Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng giảng dạy tại trường tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.84 KB, 12 trang )

ĐỀ TÀI : MỘT SỐ BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY CỦA ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN
TRƯỜNG TIỂU HỌC HÀM MỸ 1
I. Lý do chọn đề tài
Giáo dục trẻ em là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng mà xã hội đều quan
tâm, bởi vì “ Trẻ em hôm nay là thế giới ngày mai”. Để ngày mai có những
người chủ xứng đáng, xã hội có những người công dân tốt thì ngay ngày hôm
nay khi trẻ em là những mầm non mới nhú, thế hệ trước phải có trách nhiệm dạy
dỗ, hướng dẫn trẻ em đi đúng hướng. Đúng như lời Bác Hồ dạy:
“ Vì lợi ích mười năm trồng cây
Vì lợi ích trăm năm trồng người”.
Ngay từ khi thành lập nước đến nay, trong suốt quá trình đấu tranh giành
độc lập và xây dựng nước nhà, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng sự nghiệp
giáo dục nên những thành tựu mà đất nước ta đạt được cũng có một phần công
sức không nhỏ của ngành giáo dục, nhất là trong giai đoạn đất nước ta đang
bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nền Giáo dục - Đào
tạo cần đáp ứng kịp thời nguồn nhân lực, có sức khoẻ, có kiến thức khoa học kỹ
thuật cho đất nước.
Kiến thức được trang bị trong nhà trường chỉ là cái ban đầu. Trong nhà
trường phải coi trọng dạy phương pháp, dạy cách học, dạy cách thức đi tới kiến
thức, giúp học sinh tự tìm kiếm và chiếm lĩnh những thành tựu tri thức của loài
người, trên cơ sở đó mà tiếp tục học tập suốt đời. Nhà trường cung cấp cho học
sinh những kỹ năng cần thiết cho việc tự học và tự giáo dục sau này. Chính vì
thế, người thầy giáo có vai trò quan trọng trong nhà trường.
Khi bàn đến vai trò của những người thầy trong sự nghiệp giáo dục, Thủ
tướng Phạm Văn Đồng viết: “ Thầy giáo là nhân vật trọng tâm trong nhà trường,
là người quyết định đào tạo nên những con người mới Xã hội chủ nghĩa, vậy
thầy giáo không ngừng vươn lên, rèn luyện tu dưỡng về mọi mặt để thực sự xứng
đáng là người thầy giáo Xã hội chủ nghĩa”. Đồng thời Thủ tướng còn chỉ ra rằng:
“Vấn đề lớn nhất trong giáo dục của ta hiện nay là tạo điều kiện thuận lợi nhất để
đội ngũ giáo viên dần dần trở thành một đội quân đủ năng lực, đủ tư cách để làm


tròn sứ mạng của mình”.
Từ bao đời nay ông cha ta đều mong muốn ở người thầy phải
“ Biết mười dạy một” và cũng yêu cầu người thầy phải dạy sao cho những học
trò của mình phải “ Học một biết mười”.
Vậy việc xây dựng, bồi dưỡng giáo viên như thế nào? Làm cách nào để
công tác dạy và học đạt hiệu quả cao? Đây là điều mà chúng tôi trăn trở, suy
nghĩ, tìm kiếm cách chỉ đạo và quản lý các hoạt động này sao cho có chiều sâu,
tránh hình thức.
Là người làm công tác quản lý, tôi thấy vấn đề : Công tác quản lý với việc
nâng cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên trường tiểu học Hàm Mỹ1
1


là vấn đề quan trọng để đưa chất lượng học tập của học sinh ngày một nâng cao
và bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, năng lực nghiệp vụ cho giáo viên là hai nhiệm
vụ quan trọng song song không thể thiếu được, đúng như Bác Hồ đã nói: “ Có
đức mà không có tài làm việc gì cũng khó, có tài mà không có đức là người vô
dụng”.
II. Thực trạng về công tác chỉ đạo việc dạy và học ở trường tiểu học Hàm
Mỹ 1.
1. Đặc điểm tình hình:
a. Thuận lợi:
Trường tiểu học Hàm Mỹ 1 nằm trên địa bàn thôn Phú Khánh, học sinh
của trường gồm hai thôn Phú Khánh và Phú Mỹ, khoảng cách từ nhà đến trường
của các em xa nhất không quá 2 ki lô mét. Trường được Cấp uỷ, chính quyền địa
phương, các ban ngành, ban đại diện cha mẹ học sinh quan tâm, tạo điều kiện
thuận lợi cho đơn vị thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục trong nhà trường.
Trường có một chi bộ Đảng lãnh đạo toàn diện cho mọi phong trào trong
trường học.Ban giám hiệu nhiệt tình, năng nổ trong công việc và có kế hoạch cụ
thể, nắm bắt thông tin kịp thời để xử lý và chỉ đạo hợp lý. Đội ngũ giáo viên trẻ

