa luận chủ yếu nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện
hành về giải quyết các tranh chấp bằng trọng tài, cụ thể được quy định
trong Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003, trên cơ sở có sự so sánh
với pháp luật trọng tài của một số nước trên thế giới.
4. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham
khảo, khóa luận được chia làm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về trọng tài thương mại.
Chương 2: Pháp luật hiện hành về giải quyết tranh chấp thương
mại bằng

trọng tài.

2


Chương 3: Những bất cập và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện
pháp luật về trọng tài thương mại Việt Nam.

3



CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRỌNG TÀI
THƯƠNG MẠI
1. Trọng tài thương mại - một hình thức giải quyết tranh chấp
kinh doanh thương mại
1.1. Khái niệm trọng tài thương mại
Trong khoa học pháp lý, trọng tài được nghiên cứu dưới nhiều
bình diện khác nhau và do đó hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau
về trọng tài.
Theo cuốn “Từ điển kinh tế thị trường từ A đến Z”: “Trọng tài là
một cách giải quyết bất đồng trong quan hệ công nghiệp mà không
cần đưa ra pháp luật hay đình công”.
Hay: “Trọng tài là những tranh chấp hay bất đồng được đưa ra
cho một hoặc nhiều người được xem là công tâm, không thiên lệch
quyết định và quyết định này có tính ràng buộc đối với hai bên” [39,
tr.360].
Theo Hội đồng trọng tài Mỹ (AAA): “Trọng tài là cách thức giải
quyết tranh chấp bằng cách đệ trình vụ tranh chấp cho một số người
khách quan xem xét giải quyết và họ sẽ đưa ra quyết định cuối cùng,
có giá trị bắt buộc các bên tranh chấp phải thi hành” [30, tr.3].
Theo khoản 1 điều 2 Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003:
“Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh
trong hoạt động thương mại được các bên thỏa thuận và được tiến
hành theo trình tự, thủ tục do Pháp lệnh này quy định”.

4



Mặc dù có khá nhiều định nghĩa khác nhau về trọng tài, song
nhìn chung hiện nay trọng tài thương mại được nhìn nhận dưới hai góc
độ:
Thứ nhất, trọng tài là một hình thức giải quyết tranh chấp phát
sinh trong hoạt động thương mại, được thực hiện bởi Hội đồng trọng
tài hoặc một trọng tài viên duy nhất với tư cách là bên thứ ba độc lập
nhằm giải quyết tranh chấp bằng việc đưa ra một phán quyết trên cơ
sở sự thỏa thuận của các bên tranh chấp và có hiệu lực bắt buộc đối
với các bên.
Thứ hai, trọng tài là một cơ quan giải quyết tranh chấp phát sinh
trong hoạt động thương mại, được thành lập tự nguyện bởi các trọng
tài viên để giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh,
thương mại theo yêu cầu của các bên tranh chấp.
1.2. Đặc điểm trọng tài thương mại
Với tư cách là một hình thức giải quyết tranh chấp phát sinh
trong hoạt động thương mại, trọng tài có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, trọng tài là một hình thức giải quyết tranh chấp có sự
tham gia của bên thứ ba - một trọng tài viên duy nhất hoặc Hội đồng
trọng tài. Trọng tài do các bên tranh chấp thỏa thuận lựa chọn trước hoặc
sau khi xảy ra tranh chấp sẽ hoàn toàn độc lập với các bên, đưa ra phán
quyết có tính bắt buộc bảo vệ quyền lợi các bên.
Thứ hai, trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua
một thủ tục tố tụng chặt chẽ. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, các
trọng tài viên và các bên đương sự phải tuân thủ đúng trình tự tố tụng

5


mà pháp luật trọng tài, Điều lệ và Quy tắc tố tụng của tổ chức trọng tài
đó quy định.

Thứ ba, kết quả của việc giải quyết tranh chấp tại trọng tài là
phán quyết do trọng tài tuyên đối với các đương sự của vụ tranh chấp.
Phán quyết của trọng tài vừa là sự kết hợp của yếu tố thỏa thuận (các
đương sự có thể thỏa thuận về nội dung tranh chấp, cách thức giải
quyết tranh chấp, luật áp dụng đối với vụ tranh chấp) vừa là sự kết
hợp của yếu tố tài phán (có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên).
Với tư cách là một cơ quan giải quyết tranh chấp, trọng tài có
những đặc điểm sau:
Một là, trọng tài là tổ chức xã hội - nghề nghiệp do các trọng tài
viên tự thành lập nên để giải quyết tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực
kinh doanh, thương mại. Trọng tài không phải là cơ quan xét xử của
Nhà nước, không do Nhà nước thành lập nên, không hoạt động bằng
ngân sách Nhà nước. Các trọng tài viên không phải là các viên chức
Nhà nước, không do Nhà nước bổ nhiệm và cũng không hưởng lương
từ ngân sách. Khi xét xử trọng tài không nhân danh Nhà nước để ra
phán quyết.
Hai là, quyền lực của trọng tài không tự nhiên mà có mà xuất
phát từ sự thỏa thuận của các chủ thể tranh chấp đối với trọng tài.
Trong tố tụng trọng tài, trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết vụ
tranh chấp khi các bên tranh chấp có thỏa thuận lựa chọn trọng tài giải
quyết. Nếu không có thỏa thuận trọng tài trước hoặc sau khi xảy ra
tranh chấp về việc lựa chọn trọng tài giải quyết tranh chấp cho mình
hoặc có nhưng thỏa thuận trọng tài vô hiệu thì trọng tài không có thẩm

