Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Lập luận trong hội thoại của nhân vật (qua tư liệu văn xuôi việt nam, giai đoạn 1930 1945) (TT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (439.18 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

CHU THỊ THÙY PHƢƠNG

LẬP LUẬN TRONG HỘI THOẠI CỦA NHÂN VẬT
(QUA TƢ LIỆU VĂN XUÔI VIỆT NAM,
GIAI ĐOẠN 1930 - 1945)

Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 62.22.02.40

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC

HÀ NỘI - 2016


Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Phạm Văn Tình

Phản biện 1: GS.TS. Nguyễn Thiện Giáp
Phản biện 2: GS. TS. Lê Quang Thiêm
Phản biện 3:PGS.TS. Hà Quang Năng

Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Học viện, họp tại
Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, 477
Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội.


Vào hồi .... giờ ... ngày .... tháng ..... năm 201...
Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam
- Thư viện Học viện Khoa học xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Lập luận là một thao tác của tư duy được biểu hiện qua hành động ngôn
ngữ. Nói cách khác, lập luận là hoạt động dùng ngôn ngữ tác động vào nhận thức
và hành vi của người tiếp nhận – một sự lựa chọn có tính đến những can thiệp
mạnh mẽ của tư duy để điều chỉnh tư duy.
1.2. Văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945 có sự chuyển biến mạnh mẽ đến mọi
phương diện từ phản ánh đời sống đến việc sử dụng các thủ pháp văn học. Nhà văn
thông qua nhân vật thể hiện các quan điểm của mình đồng thời phản ánh chân thực về
con người xã hội trong giai đoạn đó. Từ nhận thức, tư duy đến việc hiện thực trong sử
dụng ngôn ngữ, nhà văn đã dựng lên cả một xã hội đầy biến động mà ở đó có sự phân
chia thành các giai cấp/ các nhóm người mang những đặc điểm riêng biệt. Nói cách
khác, trong tác phẩm văn học, tính cách, cá tính nhân vật được thể hiện qua hội thoại.
Thông qua các diễn ngôn hội thoại, nhân vật thể hiện lối suy nghĩ, cách nói, cách lập
luận. Hay ở bất cứ tác phẩm nào nếu đã có nhân vật thì có lập luận. Đồng thời, việc
xem xét nhân vật từ phương diện lập luận sẽ góp phần làm nổi bật tính chất điển hình
của nhân vật, làm rõ phong cách nhà văn và góp phần hiện thực hóa hoạt động hành
chức của ngôn ngữ trong giao tiếp.
1.3. Hiện nay trong nhà trường, việc rèn luyện kỹ năng sử dụng ngôn ngữ, kỹ
năng lập luận được coi là một nhiệm vụ quan trọng trong việc rèn luyện đối với học
sinh, sinh viên. Trong tình hình đó, việc xem xét và làm rõ lập luận của từng nhóm
đối tượng trên cơ sở các cứ liệu là tác phẩm văn học Việt Nam sẽ góp phần làm rõ
hơn lí thuyết lập luận để từ đó giúp cho học sinh sinh viên rèn luyện kỹ năng tư duy
và sử dụng ngôn ngữ .

Vì những lí do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Lập luận trong hội thoại của
nhân vật (qua tư liệu văn xuôi Việt Nam, giai đoạn 1930-1945)”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu lập luận của nhân vật trong hội thoại (qua tư liệu văn xuôi
Việt Nam, giai đoạn 1930-1945), luận án nhằm chỉ ra đặc điểm cấu trúc hình
thức, phạm vi sử dụng của lập luận của từng nhóm nhân vật trong hội thoại

1


dưới cách nhìn của ngữ dụng học và phân tích diễn ngôn phê phán. Từ đó, luận
án làm rõ đặc điểm nổi bật của từng nhóm nhân vật trong việc sử dụng lập luận
ở các cuộc hội thoại.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
1/ Tổng quan được tình hình nghiên cứu về lập luận trên thế giới, ở Việt
Nam để thấy được vị trí và vai trò của lập luận trong việc nghiên cứu ngôn ngữ nói
chung và ứng dụng trong nghiên cứu các tác phẩm văn học nói riêng. Từ đó, tìm
hiểu những vấn đề lí thuyết liên quan đến đối tượng đề tài quan tâm như: lập luận
trong ngữ dụng học; lập luận trong phân tích diễn ngôn; lập luận trong hội thoại ở
văn bản nghệ thuật.
2/ Khảo sát, thống kê, phân thoại các cuộc thoại chứa lập luận của các
nhóm nhân vật (quan lại, địa chủ, nông dân, trí thức) trong các văn bản nghệ thuật
(văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-1945).
3/ Phân tích, mô hình hóa cấu trúc lập luận của các nhóm nhân vật khảo
sát theo lí thuyết lập luận.
4/ Phân tích và chỉ ra các lẽ thường đặc trưng trong sử dụng; các đặc điểm
từ ngữ được sử dụng trong các lập luận của từng nhóm nhân vật. Từ đó, luận án
góp phần vào việc làm rõ vai trò của lập luận khi tham gia vào quá trình điển hình
hóa nhân vật trong tác phẩm và làm nổi bật phong cách nhà văn.

3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Lập luận được coi là một hoạt động ngôn từ, có mặt ở mọi nơi, mọi lúc và
mọi trường hợp, đa dạng, phong phú của cuộc sống ngôn ngữ. Đối tượng nghiên
cứu của luận án là lập luận trong hội thoại của nhân vật.
Phạm vi nghiên cứu: lập luận của nhân vật (quan lại, địa chủ, nông dân và
trí thức) trong hội thoại qua tư liệu văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930-1945.
Việc nghiên cứu lập luận trong hội thoại căn cứ vào tác phẩm văn học tất
nhiên không đảm bảo tuyệt đối tính khách quan, nguyên bản của dạng lời nói trong
giao tiếp đời thường. Tuy nhiên, ở mức độ nhất định, các nhà văn vẫn tôn trọng và
phản ánh đúng thực tế giao tiếp. Do vậy, lập luận trong hội thoại nhân vật qua tư

2


liệu văn xuôi Việt Nam ở mỗi giai đoạn vẫn đảm bảo độ tin cậy để tiến hành công
việc nghiên cứu.
3.2. Tư liệu khảo sát
Tư liệu các tác phẩm khảo sát gồm:
1.Tuyển tập Nguyễn Công Hoan (2006) (tập 1), NXB Văn học, Hà Nội.
2.Tuyển tập Nguyễn Công Hoan (2006) (tập 2), NXB Văn học, Hà Nội.
3. Tuyển tập Vũ Trọng Phụng (2011), (tập 1), NXB Văn học, Hà Nội.
4.Tuyển tập Vũ Trọng Phụng (2011), (tập 2), NXB Văn học, Hà Nội.
5. Văn học Việt Nam hiện đại (2010), Tuyển tập Nam Cao, NXB Thời đại, Hà
Nội.
6. Văn học Việt Nam hiện đại (2012), Ngô Tất Tố tuyển tập, NXB Văn học, Hà
Nội.
7. Ngô Tất Tố (2012), Lều chõng, NXB Văn học, Hà Nội.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
1/ Phương pháp phân tích diễn ngôn

