Tải bản đầy đủ (.docx) (123 trang)

Xình ca của người Cao Lan đặc sắc ngôn từ nghệ thuật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (692.62 KB, 123 trang )

MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: Cơ sở lí thuyết và thực tiễn

11

1.1. Cơ sở lí thuyết

11

1.2. Cơ sở thực tiễn

21

Chương 2: Ngôn từ nghệ thuật của xình ca xét về mặt hình thức

31

2.1. Kết cấu xình ca

31

2.2. Thể, vần và nhịp điệu trong xình ca

49

Chương 3: Ngôn từ nghệ thuật xình ca xét về mặt nội dung



62

3.1. Các biện pháp tu từ thường gặp trong xình ca

62

3.2. Sự thể hiện thời gian, không gian nghệ thuật và một vài biểu

75

tượng thường gặp qua ngôn từ xình ca.
KẾT LUẬN

102

CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN

104

QUAN ĐẾN LUẬN VĂN

105

TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Một số khúc xình ca được ghi bằng chữ Hán, chữ Nôm Cao Lan.

Một số hình ảnh về phong tục và hát xình ca của đồng bào Cao
Lan.


Vietluanvanonline.com

Page 1


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Vietluanvanonline.com

Page 2




3

MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

1.1. Sán Chay là một trong 54 dân tộc thiểu số ở Việt Nam, có số dân là
(1)

147.315 người (1999), gồm 2 nhóm chính: Cao Lan và Sán Chỉ . Nhóm Cao Lan
(còn được gọi bằng tên khác: Hờn Bán, Chùng,…) hiện cư trú ở các tỉnh Yên Bái,
Lào Cai, Hoà Bình, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Bắc Giang,
Lạng Sơn, Quảng Ninh…, nhưng tập trung đông nhất ở huyện Sơn Dương, tỉnh
Tuyên Quang (27.869 người). Theo một số nhà nghiên cứu và lời kể của đồng
bào, người Cao Lan vốn từ các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây (Trung Quốc) sang
Việt Nam, cách đây khoảng 300-500 năm.

Dân tộc Sán Chay nói chung và người Cao Lan nói riêng, với vốn văn hoá
văn nghệ truyền thống phong phú và độc đáo của họ, đang góp phần làm nên sự
đa dạng văn hoá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Vì vậy, nghiên cứu ngôn
từ nghệ thuật trong xình ca Cao Lan có thể góp phần giới thiệu và tôn vinh
những nét bản sắc văn hoá của nhóm người này.
1.2. Xình ca là dân ca của người Cao Lan, được lưu truyền từ đời này sang đời khác.
Theo truyền thuyết, đây là lời hát của Bà chúa thơ ca Lằu Slam khi đối đáp với
người yêu và nỗi lòng của cô gái Lằu Slam khi tìm tình yêu trong tuyệt vọng.
Người Cao Lan ghi nhớ và truyền lại các bài xình ca bằng văn bản chữ “Nôm Cao
Lan” (và cho đến nay bằng cả chữ tự chế trên cơ sở chữ Quốc ngữ). Tương truyền
một bộ sách xình ca được hát trong 36 ngày đêm chưa hết...
(1) Trong Danh mục các thành phần dân tộc Việt Nam ( Tổng cục thống kê ban hành ngày
2/3/1979), tên dân tộc này được ghi là Sán Chay, Cao Lan - Sán

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái
Nguyên

Chỉ.




Có thể nói, xình ca là một trong những nét đặc sắc, độc đáo làm nên văn
hoá truyền thống Cao Lan. Ngôn từ trong xình ca không chỉ là hình thức, là chất
liệu nghệ thuật, mà còn là tâm huyết và tài năng của rất nhiều nghệ sĩ dân gian
Cao Lan trong sáng tạo, trau chuốt tiếng mẹ đẻ không ngừng. Vì vậy, nghiên cứu
ngôn từ trong xình ca sẽ góp phần phát hiện ra nguyên cớ sự hấp dẫn đặc biệt của
xình ca về mặt ngôn từ, cũng như tìm hiểu cái hay cái đẹp trong tiếng Cao Lan.
1.3. Là một người con của đồng bào Cao Lan, tác giả của luận văn này rất băn khoăn
trước tình trạng nhiều nét văn hoá cổ truyền của dân tộc mình - trong đó có xình

ca và cả ngôn ngữ - đang bị mai một, pha tạp, không được coi trọng đúng mức, từ
đó có nguyện vọng tìm hiểu nhằm bảo tồn và phát triển vốn văn hoá của dân tộc
mình, trước hết là vốn văn nghệ truyền thống trong đó có xình ca, từ góc nhìn
ngôn ngữ học. Nghiên cứu Ngôn từ nghệ thuật trong xình ca Cao Lan còn phục
vụ cho việc giảng dạy môn Ngữ văn ở trường Cao đẳng Sư phạm Tuyên Quang nơi tác giả đang công tác.
2. LỊCH SỬ SƢU TẦM NGHIÊN CỨU VỀ VĂN HOÁ NGƢỜI CAO LAN, VỀ XÌNH CA

VÀ NGÔN NGỮ TRONG XÌNH CA CAO LAN

2.1. Nghiên cứu về văn hoá Sán Chay (nói chung) và ngƣời Cao Lan (nói riêng)
Các mặt trong văn hoá Sán Chay (nói chung) và của người Cao Lan (nói
riêng) là những đề tài khoa học được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Đã có
không ít những công trình sưu tầm nghiên cứu, những hội thảo khoa học ở các
cấp, những bài báo, báo cáo..., bàn về những vấn đề này. Sự nghiên cứu và thảo
luận chủ yếu về văn hoá truyền thống Sán Chay và quan hệ giữa hai nhóm Cao
Lan và Sán Chỉ trong dân tộc Sán Chay.


Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu như:
- Hợp tuyển Văn học dân gian các dân tộc Tày - Nùng - Sán Chay, Nxb
Văn hoá dân tộc, 1994.
- Phù Ninh - Nguyễn Thịnh (1999), Văn hoá truyền thống Cao Lan, Nxb
Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
- Khổng Diễn (2003), Dân tộc Sán Chay ở Việt Nam, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà
Nội.
- Lâm Quý (2003), Văn hoá Cao Lan, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Cho đến nay, vấn đề quan hệ giữa hai nhóm Cao Lan và Sán Chỉ trong dân
tộc Sán Chay vẫn chưa có được ý kiến thống nhất: Đây là các nhóm của một dân
tộc hay là hai dân tộc riêng biệt? Câu hỏi này đã được đặt ra và nhận được nhiều
ý kiến bàn luận rất khác nhau, đặc biệt trong Hội nghị xác định thành phần

dân tộc Sán Chay (Cao Lan - Sán Chí) ở Bắc Giang (ngày 29-30/3/2004) do
Viện Khoa học - Xã hội Việt Nam và Uỷ ban Nhân dân tỉnh Bắc Giang chủ trì.
Trong các tài liệu về dân tộc Sán Chay nói chung và người Cao Lan nói
riêng, đều thấy có khẳng định người Cao Lan có nguồn gốc từ Trung Quốc sang
đã nhiều đời, sống rải rác ở phía bắc Việt Nam, là một cộng đồng người cấu kết
chặt chẽ, còn lưu giữ được những nét văn hoá đặc sắc, đặc biệt là kho tàng văn
nghệ dân gian rất phong phú.
2.2. Nghiên cứu về văn nghệ dân gian và XCCL
Trong kho tàng văn nghệ dân gian Cao Lan, xình ca là mảng văn nghệ đặc
sắc nhất, giá trị nhất. Xình ca được xem như cái làm nên nét “bản sắc văn hoá”
của người Cao Lan, vì thế cũng được các nghệ nhân Cao Lan và các nhà nghiên
cứu đặc biệt chú ý.


Ở Tuyên Quang, những cụ già Cao Lan như bà Nịnh Thị Nhân (63 tuổi),
ông Tiểu Văn Học (66 tuổi - thôn cây Thị, xã Đội Bình, huyện Yên Sơn), ông
Vương Hùng Tá (58 tuổi - thôn Dân Chủ, xã Đội Bình, huyện Yên Sơn), ông
Sầm Văn Dừn (63 tuổi - thôn Mãn Hoá, xã Đại Phú, huyện Sơn Dương), ông
Trần Văn Tố (67 tuổi, thôn Giếng Tanh, xã Kim Phú, huyện Yên Sơn)... được
tôn vinh là các nghệ nhân hát xình ca. Vì yêu làn điệu dân ca của dân tộc mình
nên họ đã sưu tầm, ghi chép lại các quyển sách hát viết bằng chữ Hán và "dịch"
ra để tiện cho việc dạy các con cháu. Ông Sầm Văn Dừn còn sáng tác và dàn
dựng nhiều tác phẩm mang đậm những nét văn hoá truyền thống dân tộc Cao
Lan... Có thể nói, những nghệ nhân Cao Lan đã có ý thức và có công rất lớn
trong việc bảo vệ, lưu truyền lại xình ca cho thế hệ sau. Tuy nhiên họ chỉ mới
chủ yếu dừng lại ở việc bảo tồn và lưu truyền xình ca bằng cách dạy tự phát
truyền miệng.
Trên cơ sở lòng nhiệt tình của các nghệ nhân, cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ
XXI, việc sưu tầm, biên soạn, dịch xình ca đã được tổ chức tiến hành với quy mô
khá rộng ở các tỉnh miền núi phía Bắc, nơi có đồng bào Cao Lan sinh sống như

Yên Bái, Tuyên Quang, Bắc Giang, Phú Thọ...
Một số công trình và bàibáo về văn nghệ dân gian Cao Lan đã được công bố
như:
- Phương Bằng (1981), Dân ca Cao Lan, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
- Lâm Quý (2003), Ngày xuân đi hát "Xình ca", Báo Tân Trào số tết 158+159.
- Lê Hồng Sinh (2003), Khảo sát đặc điểm truyện thơ Cao Lan "Kó Lau Slam",
Luận văn thạc sỹ khoa học Ngữ văn, Hà Nội.
- Nịnh Văn Độ (2003), Bảo tồn hát xình ca dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang, Đề tài
nghiên cứu, Sở Văn hóa Thông tin, Tuyên Quang.


- Lâm Quý (2003), Xịnh ca Cao Lan - đêm hát thứ nhất, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà
Nội.
- Đặng Đình Thuận (2005), Văn hoá dân gian của dân tộc Cao Lan, Nxb Khoa học
xã hội, 2005.
- Phạm Thị Kim Dung (2005), Khảo sát đặc điểm Xình ca dân tộc Cao Lan ở
Tuyên Quang, Luận văn tốt nghiệp, trường Đại học Sư phạm 1, Hà Nội.
- Ngô Văn Trụ (2006), Dân ca Cao Lan, Nxb Văn hóa Dân tộc,

Hà Nội.

- Trịnh Thành Công (2005), "Đi tìm câu hát xình ca", Báo Tuyên Quang số tết
Xuân Ất Dậu.
- Triệu Thị Linh (2006), “Đặc điểm thi pháp truyện cổ tích về người mồ côi của
dân tộc Cao Lan ở Tuyên Quang”, Luận văn trường Đại học Sư phạm Thái
Nguyên, 2006.
- Triệu Thị Linh (2007), “Cách biểu thị thời gian nghệ thuật trong cổ tích Cao Lan”,
Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, số 11.
- Triệu Thị Linh (2007), "Một số biểu tượng trong xình ca Cao Lan", Hội thảo ngữ
học trẻ - Xuân 2008.

Về xình ca Cao Lan, các tác giả đã có công sưu tầm những đêm hát,
những câu hát còn rải rác trong dân gian, tập hợp và biên soạn lại khá công phu.
Nhà thơ Lâm Quý đã sưu tầm được 9 đêm, dịch văn học trọn vẹn Xịnh ca Cao
Lan - đêm hát thứ nhất gồm 266 câu. Tác giả Ngô Văn Trụ sưu tầm biên soạn
được gần 1000 câu hát lẻ in trong cuốn Dân ca Cao Lan. Tác giả Phương Bằng
cũng sưu tầm được gần 500 câu hát... Từ tư liệu sưu tầm, biên soạn, các nhà
nghiên cứu đã xác định số lượng và kết cấu những đêm hát, nội dung của mỗi
đêm. Các tác giả Lâm Quý, Ngô Văn Trụ đã bước đầu phân tích được bối cảnh
diễn ra đêm hát, giai điệu lời hát; phân tích ý nghĩa một số câu hát...