6


quyền giải quyết. Chính các chủ thể tranh chấp, với việc lựa chọn
trọng tài giải quyết tranh chấp cho mình đã trao quyền lực xét xử cho
trọng tài. Nói cách khác, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài nhân

danh ý chí tối cao của chủ thể tranh chấp mà không nhân danh quyền
lực Nhà nước.
Ba là, phán quyết của trọng tài vừa là sự kết hợp giữa ý chí, sự
thỏa thuận của các bên, vừa mang tính tài phán của cơ quan có thẩm
quyền xét xử. Tuy nhiên, do trọng tài không phải là cơ quan xét xử
của Nhà nước như tòa án nên phán quyết trọng tài không mang tính
quyền lực Nhà nước. Phán quyết trọng tài chỉ có giá trị ràng buộc đối
với các bên tranh chấp mà không có giá trị ràng buộc với bên thứ ba.
Ngay cả khi một bên tranh chấp không tôn trọng phán quyết trọng tài,
không tự nguyện thi hành phán quyết thì trọng tài cũng không có cơ
chế cưỡng chế thi hành. Phán quyết trọng tài do các bên đương sự tự
nguyện thi hành hoặc nhờ đến sự hỗ trợ của cơ quan Nhà nước để
cưỡng chế thi hành.
Như vây, với tư cách là một cơ quan tài phán, trọng tài tồn tại
độc lập, song song với tòa án và có thẩm quyền giải quyết các tranh
chấp khi được các bên đương sự lựa chọn.
1.3. Một số ưu điểm và hạn chế của trọng tài thương mại
Hiện nay, trọng tài được xem như là một phương thức giải quyết
tranh chấp được ưa chuộng nhất, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh doanh
thương mại bởi trọng tài không những khắc phục được những nhược
điểm của các phương thức giải quyết tranh chấp như thương lượng,

7


hòa giải, tòa án mà còn có khả năng phát huy tối ưu những ưu điểm
của các phương thức đó.
Một số ưu điểm của trọng tài thương mại.
Thứ nhất, so với tòa án - cơ quan tài phán công, trọng tài có
những ưu điểm nổi bật sau:

Trước tiên, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đảm bảo tối đa
quyền tự do thỏa thuận của các bên. Khác với tòa án, trọng tài không
bị ràng buộc bởi nguyên tắc lãnh thổ nên các bên có quyền lựa chọn
bất kỳ trung tâm trọng tài nào để giải quyết tranh chấp cho mình, bất
kỳ họ ở đâu, trong nước hay ngoài nước đồng thời các bên có quyền
thỏa thuận lựa chọn trọng tài viên có chuyên môn, nghiệp vụ; lựa chọn
quy tắc, thủ tục tố tụng; lựa chọn ngôn ngữ, thời gian, địa điểm... giải
quyết tranh chấp.
Các nhà kinh doanh tham gia vào tranh chấp luôn e ngại rằng
tranh chấp liên quan tới bí mật thương mại, các khiếm khuyết của
hàng hóa, sự kém chất lượng của sản phẩm sẽ bị xét xử dưới sự theo
dõi của công luận vì điều này sẽ ảnh hưởng xấu đến công việc kinh
doanh của họ trong tương lai. Song với nguyên tắc “xét xử kín”, giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài sẽ giúp các bên tách rời khỏi sự chú ý
của công luận, đảm bảo bí mật của tranh chấp.
Một ưu điểm nữa của phương thức trọng tài là quyết định trọng
tài có giá trị chung thẩm, không bị kháng cáo, kháng nghị, trong khi
bản án, quyết định của tòa án có thể phải trải qua nhiều thủ tục xem
xét khác nhau (sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hay tái thẩm).
Điều này giúp tiết kiệm chi phí về thời gian cũng như tiền bạc cho các

8


bên tranh chấp. Quyết định trọng tài được thi hành ngay (trong thời
hạn ba mươi ngày kể từ ngày ra phán quyết) đáp ứng yêu cầu khôi
phục nhanh những tổn thất về hàng hóa, tiền bạc của các nhà kinh
doanh.
Ngoài ra, trọng tài còn có rất nhiều ưu điểm khác như: tính
chuyên môn cao (trọng tài thường là những chuyên gia có trình độ cao