2/ Phương pháp miêu tả
3/ Phương pháp liên ngành
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án cung cấp một số cứ liệu về đặc điểm của các phương tiện ngôn
ngữ trong giao tiếp nói chung, trong lập luận nói riêng. Kết quả nghiên cứu của
luận án có thể góp phần phát triển nghệ thuật hùng biện.
- Kết quả nghiên cứu có thể được ứng dụng vào việc xây dựng, tăng cường
kĩ năng giao tiếp hay phục vụ cho việc nghiên cứu giảng dạy Ngữ dụng học, Ngôn
ngữ học, Phân tích diễn ngôn..
- Kết quả của luận án có thể được dùng để tham khảo cho giáo viên, học
sinh trong việc phân tích nhân vật văn học nói riêng, phong cách nhà văn nói
chung. Đồng thời, giúp cho việc rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ, khả năng tư
duy và lập luận bằng ngôn ngữ của học sinh trong nhà trường.
6. Ý nghĩa lí luận và ý nghĩa thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lí luận

3


Nghiên cứu lập luận là một nội dung quan trọng của Ngữ dụng học. Luận án
góp phần làm rõ lí luận về lập luận của ngôn ngữ nói chung và lập luận của nhân vật
trong hội thoại qua các tác phẩm văn học nói riêng. Kết quả của luận án đóng góp
thêm ý kiến cho việc nghiên cứu ngôn ngữ ở phương diện hành chức thông qua thao
tác tạo lập lập luận và chuỗi lập luận.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án hướng đến các lập luận của nhân vật trong hoạt động giao tiếp của
ngôn ngữ trên văn bản. Đó cũng là phương diện thể hiện việc hành chức của ngôn ngữ.
Việc xem xét lập luận của các nhóm nhân vật (địa chủ, phong kiến, nông dân và trí
thức) sẽ góp phần làm rõ đặc điểm sử dụng ngôn ngữ của nhân vật; làm sáng tỏ nhân
vật và từ đó khẳng định tài năng của nhà văn. Đây sẽ là cơ sở cho việc phân tích nhân

vật văn học nói riêng và làm sáng tỏ phong cách nhà văn nói chung trong việc dạy và
học văn ở nhà trường.
Kết quả của luận án là minh chứng giúp cho việc rèn luyện kỹ năng sử
dụng ngôn ngữ, kỹ năng tư duy và khả năng lập luận của học sinh trong nhà trường.
Đồng thời, giúp cho việc mở rộng nội dung giảng dạy các tác phẩm văn học một
cách thiết thực, hiệu quả hơn.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, luận án được triển khai thành 3 chương:
Chương 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu và cơ sở lí luận
Chương 2: Một số kiểu cấu trúc lập luận của nhân vật trong hội thoại (qua tư
liệu văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930- 1945)
Chương 3: Lập luận của nhân vật trong hội thoại xét từ phương diện ngữ
cảnh, vai giao tiếp và các lẽ thường (qua tư liệu văn xuôi Việt Nam giai đoạn 19301945)
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Nghiên cứu lập luận
1.1.1.1. Trên thế giới

4


Trong cuộc sống, con người luôn dùng đến lập luận (argumentation) để
chứng minh, giải thích, hay bác bỏ một ý kiến nào đó. Lập luận có tầm quan trọng
đặc biệt, đó chính là cơ sở để giải quyết mọi vấn đề. Thuở ban đầu, lập luận được
coi là một lĩnh vực thuộc phạm vi của thuật hùng biện - một “nghệ thuật nói năng”,
được trình bày trong Tu từ học (Rhetoric) của Aristotle. Sau đó, từ thế kỷ thứ V
TCN, nó đã được chú ý nghiên cứu trong logic học. Ban đầu là chuyện tranh cãi
trong những vụ kiện cáo trước tòa. Có thể văn bản đầu tiên đề cập tới lập luận
(phương thức lập luận) là tài liệu về “phương pháp lí lẽ ” do Corax và học trò của

ông ta là Tisias nói trước tòa. Cũng ở thế kỷ này, một trong những công trình
nghiên cứu đầu tiên về lập luận cũng đã xuất hiện trong tác phẩm “thuật tranh
biện” của Protago - một học giả ngụy biện nổi tiếng của Hy Lạp.
Nửa sau thế kỷ XX, lí thuyết lập luận được quan tâm trở lại. Mở đầu là
những công trình của Perelman C., Olbrechts – Tyteca (1969), “Traité de
l’argumentation – La Nouvelle Rhétorique” và của Toulmin S. (1958/2003), “The
use of argument”. Sau đó là “De la logique à I’argumentation” (Từ logic tới sự lập
luận) của Grize. Trong mấy chục năm gần đây, lĩnh vực nghiên cứu về lập luận đã
có sự phát triển và chuyển biến mạnh mẽ.
Trước hết đó là những công trình của hai tác giả Pháp Ducrot O. (1973)
“Les Echelles argumentatives” (Sự lập luận – trong ngôn ngữ) và Anscomber J.c
“Logique, structure, énonciation. Lectures sur le langage” (Logic, cấu trúc, sự phát
ngôn: Những bài giảng về hoạt động ngôn ngữ, Minuit, 1989) đã đưa ra những kiến
giải mới, căn bản và độc đáo về lí thuyết lập luận trong ngôn ngữ. Trong công
trình, các tác giả đã chú ý tới: 1/ Hiện tượng đa thanh khi phân biệt người nghe với
người tiếp nhận, người nói với chủ ngôn, 2/ Những kết tử và tác tử trong lập luận.
Hướng nghiên cứu này gặt hái được nhiều kết quả thú vị, bất ngờ và hiện nay đang
được nhiều người quan tâm.
Lập luận theo logic hình thức: Frans van Eemeren và Rob Grootendorts –
hai nhà ngôn ngữ học Hà Lan năm 1984 - lần đầu tiên đưa ra quan điểm ngữ dụng biện chứng. Hai công trình được nhìn nhận là dấu ấn trong giới nghiên cứu ngôn
ngữ. Các nhà nghiên cứu logic học quan tâm về lĩnh vực này là: “Argumentation,
Communication and fallacies: A pragma – dialectical perspective” (Lập luận,

5


thông tin và những suy luận sai lầm: một viễn cảnh ngữ dụng – biện chứng) (1992).
Sau đó, công trình được trình bày đầy đủ và hệ thống sau 12 năm trong “A
systematic theory of argumentation: The pragma – dialectical approach” (Một lí
thuyết hệ thống về lập luận: Cách tiếp cận ngữ dụng - biện chứng) (2004).

Lập luận theo logic phi hình thức: Các tác giả Robert J. Fogelin, Sinnott và
Armastrong W. trong công trình “Understanding arguments: An introduction to
informal logic” (Sự lập luận được hiểu như là logic phi hình thức) nhận định: một
trong những mục đích của lí thuyết lập luận là phải cho phép nghiên cứu tốt nhất
mọi cấu trúc trừu tượng. Từ đó, phát hiện những nguyên lý cơ bản giúp phân biệt
được những lập luận tốt và lập luận tồi. Mỗi một lập luận được coi như một cách
dùng ngôn ngữ - hoạt động ngôn từ, trong đó có hoạt động luận cứ.
1.1.1.2. Ở Việt Nam
Xét về tần suất xuất hiện của các công trình nghiên cứu có giá trị về lĩnh vực
này cần phải nhắc tới các tác giả: Nguyễn Đức Dân và Đỗ Hữu Châu; Diệp Quang
Ban; Nguyễn Chí Hòa; Nguyễn Hòa… Từ việc đưa ra cách hiểu về lập luận, các
tác giả lần lượt đưa ra những đánh giá, nhận định về các vấn đề liên quan như: quan
hệ lập luận, chỉ dẫn lập luận và lí lẽ trong lập luận.
Một số đường hướng nghiên cứu về lập luận như: nghiên cứu lí thuyết về lập
luận trên cơ sở đi sâu nghiên cứu, quan hệ lập luận và chỉ dẫn lập luận như các
nghiên cứu của Nguyễn Minh Lộc (1994); Kiều Tập (1996); Trần Thị Lan (1994);
Kiều Tuấn (2000); …và nghiên cứu lập luận từ phương diện phân tích diễn ngôn
trên văn bản và một số khía cạnh của xã hội như luận án của Hoàng Xuân Hoa
(1999; Lê Tô Thúy Quỳnh (2000); Nguyễn Thị Hường (2005); Đây được xem là
những công trình có tính chất xương sống để giúp cho những ai quan tâm tiếp tục
tìm hiểu ở nhiều phương diện và nội dung khác nhau.
1.1.2. Vấn đề nghiên cứu lập luận của nhân vật trong các văn bản nghệ
thuật
Một số tác giả với một số công trình nghiên cứu các văn bản nghệ thuật từ
phương diện lập luận như: Lê Huy Bắc (2005); Lê Thị Kim Cúc (2007); Trần
Trọng Nghĩa (2011); Nguyễn Thị Thu Trang, …Tiếp cận lập luận từ một số