khoẻ, nhiệt tình, chấp hành nội quy tốt, có ý thức kỷ luật cao, nội bộ đoàn kết,
luôn thực hiện tốt các cuộc vận động, có tinh thần trách nhiệm trong công tác. Tỉ
lệ giáo viên đứng lớp 1.3%. Trường có một cơ sở nên thuận tiện cho việc phân
công và quản lý công tác.
b. Khó khăn:
Trường nằm sát dọc quốc lộ 1A , xe đi lại quá nhiều gây ồn nên ảnh
hưởng đến chất lượng học tập cũng như an toàn giao thông cho học sinh. Cơ sở
vật chất còn thiếu thốn, lớp học xuống cấp, chưa có phòng chức năng,chỉ đủ
phòng học cho học sinh học một buổi/ ngày.Phòng thư viện, thiết bị, phòng
truyền thống Đội TNTP còn nhập chung nên khó cho việc đọc sách báo và mượn
đồ dùng dạy học. Bàn ghế chưa đúng kích cỡ, quá cao đối với học sinh lớp 1,2.
Học sinh chủ yếu là con em nông thôn, nhận thức của một số gia đình chưa cao,
chưa quan tâm đến việc học hành của con, em nhất là việc học và làm bài ở nhà.
Học sinh khuyết tật tương đối nhiều (9em) chủ yếu thiểu năng trí tuệ. Chính vì
thế, chất lượng học tập của học sinh không đồng đều.
Tuy đội ngũ giáo viên rất tâm huyết với nghề, tiếp thu đổi mới về chương
trình, sách giáo khoa nhưng phần nào vẫn còn loáng thoáng cách dạy theo
phương pháp truyền thống, việc đổi mới phương pháp dạy học đôi lúc cũng còn
hình thức. Một số giáo viên chưa thật sự đầu tư vào công tác soạn giảng.
2. Đánh giá một vài số liệu về giáo viên và học sinh trong nhà trường:
1. Hệ đào tạo:
Tổng số giáo viên toàn trường : 17
Hệ đào tạo

Năm học
2


2006 - 2007
11

3
3

Trung cấp
Cao đẳng
Đại học

2007 - 2008
5
7
5

2008 - 2009
2
7
8

Một số giáo viên đang theo học các lớp đại học tại chức và đại học từ xa.
2. Giáo viên dạy giỏi qua các năm:
Tổng số giáo viên toàn trường : 17
Giáo viên dạy
giỏi
Cấp trường
Cấp huyện
Cấp tỉnh

2005 - 2006
13
3
1


Năm học
2006 - 2007
15
/
2

2007 - 2008
14
2
1

3. Chất lượng học tập Toán, Tiếng Việt của học sinh qua các năm:
Năm học Môn
T. Việt
20062007
Toán

TSHS
420

T. Việt
20072008

412
Toán
T. Việt

20082009


392
Toán

Giỏi
101
24,0%
107
25,5%
149
36,2%
163
39,6%
149
38,0%
193
49,2%

Khá
138
32.9%
142
33,8%
142
34,5%
138
33,5%
143
36,5%
119
38,5%


T.bình
171
40,7%
161
38,3%
101
24,5%
85
20,6%
75
19,1%
57
14,5%

Yếu
10
2,4%
10
2,4%
20
4,9%
26
6,3%
25
6,4%
23
5,9%

Qua việc khảo sát chất lượng về giảng dạy và học tập qua các năm có thể

đánh giá như sau:
Đội ngũ giáo viên ngày càng được chuẩn hoá về mặt đào tạo. Đặc biệt là
các đồng chí giáo viên trẻ nhiệt tình, hăng say công tác và được trang bị nhiều
kiến thức mới, gặp môi trường sư phạm tốt đã phát huy được tác dụng là mũi
nhọn trong công tác giảng dạy. Tuy nhiên, trường vẫn có một số ít số giáo viên
còn tư tưởng trung bình chủ nghĩa, ngại tham gia các hội thi như thi giáo viên
dạy giỏi các cấp.
3