về từng lĩnh vực xét xử); thủ tục giải quyết tranh chấp đơn giản (do
nguyên tắc xét xử một lần)... đáp ứng yêu cầu giải quyết tranh chấp
nhanh chóng của các đương sự.
Thứ hai, trọng tài có những ưu điểm vượt trội mà thương
lượng, hòa giải không có:
Việc tham gia thương lượng, hòa giải không chỉ đòi hỏi các bên
có thiện chí, trung thực mà còn phải có kiến thức cần thiết về chuyên
môn và pháp lý. Điều này không dễ dàng có được đối với mỗi bên
tranh chấp, trong khi đó trọng tài thường là những người có chuyên
môn, am hiểu pháp luật có thể giúp các bên tranh chấp khắc phục
những khiếm khuyết về pháp lý của mình đồng thời trọng tài thường
có kinh nghiệm giải quyết tranh chấp hơn bên thứ ba trong hòa giải.
Trọng tài luôn có hẳn một khung pháp luật điều chỉnh, trong đó
PLTTTM được coi là trung tâm, là “xương sống” của pháp luật về
trọng tài thương mại nên quyết định trọng tài nếu các bên không tự
nguyện thi hành thì có thể bị cưỡng chế thi hành. Tuy là tổ chức phi
chính phủ nhưng trọng tài lại được sự đảm bảo, hỗ trợ về mặt pháp lý
của tòa án. Trong khi đó, hoạt động thương lượng, hòa giải ở nước ta
hiện nay hoàn toàn mang tính tự phát, theo truyền thống, chưa có sự

9


tổng kết thành lý luận, chưa có văn bản nào điều chỉnh quá trình
thương lượng, hòa giải. Quyền thương lượng, hòa giải xuất phát từ
quyền tự do hợp đồng và quyền tự do định đoạt được Hiến pháp và
pháp luật quy định. Do đó, giá trị của kết quả thương lượng, hòa giải
không được xác định rõ ràng, thường bị các bên lợi dụng để kéo dài
thời gian thực hiện nghĩa vụ. Trên thực tế, việc thực hiện kết quả
thương lượng, hòa giải hoàn toàn phụ thuộc vào thiện chí của các bên

nên trong nhiều trường hợp tính khả thi không cao.
Mặc dù có những ưu điểm vượt trội so với các phương thức
giải quyết tranh chấp khác nhưng phương thức trọng tài vẫn tồn tại
một số hạn chế nhất định, đó là:
So với tòa án, trọng tài không có thẩm quyền kê biên tài sản, áp
dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với tài sản là đối tượng
tranh chấp. Việc kê biên chỉ được thực hiện thông qua tòa án trên cơ
sở yêu cầu của các bên. Quá trình kê biên này có thể kéo dài, không
đảm bảo phong tỏa tài sản kịp thời đề phòng tẩu tán tài sản; quyết định
trọng tài có giá trị chung thẩm là một ưu điểm nổi bật của trọng tài,
song nhìn ở phương diện khác đây lại chính là một hạn chế của trọng
tài vì quyết định trọng tài có giá trị chung thẩm không bị kháng cáo,
kháng nghị nên các bên khó có cơ hội phát hiện và khắc phục những
sai sót trong quá trình giải quyết tranh chấp như ở tòa án.
Do việc giải quyết tại trọng tài đã có sự xuất hiện của bên thứ ba
nên việc giữ bí mật của vụ tranh chấp không thể bằng thương lượng.
Ngoài ra, thực tiễn giải quyết tranh chấp bằng trọng tài cho thấy
chi phí trọng tài thường được ấn định trước, nhất là những tranh chấp

10


được giải quyết tại các trung tâm trung tâm trọng tài thường có cả các
biểu phí được quy định sẵn và biểu phí này thường cao hơn nhiều so
với các cơ chế giải quyết tranh chấp bằng tòa án, hòa giải hay thương
lượng mà không phải chủ thể tranh chấp nào cũng có khả năng đáp
ứng dù họ rất muốn được giải quyết tranh chấp tại trọng tài.
Tóm lại, giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài tuy có
một số hạn chế, song với những ưu điểm nổi trội của nó, có thể khẳng
định đây là phương thức giải quyết đơn giản, gọn nhẹ, linh hoạt, hiệu

quả rất phù hợp với nền kinh tế thị trường hiện nay, đáp ứng nhanh
chóng, kịp thời nhu cầu giải quyết tranh chấp của các doanh nghiệp.
2. Pháp luật về trọng tài thương mại ở Việt Nam
Giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài đã được sử
dụng ở Việt Nam từ rất lâu. Cùng với sự tồn tại của hệ thống trọng tài
kinh tế Nhà nước là sự tồn tại của trọng tài phi chính phủ trong suốt
hơn ba mươi năm, thậm chí khi hệ thống trọng tài kinh tế Nhà nước đã
chấm dứt sứ mạng lịch sử của nó vào năm 1994, trọng tài phi chính
phủ vẫn phát huy vai trò của mình trong nền kinh tế thị trường.
2.1. Trọng tài phi chính phủ trong giai đoạn từ nền kinh tế tập
trung, bao cấp đến năm 1993
Giống như các nước ở Đông Âu, hình thức trọng tài phi chính
phủ được thành lập đầu tiên ở nước ta theo mô hình Liên Xô cũ gồm:
Hội đồng trọng tài ngoại thương thành lập theo Nghị định số 59/CP
ngày 30/4/1963 và Hội đồng hàng hải thành lập theo Nghị định
số153/CP ngày 05/10/1964 đặt bên cạnh phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam. Hội đồng trọng tài ngoại thương được thành lập với

11


chức năng giải quyết các tranh chấp liên quan đến thương mại hàng
hóa mà một bên mang quốc tịch Việt Nam. Hội đồng trọng tài hàng
hải được thành lập với chức năng giải quyết các tranh chấp phát sinh
từ quan hệ hàng hải mà một trong số các bên tranh chấp là cá nhân,
pháp nhân nước ngoài hoặc các bên tranh chấp đều là cá nhân, pháp
nhân nước ngoài (điều 2 Điều lệ tổ chức Hội đồng trọng tài ngoại
thương ban hành kèm theo Nghị định số 59/CP và điều 2 Điều lệ tổ
chức Hội đồng trọng tài hàng hải ban hành kèm theo Nghị định
số153/CP).