6



phương diện của đời sống xã hội như: tòa án, văn hóa… như: Lê Tô Thúy Quỳnh
(2000); Hồ Bạch Thảo (2006); Trần Thị Linh (2011) …
Có thể thấy, việc tìm hiểu lập luận từ phương diện lí thuyết đến phương
diện ứng dụng thực tiễn đã dành được nhiều thành tựu to lớn. Tuy nhiên với việc
khẳng định vị thế của mình trong hệ thống lí thuyết ngôn ngữ, lập luận vẫn là một
đối tượng mới mẻ, là mảnh đất màu mỡ cho những ai quan tâm.
1.2. Cơ sở lí thuyết
1.2.1. Một số vấn đề về lí thuyết hội thoại
Khái niệm hội thoại: Hội thoại là hình thức giao tiếp thường xuyên và phổ
biến của ngôn ngữ, nó cũng là hình thức cơ sở của mọi hoạt động ngôn ngữ khác.
Trong khuôn khổ của luận án chúng tôi chỉ trình bày những vấn đề lí
thuyết hội thoại là cơ sở trực tiếp cho quá trình nghiên cứu như: vận động hội
thoại; quy tắc hội thoại; cấu trúc hội thoại; nghĩa hàm ẩn và nghĩa tường minh.
1.2.2. Một số vấn đề về lập luận trong hội thoại
1.2.2.1. Lập luận và một số khái niệm liên quan
Khái niệm lập luận trong luận án là: Lập luận là đưa ra những lí lẽ nhằm dẫn
dắt người nghe đến một kết luận hay chấp nhận một kết luận nào đấy mà người nói
muốn đạt tới.
1.2.2.2. Các thành phần trong cấu trúc lập luận
Trong một lập luận có ba bộ phận: luận cứ, kết luận (hay luận đề) và quan hệ
lập luận.
1.2.2.3. Chỉ dẫn lập luận
Chỉ dẫn lập luận là các dấu hiệu hình thức nhờ chúng người nghe nhận ra
được hướng lập luận và các đặc tính lập luận của các luận cứ trong một quan hệ
lập luận. Các chỉ dẫn lập luận gồm hai loại lớn: Các tác tử lập luận, các kết tử lập
luận và các dấu hiệu giá trị học.
1.2.2.4. Lí lẽ trong lập luận
Khái niệm: Lí lẽ được hiểu là lí lẽ chung, là hệ thống giá trị được xã hội
chấp nhận theo kinh nghiệm
1.2.3. Lập luận của nhân vật trong hội thoại

1.2.3.1. Hội thoại trong văn bản nghệ thuật

7


Hội thoại trong văn bản nghệ thuật là vấn đề quan trọng thể hiện sự tương
tác giữa các chức năng cơ bản của lời nói tự nhiên như chức năng giao tiếp, chức
năng nhận thức với chức năng thẩm mĩ của ngôn ngữ nghệ thuật. Có thể khẳng
định: với tổ chức lập luận của nhân vật trong hội thoại, tác giả đã góp phần vào quá
trình xây dựng hình tượng nghệ thuật (nhân vật văn học).
1.2.3.2. Các tiêu chí xác định lập luận của nhân vật trong hội thoại ở văn xuôi
Việt Nam giai đoạn 1930-1945
1.2.4. Một số lí thuyết về phân tích diễn ngôn phê phán được áp dụng phân
tích lập luận của nhân vật trong hội thoại
Các tác giả có nhiều đóng góp cho sự ra đời của CDA là Van Dijk,
Fairclough, Wodak, và Chouliaraki. Chúng tôi nhận thấy các tác giả hầu hết đều
hướng đến một điểm lớn đó là nghiên cứu có phê phán; phân tích diễn ngôn có thái
độ; nhìn nhận vai trò của diễn ngôn trong việc tác lập và duy trì quyền lực.
Ngữ cảnh trong đường hướng phân tích diễn ngôn phê phán là một nội dung
rất được coi trọng. Có nhiều kiểu loại ngữ cảnh, các tác giả Nguyễn Thiện Giáp, Đỗ
Hữu Châu, Nguyễn Hòa… thống nhất quy về hai nhóm lớn: ngữ cảnh tình huống và
ngữ cảnh văn hóa.
1.3 Tiểu kết chƣơng 1
Một số nội dung chính về lí thuyết lập luận đề tài quán triệt khi nghiên cứu
về đề tài như: 1/ Dựa trên cơ sở lí thuyết tìm ra những điểm chung của những nhóm
lập luận và mô hình hóa thành các mô hình lập luận của từng hệ thống nhân vật. Từ
đó, luận án đưa ra những đặc điểm chung về cấu trúc của lập luận ở từng hệ thống
nhân vật; 2/ Dựa trên lí thuyết phân tích diễn ngôn phê phán để thấy được ngữ cảnh
của lập luận. Từ đó luận án đánh giá toàn diện vai trò, ý nghĩa của tổ chức lập luận
của từng hệ thống nhân vật; 3/ Trên cơ sở các phân tích trên, luận án hướng tới việc

xác lập các đặc điểm nổi bật trong việc tổ chức và hoạt động của lập luận trong thể
hiện hình tượng nhân vật, thể hiện phong cách nhà văn và góp phần vào việc rèn
luyện kỹ năng lập luận cho người đọc, người học.

8


Chƣơng 2
MỘT SỐ KIỂU CẤU TRÚC LẬP LUẬN
CỦA NHÂN VẬT TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM
(qua tƣ liệu văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 )
2.0. Đặt vấn đề
2.1. Đặc điểm cấu trúc lập luận của nhân vật trong hội thoại (qua tƣ liệu
văn xuôi Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945)
2.1.1. Cơ sở khảo sát
2.1.1.1. Độ dài văn bản của lập luận
Dù được cấu tạo với độ dài văn bản khác nhau nhưng mỗi lập luận đều hướng
đến tính thuyết phục, định hướng, dẫn dắt… người đối diện nhằm đạt hiệu quả giao
tiếp.
2.1.1.2. Tính mạch lạc của lập luận
Trong tổ chức lập luận có sự liên kết của nhiều chủ đề. Sự có mặt của
nhiều chủ đề trong hội thoại và trong lập luận phần nào làm cho lập luận trở nên
chặt chẽ, thuyết phục hơn.
2.1.1.3. Cách khảo sát tư liệu
2.1.2. Đặc điểm cấu trúc lập luận chung của nhân vật trong hội thoại
Một lập luận đầy đủ bao giờ cũng có hai thành phần là: luận cứ (p, q) và kết
luận (r). Mô hình đầy đủ của một lập luận như sau:
L = p,q - >
Trong đó: L: lập luận


r
p,q,

r: kết luận

luận cứ

->: chỉ quan hệ lập luận

Lập luận không đầy đủ là lập luận vắng một trong hai thành phần (luận cứ hoặc
kết luận).
2.1.2.1. Cấu trúc đầy đủ và cấu trúc không đầy đủ
a. Lập luận có cấu trúc đầy đủ
Dạng chuẩn
L = p, q