Về chất lượng học tập, năm học 2007 – 2008 thực hiện cuộc vận động “
Hai không” nên chất lượng có giảm so với năm học 2006 – 2007.
Khảo sát chất lượng học sinh đầu năm học 2008 – 2009, số lượng học
sinh có khả năng lưu ban từ lớp 2 đến lớp 5 là 46 em (4em học sinh khuyết
tật).Cuối học kỳ I chất lượng học tập được nâng dần so với đầu năm, tuy tỉ lệ học
sinh yếu vẫn còn cao 6,4% môn Tiếng Việt và 5,9% môn Toán. Đầu học kỳ II
lớp 1 có 11 em có khả năng lưu ban (5em học sinh khuyết tật). Chính vì vậy cần
phải có một giải pháp tốt để đưa chất lượng của trường đi lên, giảm thiểu học
sinh lưu ban.
Thực tế trên đã đặt ra yêu cầu cấp thiết cho cán bộ quản lý nhà trường:
Phải tích cực tổ chức, xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên có phẩm chất
đạo đức tốt, có năng lực chuyên môn nghiệp vụ. Nâng cao chất lượng dạy và
học.
III/ Một số biện pháp chỉ đạo nâng cao chất lượng giảng dạy tại trường tiểu
học Hàm Mỹ 1.
1/ Vai trò của ban giám hiệu trong công tác bồi dưỡng giáo viên:
Phát triển chuyên môn giáo viên trong giai đoạn hiện nay là để đáp ứng
yêu cầu triển khai có hiệu quả chương trình Tiểu học mới. Muốn vậy người giáo
viên cần rèn luyện năng lực chuyên môn vững vàng thể hiện ở hai lĩnh vực là
kiến thức và kỹ năng sư phạm. Đồng thời đạt mức độ cao nhất trong Chuẩn giáo

viên tiểu học.
Trong thực tế, chỉ có tự học mới có điều kiện giúp chúng ta học tập được
thường xuyên và suốt đời. Tự học là một cách tự bồi dưỡng, tự làm giàu kiến
thức cho mình vừa đơn giản, tiết kiệm vừa hiệu quả. Vì vậy trách nhiệm của
người quản lý giáo dục phải suy nghĩ, tìm biện pháp để thổi lên ngọn lửa của
phong trào tự học, tự bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên bằng nhiều hình thức:
- Tổ chức các cuộc hội thảo, trao đổi kinh nghiệm tự học, giúp giáo viên
định hướng việc tự học, tự bồi dưỡng.
- Tổ chức các hoạt động trong nhà trường gắn với tự học.
- Bản thân mỗi đồng chí trong Ban giám hiệu phải vững vàng về chuyên
môn, không ngừng tự nâng cao về chuyên môn, chịu đọc, chịu học hỏi anh chị
em giáo viên.
Một trong những nhiệm vụ của Ban giám hiệu là dự giờ giáo viên và đánh
giá tiết dạy. Người cán bộ quản lý phải biết kích thích nhu cầu tự vươn lên trong
tập thể sư phạm, cần có quan điểm nhất quán, xuyên suốt trong quá trình xây
dựng đội ngũ giáo viên dạy giỏi.
Có thể nói, tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá giáo viên là sự tiến bộ về mọi
mặt của học sinh do mình phụ trách “ Muốn có học sinh giỏi phải có thầy giáo
giỏi”. Người cán bộ quản lý coi việc xem xét, đánh giá giáo viên theo chất lượng
giảng dạy là biện pháp cốt lõi của công tác quản lý.
2/ Ban giám hiệu chỉ đạo nề nếp sinh hoạt tổ chuyên môn:
4


Vào đầu năm Ban giám hiệu cùng Công đoàn bàn bạc phân công chuyên
môn hợp lý, đúng người, đúng việc . Tổ trưởng phải là người nắm vững chuyên
môn nghiệp vụ, nắm vững các phương pháp nhất là việc đổi mới phương pháp
dạy học để chỉ đạo, điều hành tổ của mình. Thực hiện hội họp tổ đều đặn 2 lần/
tháng. Những giáo viên dạy cùng một khối lớp tổ chức các hoạt động theo nhóm
để thảo luận những vấn đề chuyên môn như thống nhất giáo án, nội dung,