Trong luận văn tốt nghiệp "Khảo sát đặc điểm xình ca dân tộc Cao Lan ở
Tuyên Quang", tác giả Phạm Thị Kim Dung đã đặt xình ca trong hoàn cảnh văn
hoá truyền thống Cao Lan để thấy được vai trò, vị trí của xình ca đối với đời
sống tinh thần của cộng đồng này. Tác giả đã khảo sát, rút ra đặc điểm của xình
ca trên ba phương diện: diễn xướng, nội dung và nghệ thuật biểu hiện. Trong
luận văn, tác giả cũng đã phân tích cách dùng đại từ nhân xưng và tính từ trong
xình ca, từ đó rút ra kết luận: "XCCL có nhiều điểm đắc sắc trong nghệ thuật
biểu hiện: từ hình thức diễn xướng đến việc sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt,
ngôn ngữ, kết cấu, biểu tượng nghệ thuật, các thủ pháp tu từ…" [7;tr.94].
Trong luận văn thạc sĩ “Khảo sát đặc điểm truyện thơ Cao Lan “Kó Lằu
Slam”", tác giả Lê Hồng Sinh đã phân tích những nét đặc sắc về nghệ thuật trong
truyện thơ “Kó Lằu Slam”, đồng thời miêu tả về xình ca như một phần không thể
thiếu để kết tinh thành truyện thơ này: “Lời của truyện thơ được đặt theo thể thơ
có trong xình ca. “Kó Lằu Slam” dường như lấy cảm hứng từ tục hát ví đầu
xuân” [37; tr.41] .
2.3. Nghiên cứu tiếng Cao Lan và ngôn ngữ trong xình ca
Nhìn chung, cho đến nay những nghiên cứu về tiếng Cao Lan ở Việt Nam
không nhiều và chưa đầy đủ. Hầu như không thấy một công trình nào miêu tả
tiếng Cao Lan ở diện đồng đại. Các tác giả A.G. Haudricout, Jereld Edmondson và

David Strecker... đã có một số thảo luận về quan hệ cội nguồn của tiếng Cao Lan.
Trong Hội nghị xác định thành phần dân tộc Sán Chay (Cao Lan - Sán
Chí) ở Bắc Giang (ngày 29-30/3/2004), hầu hết các báo cáo tham luận đều nhắc
đến sự khác biệt giữa tiếng Cao Lan và Sán Chí (hai nhóm trong “dân tộc” Sán
Chay) và cố gắng lí giải, đánh giá sự khác biệt này. Báo cáo của tác giả Nguyễn
Văn Lợi “Quan hệ Cao Lan
lời

- Sán Chí xét về mặt ngôn ngữ” đã góp phần trả


các câu hỏi: Nguồn gốc, quá trình phát triển, mối quan hệ lịch sử giữa tiếng Cao
Lan và Sán Chí như thế nào; Hiện nay các ngôn ngữ này đang hành chức ra sao;
Quan niệm và nguyện vọng của những người sử dụng tiếng Cao Lan và Sán Chí
như thế nào? Trả lời được những câu hỏi này có thể giúp cho việc xác định mối
quan hệ giữa người Cao Lan và người Sán Chí.
Về ngôn ngữ trong xình ca, trong cuốn Văn hoá Cao Lan tác giả Lâm
Quý nhận định: Đây là “thứ tiếng cổ dùng trong cúng bái và hát ví thuộc ngữ hệ
Hán - Tạng, thổ ngữ Quảng Đông - Trung Quốc” [34; tr.166]. Xình ca có hai
loại, ca bậc và ca ý, tương ứng với mỗi loại thì ngôn ngữ cũng có đặc điểm riêng.
“Ca ý” nghĩa là “lời hát nhỏ”, lời hát tâm tình của đôi người yêu thương nhau,
được sáng tạo một các bất chợt” nên lời ca có vần có điệu, dễ nhớ người hát có
thể ứng đối ở nhiều tình huống khác nhau, có thể thay đổi giọng, lời ca cho phù
hợp. “Ca bậc” nghĩa là “hát lớn”, “hát cho cả dân bản cùng nghe, nhờ thế lời ca
được ghi chép vào sách thành chương, mục có tình chất qui định bắt buộc” [34;
tr.188-192].
Tác giả Lâm Quý cũng thống kê tập một của xình ca gồm trên 500 cặp bài
hát bằng 1.000 bài theo thể thơ tứ tuyệt (4 câu, 7 chữ), với trên 4.000 câu thơ 7
chữ [34; tr.193]. Tác giả Ngô Văn Trụ nhận xét: “Ở một số trường hợp, câu thứ
nhất chỉ có 3, 4 chữ, 4 câu chỉ gồm 24, 25 chữ, do vậy khi hát, người ta phải

dùng lời láy để ngân nga”[44; tr.2].
Về ý nghĩa của lời ca, những người già Cao Lan thường khen rằng ý tứ
trong lời đối đáp của xình ca rất thâm sâu, nhiều hình ảnh ví von bất ngờ, thú vị.
Tuy nhiên, cảm nhận cũng như nghiên cứu về ngôn từ xình ca là một công
việc không dễ dàng. Ông Nịnh Văn Độ - một người con của đồng bào Cao Lan
đã


tâm sự: “Suốt quãng đời của tôi...tôi say sưa tìm hiểu về xình ca mà vẫn chưa cảm
nhận được hết cái hay cái đẹp của lời ca trong xình ca dân tộc mình”[8; tr.5].
Như đã liệt kê ở trên (mục 2.2), trong Hội thảo Ngữ học trẻ - Xuân 2008
(do Hội ngôn ngữ học Việt Nam tổ chức), tác giả của luận văn này đã trình bày
báo cáo về một khía cạnh nhỏ của NTNT trong XCCL - "Một số biểu tượng
trong xình ca Cao Lan".
Quả thật, NTNT của XCCL cho đến nay vẫn là một ẩn số, một vấn đề
khoa học chưa được chuyên luận nào trình bày đầy đủ và sâu sắc. Đây là hướng
gợi mở tích cực để tác giả luận văn này tiếp cận xình ca từ góc độ ngôn ngữ học,
với hi vọng hiểu rõ hơn cách tổ chức văn bản và các tầng ý nghĩa sâu sắc, thú vị
của lời ca, cách biểu đạt bằng ngôn từ độc đáo của các nghệ nhân Cao Lan.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA LUẬN VĂN

3.1. Mục đích
- Chỉ ra đặc trưng NTNT của xình ca xét về mặt hình thức, như: kết cấu một đêm
hát, khúc hát, thể thơ, nhịp điệu, cách gieo vần...
- Chỉ ra đặc trưng NTNT của xình ca xét về mặt ngữ nghĩa, như các phép tu từ: ẩn
dụ, so sánh, nhân hoá; cách biểu thị thời gian, không gian nghệ thuật...
- Qua tìm hiểu các đặc điểm hình thức và ngữ nghĩa của ngôn từ xình ca, có được
một số nhận xét về những giá trị của NTNT trong xình ca, đồng thời chỉ ra được
phần nào những nét đặc trưng trong văn hoá như cách ứng xử, cách cảm, cách
nghĩ... của người Cao Lan.