Dạng biến thể vị trí
r

L=r

p, q

b. Lâp luận có cấu trúc không đầy đủ
Dạng 1 (Vắng luận cứ) : L = Ø

-> r

9


L= p

r

q


Dạng 2 (vắng kết luận): L = p, q
Trong đó:

-> Ø

L: lập luận

p,q: luận cứ

Ø: rỗng

->: chỉ quan hệ lập luận

Nhận xét: Lập luận có cấu trúc đầy đủ xuất hiện trong các cuộc giao tiếp
giữa nhân vật thuộc tầng lớp thống trị và nhân vật thuộc tầng lớp bị trị trong các
hoàn cảnh như: trao đổi mua bán, thuyết phục vay tiền, dụ dỗ làm việc xấu… Đối
với nhân vật cùng tầng lớp thống trị, lập luận có cấu trúc đầy đủ được nhân vật sử
dụng trong những hoàn cảnh: tâm sự chuyện quan trường, chuyện gia đình, chạy
án… Lập luận có cấu trúc không đầy đủ xuất hiện trong các cuộc giao tiếp mang
tính đời thường, ít có tính tranh biện.
2.1.2.2. Cấu trúc đơn và cấu trúc phức
Lập luận có cấu trúc đơn là lập luận có cấu tạo chỉ gồm một kết luận. Lập
luận có cấu trúc phức là các lập luận mà trong đó kết luận là một tổ hợp đồng loại

nhằm diễn đạt một nội dung lập luận nào đó. Hoặc kết luận là các chuỗi kết luận
được suy ra trong lập luận. Điều này cho thấy sự phức tạp trong các vấn đề cần
thuyết phục hoặc trong suy nghĩ của nhân vật với từng hoàn cảnh giao tiếp.
2.1.3. Đặc điểm cấu trúc các luận cứ và kết luận của lập luận trong hội thoại
của nhân vật
2.1.3.1. Cấu trúc của luận cứ
a. Cấu trúc các luận cứ của nhân vật thuộc tầng lớp bị trị
Nhận xét: Trong giao tiếp ngoài xã hội, đặc biệt là đối thoại với nhân vật
địa chủ thì nhân vật nông dân sử dụng luận cứ có cấu trúc phức (gồm nhiều luận
cứ) ở phạm vi hẹp. Khi đối thoại với quan lại, nhân vật nông dân thường sử dụng
cấu trúc đơn.
- Nhân vật trí thức sử dụng các luận cứ có cấu trúc đơn và phức hài hòa, phù
hợp từng hoàn cảnh phản ánh trình độ hiểu biết, vị thế của nhân vật trí thức được
xã hội ghi nhận.
b. Cấu trúc các luận cứ của nhân vật thuộc tầng lớp thống trị
Nhận xét: Các luận cứ có cấu trúc đơn thường xuất hiện trong các lập
luận của nhân vật thống trị gắn với các hoàn cảnh như: trong giao tiếp gia đình và

10


thuyết phục nhân vật nông dân vay mượn tiền… Các luận cứ có cấu trúc phức được
sử dụng khi giao tiếp trên công đường với nhân vật bị trị và nhân vật cùng tầng lớp.
2.1.3.2. Cấu trúc của kết luận
Nhận xét: Các cấu trúc đơn và phức của kết luận gần như có sự tương
đồng nhau về tần suất xuất hiện trong lập luận có chứa kết luận. Các kết luận có
cấu trúc đơn thường được nhân vật sử dụng trong giao tiếp gia đình, giao tiếp xã
hội (thuyết phục nhân vật thuộc tầng lớp bị trị…) Các cấu trúc phức xuất hiện
trong các cuộc trao đổi, buôn bán, thỏa thuận đối với nhân vật bị trị và nhân vật
cùng tầng lớp.

2.2. Tác tử và kết tử lập luận trong lập luận của nhân vật trong văn xuôi
Việt Nam thời kỳ 1930 -1945
Thông qua những yếu tố ngôn ngữ, các lập luận được đánh dấu. Những
yếu tố đó được gọi là các chỉ dẫn lập luận (các tác tử và kết tử lập luận). Các chỉ
dẫn lập luận là những yếu tố nhờ đó mà chúng ta biết được giá trị lập luận và quan
hệ lập luận của các luận cứ và kết luận.
2.2.1. Tác tử lập luận
Đóng vai trò là các yếu tố tình thái, khi có mặt trong một lập luận, tác tử
lập luận sẽ làm thay đổi giá trị của nội dung miêu tả trong lập luận và thay đổi giá
trị của lập luận đó.
2.2.1.1. Tác tử lập luận trong lập luận của nhân vật thuộc tầng lớp bị trị
Thứ nhất: Tác tử “chỉ”, “chỉ…thế kia”… làm thay đổi nội dung miêu tả
hướng nội dung miêu tả về phía “ít”, “duy nhất”, “hạn chế”.
Các tác tử “chỉ”, “chỉ… thế kia”, “chỉ vì”, “chỉ những”… trong lập luận
của nhân vật bị trị được dùng khá phổ biến. Tuy nhiên khi đối đáp với tầng lớp
thống trị, các tác tử này được dùng với tần số cao hơn.
Thứ hai: Các tác tử “đã”, “mới”, “đã… đâu mà”, “lại còn”… làm thay đổi
giá trị lập luận của cùng một nội dung miêu tả biến nó thành những luận cứ nghịch
hướng.
Nhóm tác tử này được dùng nhiều trong giao tiếp sinh hoạt giữa những đối
tượng trong nhóm (cùng là nông dân hoặc cùng là trí thức).

11


Thứ ba: Các tác tử “chính là”, “chính”… làm cho luận cứ có tính khẳng
định cao và hướng đến kết luận có tính khẳng định.
Các tác tử ở nhóm trên được nhân vật bị trị sử dụng trong những cuộc thoại là
đối tượng cùng cấp. Tức là nhân vật cùng là nông dân hoặc cùng là trí thức. Đặc biệt,
nhân vật trí thức sử dụng khá nhiều nhóm tác tử này khi trao đổi, tranh luận.

2.2.1.2. Tác tử lập luận trong lập luận của nhân vật thuộc tầng lớp thống trị
Thứ nhất: Nhóm các tác tử: “chỉ”, “mới”… được sử dụng với tần suất
cao. Tuy nhiên điểm đặc biệt là các tác tử không tồn tại độc lập mà kết hợp thêm
các từ có tính chất “phụ trợ” như: “phải”, “quá lắm”, “được” , “thôi”,… Trong
nhiều trường hợp nhóm tác tử này nằm ở phần kết luận và kết luận có tính chất
khẳng định và duy nhất.
Thứ hai: Sự kết hợp các tác tử trong cùng một lập luận như: kết hợp
“chỉ” và “mới”, “mới” và “đã”…”phải”... tác tử đi trước đóng vai trò là nguyên
nhân, tác tử đi sau đóng vai trò là sự khẳng định, kéo theo.
2.2.2. Kết tử lập luận
Kết tử lập luận là yếu tố liên kết luận cứ với kết luận trong một lập luận.
Nhờ kết tử lập luận mà các phán đoán đơn kết hợp với nhau tạo thành biểu thức
mệnh đề. Các kết tử lập luận được xác định có thể là các từ chỉ quan hệ, các ngữ
quan hệ, các ngữ chuyển tiếp.
2.2.2.1. Kết tử lập luận trong lập luận của nhân vật thuộc tầng lớp bị trị
a. Kết tử đồng hướng trong lập luận của nhân vật thuộc tầng lớp bị trị
b. Kết tử nghịch hướng trong lập luận của nhân vật thuộc tầng lớp bị trị
* Kết tử nghịch hướng trong cấu trúc dạng chuẩn của lập luận
Mô hình

p (k.n) q

-> r

* Kết tử nghịch hướng trong cấu trúc dạng biến thể của lập luận
Cấu trúc dạng biến thể của lập luận là cấu trúc của luận cứ hoặc kết luận
có sự thay đổi so với mô hình chuẩn. Theo đó có 2 dạng biến thể điển hình: biến
thể đảo vị trí và biến thể thiếu vắng vị trí.
- Dạng biến thể đảo vị trí.
Mô hình: p (k.n) q -> r <- s