Có thể nói, Hội đồng trọng tài ngoại thương và Hội đồng trọng
tài hàng hải tồn tại trong khoảng ba mươi năm nhưng hoạt động không
nhiều. Từ năm 1960 đến năm 1988, hai Hội đồng trọng tài này chỉ có
rất ít các vụ việc trọng tài. Bởi vì trong thời gian này, Việt Nam hầu
như chỉ tập trung các mối quan hệ quốc tế về viện trợ phát triển mà
bản chất vịên trợ hầu như mang ít tính thương mại. Chính vì thế, các
tranh chấp ngoại thương và hàng hải rất hạn chế. Trong trường hợp có
tranh chấp bên Việt Nam và đối tác anh em thường tìm cách giải quyết
tranh chấp hoặc bất đồng bằng con đường thương lượng trực tiếp. Nếu
vụ việc được đưa ra Hội đồng trọng tài ngoại thương hoặc Hội đồng
trọng tài hàng hải giải quyết thì các tổ chức trọng tài này thường tìm
mọi cách giúp các bên đạt được thỏa thuận trên cơ sở nhân nhượng lẫn
nhau. Cho đến hết năm 1993, hai Hội đồng trọng tài này giải quyết
được 94 vụ tranh chấp, trong đó từ năm 1963 đến năm 1988 chỉ có ba
vụ, đặc biệt không có vụ nào liên quan đến quan hệ ngoại thương đối
với các nước phương tây; từ năm 1988 đến năm 1992 đã giải quyết

12


được 91 vụ, tăng gấp ba mươi lần tổng số vụ giải quyết trong 25 năm
trước [38, tr.16].
2.2. Trọng tài phi chính phủ trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa
Mặc dù hoạt động với tư cách là tổ chức xã hội - nghề nghiệp,
song Hội đồng trọng tài ngoại thương và Hội đồng trọng tài hàng hải
vẫn chỉ là sản phẩm của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp
cho nên cũng chỉ phù hợp với giai đoạn đó của đất nước. Từ năm
1986, nền kinh tế thị trường bắt đầu hình thành và ngày càng phát
triển, các tranh chấp không chỉ liên quan đến hợp đồng mua bán hàng

hóa mà còn liên quan đến hợp đồng hàng hải, trong trường hợp này,
việc xác định thẩm quyền thuộc về Hội đồng trọng tài nào thực sự
không còn đơn giản. Trước tình hình đó, ngày 28/4/1993, Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành Quyết định 204/TTg về tổ chức của Trung tâm
trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam trên cơ sở hợp nhất Hội đồng trọng tài ngoại thương
và Hội đồng trọng tài hàng hải. Tiếp đó, Nghị định 116/CP ngày
3/1/1995 của Chính phủ cũng cho phép một số trung tâm trọng tài
khác được thành lập và hoạt động với tư cách là các tổ chức xã hội nghề nghiệp như: Trung tâm trọng tài kinh tế Hà Nội, Trung tâm trọng
tài kinh tế Bắc Giang, Trung tâm trọng tài kinh tế Thăng Long, Trung
tâm trọng tài kinh tế Cần Thơ, Trung tâm trọng tài kinh tế Sài Gòn.
Nhìn chung, giai đoạn từ năm 1993 đến đầu năm 2003, các trung
tâm trọng tài đã thể hiện những vai trò nhất định trong giải quyết các
tranh chấp thương mại. Tuy nhiên, quá trình hoạt động của các trung

13


tâm này đã thể hiện những bất cập của pháp luật Việt Nam như: thiếu
các quy định cụ thể, điều chỉnh không toàn diện, một số nội dung lạc
hậu không phù hợp với thực tiễn và các quy định của pháp luật thế
giới, đặc biệt trong giai đoạn này, hình thức trọng tài ad-hoc chưa
được quy định. Nhằm loại bỏ các rào cản của pháp luật về trọng tài,
đáp ứng yêu cầu giải quyết tranh chấp bằng trọng tài ngày càng tăng
đồng thời phù hợp xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, Uỷ ban thường
vụ quốc hội đã ban hành Pháp lệnh số 08/2003/PL-UBTVQH ngày
25/3/2003 về trọng tài thương mại (sau đây gọi tắt là PLTTTM). Để
PLTTTM có thể dễ dàng thi hành trong thực tế, ngày 15/1/2004,
Chính phủ ban hành Nghị định số 25/2004/NĐ-CP quy định chi tiết
thi hành một số điều của PLTTTM; ngày 31/7/2003, Hội đồng thẩm

phán tòa án nhân dân tối cao ban hành Nghị quyết số 05/2003/NQHĐTP hướng dẫn thi hành một số quy định của PLTTTM.
Có thể nói, PLTTTM ra đời đã đánh dấu một bước phát triển
mới trong quá trình lập pháp ở Việt Nam nói chung và pháp luật về
trọng tài thương mại nói riêng. PLTTTM đã khắc phục được những
bất cập, chồng chéo, mâu thuẫn của các văn bản trước đây về trọng tài
đồng thời đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế khu vực và
quốc tế.
3. Các hình thức tổ chức trọng tài
Trọng tài ở các nước nói chung cũng như ở Việt Nam nói riêng
được tổ chức dưới các dạng khác nhau, với các tên gọi khác nhau
nhưng chủ yếu tồn tại dưới hai hình thức là trọng tài thường trực và
trọng tài vụ việc.