phương pháp dạy học, tập huấn trong nhóm, giúp đỡ nhau có tính chất truyền
nghề, dự giờ trao đổi và phản hồi tích cực giữa người dạy và người dự. Thảo
luận, trao đổi kinh nghiệm giữa giáo viên theo khối lớp, tổ, trường và cụm
trường.
3/ Ban giám hiệu với việc chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học:
Việc đổi mới phương pháp dạy học là rất cần thiết cho học sinh hiện nay,
cũng là để nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên. Đổi mới
phương pháp phải phù hợp với tình hình thực tế của học sinh, trường, lớp, phải
có bước đi thật phù hợp với từng giai đoạn, tránh nóng vội. Trước tiên phải tổ
chức tập huấn, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên về các phương pháp dạy học tích
cực. Tổ chức các hoạt động thảo luận nhóm, thảo luận tổ giáo viên về:
- Lựa chọn các phương pháp dạy học tích cực phù hợp với tâm lí, sinh lí
học sinh tiểu học và phù hợp với nội dung chương trình.
- Thống nhất trong tổ chuyên môn về các phương pháp dạy học phù hợp
với từng môn học, từng chương, từng bài và từng tiết học.
- Cử giáo viên có kinh nghiệm soạn bài mẫu, giảng mẫu và tổ chức cho
mọi giáo viên tham dự rút kinh nghiệm.
- Nhân rộng hình thức thao giảng với việc lựa chọn đúng và vận dụng hiệu
quả phương pháp dạy học trong toàn trường.
- Có biện pháp khuyến khích thi đua triển khai về số lượng, chất lượng và
mở rộng trong toàn trường, đồng thời học tập kinh nghiệm của các trường bạn.
Ví dụ: Quản lý đổi mới phương pháp dạy học môn Tiếng Việt.
Để dạy học môn Tiếng Việt có hiệu quả, cần sử dụng những phương pháp
dạy học phát huy tính tích cực chủ động của học sinh.
Đổi mới phương pháp dạy học thực chất là sự thay đổi về cách dạy và
cách học:
- Dạy Tiếng Việt không phải để giúp học sinh tiếp nhận kiến thức một
cách đơn thuần mà thông qua đó,còn giúp học sinh thay đổi cả cách nghĩ, cách
làm, cách sống. Đặc biệt chú ý vận dụng tốt các tình huống giao tiếp, dạy học
qua giao tiếp.

- Giáo viên vẫn đóng vai trò quan trọng không gì thay thế. Song giáo viên
phải biết hướng dẫn học sinh hoạt động, người học phải là chủ thể của hoạt
động.
Các phương pháp và hình thức dạy học chủ yếu:
- Phương pháp:
5


Các phương pháp đặc trưng của môn học là: Phương pháp thực hành giao
tiếp ; phương pháp đóng vai ; phương pháp rèn luyện theo mẫu ; phương pháp
phân tích ngôn ngữ… các phương pháp tạo tình huống và giải quyết tình huống;
sử dụng trò chơi ; sử dụng phương tiện trực quan ; vấn đáp ; thuyết trình…vẫn
cần được sử dụng trong dạy Tiếng Việt ở tiểu học.
Trong thực tế giảng dạy, không có tiết học nào giáo viên chỉ sử dụng đơn
điệu một phương pháp mà tạo được sự thành công. Cần kết hợp sử dụng nhiều
phương pháp và hình thức tổ chức dạy học cho phù hợp nội dung, đối tượng và
điều kiện.
Một trong những điều kiện quan trọng giúp thực hiện các phương pháp
dạy học thông qua hoạt động là các phương tiện và thiết bị dạy học. Vì vậy, yêu
cầu giáo viên cần sử dụng và tự làm các đồ dùng và thiết bị dạy học để dạy môn
Tiếng Việt có hiệu quả.
- Hình thức tổ chức dạy học chủ yếu ( trong lớp, ngoài lớp)
+ Hướng dẫn học sinh làm việc độc lập.
+ Làm việc theo nhóm.
+ Làm việc theo lớp.
Các bước tiến hành chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học môn Tiếng
Việt.
Học vần lớp 1:
Theo phương pháp Tổng hợp – Phân tích
Thực hành luyện đọc ứng dụng, viết củng cố và ghi nhớ âm(vần), tiếng

mới học.
Ôn tập, hệ thống hoá kiến thức và thực hành đọc - viết ( theo nhóm âm,
vần đã học).
Tập đọc - Học thuộc lòng:
Lớp 1: ( 7 tuần cuối) và đầu lớp 2: Mục đích ôn luyện tổng hợp, củng cố
âm, vần, thanh đã học, giúp học sinh đọc trơn nhanh các tiếng - từ - câu - đoạn –
bài ngắn có nội dung khá trọn vẹn.
Lớp 3: Luyện đọc và tìm hiểu bài (phục vụ yêu cầu đọc, hiểu) ; rèn kỹ năng
đọc thầm và đọc thành tiếng ( rõ ràng, mạch lạc, đạt tốc độ đọc theo quy định).
Lớp 4, 5: Luyện đọc- hiểu và cảm thụ bài văn (thơ) ; rèn đọc lưu loát, diễn
cảm.
Các giờ tập đọc ( hoặc tập đọc có yêu cầu học thuộc lòng) có kết hợp dạy
từ ngữ, ngữ pháp, bước đầu tìm hiểu giá trị nội dung nghệ thuật bài văn nhằm
nâng cao trình độ đọc và cảm thụ văn học cho học sinh.
Chính tả:
- Kết hợp chặt chẽ với rèn cách phát âm, hiểu nghĩa từ nhằm khắc phục lỗi
chính tả ở các vùng phương ngữ.