12


Mô hình: p - > r <- (k.n)

q

- Dạng biến thể thiếu vắng vị trí
Kiểu 1:

r <- (k.n) q

( vắng luận cứ p, chỉ có luận cứ q và kết luận r)
Ví dụ: Vân Hạc mỉm cười:
Kiểu 2: p (k.n)q -> Ø
(vắng kết luận r, chỉ có luận cứ p và q)
2.2.2.2. Kết tử lập luận trong lập luận của nhân vật thuộc tầng lớp thống trị
a. Kết tử đồng hướng trong lập luận của nhân vật thuộc tầng lớp thống trị
Theo khảo sát kết tử nối luận cứ với luận cứ có thể kể đến một số kết tử
điển hình như: thì/ (rồi, thế) thì; vì/ là vì; thật quả; “vả/ vả lại”, “hơn nữa”,
“nhưng”…
* Kết tử đồng hướng trong cấu trúc dạng chuẩn của lập luận
Mô hình:

p (k) q

-> r

* Kết tử lập luận trong cấu trúc dạng biến thể của lập luận

Cấu trúc dạng biến thể của lập luận là cấu trúc của luận cứ hoặc kết luận
có sự thay đổi so với mô hình chuẩn.
- Dạng biến thể đảo vị trí
Mô hình: p (k) q -> (k) r < s
Mô hình: p (k) r <-

q

- Dạng biến thể thiếu vắng vị trí
(k) q -> r

.

( vắng luận cứ p, chỉ có luận cứ q và kết luận r)
(k)p -> Ø
(vắng kết luận r, chỉ có luận cứ p)
Nhận xét: Trong tương tác giữa các nhân vật, nhóm nhân vật. Nhân vật
địa chủ sử dụng các kết tử ở tần số cao. Đặc biệt các kết tử có chức năng nối luận
cứ với kết luận được sử dụng với tần số vô cùng lớn. Khi giao tiếp trong cùng
tầng lớp, nhân vật quan lại có xu hướng “nói ít” và chủ yếu là mệnh lệnh.

13


b. Kết tử nghịch hướng trong lập luận của nhân vật thuộc tầng lớp thống trị
- Kết tử nghịch hướng trong cấu trúc dạng chuẩn của lập luận
p (k.n) q

-> r


- Kết tử nghịch hướng của lập luận trong cấu trúc dạng biến thể của lập luận
- Dạng biến thể đảo vị trí
r <- (k.n) p,q
p (k.n) r <-

q

- Dạng biến thể thiếu vắng vị trí
(k) q -> r
( vắng luận cứ p, chỉ có luận cứ q và kết luận r)
q (k) q -> Ø
(vắng kết luận, chỉ có luận cứ p và q)
2.3. Lập luận của nhân vật trong văn xuôi giai đoạn 1930-1945 xét từ
phƣơng diện quan hệ lập luận
Khi xét mối quan hệ trong lập luận tức là xét đến mối quan hệ giữa các
luận cứ (p, q) và kết luận (r). Trong các luận cứ, có những luận cứ phục vụ cho r và
hướng tới r – đó là các luận cứ đồng hướng, kí hiệu:
p, q -> r
Có những luận cứ lại hướng đến sự phủ định r, kí hiệu là:
p, q -> -r
Trong một lập luận, các luận cứ có thể cùng phạm trù hoặc có thể không
cùng phạm trù với nhau. Xét theo quan hệ định hướng lập luận thì các luận cứ có
hiệu lực lập luận khác nhau với kết luận r. Thông thường luận cứ có hiệu lực lập
luận mạnh được đặt sau luận cứ với hiệu lực lập luận yếu hơn. Hướng lập luận là
do luận cứ có hiệu lực lập luận mạnh nhất quy định.
2.3.1. Luận cứ trong lập luận của nhân vật thuộc tầng lớp bị trị
2.3.1.1. Luận cứ đồng hướng trong lập luận

14



Ví dụ: Đốc Cung vẫn nói bằng cách thản nhiên:
- Chúng tôi cũng đương bàn tán với nhau, không hiểu sao tự nhiên thằng bếp
lại dọn thừa đũa, thừa bát (p). Hoặc giả nó là cái điềm hai bác đến chơi (q). Vậy xin hai
bác vào đây uống rượu với tôi luôn thể (r).
Trong lập luận này, luận cứ p nêu lên ý kiến đang gây tranh luận “đang
bàn tán” là “dọn thừa đũa thừa bát” như một việc đã rồi. Luận cứ này hướng đến
kết luận (r): “vào đây uống rượu”. Kí hiệu: p -> r
Luận cứ q là một giả định bằng sự có mặt của kết tử “hoặc giả” để kể
khẳng một sự việc có tính mơ hồ dự đoán “cái điềm bác đến chơi”. Luận cứ này
hướng đến kết luận: “hai bác vào đây uống rượu” ( kí hiệu: q -> r). Kết luận (r)
được khẳng định bằng kết tử có tính chất tóm kết “vậy”. Như vậy trong lập luận
này, kết luận là sự tóm kết của các luận cứ. Nói cách khác là hai luận cứ p và q
cùng hướng đến kết luận (luận cứ đồng hướng). Hiệu lực của luận cứ p và luận cứ q
là như nhau trong lập luận trên, tức là: p -> r và q -> r. Hay r = p + q
2.3.1.2. Luận cứ nghịch hướng trong lập luận
Nhận xét: Nhân vật trí thức với nền tảng tri thức khá vững là đối tượng
sử dụng nhiều lập luận có chứa các luận cứ nghịch hướng có tính sâu sắc, quyết
liệt và thuyết phục hơn so với nhân vật nông dân. Có thể nói: nhân vật trí thức có
khả năng diễn đạt cụ thể và sâu sắc nhất quan điểm, nguyện vọng của mình trước
nhân vật đối thoại. Chính vì vậy, ở chừng mực nhất định nhân vật thuộc tầng lớp
địa chủ, quan lại có phần “lép vế”. Theo đó, quan niệm “quyền lực” được nhân
vật thuộc tầng lớp thống trị sử dụng tối đa để giành được lợi thế và phần thắng
cho mình.
2.3.2. Luận cứ trong lập luận của nhân vật thuộc tầng lớp thống trị
2.3.2.1. Luận cứ đồng hướng trong lập luận
Các kết tử đồng hướng làm nhiệm vụ kết nối giữa các luận cứ với luận cứ và
luận cứ với kết luận hiệu quả, giúp cho lập luận trở nên vững chắc.
Thông qua cách tổ chức lập luận phần nào phản ánh sự ý thức, bản chất
khôn ngoan và xảo quyệt của tầng lớp thống trị đối với các tầng lớp khác trong xã

hội nhằm thu lại lợi ích cho bản thân.
2.3.2.2. Luận cứ nghịch hướng trong lập luận