14


3.1. Trọng tài vụ việc
(Trọng tài ad-hoc, Hội đồng trọng tài do các bên thành lập)
Trọng tài vụ việc là hình thức trọng tài do các bên thỏa thuận
thành lập để giải quyết các tranh chấp giữa các bên. Trọng tài sẽ chấm
dứt hoạt động khi giải quyết xong vụ tranh chấp.
Trọng tài vụ việc chỉ tồn tại có tính chất lâm thời, không có trụ
sở và bộ máy cố định, trọng tài viên do các bên đương sự tháa thuận
lựa chọn. Thông thường, trọng tài viên có thể được lựa chọn từ các
thương gia có tu nghiệp pháp lý hay các luật sư làm việc tại các công
ty. Các trọng tài viên không chỉ nắm vững về luật pháp mà còn rất am
hiểu về các hoạt động thương mại. Hoạt động của Hội đồng trọng tài
không bị ràng buộc bởi các quy tắc tố tụng mà chỉ cần đảm bảo
nguyên tắc xét xử vô tư, khách quan, đúng pháp luật.
Bản chất của trọng tài vụ việc được thể hiện qua các đặc

trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, trọng tài vụ việc chỉ được thành lập khi phát sinh
tranh chấp và tự giải thể khi giải quyết xong tranh chấp.
Tính chất “vụ việc” hay “lâm thời” của hình thức trọng tài này
thể hiện ở chỗ trọng tài chỉ được thành lập theo thỏa thuận của các bên
tranh chấp để giải quyết vụ tranh chấp cụ thể của các bên. Hình thức
trọng tài này chỉ tồn tại và hoạt động trong thời gian giải quyết vụ
tranh chấp giữa các bên, khi giải quyết xong vụ tranh chấp, trọng tài
tự chấm dứt hoạt động.
Thứ hai, trọng tài vụ việc không có trụ sở thường trực, không có
bộ máy điều hành và không có danh sách trọng tài viên riêng. Trọng tài

15


viên được các bên lựa chọn hoặc chỉ định có thể là người có tên trong
danh sách trọng tài viên hoặc không nằm trong danh sách trọng tài viên
của bất kỳ trung tâm trọng tài nào.
Thứ ba, trọng tài vụ việc không có Quy tắc tố tụng riêng, trọng
tài vụ việc chỉ được thành lập khi phát sinh tranh chấp nên Quy tắc tố
tụng để giải quyết tranh chấp được các bên thỏa thuận xây dựng. Tuy
nhiên, để tránh lãng phí thời gian cũng như công sức đầu tư vào việc
xây dựng Quy tắc tố tụng, các bên tranh chấp có thể thỏa thuận lựa
chọn bất kỳ một Quy tắc tố tụng phổ biến nào, mà thông thường là các
Quy tắc tố tụng của các trung tâm trọng tài có uy tín trong nước và
quốc tế [31, tr.447].
Do việc thành lập dễ dàng, quy tắc hoạt động đơn giản nên trọng
tài vụ việc có khả năng giải quyết nhanh chóng, ít tốn kém các tranh
chấp, đặc biệt đối với các tranh chấp Ýt tình tiết phức tạp, cần và có thể
giải quyết nhanh chóng, các bên tranh chấp lại có hiểu biết pháp luật

và có kinh nghiệm tranh tụng. Nhưng cũng do tính không ổn định và
không có quy chế hoạt động chặt chẽ nên hiệu quả giải quyết các vụ
tranh chấp không cao.
Trong lịch sử phát triển của trọng tài, hình thức trọng tài vô viÖc
®îc biÕt ®Õn sím h¬n träng tµi thêng trực. Tuy nhiên, sau khi trọng tài
thường trực ra đời, vai trò của trọng tài vụ việc không bị chấm dứt mà
vẫn được thừa nhận như một hình thức trọng tài không thể thiếu được
của các nhà kinh doanh. Mặc dù vậy, NĐ116 trước đây không quy
định trọng tài vụ việc mà chỉ quy định một loại trọng tài duy nhất là
trọng tài thường trực. Trọng tài vụ việc tuy có được đề cập tới trong