6


- Chú ý đến yêu cầu cung cấp tri thức (quy tắc chính tả, quy định về cách
trình bày văn bản…) đồng thời chú trọng yêu cầu luyện tập thực hành ( viết
chính tả, làm bài tập sửa lỗi viết chưa đúng).
Tập viết:
- Rèn kỹ năng viết chữ là chủ yếu. Phần lớn thời gian dành cho học sinh
tập viết (không giảng giải nhiều về lý thuyết).
- Giáo viên phải là gương sáng, mẫu mực về chữ viết, cách trình bày và
luôn chú ý rèn nề nếp “Vở sạch chữ đẹp” cho học sinh.
Từ ngữ: (Đối với các lớp Tiểu học, từ ngữ, ngữ pháp học chung, chương trình

mới gọi là “Luyện từ và câu”.
Đặc biệt coi trọng phương pháp thực hành luyện tập, kích thích học sinh
suy nghĩ, mở rộng vốn từ, tập sử dụng từ ngữ trong hoạt động nói, viết.
Vận dụng linh hoạt các phương pháp: Vấn đáp, gợi mở ( dẫn dắt học sinh
tìm tòi, phát hiện, so sánh, liên tưởng… nhằm mở rộng vốn từ và dùng từ có hiệu
quả) ; sử dụng trực quan (vật thật, tranh ảnh – mô hình, cử chỉ hay động tác, lời
nói…) ; tổ chức trò chơi học tập (tìm từ, điền từ, lựa chọn từ…).
Riêng lớp 5 cần khắc sâu những tri thức sơ giản về từ ngữ nhằm phục vụ
cho yêu cầu hệ thống hoá và thực hành từ ngữ tốt.
Ngữ pháp:
Dạy theo cách quy nạp là chủ yếu ( từ những hiện tượng ngữ pháp, từ
những mẫu câu, tìm hiểu đến nắm vững tri thức ngữ pháp cơ bản).
Quan tâm đến việc hướng dẫn học sinh thực hành luyện tập, ứng dụng
trong nói, viết sao cho đúng ngữ pháp tiếng Việt.
Tập làm văn:
Rèn học sinh về kiến thức, kỹ năng, tư tưởng, tình cảm, phương pháp suy
nghĩ và diễn đạt…
Hình thành nền nếp, thói quen tốt cho việc viết bài văn ( quan sát, nhớ lại,
tưởng tượng, sắp xếp ý, trình bày bài nói, bài viết mạch lạc…).
Rèn các kỹ năng viết văn bản: lập dàn ý, liên kết các ý trong đoạn văn và
các đoạn trong bài văn.
Kể chuyện:
Giáo viên nắm vững truyện, kể hấp dẫn, gây hứng thú cho học sinh.
Tổ chức tốt các hình thức luyện tập gây hứng thú cho học sinh (phân vai,
dựng lại chuyện, tập đóng hoạt cảnh…). Tạo mọi cơ hội cho học sinh kể chuyện
trên lớp, trong nhóm, tổ hoặc theo từng cặp.
Các bước tiến hành tổ chức thao giảng ( dạy mẫu) phục vụ đổi mới
phương pháp dạy học môn Tiếng Việt:
Bước 1: Chuẩn bị, định hướng giờ dạy
- Tác động nhận thức.