15


- Các luận cứ p và q của lập luận được kết nối với nhau thông qua các kết
tử nghịch hướng (nhưng, song). Luận cứ p thường là những luận cứ có tính chất
thuật thông tin, sự kiện. Luận cứ q lại thường là sự phủ định có tính chất khẳng
định cho lập luận. Kết luận thường là những nhận định, đánh giá, hệ quả được rút
ra từ hướng lập luận của luận cứ q. Việc xác định luận cứ p và q nghịch hướng
thông qua từng tổ chức lập luận trong lời thoại của nhân vật.
2.4. Tiểu kết chƣơng 2
1. Cấu trúc chung của lập luận của nhân vật được xem xét theo hai tiêu chí
lớn: thứ nhất: cấu trúc đầy đủ và cấu trúc không đầy đủ; thứ hai: cấu trúc đơn và
cấu trúc phức. Các kiểu cấu trúc này đều xuất hiện trong lập luận của 260 nhân vật
trong 46 tác phẩm văn xuôi thời kỳ 1930-1945. Tuy nhiên ở mỗi hệ thống nhân vật
ngoài các cấu trúc chung còn có những cấu trúc riêng. Việc sử dụng các cấu trúc
lập luận riêng làm nên nét đặc thù trong cấu trúc lập luận của từng hệ thống nhân
vật.
2. Trên cơ sở xác định các cấu trúc chung của lập luận cho thấy lập luận có cấu
trúc đầy đủ không đồng nhất giữa các nhóm đối tượng khảo sát: nhân vật thuộc tầng lớp
bị trị có cấu trúc lập luận đầy đủ xuất hiện ở tần số cao (57.3%) so với tổng số cấu trúc
đầy đủ khảo sát; nhân vật thuộc tầng lớp thống trị có cấu trúc lập luận đầy đủ xuất hiện
ít hơn. Các lập luận có cấu trúc đầy đủ xuất hiện trong lập luận của từng nhóm đối
tượng gắn với hoàn cảnh giao tiếp riêng. Thông qua các chủ đề, hoàn cảnh và tương tác
giữa các đối tượng, cấu trúc đầy đủ có những dạng thức khác nhau. Đồng thời qua các
dạng thức trên phản ánh cách tư duy và tổ chức ngôn ngữ của từng nhóm đối tượng.
Các lập luận có cấu trúc không đầy đủ xuất hiện trong nhiều lập luận của nhân
vật thuộc tầng lớp bị trị trong rất nhiều các hoàn cảnh từ trong gia đình đến trên công

đường, ngoài sân đình… Sự xuất hiện với tần số cao của các lập luận có cấu trúc
phức trong lập luận của nhân vật thuộc tầng lớp thống trị đã thể hiện cách tư duy, tổ
chức ngôn ngữ phức tạp nhưng chặt chẽ.
3. Xét quan hệ lập luận trong lập luận của nhân vật thuộc tầng lớp bị trị và nhân
vật thuộc tầng lớp thống trị theo tiêu chí thứ nhất, luận án cho thấy: Luận cứ đồng
hướng của nhân vật thuộc tầng lớp bị trị không có nhiều cấu trúc phức tạp như luận cứ
đồng hướng của nhân vật thuộc tầng lớp thống trị. Nếu như các luận cứ đồng hướng của

16


nhân vật thuộc tầng lớp bị trị thường là sự tương đồng nêu ý kiến, nhận định, giả định,
liệt kê về một sự việc, đối tượng nào đó thì các luận cứ đồng hướng của nhân vật thuộc
tầng lớp thống trị lại thường nghiêng về hướng miêu tả, khẳng định thông tin. Hiệu lực
lập luận của lập luận nằm ở cả hai luận cứ.
Chƣơng 3
LẬP LUẬN CỦA NHÂN VẬT TRONG HỘI THOẠI
XÉT TỪ PHƢƠNG DIỆN NGỮ CẢNH,
VAI GIAO TIẾP VÀ CÁC LẼ THƢỜNG
(Qua tƣ liệu văn xuôi Việt Nam, giai đoạn 1930-1945)
3.0. Đặt vấn đề
3.1. Lập luận của nhân vật trong hội thoại xét từ phƣơng diện ngữ cảnh
Ngữ cảnh là một loại môi trường phi ngôn ngữ trong đó ngôn ngữ được
sử dụng.
Luận án phân loại lập luận theo tiêu chí bối cảnh; tiêu chí nội dung giao
tiếp (bắt sưu và xử kiện; Bàn chuyện chính sự/ chuyện chạy quan chức/ chuyện bàn
cách lạm sưu/ nhờ chạy án/xin nợ sưu/ bán con/…;Chuyện nợ sưu/ chuyện kiện
tụng/ chuyện bán con/); tiêu chí vị thế của người nói với người nghe (sự áp đặt của
khái niệm “quyền lực” trong hội thoại thể hiện rõ trong tiêu chí này.)
Nhận xét: Dựa theo các tiêu chí phân loại ngữ cảnh và những ví dụ,

chúng tôi rút ra một số nhận xét sau:
- Thứ nhất: Lập luận của nhân vật xét theo tiêu chí bối cảnh thì các nhân vật
thuộc giai cấp thống trị ít xuất hiện ở những bối cảnh có tính xã hội đời thường.
- Thứ hai: Khi xem xét nội dung giao tiếp thì tỉ lệ xuất hiện lập luận trong các
nội dung là không đồng đều giữa nhân vật địa chủ và nhân vật nông dân. Điều này
một phần phản ánh sự đối kháng hai tầng lớp thông qua nội dung giao tiếp.
- Thứ ba: Khi xem xét lập luận trên phương diện vị thế của người nói với người
nghe, chúng tôi nhận thấy có sự phân định của khái niệm “quyền lực” trong ngôn ngữ
nói chung và trong cách tổ chức lập luận nói riêng.

17


3.2. Lập luận của nhân vật trong văn xuôi giai đoạn 1930-1945 xét từ
phƣơng diện vai giao tiếp
3.2.1. Một số lí thuyết về vai giao tiếp
3.2.2. Lập luận của nhân vật địa chủ và quan lại xét từ phương diện vai
giao tiếp
Từ góc độ các vai giao tiếp, chúng tôi nhận thấy: nhân vật địa chủ và quan
lại xác lập rất nhiều các vai khác nhau trong những điều kiện và hoàn cảnh nhất
định. Từ cung bậc trọng thị cho đến thân tình và suồng sã, thậm chí là thô tục.
Đồng thời theo đó các cấu trúc lập luận có sự thay đổi: các lập luận đơn thường sử
dụng các cuộc thoại có tính quyền lực cao (đặc biệt nhân vật quan lại). Nhân vật địa
chủ sử dụng các lập luận đơn và phức khá đa dạng trong tất cả các cuộc giao tiếp.
3.2.3. Lập luận của nhân vật nông dân và trí thức từ góc độ vai giao tiếp.
Nhân vật nông dân thường chỉ sử dụng các lập luận có cấu trúc đơn ở dạng
chuẩn. Trừ một số trường hợp nhân vật nông dân thể hiện tư duy tình cảm ở vào thế
bế tắc.
Nhân vật trí thức có vị thế nhất định trong xã hội. Trong giao tiếp thông qua
việc định vai, các nhân vật trí thức lựa chọn các lập luận sing giữa cấu trúc đơn và

cấu trúc phức. Các tác tử, kết tử và các lẽ thường được sử dụng linh hoạt. Điều này
làm cho lập luận của nhân vật trí thức có tính thuyết phục, sâu sắc và tinh tế…
3.3. Lập luận của nhân vật trong văn xuôi giai đoạn 1930-1945 xét từ
phƣơng diện sử dụng các lẽ thƣờng
3.3.1. Khái quát
Lẽ thường là những chân lý thông thường có tính kinh nghiệm, không có
tính tất yếu, bắt buộc như các tiên đề lôgic. Do nhân loại là một thực thể trùm lên
mọi dân tộc cho nên những lẽ thường phổ quát (phổ quát nhưng không tất yếu, bắt
buộc chung cho toàn nhân loại hay một số dân tộc cùng nền văn hóa. Lại có nhiều
những lẽ thường riêng cho một quốc gia.
3.3.2. Các lẽ thường trong lập luận của nhân vật
3.3.2.1. Lẽ thường phổ quát trong lập luận của nhân vật
a. Những lẽ thường nội tại