3.2. Nhiệm vụ
- Tập hợp các tài liệu đã có, sưu tầm thêm, dịch các tư liệu về XCCL.
- Miêu tả một số cách sử dụng NTNT đáng chú ý trong XCCL.


- Khái quát được những nét đặc trưng chính của NTNT trong XCCL.
4. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN

4.1. Về lí luận
- Cung cấp những cứ liệu cho việc khái quát hoá các đặc trưng của ngôn ngữ nghệ
thuật trong thi pháp dân ca: tính cách điệu hoá, cách gieo vần, các đặc điểm cú
pháp như đối và điệp, sự chuyển nghĩa theo những cách khác nhau.
- Từ việc chỉ ra đặc trưng của NTNT trong XCCL, giúp thêm kinh nghiệm và cách
thức cho việc tìm hiểu văn bản văn nghệ dân gian cổ, cũng như việc biên dịch, sưu
tầm các văn bản này có hiệu quả và sâu sắc hơn.
4.2. Về thực tiễn
- Góp phần bảo tồn và phát triển vốn nghệ thuật truyền thống của người Cao Lan,
trong đó có xình ca và ngôn ngữ của họ.
- Khuyến khích và tạo cơ sở, đề xuất hướng tiếp tục đi sâu nghiên cứu các mặt
khác trong ngôn ngữ cũng như vốn văn nghệ truyền thống của người Cao Lan.
- Kết quả nghiên cứu có thể được sử dụng trong giảng dạy về văn nghệ dân gian
các dân tộc thiểu số nói chung và về XCCL nói riêng.
5. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

5.1. Đối tƣợng
Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là ngôn từ trong văn bản "Xịnh
ca Cao Lan - đêm hát thứ nhất" của tác giả Lâm Quý, Nxb Văn hoá Dân tộc
phát hành năm 2003. Đêm hát thứ nhất này có 8 chương, 266 khúc hát. Phần một
của tác phẩm được viết bằng chữ Nôm - Cao Lan, phần hai được tác giả dịch
văn



học ra tiếng Việt. Chúng tôi đã tiến hành dịch nghĩa từng đơn vị từ của 266 khúc
hát này để hiểu và phân tích sâu hơn về ngôn từ trong xình ca.
Ngoài ra, đối tượng nghiên cứu còn là ngôn từ của xình ca trong các văn
bản: "Dân ca Cao Lan", Nxb Văn hoá dân tộc, phát hành năm 2006 được tác giả
Ngô Văn Trụ sưu tầm và biên soạn, với 898 khúc hát; "Dân ca Cao Lan", Nxb
Văn hoá dân tộc, phát hành năm 1981, tác giả Phương Bằng sưu tầm và biên
soạn, với 665 khúc hát... Việc mở rộng đối tượng nghiên cứu trên nhiều văn bản
khác nhau là để có cái nhìn tổng thể về XCCL, từ đó có những nhận định về đặc
điểm hình thức và ngữ nghĩa của xình ca.
5.2. Phƣơng pháp
- Điền dã: sưu tầm, ghi âm và ghi chép về văn hoá truyền thống Cao Lan, phiên dịch
(dịch nghĩa từng từ và dịch văn học ra tiếng Việt) các bản xình ca.
- Miêu tả: với các thủ pháp phân tích và tổng hợp, trên cơ sở các văn bản xình ca
(nguyên bản và bản dịch).
- Thống kê: tính xác suất một số hiện tượng ngôn từ đáng chú ý trong các văn bản
XCCL.
6. BỐ CỤC LUẬN VĂN

Ngoài Mở đầu, Kết luận và Phụ lục, luận văn gồmcác chương mục sau:
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lí thuyết
1.2. Cơ sở thực tiễn
CHƢƠNG 2: NGÔN TỪ NGHỆ THUẬTCỦA XÌNHCA XÉT VỀMẶT HÌNH
THỨC

2.1. Kết cấu xình ca
2.2. Thể, vần và nhịp điệu
Chƣơng 3: NGÔN TỪ NGHỆ THUẬT XÌNH CA XÉT VỀMẶTNGỮ NGHĨA



3.1. Các biện pháp tu từ thường gặp trong xình ca
3.2. Sự thể hiện thời gian, không gian nghệ thuật và một vài biểu tượng thường gặp
qua ngôn từ xình ca.
Trong Phụ lục có một số khúc xình ca được ghi bằng chữ Hán, chữ Nôm
Cao Lan...; một số hình ảnh về phong tục và hát xình ca của đồng bào Cao Lan.


CHƢƠNG 1

CƠ SỞ LÍ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN
1.1. CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1.1.1. Ngôn ngữ - Ngôn ngữ văn học - Ngôn từ nghệ thuật
1.1.1.1. Ngôn ngữ
Theo cách hiểu chung nhất, ngôn ngữ là “hệ thống những âm, những từ và
những quy tắc kết hợp chúng mà những người trong một cộng đồng dùng làm
phương tiện để giao tiếp với nhau” [53; tr.683].
Khi nói đến ngôn ngữ, người ta thường hiểu đó là ngôn ngữ tự nhiên của
con người (đối lập với ngôn ngữ nhân tạo và ngôn ngữ của động vật). Đây có thể
được xem là phương tiện quan trọng nhất được dùng trong giao tiếp giữa các
thành viên của cộng đồng, đồng thời cũng là phương tiện để tư duy, để diễn đạt và
truyền lại các giá trị văn hoá - lịch sử từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Khi bàn về ngôn ngữ nói chung, còn có thể nói đến các hình thức giao tiếp
khác: bằng động tác của cơ thể, màu sắc... Tuy nhiên, hình thức phổ biến nhất
của ngôn ngữ trong xã hội loài người là ngôn ngữ âm thanh (ngôn ngữ được nói
ra bằng lời, thành tiếng) và chữ viết (hình thức đường nét ghi lại, phản ánh, đại
diện cho ngôn ngữ thành tiếng).
Trong luận văn, khái niệm "ngôn ngữ" có chỗ được gọi là ngôn từ. Ngôn
từ được hiểu chính là ngôn ngữ ở dạng nói hay viết thành văn.