16


một số văn bản (Luật đầu tư nước ngoài và các văn bản hướng dẫn)
nhưng lại không được quy định cụ thể nên không thể được áp dụng
trên thực tế. Đây là một hạn chế rất lớn trong lĩnh vực trọng tài ở nước
ta trước đây vì nó không đảm bảo được quyền định đoạt của các bên
tranh chấp trong việc lựa chọn hình thức trọng tài, làm mất đi sự hấp
dẫn của phương thức trọng tài ở Việt Nam.
PLTTTM ra ®êi đã chính thức thừa nhận và tạo cơ sở pháp lý cho
việc thành lập và hoạt động của trọng tài vụ việc ở Việt Nam. Pháp
lệnh đã quy định khá cụ thể về trọng tài vụ việc, cho phép trọng tài vụ
việc giải quyết tất cả các tranh chấp phát sinh từ hoạt động thương mại
kể cả tranh chấp quốc tế và trong nước.
2.3. Trọng tài thường trực
(Trọng tài quy chế)
Ở các nước trên thế giới, trọng tài thường trực thường được tổ
chức dưới những hình thức đa dạng như: các trung tâm trọng tài (Trung
tâm trọng tài quốc tế Hồng Kông, Trung tâm trọng tài thương mại quốc

tế Australia, Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam), các hiệp hội trọng
tài (Hiệp hội trọng tài Nhật Bản, Hiệp hội trọng tài Hoa Kỳ) hay các
viện trọng tài (Viện trọng tài Stockholm - Thụy Điển) nhưng chủ yếu
và phổ biến được tổ chức dưới dạng các trung tâm trọng tài.
Về bản chất, trọng tài ở hầu hết các nước trên thế giới đều tồn tại
dưới hình thức trọng tài phi chính phủ (các tổ chức xã hội - nghề
nghiệp), không nằm trong bộ máy Nhà nước. Tuy nhiên, vẫn có ngoại
lệ mang sắc thái riêng trong pháp luật trọng tài ở một số nước châu Á
như: Trung Quốc, Thái Lan... Ở Trung Quốc, các Uû ban trọng tài hợp

17


đồng kinh tế là những cơ quan Nhà nước thuộc Cục quản lý hành
chính công thương các cấp. Thái Lan thành lập Viện trọng tài thuộc
Bộ tư pháp, có Quy tắc tố tụng riêng nhằm hỗ trợ, phát triển các hoạt
động hòa giải và trọng tài [38, tr.56].
Theo pháp luật Việt Nam, trọng tài thường trực được tổ chức
dưới dạng trung tâm trọng tài. Trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính
phủ, có tư cách pháp nhân, có con dấu, có điều khoản riêng và trụ sở
giao dịch ổn định.
Trọng tài thường trực có một số đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, các trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ,
không nằm trong hệ thống cơ quan Nhà nước. Các trung tâm trọng tài
do các trọng tài viên thành lập để giải quyết tranh chấp phát sinh trong
lĩnh vực kinh doanh, thương mại được các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền cho phép thành lập chứ không phải được thành lập bởi Nhà
nước và không nằm trong hệ thống các cơ quan Nhà nước. Đây chính
là sự khác biệt cơ bản giữa trung tâm trọng tài với tòa án và trọng tài
kinh tế Nhµ níc trước đây.

Thứ hai, các trung tâm trọng tài có tư cách pháp nhân, tồn tại
độc lập với cơ quan tài phán của Nhà nước ®ång thêi các trung tâm
trọng tài còn độc lập với nhau, tức là giữa các trung tâm trọng tài
không hề có quan hệ lệ thuộc về tổ chức hay tài chính, trong khi đó, ở
tòa án lại có sự ràng buộc chặt chẽ, có sự phân cấp giữa tòa án cấp
trên và tòa án cấp dưới.
Thứ ba, cơ cấu tổ chức và quản lý của các trung tâm trọng tài rất
linh hoạt và gọn nhẹ. Bộ máy quản lý của trung tâm trọng tài thường

18


chỉ bao gồm một chủ tịch, một vài phó chủ tịch và ban thư ký thường
trực còn hoạt động xét xử được đảm nhiệm bởi một ®éi ngò trọng tài
viên hoạt động kiêm nhiệm và hưởng lương theo vụ việc. Trung tâm
trọng tài hoạt động theo cơ chế hoạch toán độc lập, tự chủ về tài
chính, lấy thu bù chi. Nguồn thu chủ yếu của trọng tài là từ lệ phí
trọng tài khi được yêu cầu giải quyết tranh chấp.
Thứ tư, mỗi trung tâm trọng tài đều xây dựng một bản Điều lệ
và Quy tắc tố tụng riêng trên cơ sở những quy định của pháp luật
trọng tài. Mỗi trung tâm trọng tài đều cố gắng xây dựng bản §iều lệ
và Quy tắc tố tụng đơn giản và hiệu quả, bảo đảm tối đa quyền tự định
đoạt của đương sự để tạo sự hấp dẫn cho trung tâm trọng tài trước
khách hàng là các chủ thể đang có tranh chấp phát sinh trong hoạt
động thương mại. Đây cũng là điểm khác biệt cơ bản với tòa án - cơ
quan xét xử các tranh chấp theo quy định của pháp luật.
Thứ năm, hoạt động xét xử của trung tâm trọng tài được tiến
hành bởi các trọng tài viên của trung tâm. Mỗi trung tâm đều có đội
ngũ trọng tài viên có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ chuyên môn
cao và có uy tín nghề nghiệp.