18


“Lẽ thường nội tại là những lẽ thường về những chứng cứ liên quan tới
quy luật về quan hệ nhân quả”.
Xuất thân – địa vị xã hội cũng là một yếu tố để đánh giá con người
Tóm lại: Lẽ thường nội tại được nhân vật sử dụng khá đa dạng. Nó có thể
dựa trên quan điểm nhìn nhận, đánh giá về hình dáng, tuổi tác, nguồn gốc xuất
thân, học lực, … để suy đoán về phẩm chất, tính cách nhân vật hội thoại. Nhân vật
thuộc tầng lớp bị trị sử dựng ít các lẽ thường nội tại so với nhân vật thuộc tầng lớp
thống trị (85/ 123 lượt). Điều này phản ánh thói trưởng giả cũng như ý thức về
nguồn gốc, địa vị xã hội của giai cấp trong xã hội. Trong hội thoại, cả hai tuyến
nhân vật đều ý thức được địa vị của mình trong xã hội.
b. Lẽ thường ngoại tại
“Lẽ thường ngoại tại là những lẽ thường không thuộc về bên trong con
người”. Những lẽ thường ngoại tại như: giấy tờ, bằng chứng, âm mưu, …

Lẽ thường ngoại tại là những bằng chứng bằng giấy tờ, quy định của làng xã
Đó là các quy định được ghi trong hương ước, trong giấy tờ được xác thực
như: đó là giấy chứng nhận còn tân của thị Mịch: “Đây là giấy nhận thực của viên
Y sĩ, giấy nhận thực cho thị Mịch” hay đó là quy định trong hương ước làng xã:
“những người ngụ cư ba đời mới được "thành tổ". Nghĩa là được ngang hàng với
mọi người khác. "Làng này lại ngặt hơn nữa, từ xưa đến giờ họ không cho một
người ngoài nào nhập bạ”…
Lẽ thường ngoại tại là sự việc hiển nhiên ai cũng công nhận - lẽ thường
đặc thù của dân tộc
Lẽ thường thang độ: Bao trùm lên lẽ thường thang độ đó là lẽ thường có tính
chất vừa cụ thể nhưng có tính khái quát cao.
3.3.2.2. Lẽ thường đặc thù trong lập luận của nhân vật
a. Lẽ thường đạo đức
b. Lẽ thường quyền uy
3.4. Vai trò của các lẽ thƣờng trong lập luận của nhân vật
3.4.1. Thể hiện chiều sâu văn hóa, đạo đức xã hội, dân tộc nằm trong
ngôn ngữ

19


Giữa ngôn ngữ và văn hóa có mối quan hệ biện chứng. Có thể dùng văn hóa
để lý giải ngôn ngữ và ngược lại những đặc trưng văn hóa sẽ được nhận diện thông
qua ngôn ngữ.
3.4.2. Lẽ thường thể hiện ứng xử trong quan hệ trong gia đình
Lẽ thường thể hiện ứng xử trong quan hệ cha/ mẹ - con
Lẽ thường thể hiện trong quan hệ vợ chồng
3.4.3. Lẽ thường thể hiện ứng xử trong quan hệ giai tầng
Lẽ thường thể hiện ứng xử trong quan hệ cùng giai tầng
Lẽ thường thể hiện trong ứng xử giữa các tầng lớp trong xã hội

3.4.4. Điển hình hóa nhân vật qua lập luận trong hội thoại
Mỗi lớp nhân vật mang đậm bản chất xã hội, bản chất giai cấp, trở thành
những điển hình bất hủ, sinh động, đại diện cho một loại người nào đó
3.4.4.1. Nhân vật thống trị (nhân vật địa chủ và nhân vật quan lại)
Nói như Nguyễn Công Hoan thì quan người ta sợ cái uy của quyền thế,
nghị lại người ta sợ cái uy của đồng tiền. Là một trong hai giai cấp điển hình của
giai đoạn, hệ thống nhân vật thuộc tầng lớp thống trị tượng trưng cho cái nền vách
cai trị thối nát của cả một xã hội nhiễu nhương. Qua nghệ thuật xây dựng nhân vật
và cụ thể là việc tổ chức ngôn từ theo cách thức lập luận trong hội thoại, nhà văn đã
lột tả chân thực sinh động từng nhân vật nói riêng và nhóm nhân vật nói chung.
3.4.4.2. Nhân vật bị trị (nhân vật nông dân và trí thức)
Là tầng lớp chiếm số đông trong xã hội nhưng vị thế lại thấp nhất. Họ là
những con người phần nào mang nặng tinh thần “cam chịu” kiếp sống lầm than.
Trong hệ thống nhân vật bị trị của văn học giai đoạn 1930-1945, hai nhóm nhân
vật: nông dân và trí thức là hai nhóm có những đặc điểm nổi bật. Nhân vật người
nông dân là cội nguồn của đời sống xã hội nhưng lại là nhóm đối tượng “thấp
nhất” trong thang bậc vị thế xã hội. Nhân vật người nông dân nói riêng và người
nông dân trong giai đoạn 1930-1945 nói chung, chịu hai tầng áp bức đó là: phong
kiến và thực dân. Và trực tiếp nhất là: địa chủ phong kiến và quan lại. Nhân vật trí
thức tuy có vị thế cao hơn người nông dân nhưng cùng nằm trong nhóm đối tượng
chịu sự áp bức, bóc lột. Tiếng nói của người trí thức tuy “có tiếng” nhưng chưa “

20


thành lời”. Đó là một số đặc điểm làm cơ sở cho việc chỉ ra cách lập luận và chi phối
trong lập luận của hai nhóm đối tượng chúng tôi quan tâm trong đề tài.
3.5. Tiểu kết chƣơng 3
Vai giao tiếp của các nhân vật thống trị chịu sự chi phối của các nhân tố như
hoàn cảnh giao tiếp, mục đích giao tiếp, tuổi tác, giới tính, địa vị… Mỗi một nhân

vật khi xác định vai đều định cho mình các tổ chức lập luận mang dấu ấn riêng. Với
sự đan xen của rất nhiều vai, mỗi nhân vật lựa chọn cho mình các tổ chức lập luận
nổi bật. Nhân vật địa chủ, quan lại thường sử dụng các lập luận có cấu trúc phức khi
đối thoại cùng tầng lớp. Khi đối thoại khác tầng lớp, nhân vật quan lại, địa chủ
thường sử dụng các lập luận có cấu trúc đơn, tác tử, kết tử và lẽ thường ít được vận
dụng. Tuy nhiên nhiều trường hợp nhân vật quan lại, địa chủ sử dụng các cấu trúc
phức, tác tử, kết tử và lẽ thường đa dạng nhằm mục đích riêng của bản thân.