- Chọn người dạy, lớp dạy.
- Lập kế hoạch chỉ đạo.
7


- Thống nhất trong tập thể sư phạm.
Bước 2: Chỉ đạo thí điểm ( chọn 1 đến 2 giáo viên)
- Thiết kế giáo án mẫu.
- Dạy thí điểm.
- Sơ kết, rút ra bài học bước đầu.
Bước 3: Chỉ đạo mở rộng đại trà
Từ kinh nghiệm của những bài dạy mẫu, lãnh đạo trường chỉ đạo dạy
thực hành (đổi mới phương pháp) ở diện rộng.
Bước 4: Tổng kết đánh giá
- Chỉ ra được những việc làm tốt và những tồn tại trong giảng dạy cũng
như trong quản lý, chỉ đạo.
- Trao đổi kinh nghiệm trong và ngoài trường.
- Rút ra bài học để tiếp tục triển khai có hiệu quả hơn trong năm học tiếp
theo.
4/ Ban giám hiệu chỉ đạo ôn tập và kèm cặp học sinh yếu:
Ngay từ đầu năm học, qua công tác bàn giao lớp, Ban giám hiệu nắm số
lượng học yếu; tổ chức hội thảo trong hội đồng sư phạm bàn biện pháp giảm
thiểu học sinh lưu ban đồng thời lên kế hoạch chỉ đạo giáo viên chủ nhiệm, giáo
viên bộ môn về công tác dạy hoà nhập,kèm cặp, phụ đạo học sinh yếu, cụ thể :
Giáo viên phải tập trung nghiên cứu nắm vững nội dung yêu cầu chương
trình, sách giáo khoa, mục tiêu, phương pháp dạy học từng bộ môn của từng khối
lớp mà mình đang dạy.
Theo dõi nắm bắt tình hình cụ thể mức độ tiếp thu kiến thức của các đối
tượng học sinh, chú trọng những em yếu kém, tiếp thu bài chậm để lựa chọn
phương pháp tổ chức cho phù hợp.

Giáo dục nhận thức cho học sinh sự cần thiết phải học tập, động viên
khích lệ tinh thần học tập, xây dựng động cơ học tập đúng đắn cho học sinh, coi
trọng việc động viên, khuyến khích học sinh tiến bộ.
Sử dụng đồ dùng dạy học thường xuyên và có hiệu quả để giúp học sinh
dễ dàng tiếp thu kiến thức.
Thực hiện đổi mới phương pháp dạy học một cách có hệ thống để phát
huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của các em trong học tập.
Gần gũi, quan tâm trao đổi, tìm hiểu hoàn cảnh gia đình, điều kiện học
tập, nguyên nhân học yếu, phối hợp với cha mẹ học sinh để giúp đỡ kèm cặp các
em.
Xây dựng mô hình học tập đôi bạn cùng tiến, em học khá, giỏi kèm cặp
những em học yếu hơn. Thứ bảy hàng tuần, giáo viên tập trung những em yếu để
ôn tập, hệ thống lại kiến thức, làm bài tập thực hành.
Phối hợp với các đoàn thể trong nhà trường nhất là đội thiếu niên tiền
phong Hồ Chí Minh tổ chức các sân chơi bổ ích, phù hợp với từng đối tượng học
sinh để các em cùng tham gia.
8


5/ Ban giám hiệu chỉ đạo phong trào thao giảng, dự giờ:
Đầu năm học, nhà trường lên kế hoạch thao giảng, dự giờ cho giáo viên và
từng khối lớp. Việc thực hiện kế hoạch thao giảng, dự giờ hàng tháng đối với
từng tổ khối dựa theo kế hoạch chung của toàn trường. Các tổ viên đăng ký thao
giảng xoay vòng trong tổ, giáo viên nào dạy vững hơn thì thao giảng trước. Mỗi
tháng thao giảng toàn trường từ một đến hai lần, yêu cầu tất cả giáo viên đều
tham gia và đóng góp ý kiến xây dựng thống nhất chung phương pháp dạy hay
nhất phù hợp với đặc trưng từng môn học. Nhắc nhở giáo viên tự giác dự giờ
thăm lớp đồng nghiệp để học hỏi, nâng cao tay nghề.
Ban giám hiệu cũng lên kế hoạch dự giờ định kỳ và dự giờ đột xuất để
kiểm tra, đánh giá chất lượng giảng dạy của từng giáo viên, từ đó tuyên dương