Như vậy, so với trọng tài vụ việc, trọng tài thường trực có cơ cấu
tổ chức chặt chẽ, có trụ sở ổn định, có danh sách trọng tài viên, §iều
lệ hoạt động và Quy tắc tố tụng riêng. Các quy tắc này thường xuyên
được các tổ chức trọng tài nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp
với sự phát triển của trọng tài thương mại. Hơn nữa, trọng tài thường
trực được điều hành bởi các trọng tài viên là các chuyên gia giàu kinh
nhiệm, vững vàng về chuyên môn và am hiểu kinh doanh, do đó có

19


th hn ch ti a cỏc sai sút có thể xảy ra. Cỏc hot ng hnh chớnh,
vn phũng, cỏc hot ng dch v khỏc nh: phiờn dch, thụng tin liờn
lc... u c t chc chu ỏo, to iu kin thun li cho cỏc bờn
tham gia vo hot ng t tng trng ti.
Bờn cnh ú, trng ti thng trc cng cú nhng hn ch nht
nh: chi phớ trng ti cao hn so vi trng ti v vic do phi duy trỡ
mt b mỏy thng trc; Quy tc t tng cú sn ụi khi khụng phự
hp vi tng tranh chp c th; trng ti viờn ch l nhng ngi có
tên trong danh sách trọng tài viên của trung tâm m khụng c chn
ngoi... iu ú cng hn ch phn no quyn t nh ot ca
ng s so vi trng ti v vic.
Túm li, trng ti v vic v trng ti thng trc l hai hnh
thc trng ti c s dng ph bin trờn th gii. Mi hnh thc u
cú nhng u im v hn ch riờng bt ngun t chớnh bn cht ca
nú. Tựy tng v vic c th, cỏc bờn tranh chp s quyt nh hnh
thc trng ti no l ph hp hn gii quyt tranh chp cho mỡnh.
Thc t cho thy rằng, bất kỳ nc no cú nn kinh t th trng
cũng đều tha nhn phng thc trng ti. Bn thõn s phỏt trin
nhanh, mnh ca trng ti thng mi trờn c s nhng u th ca

phng thc gii quyt tranh chp ny so vi tũa ỏn (nht l tớnh
nhanh chúng, bo mt, kinh nghim v hiu quả) ó chng t c vai
trũ to ln ca trng ti thng mi. Vỡ vy, cú th khng nh trng ti
l mt phng thc gii quyt tranh chp khụng th thiu c trong
nn kinh t th trng. Mt nc muốn cú nn kinh t th trng v

20


hội nhập hệ thống thương mại quốc tế như Việt Nam thì trong mọi
trường hợp không thể phủ nhận và e ngại phương thức này.

21


CHƯƠNG III
PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
THƯƠNG MẠI BẰNG TRỌNG TÀI
1. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng
tài
1.1. Tranh chấp được giải quyết bằng tài, nếu trước hoặc sau khi
xảy ra tranh chấp các bên có thỏa thuận trọng tài
( khoản 1 ®iều 3 PLTTTM)
Khác với giải quyết tranh chấp tại tòa án - cơ quan tài phán Nhà
nước, khi có tranh chấp phát sinh, bên có quyền lợi hợp pháp bị vi
phạm có quyền đệ đơn yêu cầu tòa án giải quyết mà không cần có sự
thỏa thuận trước. Việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đòi hỏi
phải có sự thỏa thuận của các bên với nguyên tắc chung là: “Không có
thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, không có tố tụng
trọng tài” [31, tr. 47].

Có thể nói, thỏa thuận trọng tài là “hòn đá tảng” của quá trình
giải quyết tranh chấp thương mại b»ng träng tµi, thể hiện sự nhất trí
của các bên cùng đưa tranh chấp ra trọng tài để giải quyết theo quy tắc
của mét tổ chức trọng tài nhất định. Đây là cơ sở cho các bên tiến
hành giải quyết bằng trọng tài. Thỏa thuận trọng tài có hiệu lực không
chỉ là hình thức pháp lý ghi nhận sự thỏa thuận của các bên mà còn là
một căn cứ pháp lý để dựa vào đó bên bị vi phạm có quyền yêu cầu
bên vi phạm thực hiện nghĩa vụ trọng tài. Vì thỏa thuận trọng tài có vị
trí, vai trò quan trọng mang tính quyết định đối với việc áp dụng

22


phng thc gii quyt tranh chp bng trng ti nờn phỏp lut ca
cỏc nc cng nh lut quc t u dnh cho tha thun trng ti mt
s quan tõm c bit, th hin ch trong cỏc o lut v trng ti
thng cú mt chng riờng (thng l chng 2) quy nh v vn
ny (Lut trng ti thng mi quc t Cng hũa liờn bang Nga
1993; Lut trng ti Canada 1986; Lut trng ti c nm 1998...).
PLTTTM cng dnh hn mt chng (chng 2) quy nh
cỏc vn liờn quan n tha thun trng ti. Theo cỏc quy nh ny,
tha thun trng ti khụng ch c khng nh nh mt nguyờn tc
nn tng ca vic gii quyt tranh chp bng trng ti (khon 1 iu
3) m cũn lm sỏng tỏ hn về cỏc vn cú liờn quan nh: hỡnh thc
tha thun trng ti (điu 9), cỏc trng hp tha thun trng ti vụ
hiu (điu 10), quan h gia iu khon trng ti v hp ng (điu
11).
Nhìn chung, nguyên tắc thỏa thuận trọng tài đợc ghi nhận ở rất
nhiều nội dung nh: các bên có quyền thỏa thuận lựa chọn trung tâm
trọng tài, lựa chọn trọng tài viên, lựa chọn địa điểm, ngôn ngữ sử dụng