KẾT LUẬN
1. Dựa trên cơ sở lí thuyết của phân tích diễn ngôn phê phán, luận án đã
chỉ ra cấu trúc hình thức của lập luận trên hai phương diện là độ dài văn bản và tính
mạch lạc của lập luận. Việc xác định về mặt hình thức độ dài văn bản (1 câu, 2 câu
hoặc 3 câu) của lập luận, luận án bước đầu xác định khung cấu trúc của lập luận,
ứng với đó là khu biệt lập luận của từng nhóm nhân vật. Tùy theo mục đích, nội
dung và nhân vật, lập luận có độ dài văn bản khác nhau và chuyển tải nội dung
khác nhau. Nhân vật thuộc tầng lớp bị trị thường sử dụng lập luận có cấu trúc độ
dài một câu. Nhân vật thuộc tầng lớp thống trị sử dụng chủ yếu lập luận có cấu trúc
độ dài từ hai câu trở lên. Mặt khác, thông qua độ dài văn bản của lập luận cũng thể
hiện bước đầu tính mạch lạc của các lập luận. Tùy mục đích, nội dung, hoàn cảnh,
nhân vật trong cuộc thoại, các đối tượng lựa chọn hình thức diễn đạt và thể hiện sự
mạch lạc.
2. Luận án đã đi sâu phân tích cấu trúc tổ chức lập luận của các nhóm nhân
vật trên hai phương diện: cấu trúc chung và cấu trúc bộ phận của lập luận. Xét trên
phương diện cấu trúc chung, luận án xem xét ở hai tiêu chí: 1/ cấu trúc đầy đủ và

21


cấu trúc không đầy đủ; 2/ cấu trúc đơn và cấu trúc phức của từng nhóm nhân vật.
Trong 46 tác phẩm với 260 nhân vật xuất hiện các cấu trúc lập luận trên, luận án

tìm hiểu các cấu trúc chung và cấu trúc đặc thù gắn với từng nhóm nhân vật. Cấu
trúc lập luận dạng: p, q -> r xuất hiện ở cả 4 nhóm nhân vật (nông dân, trí thức,
quan lại và địa chủ). Tuy nhiên mức độ không giống nhau, nhân vật thuộc tầng lớp
bị trị thường có xu hướng sử dụng nhiều cấu trúc đầy đủ và ở dạng chuẩn; nhân vật
thuộc tầng lớp quan lại sử dụng ít hơn. Các biến thể cấu trúc lập luận như: p -> r nhóm nhân vật. Lí do của hiện tượng chênh lệch do vị thế, trình độ nhân thức, hoàn
cảnh, mục đích, quan hệ giữa các nhân vật… khác nhau. Đặc biệt, các việc xem xét
lập luận ở cấu trúc phức phản ánh đặc điểm của nhân vật. Các nhân vật thuộc tầng
lớp thống trị thường sử dụng nhiều các lập luận có cấu trúc phức; các nhân vật
thuộc tầng lớp bị trị ít sử dụng các lập luận có cấu trúc phức. Tuy nhiên trong nhiều
trường hợp, nhân vật thuộc tầng lớp bị trị sử dụng lập luận có cấu trúc phức. Lí do:
do mục đích, nội dung và đối tượng trong cuộc giao tiếp mà mỗi nhân vật sử dụng
các kiểu lập luận khác nhau. Vì vậy, không có kiểu lập luận nào mang tính “duy
nhất” gắn với một nhóm nhân vật.
Từ mô hình lập luận chung, luận án đi sâu phân tích các mô hình cấu trúc
bộ phận của lập luận theo hai hướng: cấu trúc luận cứ và cấu trúc kết luận. Việc xác
định các mô hình tổng quát, phân tích các ví dụ, luận án nhận định: trong tổ chức
lập luận, nhân vật bị trị thường có cấu trúc bộ phân đơn giản (gồm cấu trúc đơn và
cấu trúc phức ở dạng đơn giản). Tuy nhiên trong nhiều trường hợp phản ánh tâm
trạng bế tắc, phẫn uất của người nông dân hoặc tranh luận, suy tư của người trí
thức, cấu trúc bộ phận của lập luận của nhóm đối tượng này được kết cấu ở dạng
phức tạp. Chằng hạn mô hình kết luận của lập luận của nhân vật Vân Hạc trong tác
phẩm Lều Chõng của Ngô Tất Tố: R (p -> r) <- P, Q, S (s -> r), T (t -> r) -> r1), U
(r1 -> u <- r2)). Nhân vật thuộc tầng lớp thống trị thường sử dụng các lập luận có
cấu trúc phức tạp. Mô hình cấu trúc lập luận đơn giản chỉ xuất hiện trong các cuộc
thoại giữa nhân vật thống trị và nhân vật bị trị trong hoàn cảnh trên công đường và
nội dung cuộc thoại là kết tội.

22



3. Một trong những tiền đề giúp cho lập luận trở nên chặt chẽ và thuyết
phục là các chỉ dẫn lập luận. Khi xem xét các chỉ dẫn lập luận, luận án đi sâu phân
tích các tác tử lập luận (mới, chỉ, ít, những…) và kết tử lập luận (vả, vả lại, mà lại
còn…). Trên cơ sở phân nhóm và xác định các tác tử lập luận và kết tử lập luận
điển hình, luận án phân tích và mô hình hóa cấu trúc lập luận có chứa chỉ dẫn lập
luận theo hướng các tác tử và kết tử đồng hướng và nghịch hướng. Luận án xác
định các mô hình cấu trúc xuất hiện tác tử và kết tử trong lập luận trong lập luận
của từng nhóm nhân vật. Nhân vật thuộc tầng lớp bị trị sử dụng nhiều các tác tử và
kết tử đồng hướng với kết luận. Đồng thời các tác tử và kết tử này thường xuất hiện
ở mô hình lập luận dạng chuẩn (p, q -> r). Sự phối hợp các tác tử và kết tử trong lập
luận của nhân vật bị trị xuất hiện ít. Nhân vật thuộc tầng lớp thống trị sử dụng các
tác tử và kết tử trong lập luận ở tần số cao hơn. Sự phối hợp giữa các tác tử và kết
tử trong các lập luận cũng được tổ chức linh hoạt và gắn với những hoàn cảnh cụ
thể.
4. Khi xem xét lập luận từ quan hệ lập luận của từng tầng lớp (bị trị/ thống
trị), luận án xác định: Luận cứ đồng hướng của nhân vật thuộc tầng lớp bị trị không
có nhiều cấu trúc phức tạp như luận cứ đồng hướng của nhân vật thuộc tầng lớp
thống trị. Theo khảo sát, phân tích: luận cứ đồng hướng của nhân vật thuộc tầng lớp
bị trị thường là sự tương đồng nêu ý kiến, nhận định, giả định, liệt kê về một sự
việc, đối tượng nào đó; luận cứ đồng hướng của nhân vật thuộc tầng lớp thống trị
thường nghiêng về hướng miêu tả, khẳng định thông tin. Hiệu lực của lập luận nằm
ở cả hai luận cứ. Về luận cứ nghịch hướng trong lập luận đối với nhân vật thuộc
tầng lớp bị trị thì: luận cứ p thường có tính chất miêu tả, khẳng định một việc gì đó;
luận cứ q lại hướng đến việc thay đổi, chuyển hướng luận cứ p trên cơ sở các thực
tế; còn đối với nhân vật thuộc tầng lớp thống trị thì: luận cứ p thường là những luận
cứ có tính chất tường thuật thông tin, sự kiện; luận cứ q lại thường là sự phủ định
có tính chất khẳng định cho lập luận. Các kết tử “nhưng, song” làm nhiệm vụ kết
nối các luận cứ.
5. Khi xem xét các lập luận từ phương diện những lẽ thường, luận án khảo

sát và phân tích các lẽ thường theo hai hướng: lẽ thường phổ quát và lẽ thường đặc
thù; lẽ thường nội tại và lẽ thường ngoại tại. Theo đó, lẽ thường nội tại được nhân

23


×