Trong một quốc gia đa dân tộc như Việt Nam, khi nói về ngôn ngữ và
tình hình sử dụng ngôn ngữ ở một cộng đồng thiểu số như Cao Lan, không thể
không nhắc đến các khái niệm “ngôn ngữ giao tiếp chung giữa các tộc người”
(ở người Cao Lan hiện nay là tiếng Việt và trước đây là tiếng Hán); “ngôn


ngữ dân tộc/tộc người” (ở người Cao Lan đó là tiếng Cao Lan); “tiếng mẹ đẻ”:
ngôn ngữ con người học được trong những năm đầu của đời mình, thường là
công cụ tư duy và quan trọng nhất của mỗi người (ở người Cao Lan đó là
tiếng Cao Lan)...
1.1.1.2. Ngôn ngữ văn học
Hiện nay có hai cách hiểu về ngôn ngữ văn học: 1, là hình thức ngôn ngữ
trùng với “ngôn ngữ văn hoá” (ngôn ngữ toàn dân tộc có hệ thống chuẩn thống
nhất, được sử dụng trong mọi lĩnh vực đời sống văn hoá, chính trị, xã hội)
[53;tr.683]; 2, là hình thức ngôn ngữ được sử dụng trong sáng tác văn học. Trong
cách hiểu thứ hai này, ngôn ngữ được xem là yếu tố quan trọng nhất của văn học.
Hai cách hiểu trên không hoàn toàn đồng nhất, nhưng có điểm chung là chú ý
đến ngôn ngữ ở phương diện sử dụng trong đời sống xã hội. Mặt khác, khi đã
được dùng để sáng tác văn học, thì ngôn ngữ của một cộng đồng thường được
khẳng định những ưu điểm (chẳng hạn như “chuẩn mực” về ngữ âm, từ vựng,
ngữ pháp) và có khả năng sử dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực đời sống.
Tuy nhiên trong thực tế, một ngôn ngữ được sử dụng trong sáng tác văn
học (văn học hiểu theo nghĩa chung nhất, là “nghệ thuật dùng ngôn ngữ và hình
tượng để thể hiện đời sống và xã hội con người” [52; tr.1079]), chưa hẳn đã có
được những ưu điểm và được "sử dụng trong mọi lĩnh vực đời sống”. Đây là
trường hợp trong cộng đồng Cao Lan ở Việt Nam.
Ở người Cao Lan, tiếng Cao Lan được sử dụng trong đời sống hàng ngày
và phần nào đã được sử dụng trong văn nghệ dân gian (xình ca là một loại sáng
tác như vậy). Tuy nhiên, hình thức “ngôn ngữ văn học” này chưa được xác định
là “chuẩn mực”, cũng chưa được sử dụng rộng rãi mà chỉ trong phạm vi gia

đình và làng bản. Hình thức trong văn nghệ dân gian Cao Lan này cũng chưa


được ghi nhận bằng thứ chữ viết ai cũng đọc được, cho nên không có điều kiện
phổ biến. Như vậy, trong điều kiện hiện nay, nên hiểu ngôn ngữ văn học của
người Cao Lan theo cách thứ hai (đó là hình thức ngôn ngữ được sử dụng trong
sáng tác văn học).
Tuỳ theo phạm vi sử dụng, trong ngôn ngữ văn học có ba dạng thức khác
nhau, đó là: ngôn từ hội thoại, ngôn từ chuyên môn và ngôn từ nghệ thuật.
1.1.1.3. Ngôn từ nghệ thuật
NTNT là một dạng trong ngôn ngữ văn học, là "khái niệm chỉ loại hình
ngôn ngữ dùng để biểu đạt nội dung hình tượng của các tác phẩm ngôn từ (sáng
tác lời truyền miệng và văn học viết)" [52; tr.1090].
Xét về mặt chất liệu, NTNT bao gồm tất cả các yếu tố ngôn ngữ được sử
dụng đạt tới mức nghệ thuật, đó là các hình thức ngôn ngữ bóng bẩy thường được
sử dụng trong tác phẩm văn học như ví von, ẩn dụ, khoa trương, tượng trưng, nhân
hoá… Đồng thời, NTNT cũng bao gồm cả những yếu tố như phương thức tổ
chức, cách gieo vần, ngắt nhịp, sử dụng thể thơ, tạo dựng kết cấu…
Như vậy, NTNT là sự thể hiện của ngôn ngữ chung một cách khéo léo và
năng động, nhằm phản ánh đầy đủ, sinh động và gợi cảm mọi hình tượng, đồng
thời truyền đạt được tư tưởng, tình cảm của người nói, người viết.
Xét về mặt tính chất, NTNT được các nhà nghiên cứu xác định là mang
nhiều đặc trưng của ngôn ngữ nói chung, ngôn ngữ nghệ thuật nói riêng. Tác giả
Đinh Trọng Lạc cho rằng có bốn đặc trưng là: "tính cấu trúc; tính hình tượng; tính
cá thể hoá; tính cụ thể hoá" [20]. Tác giả Đào Thản nhấn mạnh ba đặc trưng cơ
bản của NTNT là: "tính tạo hình; tính truyền cảm; tính cá thể hoá" [20]. Khi bàn
về các tính chất của ngôn ngữ nghệ thuật, tác giả Nguyễn Thế Lịch xác định có
bảy



đặc trưng là: "tính hình tượng; tính biểu cảm; tính cụ thể; tính cá thể hoá; tính
chính xác; tính hàm súc; tính phóng đại; tính cách điệu [20]...
Có thể nói, từ ngôn ngữ chung đến NTNT là cả một quá trình, bắt đầu là
sự tìm kiếm, thu nạp những yếu tố ngôn ngữ chung, để rồi lựa chọn mài giũa
chúng, phát triển thành NTNT. Đó là con đường sáng tạo theo qui luật của cái
đẹp khiến NTNT không ngừng được hoàn thiện.
Tác giả Trần Đình Sử cho rằng "đặc trưng thứ nhất của lời văn là tính
hình tượng từ trong nội dung của lời nói" [20]. Trong các tác phẩm văn nghệ
nói chung, XCCL nói riêng, ngôn từ là chất liệu chính để xây dựng hình tượng.
Chắc hẳn, cùng với việc sáng tác theo khuôn mẫu có tính chất qui ước của dân
ca nói chung, các TGDG Cao Lan đã có những sáng tạo riêng trong sử dụng
ngôn từ để xây dựng hình tượng nghệ thuật, để xình ca có được sức sống lâu
bền và hấp dẫn.