và đều chỉnh kịp thời những mặt mạnh và những mặt tồn tại, hạn chế của từng
giáo viên.
6/ Ban giám hiệu bồi dưỡng mũi nhọn giáo viên dạy giỏi các cấp:
Muốn đẩy mạnh phong trào dạy tốt, điều quan trọng là phải xây được mũi
nhọn về giáo viên. Muốn có giáo viên giỏi, Ban giám hiệu khuyến khích, động
viên những giáo viên có năng lực về chuyên môn nghiệp vụ, giáo viên trẻ đăng
ký thi giáo viên dạy giỏi các cấp và có kế hoạch bồi dưỡng để họ có hướng phấn
đấu đi lên.
Muốn có trò giỏi, trước hết phải có thầy giỏi. Thầy giỏi ở đây không phải
chỉ giỏi về chuyên môn mà trước hết phải là người có tâm huyết với nghề
nghiệp, có trách nhiệm cao với học sinh và mẫu mực về đạo đức, tác phong, lối
sống. Có như vậy mới được học sinh kính trọng, mới là: “ Tấm gương sáng để
học sinh noi theo”.
Vào đầu năm học, giáo viên đăng ký các danh hiệu thi đua, Ban giám hiệu
nắm bắt và có kế hoạch giúp đỡ các đồng chí đăng ký giáo viên dạy giỏi các cấp
về chuyên môn như: Dự giờ trao đổi đóng góp ý kiến ; tổ chức tiết dạy để đồng
nghiệp góp ý ; thao giảng cụm trường; lên chuyên đề…Thông thường giáo viên
ngại đăng ký thi giáo viên dạy giỏi nhưng Ban giám hiệu đã động viên, giúp đỡ
bằng nhiều cách như trao đổi bài dạy, cho giáo viên dạy thử, rút kinh nghiệm
thật tỉ mỉ và cùng đồng nghiệp trao đổi chân tình để giáo viên có bài giảng sâu
sắc.
Kết quả:
Với sự nổ lực hết mình của các đồng chí giáo viên dự thi, được sự giúp đỡ
tận tình của Ban giám hiệu nhà trường, các đồng chí dự thi giáo viên dạy giỏi các
cấp của trường tiểu học Hàm Mỹ 1 đã đạt được nhiều thành tích.
Năm học 2006 – 2007 trường có 4 giáo viên đạt giáo viên dạy giỏi cấp
Huyện, 1 giáo viên đạt giáo viên dạy giỏi cấp Tỉnh. Đó là các cô giáo:
Cô giáo Đặng Thị Thuý đạt giáo viên dạy giỏi cấp Tỉnh.
Cô giáo Trần Thị Linh đạt giáo viên dạy giỏi cấp Huyện.
Cô giáo Trần Thị Hoa đạt giáo viên dạy giỏi cấp Huyện.

9


Cô giáo Vũ Thị Nguyệt đạt giáo viên dạy giỏi cấp Huyện.
Cô giáo Đàm Thị Phượng đạt giáo viên dạy giỏi cấp Huyện.
Năm học 2007 – 2008 trường có 2 giáo viên đạt giáo viên dạy giỏi cấp
Tỉnh. Đó là các cô giáo:
Cô giáo Trần Thị Linh đạt giáo viên dạy giói cấp Tỉnh.
Cô giáo Trần Thị Thuý đạt giáo viên dạy giỏi cấp Tỉnh.
Năm học 2008 – 2009 trường có 1 giáo viên dạy giỏi cấp Tỉnh và 2 giáo
viên đạt giáo viên dạy giỏi cấp Huyện.
Cô giáo Trần Thị Linh đạt giáo viên dạy giỏi cấp Tỉnh.
Cô giáo Đặng Thị Thuý đạt giáo viên dạy giỏi cấp Huyện.
Thầy giáo Nguyễn Hữu Thống đạt giáo viên dạy giỏi cấp Huyện.
III. Kết quả đạt được.
Công tác chỉ đạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên để nâng cao chất lượng
giảng dạy là một công việc rất phức tạp, yêu cầu người cán bộ quản lý phải có
biện pháp quản lý và tổ chức phù hợp. Để nhà trường ngày càng có nhiều giáo
viên dạy giỏi, học sinh giỏi, giảm thiểu học sinh lưu ban là cả quá trình chỉ đạo
và phấn đấu của Ban giám hiệu nhà trường, là sự cố gắng nổ lực liên tục của tập
thể giáo viên trong trường. Qua một số biện pháp về quản lý nhà nước đối với
chất lượng giảng dạy của giáo viên trong trường tiểu học Hàm Mỹ 1 đã nêu ở
trên , trường tiểu học Hàm Mỹ 1 đã từng bước đưa chất lượng giảng dạy của giáo
viên và kết quả học tập của học sinh ngày một nâng cao.
Trong năm học 2006 – 2007 và học kỳ 1 năm học 2007 – 2008 vừa qua
trường tiểu học Hàm Mỹ 1 đã đạt được một số thành tích sau:
Năm học 2007 – 2008:
* Kết quả xếp loại hạnh kiểm và học tập :
- Hạnh kiểm : 412/412 học thực thực hiện đầy đủ 4 nhiệm vụ
Tỉ lệ 100%.