trong tố tụng trọng tài...
Nh vy, nguyờn tc tha thun trng ti ó c phn ỏnh khỏ
m nột trong phỏp lut trng ti ca cỏc nc núi chung v ca Vit
Nam núi riờng, tr thnh nguyờn tc nn tng ca t tng trng ti.
Trng ti s mt i bn cht vn cú ca nú nu thiu vng nguyờn tc
ny - mt nguyờn tc th hin s tụn trng ý chớ, nguyn vng chung
ca cỏc bờn.

23


1.2. Khi gii quyt tranh chp trng ti viờn phi c lp, khỏch
quan, vụ t, phi cn c vo phỏp lut v tụn trng s tha thun
ca cỏc bờn
(khon 2 iu 3 PLTTTM)
õy l nguyờn tc trung tõm ca trng ti thng mi ng thi
cng l yờu cu t ra i vi cỏc ch th gii quyt tranh chp, ú l
cỏc trng ti viờn - ngi c cỏc bờn tranh chp trc tip hoc giỏn
tip la chn. iu ú cú th nh hng n tớnh ỳng n, chớnh xỏc,
khỏch quan v kh nng thi hnh phỏn quyt ca trng ti. Vỡ vy, cỏc
trng ti viờn cn phi c bit lu ý v tớnh c lp, khỏch quan ca
mỡnh i vi cỏc bờn tranh chp. Mt s trung tõm trng ti cũn yờu
cu trng ti viờn phi xỏc nhn bng vn bn rng h ang v s c
lp vi cỏc bờn v yờu cu trng ti viờn trỡnh by bt k s kin hoc
chi tit no cú th khin cỏc bờn nghi ng v tớnh c lp, vụ t khỏch
quan ca h. Khi gii quyt tranh chp thng mi theo th tc trng
ti, trng ti viờn phi cn c vo phỏp lut vỡ nu trng ti viờn
khụng cn c vo phỏp lut, nhn hi l hoc cú hnh vi vi phm o
c trng ti viờn thỡ cỏc bờn cú quyn yờu cu thay i trng ti viờn.
Ch cú cn c vo phỏp lut, trng ti viờn mi gii quyt c cỏc

tranh chp mt cỏch vụ t, khỏch quan, cú nh vy mi c cỏc nh
kinh doanh tớn nhim. Bên cạnh sự vô t, khách quan và tuân thủ quy
định của pháp luật, nhằm đảm bảo quyền tự do định đoạt của các bên
tranh chấp, trọng tài viên còn phải có nghĩa vụ tôn trọng sự thỏa thuận
của các bên tranh chấp.
Quy nh ny ca phỏp lut Vit Nam phự hp vi Quy tắc trng
ti ICC cng nh phỏp lut trng ti ca cỏc nc khỏc. Quy tc trng
24


tài ICC yêu cầu các trọng tài viên phải độc lập với các bên liên quan
đến trọng tài (®iều 7.1). Điều 10.1 Quy tắc trọng tài viên của Hà Lan
cũng quy định: “Trọng tài viên phải vô tư và độc lập. Trọng tài viên
không thể có quan hệ nghề nghiệp hay nhân thân gần gũi với các trọng
tài khác trong Hội đồng xét xử, với bất kỳ một bên tranh chấp nào.
Trọng tài viên không thể có lợi ích nghề nghiệp hay lợi ích nhân thân
trực tiếp nào trong kết quả giải quyết vụ việc. Trước khi được bổ
nhiệm, trọng tài viên không thể tiết lộ quan điểm của mình về vụ việc
với một trong các bên tranh chấp”.
Để đảm bảo nguyên tắc này, PLTTTM quy định khá cụ thể vÒ
điều kiện trở thành trọng tài viên (®iều 12), quyền và nghĩa vụ của
trọng tài viên (®iều 13), các trường hợp thay đổi trọng tài viên (®iều
27).
Theo quy định tại ®iều 12 PLTTT, điều kiện trở thành trọng tài
viên nước ta được quy ®Þnh chặt chẽ hơn so víi mét sè níc trªn thÕ
giíi. Điều 812 Luật trọng tài Italia quy định: “Trọng tài viên có thể là
người Italia hoặc người nước ngoài. Người chưa thành niên, người
mất năng lực hành vi và người tâm thần, người phá sản và công chức
không được làm trọng tài”. Luật trọng tài Brazin quy định rất thông
thoáng điều kiện trở thành trọng tài viên: “Bất cứ người nào còng có

thể trở thành trọng tài viên nếu chiếm được lòng tin của các bên” (®iều
33). §iều 20 Quy tắc trọng tài thương mại của Hiệp hội trọng tài
thương mại Nhật Bản cũng chỉ đưa ra một quy định có tính chất
nguyên tắc: “Người không có quyền lợi trong vụ việc xét xử trọng tài
đều được làm trọng tài viên”.

25


×