1.1.2. DÂN CA - XÌNH CA

1.1.2.1. Dân ca
Theo cách hiểu phổ biến nhất, dân ca là bài hát lưu truyền trong dân gian.
Trong cách định nghĩa mang tính thuật ngữ thì dân ca là “một loại hình sáng tác
dân gian mang tính chất tổng hợp bao gồm lời nhạc, động tác, điệu bộ kết hợp
với nhau trong diễn xướng” [9; tr.91].
Căn cứ vào đặc điểm âm nhạc, làn điệu có thể chia dân ca thành hai loại
chính: loại đa điệu và loại đơn điệu. Đa điệu là loại có nhiều làn điệu như dân ca
quan họ Bắc Ninh (có khoảng 200 làn điệu khác nhau). Đơn điệu như hát ví,
giặm Nghệ Tĩnh, hát trống quân, hát đúm...Ở loại dân ca đa điệu, “khi hát đối
đáp, người ta thường yêu cầu phải đổi giọng (nghĩa là bên nam hát làn điệu

nào



thì bên nữ cũng phải hát đúng làn điệu ấy). Còn ở loại đơn điệu thì khi hát đối
đáp, đôi bên chỉ đối nhau bằng lời, bằng ý” theo một điệu nhất định [9; tr.33].
Xình ca Cao Lan có thể được coi là loại dân ca đơn điệu.
Khi nói đến dân ca, người ta thường nghĩ đến đồng thời ba yếu tố cơ bản
cấu thành nó: lời ca, âm nhạc và phương thức diễn xướng.
Dân ca các dân tộc thiểu số, theo đặc điểm diễn xướng của văn hoá dân
gian nói chung, luôn gắn bó mật thiết với sinh hoạt xã hội (như lao động sản
xuất, giao duyên, phong tục, nghi lễ, sinh hoạt ngày thường...) và mang đậm dấu
ấn của từng cộng đồng.
Với những nét đặc sắc trong kết cấu ngôn ngữ, trong cách sử dụng ngôn
ngữ để xây dựng hình tượng nghệ thuật, tạo nên nhịp điệu với cách thức diễn
xướng..., đi kèm với ý nghĩa sâu sắc của lời ca, XCCL đã được lưu truyền trong
dân gian và có sức sống tới ngày nay.
1.1.2.2. Xình ca
Cho đến nay, chưa có định nghĩa đủ rõ xình ca (còn viết là “xịnh ca”,
“sịnh ca”, “sình ca”) là gì. Nhưng khi nghiên cứu xình ca, nhiều nhà nghiên cứu
đã đề cập đến khái niệm này.
Theo tác giả Lâm Quý thì xình ca là tác phẩm thơ ca dân gian mang tính
sử thi về một cuộc thiên di đầy vất vả gian lao của tộc người Cao Lan di cư từ
nội địa các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Trung Quốc sang Việt Nam sinh sống
từ cuối thế kỉ XVII đầu thế kỉ XVIII vì nhiều lí do như giặc giã, đời sống khó
khăn [34; tr.12].
Trong lời nhà xuất bản cuốn “Xịnh ca Cao Lan - đêm hát thứ nhất” có
đoạn viết: “Đây là tác phẩm thơ ca dân gian cổ của người dân tộc Cao Lan được
ghi chép bằng chữ Hán Nôm Cao Lan và lưu truyền trong đồng bào từ nhiều đời


nay” [34; tr.2]. Xuất phát từ ý nghĩa của chính từ này (xình ca nghĩa là xướng lên
(để đối đáp) - ca, hát), có thể hiểu “xình ca” là một tên gọi chung chỉ dân ca Cao
Lan, nhưng chủ yếu là hát giao duyên.

Xình ca hay xịnh ca, hay sịnh ca, sình ca? Căn cứ vào cách ghi phổ biến
hiện nay và “giọng” của người Cao Lan khi phát âm từ này, đồng thời căn cứ vào
sự tương ứng kí hiệu của chữ Quốc ngữ, theo chúng tôi, nên viết là xình ca.
1.1.3. KẾT CẤU - NHỊP ĐIỆU - VẦN

1.1.3.1. Kết cấu
Hiểu theo cách chung nhất, kết cấu là "sự phân chia và bố trí các phần, các
chương, các mục theo hệ thống nhất định để thể hiện nội dung của tác phẩm"
[53; tr.485]. Kết cấu đảm nhiệm chức năng rất đa dạng: bộc lộ tốt chủ đề và tư
tưởng của tác phẩm, triển khai hấp dẫn cốt truyện, cấu trúc hợp lí hệ thống tính
cách nhân vật, tổ chức điểm nhìn trần thuật của tác giả..., kết cấu tạo ra "tính
toàn vẹn của tác phẩm như một hiện tượng thẩm mĩ" [9; tr.131-132].
Trong kết cấu XCCL, những khái niệm như "chương hát", "bài hát", "khúc
hát", "câu hát", "lời hát" cần được hiểu một cách thống nhất.
Theo cách hiểu chung nhất, Chương là một "phần của sách có nội dung
tương đối trọn vẹn" [53; tr.203]. Chương hát xình ca cũng tương tự là một bộ
phận được chia ra và được đặt trong quan hệ với tổng thể đêm hát, có nội dung
tương đối hoàn chỉnh.
Trong chương hát có một đơn vị (trên chữ viết được ghi thành 4 "dòng
thơ", mỗi "dòng" 7 chữ) được các tác giả trước đây gọi bằng nhiều tên khác nhau
như: "câu", "bài" [34; tr.193], "bài", "câu", "lời ca" [48; tr.121-124].