- Học tập: Học sinh lên thẳng: 392/412 Tỉ lệ 95,1%
Học sinh thi lại: 20/412 Tỉ lệ 4,9%
* Thành tích của giáo viên và học sinh:
- Giáo viên dạy giỏi:
Cấp trường : 15 /17 Tỉ lệ 88,2%
Cấp tỉnh:
2/17
Tỉ lệ 11,8%
- Học sinh giỏi cấp trường: 185/412 Tỉ lệ 44.9%
Khối 1: 52/88 Tỉ lệ 59.0%
Khối 2: 18/66 Tỉ lệ 27.3%
Khối 3: 23/68 Tỉ lệ 33.8%
Khối 4: 45/93 Tỉ lệ 48.4%
Khối 5: 47/97 Tỉ lệ 48.5%
Có 8 em đạt giải GVS-VCĐ cấp Huyện.
* Các danh hiệu của trường đã đạt:
10


- Chiến sĩ thi đua cấp Tỉnh : 1
- Chiến sĩ thi đua cấp cơ sở : 3
- Lao động tiên tiến :
19
- Liên đội mạnh cấp Huyện.
- Công đoàn cơ sở vững mạnh, xuất sắc.
- Trường tiên tiến xuất sắc.
Năm học 2008 – 2009:
* Kết quả xếp loại hạnh kiểm và học tập cuối năm:
- Hạnh kiểm: 392/392 học sinh thực hiện đầy đủ
4 nhiệm vụ . Tỉ lệ 100%.

- Học tập : Học sinh lên lớp thẳng: 372/392 Tỉ lệ 94.9%
Học sinh thi lại: 20/392 (8 em KT) Tỉ lệ 5.1%
Môn
T. Việt

Giỏi
Khá
Trung bình
SL
TL
SL
TL
SL
TL
205 52.3% 120 30.6% 56 14.3%
175 44.6% 160 40.8% 37 9.4%

Yếu
SL
11
20

TL
2.8%
5.1%

* Thành tích của giáo viên và học sinh:
- Giáo viên dạy giỏi:
Cấp trường : 14 /17 Tỉ lệ 82.4%
Cấp huyện:

2/17 Tỉ lệ 11.8%
Cấp tỉnh:
1/17
Tỉ lệ 5.9%
- Học sinh giỏi, khá : 194/392 Tỉ lệ: 49.5%
Khối 1: 34/72 Tỉ lệ 47.2%
Khối 2: 40/92 Tỉ lệ 43.5%
Khối 3: 23/65 Tỉ lệ 35.4%
Khối 4: 38/70 Tỉ lệ 54.3%
Khối 5: 59/93 Tỉ lệ 63.4%
Có 8 em đạt giải GVS-VCĐ cấp Huyện.
* Các danh hiệu trường đã đăng ký:
- Chiến sĩ thi đua cấp Tỉnh: 3
- Chiến sĩ thi dua cấp cơ sở: 2
- Lao động tiên tiến:
18
- Liên đội mạnh cấp Huyện.
- Công đoàn xuất sắc vững mạnh.
- Trường tiên tiến xuất sắc.
IV. Hiệu quả và khả năng phổ biến.
Với sự quan tâm chỉ đạo sâu sát của Ngành mà trực tiếp là phòng Giáo
dục và Đào tạo Hàm Thuận Nam, với sự nhiệt tình cố gắng trong công tác quản
lý và sự nhiệt tình giảng dạy, không ngừng cố gắng vươn lên của tập thể sư
11


phạm trường tiểu học Hàm Mỹ 1 đã đem lại hiệu quả nhất định. Trường tiểu học
Hàm Mỹ 1 năm năm liền được công nhận là Trường Tiên tiến xuất sắc, tập thể
có nếp sống văn minh được Uỷ ban nhân Tỉnh tặng giấy khen. Cuối năm 100%
giáo viên được xếp loại giỏi về công tác giảng dạy.

Với sự giám sát theo dõi, kiểm tra chỉ đạo công tác “ Giảm thiểu học
sinh lưu ban” của Ban Giám Hiệu và sự kèm cặp, giảng dạy nhiệt tình của giáo
viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn, đến nay số lượng học sinh yếu trong diện này
đã có nhiều tiến bộ rõ rệt ( 20/57 Tỉ lệ 35.1%).
Công tác kiểm tra của Ban giám hiệu với nhiệm vụ tư vấn và thúc đẩy có
vai trò thiết thực đối với giáo viên, giúp họ khắc phục những mặt hạn chế và tìm
ra những giải pháp tối ưu để thiết kế bài giảng đạt hiệu quả cao. Giúp giáo viên
đã phát huy được tính năng động, sáng tạo,khả năng tự học, tự đánh giá của học
sinh ; Xây dựng được niềm tin, rèn luyện đạo đức theo truyền thống Việt Nam.
Hàm Mỹ, ngày 10 tháng 5 năm 2009

12



×