Theo cách hiểu chung nhất, câu là "đơn vị cơ bản của lời nói, do từ tạo
thành, có một ngữ điệu nhất định, diễn đạt một ý trọn vẹn" [53; tr.137], đồng vì
vậy để dễ dàng trong miêu tả chúng tôi đề nghị một "dòng" thơ như trong XCCL
(trên chữ viết là một dòng) nên gọi là một câu.
Nếu hiểu "lời" là một "chuỗi âm thanh phát ra trong không khí nói mang
một nội dung trọn vẹn nhất định" [53; tr.582], thì một đến hai "dòng" thơ có thể
gọi là "lời". Như vậy, không nên gọi cả 4 "dòng" thơ 7 chữ hoặc những hình thức

tương tự là "lời hát", "câu hát", vì như vậy rất đại khái và khó phân định từ nó ra
những đơn vị nhỏ hơn.
Khái niệm "bài" chỉ "công trình sáng tác hoặc biên tập, có nội dung tương
đối hoàn chỉnh, nhưng không dài" [53; tr.40] có thể phù hợp với đơn vị đang xét
(4 "dòng thơ" mỗi "dòng" 7 chữ). Tuy nhiên đối chiếu vào những văn bản XCCL
sưu tầm và dịch của các tác giả Lâm Quý, Ngô Văn Trụ, Phương Bằng…, chúng
tôi thấy rằng XCCL còn bao gồm cả những "cụm ca" [44;tr.14], gồm có từ một
đến nhiều "bài" hợp thành.
Vì vậy, đơn vị ở trong một chương hát (thường gồm 4 dòng thơ 7 chữ) có
thể được gọi là một "khúc hát" - là "phần có độ dài nhất định được tách ra khỏi
một vật để thành một đơn vị riêng" [53; tr.512]. Có thể một khúc hát là một bài
xình ca hoàn chỉnh, có thể nhiều khúc hát mới hợp thành một bài, nhiều bài hợp
thành một chương, nhiều chương làm nên một đêm hát.
Hình thức và biện pháp kết cấu của xình ca Cao Lan như thế nào, xin
được phân tích kĩ hơn ở chương sau.
1.1.3.2. Nhịp điệu (tiết tấu, tiết điệu)


Theo cách hiểu chung nhất, nhịp điệu là "sự nối tiếp và lặp lại một cách
đều đặn, tuần hoàn các độ dài thời gian bằng nhau làm nền cho

nhạc"

[53;tr.714].
Đặc điểm nổi bật của thơ và ca là ngôn từ có nhịp điệu. Từ yêu cầu nhịp
điệu, văn bản thường được tổ chức thành từng dòng, từng khổ, từng câu, từng
khúc. Sau đây là nhận xét về nhịp điệu trong thơ: "Cứ nhìn những khổ thơ tương
đối như nhau, sắp xếp nối tiếp nhau với những khoảng cách nhất định, người đọc
đã nhận ra một nhịp điệu hài hoà nào đó. Sự hài hoà về thị giác đó sẽ được củng
cố hơn nữa với sự hài hoà âm thanh, nhịp điệu khi đọc" [52;tr.1686].

Cơ sở của khái niệm này là từ Hy Lạp “Rhythmós”, có nghĩa là “tính nhịp
nhàng, đều đặn”. Từ điển giải thích thuật ngữ văn học định nghĩa “Sự lặp lại
đều đặn các đơn vị lời nói giống nhau, được dùng để thực hiện các chức năng
cấu trúc, cấu tạo văn bản và chức năng cảm xúc - biểu cảm” [46. tr.292] được
xem là "tiết điệu", hay còn gọi là "tiết tấu".
Có thể xem nhịp điệu như đặc trưng của một tác phẩm nghệ thuật có hình
thức thể hiện là lời ca. Đó là “lặp lại cách quãng đều đặn và có thay đổi của các
hiện tượng ngôn ngữ, hình ảnh, môtip... nhằm thể hiện sự cảm nhận thẩm mĩ về
thế giới” [9; tr.205]. Nhịp điệu, tiết tấu tạo ra cảm giác vận động nhịp nhàng có
qui luật, chống lại sự đơn điệu, đơn nhất của tác phẩm.
Tác giả Mã Giang Lân khẳng định rằng "nhịp điệu là linh hồn của thơ ca,
vần và nhịp điệu còn gắn liền với thể" [18; tr.20]. Ở mỗi thể, nhịp điệu được sử
dụng khác nhau, chẳng hạn trong thơ: thơ 2 chữ - nhịp 2/2 giống đồng dao; thơ 3
chữ - nhịp 1/2; thơ 4 chữ - nhịp 2/2; thơ 5 chữ - nhịp 3/2 và 2/3; thơ 6 chữ - nhịp
2/2/2 và 2/4; thơ 7 chữ - nhịp 2/2/3, nhịp 3/2/2, nhịp 4/3, nhịp 3/4; thơ 8 chữ nhịp 3/2/5. Thơ lục bát chủ yếu ngắt nhịp 2, có khi ngắt nhịp 1, nhịp 3…
hoặc


hỗn hợp cho thích ứng với nội dung cảm xúc; thơ tự do - nhịp được sử dụng linh
hoạt, phong phú.
Trong cấu trúc ngôn ngữ của các tác phẩm nghệ thuật dân gian nói chung,
XCCL nói riêng đều có những yếu tố ngôn ngữ được lặp lại, luân phiên tạo thành
nhịp điệu. Chức năng của nhịp điệu không chỉ là cấu trúc, cấu tạo văn bản mà
còn được sử dụng để tạo cảm xúc và sự gợi cảm.
1.1.3.3. Vần
Nói đến nhịp điệu trong thơ ca, không thể không nhắc đến vần. Theo cách
hiểu chung nhất, vần được sử dụng trong thơ ca là hiện tượng lặp lại một (hoặc
các) bộ phận của âm tiết ở một (hoặc những) vị trí nhất định trong câu, để tạo nên
nhịp điệu. Đồng thời, vần có vai trò liên kết các câu trong khúc ca hay bài thơ.
Phân biệt theo vị trí gieo vần, ta có vần chân và vần lưng; phân biệt theo

mức độ hoà âm, ta có vần chính và vần thông.
Trong thơ, vần chân là vần được gieo vào cuối dòng thơ, có tác dụng đánh
dấu sự kết thúc dòng thơ và tạo nên mối liên kết giữa các dòng thơ, có các dạng
vần liền, vần ôm, vần cách.
Vần lưng là vần “được gieo vào giữa dòng thơ”. Vần thông "được tạo nên
bởi sự hoà phối âm thanh giữa các tiếng được gieo vần”. Còn vần chính cũng
được tạo bởi “sự hoà phối âm thanh ở mức độ cao giữa các tiếng được gieo vần”
nhưng trong đó “bộ phận vần cái (kể từ nguyên âm chính đến cuối âm tiết) hoàn
toàn trùng hợp” [9; tr.362-364].
1.1.4. So sánh - Ẩn dụ - Nhân hoá
1.1.4.1. So sánh


Có thể hiểu so sánh là: "Phương thức biểu đạt bằng ngôn từ một cách hình
tượng dựa trên cơ sở đối chiếu hai hiện tượng có những dấu hiệu tương đồng
nhằm làm nổi bật đặc điểm, thuộc tính của hiện tượng này qua đặc điểm thuộc
tính của hiện tượng kia" [9; tr.237].
So sánh thường có hai vế. Một vế là đối tượng cần được biểu đạt một cách
hình tượng. Vế kia là đối tượng được dùng để so sánh. Hai vế này thường được
nối liền với nhau bởi các từ so sánh: như, bằng, hơn, kém...
Phương thức so sánh đem lại hiệu quả cao đối với nghệ thuật biểu đạt
bằng ngôn từ, vì vậy được dùng phổ biến trong dân ca các dân tộc thiểu số, trong
đó có XCCL.
1.1.4.2. Ẩn dụ
"Ẩn dụ là cách lấy tên gọi của một đối tượng này để lâm thời biểu thị một
đối tượng khác, trên cơ sở thừa nhận ngầm một nét giống nhau nào đấy giữa hai
đối tượng" [9; tr.11].
Có thể hiểu, ẩn dụ là so sánh ngầm, nghĩa là trong cấu trúc so sánh có ẩn
từ so sánh và cái được so sánh. Để nhận diện ẩn dụ, cần phải có căn cứ vào tiêu
chí ngôn ngữ và phi ngôn ngữ:

- Tiêu chí ngôn ngữ gồm có ngữ cảnh hẹp (những yếu tố, những quan hệ cụ thể của
câu chữ có mặt trong ngôn bản) và ngữ cảnh rộng (hoàn cảnh giao tiếp).
- Tiêu chí phi ngôn ngữ: gồm tính lôgic và thói quen thẩm mĩ hay giá trị truyền
thống văn hóa...
Có thể nói, ẩn dụ là một trong những phương thức chuyển nghĩa hữu hiệu
để thực hiện việc trao đổi thông tin ngầm, đưa đẩy, bóng gió, lời ít mà ý nhiều...
Vì vậy ca dao, dân ca các dân tộc và xình ca của người Cao Lan thường sử dụng
phương thức này.


1.1.4.3. Nhân hoá
Hiểu một cách chung nhất, nhân hoá hay nhân cách hoá là "một biến thể
của ẩn dụ, ở đó người ta chuyển đổi ý nghĩa của các từ ngữ chỉ thuộc tính của
con người sang đối tượng khác không phải con người" [53; tr.704].
"Tác dụng chủ yếu của nhân hoá đối với sự biểu đạt là miêu tả và trữ
tình"[53; tr.704]. Việc đưa ra các sự vật hiện tượng không phải là con người sang
thế giới loài người đã tạo nên một không khí mới, sinh động, làm cho chúng trở
lên gần gũi hơn, dễ hiểu hơn.
Nhân hoá là một cách biểu đạt trữ tình, là cách nói năng hình ảnh mà
người Cao Lan hay sử dụng, đặc biệt trong xình ca.

1.1.5. Biểu tƣợng nghệ thuật
Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm "biểu tượng". Theo nghĩa rộng
nhất, "biểu tượng là một loại tín hiệu mà mối quan hệ giữa mặt hình thức cảm
tính (tồn tại trong hiện thực khách quan hoặc trong sự tưởng tượng của con
người, được gọi là cái biểu trưng) và mặt ý nghĩa (cái được biểu trưng) mang
tính có lí do, tính tất yếu" [12]. Hiểu đơn giản hơn, biểu tượng là "hình ảnh
tượng trưng" hay hình ảnh cảm tính về hiện thực khách quan, thể hiện quan niệm
thẩm mĩ, tư tưởng của người sáng tạo ra nó, ví dụ hình ảnh "chim bồ câu" là biểu
tượng của hoà bình. Để tạo nên các biểu tượng, từ ngữ phải được khai thác chủ

yếu ở nét nghĩa biểu cảm, nghĩa bóng.
Từ hình ảnh trở thành biểu tượng phải trải qua một quá trình biến đổi ý
nghĩa. Quá trình chuyển hoá này diễn ra trong một phạm vi khác nhau: đời sống


văn hoá, nghệ thuật, văn học… Vì vậy, khi nghiên cứu về biểu tượng cần phân
biệt rõ các khái niệm: "biểu tượng văn hoá", "biểu tượng nghệ thuật", "biểu
tượng NTNT".
- Biểu tượng văn hoá:
"Những thực tế vật chất hoặc tinh thần (sự vật, hành động, ý niệm,…) có
khả năng biểu hiện những ý nghĩa rộng hơn chính hình thức cảm tính của nó, tồn
tại trong một tập hợp, một hệ thống đặc trưng cho những nền văn hoá nhất định"
[12] là những biểu tượng văn hoá. Biểu tượng văn hoá bao gồm cả những biến
thể vật thể (trong các ngành nghệ thuật như kiến trúc, hội hoạ, điêu khắc,…) và
phi vật thể (tín ngưỡng, lễ hội, phong tục, văn học).
- Biểu tượng nghệ thuật: là các biến thể loại hình của biểu tượng văn hoá trong
những ngành nghệ thuật khác nhau như hội hoạ, âm nhạc, văn học…
- Biểu tượng NTNT: là các biểu tượng nghệ thuật được thể hiện dưới dạng tín hiệu
ngôn ngữ trong văn học, còn gọi là "từ - biểu tượng" (word-symbols) [12]. Nếu như
biểu tượng chỉ là hình ảnh cảm tính của con người về các hình thức vật chất cụ thể
ở hiện thực khách quan, thì biểu tượng ngôn từ là sự tín hiệu hoá các hình thức vật
chất cụ thể ấy qua hệ thống âm thanh ngôn ngữ.
Có thể nói, "ngôn từ đã mở ra cho biểu tượng những quan hệ mới, những
khả năng mới, những khả năng kết hợp còn đang tiềm ẩn hoặc không xuất hiện
trong thực tế khách quan, hiện thực hoá và phát triển ý nghĩa của một biểu tượng
trong một năng lực biểu hiện to lớn" [12].
Cấu trúc NTNT trong các tác phẩm nghệ thuật nói chung, xình ca nói
riêng có thể xem như một tổng thể các tín hiệu thẩm mĩ, trong đó vai trò quan
trọng thuộc về các "từ - biểu tượng" với tư cách là những điểm nhấn trong tổng
thể cấu trúc.



×